Đề án Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây - Ba Vì

Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, du lịch sẽ ngày càng trở nên phổ biến và trở thành một thói quen của người dân tại các đô thị. Như vậy có thể nói nhu cầu du lịch không ngừng tăng lên, đòi hỏi các khu du lịch, các điểm du lịch phục vụ nhu cầu du lịch cần không ngừng hoàn thiện và đầu tư phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn này. Không gian du lịch Sơn Tây – Ba Vì có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch không chỉ của tỉnh Hà Tây mà còn của trung tâm du lịch Hà Nội, các khu vực phụ cận và cả vùng du lịch Bắc Bộ. Đặc biệt khi các trung tâm công nghiệp, chuỗi đô thị được hình thành trong khu vực thì đây sẽ trở thành cụm du lịch chủ yếu cho đân cư các đô thị. Khu vực Sơn Tây – Ba Vì là nơi có điều kiện thuận lợi về tài nguyên du lịch cả về tự nhiên và nhân văn để phát triển du lịch. Là một vùng lịch sử văn hoá lâu đời, cộng thêm hệ sinh thái núi, hồ phong phú và cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, điều kiện khí hậu thuận lợi, Sơn Tây – Ba Vì từ lâu đã được khám phá như một nơi nghỉ dưỡng, tham quan, nghiên cứu lý tưởng cho khách du lịch.

doc32 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 815 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây - Ba Vì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu 2 1. Lý luận chung về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch 4 1.1. Khái niệm và vai trò của cơ sở vật chất kỹ thuật đối với du lịch . 4 1.1.1. Khái niệm về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ..... 4 1.1.2. Vai trò của cơ sở vật chất kỹ thuật đối với du lịch . 5 1.1.2.1. Cơ sở hạ tầng... 5 1.1.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuât. 6 2. Thực trạng về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây–Ba Vì. 9 2.1. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật 9 2.1.1. Cơ sở hạ tầng.. 9 2.1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật.. 12 2.2. Hiện trạng về cơ sở vật chất kỹ thuậnt du lịch tại một số điểm trong khu vực Sơn Tây – Ba Vì .. 14 2.2.1. Vườn quốc gia Ba Vì ... 15 2.2.2. Điểm du lịch Ao Vua 16 2.2.3. Điểm du lịch Hồ Suối Hai 17 2.2.4. Điểm du lịch Khoang Xanh – Suối Tiên... 19 2.2.5. Điểm du lịch Hồ Đồng Mô - Ngải Sơn. 20 2.3. Đánh giá chung về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì 22 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây - Ba Vì... 24 3.1. Cơ sở hạ tầng 24 3.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật. 25 3.3. Một số kiến nghị đối với ngành du lịch Sơn Tây – Ba Vì và các ban ngành có liên quan nhằm thúc đẩy sự phát triển du lịch của khu vực. .. 28 Kết luận... 29 Tài liệu tham khảo.. 31 Lời mở đầu Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi giải trí tích cực của con người. Thông qua hoạt động du lịch con người thoả mãn được nhu cầu phát triển hài hoà cả về thể chất và tinh thần của mình. Bên cạnh đó không thể không nói đến những lợi ích kinh tế mà du lịch mang lại cho nền kich tế chung. Do những vai trò và ý nghĩa quan trọng của du lịch trong đời sống kinh tế - xã hội mà ngày nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hoá - xã hội và là một trong những hoạt động kinh tế – xã hội sôi động nhất của mỗi quốc gia trên thế giới. Nền kinh tế không ngừng tăng trưởng, quá trình đô thị hoá không ngừng diễn ra. Đó là xu hướng phát triển chung của thế giới. Song chính quá trình phát triển này đã có những ảnh hưởng không tốt tới điều kiện sống của con người như: Sự tập chung dân số quá cao, ô nhiễm môi trường, sức ép của công việc, bầu không khí ngột ngạt,...tại những đô thị và các đô thị ở Việt Nam cũng không tránh khỏi điều này. Các nhân tố này dẫn đến xu hướng tìm đến những điểm có môi trường tự nhiên trong lành, yên tĩnh, có cảnh quan đẹp để nghỉ ngơi , vui chơi giải trí vào những ngày nghỉ của người dân tại các đô thị. Là một khu vực có điều kiện thuận lợi về cả tài nguyên du lịch lẫn nguồn khách du lịch, khu vực Sơn Tây – Ba Vì đã sớm hình thành các điểm du lịch phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi của người dân Hà Nội và các đô thị lân cận. Trong đó phải nói tới các điểm như: hồ Đồng Mô - Ngải Sơn, hồ Suối Hai, vườn quốc gia Ba Vì, Khoang Xanh - Suối Tiên, Ao Vua,...nơi có sự kết hợp của khí hậu trong lành, mát mẻ, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, thảm động thực vật phong phú, và các yếu tố nhân văn – rất thuận lợi cho việc phát triển các hoạt động nghỉ ngơi du lịch. Mặc dù có những điều kiện thuận lợi như vậy và đã sớm hình thành các điểm du lịch nhưng quá trình khai thác, phát triển du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì vẫn có những tồn tại, yếu kém cần được khắc phục. Qua quá trình tìm hiểu và thu thập tài liệu về khu vực này để đánh giá những điều kiện và thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở đây,đề án này xin đưa ra một vài giải pháp góp phần khắc phục những yếu kém về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và thúc đẩy phát triển du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì. Mục đích của đề tài là phân tích những điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, đánh giá hiện trạng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những mặt yếu kém và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch một cách hợp lý, vừa thoả mãn tối đa nhu cầu phát triển du lịch của địa phương, vừa bảo vệ được tài nguyên môi trường du lịch. Giới hạn của đề tài được xác định trong phạm vi khu vực thị xã Sơn Tây và huyện Ba Vì ( tỉnh Hà Tây). Đề tài sẽ giải quyết một số nhiệm vụ như sau : - Khái quát cơ sở lý luận về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. - Phân tích, đánh giá thực trạng về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì. - Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở khu vực Sơn Tây – Ba Vì. Em xin chân thành cảm ơn thầy TS. Nguyễn Văn Mạnh đã hướng dẫn để em hoàn thành đề án này. 1. lý luận chung về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch 1.1.Khái niệm và vai trò của cơ sở vật chất kỹ thuật đối với du lịch. 1.1.1.Khái niệm về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch không chỉ bao gồm các yếu tố của riêng ngành du lịch mà bao gồm cả các yếu tố của các ngành khác được huy động vào hoạt động nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ du lịch thoả mãn nhu cầu của con người. Theo nghĩa rộng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ các phương tiện vật chất kỹ thuật được huy động tham gia vào việc khai thác các tài nguyên du lịch nhằm tạo ra và thực hiện các dịch vụ và hàng hoá thoả nãm nhu cầu của du khách trong các chuyến hành trình của họ. Theo cách hiểu này, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm cả cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc bản thân ngành du lịch và cơ sở vật chất của các ngành khác của cả nền kinh tế quốc dân tham gia vào việc khai thác tiềm năng du lịch như : Hệ thống đường xá, cầu cống, bưu chính viễn thông, điện nước Những yếu tố này được gọi chung là các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng xã hội. Trong đó những yếu tố cơ sở hạ tầng xã hội còn được xem là những yếu tố đảm bảo điều kiện chung cho việc phát triển du lịch. Điều này khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa du lịch với các ngành kinh tế khác trong mối liên hệ liên ngành. Theo nghĩa hẹp, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ các phương tiện vật chất kỹ thuật do các tổ chức du lịch tạo ra để khai thác các tiềm năng du lịch, tạo ra các sản phẩm dịch vụ và hàng hoá cung cấp và làm thoả mãn nhu cầu của du khách. Chúng bao gồm hệ thống các khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí, phương tiện vận chuyển và đặc biệt nó bao gồm cả các công trình kiến trúc bổ trợ. Đây chính là các yếu tố đặc trưng trong hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch của ngành du lịch. Nếu thiếu những yếu tố này thì nhu cầu du lịch của du khách không được thoả mãn. Do vậy đây chính là yếu tố trực tiếp đối với việc đảm bảo điều kiện cho các dịch vụ du lịch được tạo ra và cung ứng cho du khách. Việc phân chia khái niệm về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên cũng cần xác định việc phân chia này chỉ có tính chất tương đối, bởi lẽ sẽ khó tách bạch rạch ròi các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng khi mà các ngay trong các khu du lịch cũng cần phải có các yếu tố này và nó có thể do chính các doanh nghiệp du lịch tạo ra. 1.1.2.Vai trò của cơ sở vật chất kỹ thuật đối với du lịch. 1.1.2.1.Cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng nói chung có vai trò đặc biệt đối với việc thúc đẩy phát triển du lịch. Cơ sở hạ tầng là những phương tiện vật chất của toàn xã hội đó là mạng lưới và phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống cung cấp điện nước,... Mạng lưới và phương tiện giao thông. Nói tới cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch thì mạng lưới phương tiện giao thông là nhân tố quan trọng hàng đầu vì du lịch gắn với sự di chuyển của con người trên một khoảng cách nhất định. Nó phụ thuộc vào giao thông và chỉ thông qua mạng lưới giao thông thuận tiện nhanh chóng thì du lịch mới trở thành yếu tố phổ biến trong xã hội. Với mạng lưới và phương tiện giao thông thông suốt và đa dạng sẽ giảm bớt thời gian đi lại và tăng thời gian nghỉ ngơi giải trí của du khách. Thông tin liên lạc. Thông tin liên lạc là một phần rất quan trọng trong cơ sở hạ tầng của hoạt động du lịch. Nó là điều kiện cần thiết để đảm bảo giao lưu cho khách du lịch. Nhu cầu thông tin liên lạc là nhu cầu trao đổi những dòng thông tin của xã hội, được thoả mãn bằng nhiều loại hình thông tin khác nhau. Trong đời sống kinh tế xã hội nói chung cũng như trong ngành du lịch nói riêng không thể thiếu các phương tiện thông tin liên lạc. Nó đảm nhiệm việc vận chuyển tin tức một cách nhanh chóng và kịp thời góp phần thực hiện các mối giao lưu giữa các vùng, các nước. Hệ thống cung cấp điện và cấp thoát nước. Đây là phương tiện hàng đầu trong việc đảm bảo điều kiện sinh hoạt bình thường cho du khách. Các sản phẩm của nó phục vụ trực tiếp cho việc nghỉ ngơi giải trí của du khách. Nếu không đảm bảo được nhu cầu thiết yếu thì sẽ không đảm bảo được hoạt động du lịch. 1.1.2.2.Cơ sở vật chất kỹ thuật. Cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch và cơ sở của một số ngành kinh tế quốc dân tham gia vào phục vụ du lịch.Việc đánh giá cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được căn cứ vào ba tiêu chuẩn chủ yếu: - Đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho nghỉ ngơi du lịch . - Đạt hiệu quả kinh tế tối ưu trong quá trình xây dựng và khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật. - Thuận tiện cho du khách từ các nơi đến. Nhằm sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cần chú ý các thành phần chủ yếu sau: Cơ sở lưu trú . Cơ sở lưu trú là thành phần quan trọng và đặc trưng nhất trong toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Các cơ sở này bao gồm: Khách sạn, Motel, Camping, Bungalow, làng du lịch, biệt thự, nhà trọ ...Thông thường khách đi du lịch là để tận hưởng và sử dụng các tài nguyên du lịch nên cơ sở lưu trú thường được xây dựng tập trung ở gần những nơi có tài nguyên du lịch hoặc các đô thị, đầu mối giao thông. Các cơ sở này chịu sự quản lý của tổ chức kinh doanh du lịch hoặc có thể hoạt động độc lập. Trong hoạt động du lịch, doanh thu từ cơ sở lưu trú thường chiếm một phần lớn trong tổng doanh thu (từ 1/3 đến 2/3). Cơ sở ăn uống. Cùng với cơ sở lưu trú, cơ sở ăn uống đáp ứng nhu cầu căn bản nhất của con người khi họ sống ngoài nơi cư trú. Các cơ sở ăn uống, giải khát như: Nhà hàng, quầy bar, có thể đặt trong hoặc ngoài cơ sở lưu trú. Các cơ sở này cần đảm bảo vệ sinh, món ăn hợp khẩu vị, giá cả phải chăng và nên phục vụ cả đặc sản địa phương. Dịch vụ mua sắm và bán hàng lưu niệm. Dịch vụ mua sắm và bán hàng lưu niệm nhằm đáp ứng nhu cầu về hàng hoá của du khách bằng việc bán các mặt hàng đặc trưng cho du lịch, hàng thực phẩm và các hàng hoá khác. Do khách du lịch đông, lại từ nhiều nơi đến nên nhu cầu về hàng hoá của họ rất phong phú và đa dạng như thực phẩm, đồ lưu niệm, đồ chuyên dùng cho du lịch và hàng tiêu dùng . Các cửa hàng có thể được bố trí ở trong các cơ sở lưu trú, trong khu du lịch hay đầu mối giao thông. Cơ sở vui chơi giải trí. Khách du lịch đến một nơi du lịch nào đó, thì ngoài việc sử dụng và tận hưởng giá trị của các tài nguyên du lịch và các dịch vụ (lưu trú, ăn uống), thì việc tham gia các hình thức vui chơi giải trí sẽ làm cho kỳ nghỉ trở nên tích cực hơn. Các hình thức vui chơi giải trí rất đa dạng và phong phú có thể phân thành các nhóm sau : - Các hình thức vui chơi giải trí trên không: Đu quay, cáp treo, nhảy dù,... - Các hình thức vui chơi giải trí nước: Lướt sóng, lướt ván, xe đạp nước, cầu trượt nước, câu cá ,... - Các hình thức vui chơi giải trí trên mặt đất: ô tô điện, đua xe,... Các cơ sở thể thao là một bộ phận của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, bao gồm các công trình thể thao với các thiết bị chuyên dùng, các sân chơi thể thao (sân tennis, golf,...) Các công trình phục vụ thông tin văn hoá bao gồm: Trung tâm văn hoá thông tin, phòng chiếu phim, nhà hát, câu lạc bộ, phòng triển lãm. Hoạt động văn hoá thông tin có thể được tổ chức thông qua đêm văn nghệ, chiếu phim,... Cùng với tài nguyên du lịch, ngày nay, các khu vui chơi giải trí có sức thu hút du khách mạnh mẽ và trở thành một bộ phận không thể tách rời khỏi cơ cấu vật chất kỹ thuật của các trung tâm du lịch. Thực tế, các khu vui chơi giải trí thường thu hút lượng lớn khách vào các ngày nghỉ, đặc biệt ở các công viên chuyên đề. Cơ sở y tế . Cơ sở này nhằm mục đích phục vụ du lịch chữa bệnh và cung cấp dịch vụ bổ xung tại các điểm du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật ở đây bao gồm: các trung tâm du lịch chữa bệnh (bằng nước khoáng, ánh nắng mặt trời, hay bằng bùn, các món ăn kiêng,...), các phòng y tế với các trang thiết bị trong đó (phòng tắm hơi ,massage,..). Các dịch vụ bổ xung khác . Là cơ sở giúp cho khách sử dụng triệt để hơn tài nguyên du lịch, tạo ra những tiện nghi khi họ đi lại và lưu trú tại điểm du lịch. Bộ phận này bao gồm: Trạm xăng dầu, thiết bị cấp cứu, cứu hộ, xưởng sửa chữa dụng cụ thể thao, các tiệm ảnh, giặt là,... 2. Thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở sơn tây – ba vì trong thời gian qua 2.1.Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật. 2.1.1.Cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển du lịch, nó đảm bảo việc đi lại và các dịch vụ cần thiết cho khách du lịch. Giao thông vận tải. Hoạt động du lịch gắn liền với việc di chuyển của con người nên giao thông vận tải là vấn đề then chốt. Đối với du lịch, mạng lưới và phương tiện giao thông thuận tiện có ý nghĩa rất quan trọng, khách du lịch sẽ tận dụng được thời gian để vui chơi, giải trí. Nếu giao thông không thuận tiện, con người phải mất nhiều thời gian cho việc di chuyển và phát triển du lịch bị hạn chế. Hà Tây nói chung và Sơn Tây - Ba Vì nói riêng có vị trí địa lý rất thuận tiện, là nút giao lưu của nhiều tuyến đường quan trọng: đường ngược Việt Bắc, Tây Bắc, đường vào Thanh, Nghệ; đường xuôi đồng bằng ven biển và là cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà Nội, của xứ Đoài thuộc kinh kỳ Thăng Long xưa, cho nên ở đây sớm hình thành mạng lưới giao thông tương đối hoàn chỉnh. Đường bộ. Mạng lưới giao thông vận tải đường bộ của Sơn Tây - Ba Vì khá phát triển, nhưng do thời gian sử dụng quá lâu nên nhiều trục đường đang xuống cấp, nhất là các tuyến thuộc cấp tỉnh, huyện, xã quản lý. Từ Sơn Tây - Ba Vì có các trục đường chính sau: - Quốc lộ 21A (46,00km) từ thị xã Sơn Tây đến Miếu Môn. - Quốc lộ 32 (49,00km) từ Nhổn đến bến phà Trung Hà. - Quốc lộ cao tốc Láng- Hoà Lạc,nối Hà Nội với quốc lộ 21A. - Tỉnh lộ 87A (20,575km) từ viện 105 (thị xã Sơn Tây) đi Bất Bạt. - Tỉnh lộ 89 (13,0km) từ Đá Chông đi phố Chẹ. - Tỉnh lộ 88 (23,0km) từ Vị Thuỷ (thị xã Sơn Tây) đi Bất Bạt. - Tỉnh lộ 12 (18,0km) từ thị xã Sơn Tây lên Cốt 600 núi Ba Vì. - Tỉnh lộ 82 (10,2km) từ Sơn Đông (Quốc lộ 21) đi thị xã Sơn Tây. Ngoài ra còn các tuyến đường liên xã, thôn, liên kết với các trục đường chính nối các điểm du lịch của vùng tạo thành tuyến du lịch trong khu vực. Nếu phân loại đường theo chất lượng khai thác thì loại đường xuống cấp, xấu và rất xấu chiếm 65%, trung bình 30% và tốt chỉ đạt 7%, điều này là yếu tố cản trở cho phát triển du lịch ở Hà Tây nói chung và Sơn Tây - Ba Vì nói riêng do vậy cần được quan tâm nâng cấp cải tạo lại chất lượng đường. Đường sông. Các tuyến đường sông qua khu vực Sơn Tây - Ba Vì tới các điểm du lịch chưa phát triển nên ít được sử dụng. Tuy nhiên trong tương lai có thể khai thác phục vụ cho du lịch, gồm các tuyến: - Tuyến sông Đà đi qua phía Tây Bắc khu vực Sơn Tây - Ba Vì từ thị xã Hoà Bình đến ngã ba Trung Hà (tính bên hữu ngạn) dài 32km, (toàn tuyến từ Lai Châu đến Trung Hà 157km). - Tuyến sông Hồng đi qua phía Đông khu vực Sơn Tây - Ba Vì, với cảng Sơn Tây có thể đảm bảo cho sà lan 200 tấn đến 1000 tấn ra vào và các bến dân sinh thuộc huyện Ba Vì. - Tuyến nội tỉnh theo sông Tích chảy từ núi Ba Vì qua huyện Ba Vì, thị xã Sơn Tây, huyện Thạch Thất, Chương Mỹ và đổ vào sông Đáy ở Ba Thá, dài 115km. Tuyến này không có khả năng khai thác vận tải thuỷ do có nhiều đá ngầm, bãi cạn, tuy nhiên có thể khai thác phục vụ du lịch bằng các xuồng, ca nô cỡ nhỏ. Đường sắt. Trong vùng không có đường sắt chạy qua. Đường hàng không. Trong vùng có hai sân bay phục vụ quân sự, không phục vụ du lịch. Phương tiện giao thông. Do đặc điểm của mạng lưới giao thông hiện nay nên phương tiện được sử dụng nhiều nhất tới các điểm du lịch trong khu vực vẫn là ô tô các loại. Toàn tỉnh Hà Tây có tổng số ghế phục vụ vận chuyển khách là 8735 ghế trong đó quốc doanh chiếm tỉ lệ 74% và tư nhân 26%, gồm 155 chiếc xe Buýt có từ 20 đến 40 ghế và các loại khác có 303 chiếc có từ 8 đến 18 ghế. Tuy nhiên các xe đến các điểm du lịch chủ yếu là xe của khách từ các tỉnh phụ cận. Các loại phương tiện cá nhân cũng được sử dụng nhiều cho du lịch là xe mô tô, xe gắn máy. Ngoài ra, phương tiện vận chuyển khách trên sông của toàn tỉnh Hà Tây có khoảng 500 ghế. Thông tin liên lạc. Có ý nghĩa quan trọng đối với du lịch, nó đảm bảo sự giao lưu cho khách và trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp du lịch. Trong thời gian qua, Sơn Tây - Ba Vì đã có rất nhiều cố gắng nâng cấp mạng lưới thông tin liên lạc, đặc biệt là thị xã Sơn Tây. Nhưng nhìn chung, mạng lưới thông tin trong vùng chưa đáp ứng được nhu cầu về thông tin liên lạc hiện đại, chủ yếu là các tổng đài nhỏ, dung lượng thấp, thiết bị cũ chưa hoà nhập với mạng lưới thông tin Quốc gia và Quốc tế. Mạng lưới điện. Nhìn chung mạng lưới điện ở Sơn Tây - Ba Vì đáp ứng tương đối tốt nhu cầu về điện cho sản xuất, sinh hoạt và du lịch Trạm điện 110/35/10kv -2+16, MVA Sơn Tây là nguồn điện cho toàn khu vực. Trạm này đã cung cấp đầy đủ, hết công suất. Lưới điện phát triển dưới 3 cấp điện áp 35kv, 10kv và 6kv. Tại các điểm du lịch trong khu vực, khả năng cung cấp điện là tương đối tốt, nhưng bên cạnh đó tại một số thôn, bản khả năng cung cấp điện thấp do mạng lưới truyền tải điện chưa đủ khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu điện năng. Khả năng cung cấp nước. Chủ yếu dân cư và các điểm du lịch ở đây sử dụng trực tiếp hay xử lý tại chỗ nguồn nước mặt từ hồ, sông, suối. Riêng thị xã Sơn Tây có hệ thống cấp nước đô thị với công suất 10.000 m3/ngày đêm. Về trữ lượng nước ngầm thì không đáng kể. Nhìn chung, khả năng cung cấp nước cho sinh hoạt và du lịch tương đối đầy đủ, tuy nhiên cần quan tâm đến khả năng cung cấp nước vào mùa khô. Các trạm thông tin liên lạc. Tuy đã được đầu tư nhưng khả năng đáp ứng còn rất hạn chế do lượng máy điện thoại còn thấp và hệ thống thông tin chưa hoàn thiện. Các loại hình thông tin liên lạc hiện đại chưa có. 2.1.2.Cơ sở vật chất kỹ thuật. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình thiết lập và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác tiềm năng du lịch nhằm thoả mãn các nhu cầu của khách du lịch. Do mức độ khai thác du lịch chưa cao nên tại các điểm du lịch ở Sơn Tây - Ba Vì số lượng và chất lượng của các cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn hạn chế. Cơ sở lưu trú. Tính đến đầu năm 2002 ở 11 điểm của Ba Vì đã có 171 buồng trong đó có 165 buồng khép kín, tổng diện tích buồng 3.600 m3, ngoài ra có 30 nhà sàn. ở Sơn Tây có 135 buồng khép kín và rất nhiều nhà sàn, nhà sàn kiểu camping,... Bảng 1: cơ sở lưu trú tỉnh Hà Tây Khách sạn Số phòng Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Đầu năm 2002 20 20 35 35 410 410 562 562 Nguồn :Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch. Nhìn chung cơ sở lưu trú của vùng ngoài các nhà sàn và nhà nghỉ mới xây dựng có kiến trúc đẹp, phù hợp với cảnh quan, số còn lại hầu hết các phòng đều có chất lượng chưa cao do được xây dựng đã lâu, phòng cũ cải tạo lại. Các phòng nghỉ hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế, chỉ có một số ít thuộc khu vực sân golf Đồng Mô nhưng các trang thiết bị còn thiếu và chưa đồng bộ. Do tình trạng phòng nghỉ chỉ phục vụ được nhu cầu của khách nội địa, còn phục vụ khách quốc tế thì chưa đủ tiêu chuẩn về vệ sinh và trang thiết bị, nên dẫn đến tình trạng doanh thu từ việc thuê phòng chưa cao và chưa hấp dẫn được khách du lịch .Doanh thu từ lưu trú chỉ chiếm 24,2% tổng doanh thu du lịch của cả vùng. Cơ sở phục vụ ăn uống. ở hầu hết các điểm du lịch trong khu vực Sơn Tây - Ba Vì đều có các quầy bar và phòng ăn lớn có sức chứa khoảng 100 người mỗi phòng. ở vườn Quốc gia Ba Vì có một phòng sức chứa 100 người, hồ Suối Hai có 2 phòng ăn có thể chứa 200 người, hồ Đồng Mô - Ngải Sơn có nhiều phòng ăn tương đối sạch sẽ, bố trí đẹp,... Ngoài ra còn phục vụ ăn uống tại các nhà sàn có phong cảnh đẹp, thoáng mát. Qua những đánh giá nhận xét của khách du lịch ở các điểm thì nhìn chung các món ăn được phục vụ là các món ăn mang hương vị núi rừng với nhiều món rau xanh hấp dẫn, giá phù hợp, thái độ phục vụ tốt. Tuy nhiên, các món ăn ở đây chưa được phong phú, trình độ chế biến chưa cao, chưa đảm bảo về chất lượng, các món đặc sản giá vẫn tương đối cao và vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và đồ uống chưa được thực sự quan tâm. Các điểm du lịch chỉ chủ yếu phục vụ ăn uống cho khách đi theo đoàn, còn phần lớn khách lẻ tự trang bị đồ ăn nên doanh thu từ ăn uống chưa khai thác hết khả năng, còn tương đối khiêm tốn chỉ chiếm khoảng 7,5% trong tổng doanh thu du lịch của cả khu vực. Hội trường, phòng họp. Ngoài cơ sở lưu trú và phục vụ ăn, uống thì việc cung cấp các hội trường, phòng họp cho các đoàn khách tổ chức các buổi nghiên cứu, hội thảo là rất cần thiết. ở hầu hết các điểm du lịch đều có các phòng họp, hội thảo: ở khu vực Ba Vì có 6 hội trường phòng họp với 710 m2, ở khu hồ Đồng Mô đến nay đã có 700 m2 văn phòng và phòng họp... Nhìn chung các phòng hội thảo được bố trí đẹp, môi trường xung quanh thoáng đãng sạch sẽ như: Phòng hội thảo tại vườn Quốc gia Ba Vì được bố trí trên gác 2 của nhà sàn, khu Đồng Mô có 1 phòng họp được trang bị tương đối đầy đủ các trang thiết bị cần thiết,... Tuy nhiên nhìn chung, diện tích của phòng còn hạn chế và thiếu các trang thiết bị. Khu vui chơi, giải trí. Hiện nay các khu vui chơi, giải trí đang là vấn đề được các điểm du lịch ở Sơn Tây - Ba Vì quan tâm. Trong năm vừa qua, nhiều điểm ở Ba Vì như: Ao Vua, Khoang Xanh, Thác Đa,... đã đầu tư xây dựng các khu vui chơi thể thao nước như: hồ tạo sóng, hồ bơi, bể bơi, hệ thống làn trượt nước, hồ câu cá,... ở hồ Suối Hai và hồ Đồng Mô - Ngải Sơn đã đầu tư xây dựng các bãi tắm, bãi cắm trại, dịch vụ thuyền đạp nước, du thuyền thăm hồ,... đặc biệt ở hồ Đồng Mô có sân Golf 36 lỗ đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nhìn chung, tại các điểm du lịch đã đáp ứng được phần nào nhu cầu về vui chơi, giải trí của du khách nhưng các cơ sở này còn tương đối nghèo nàn và rất đơn điệu về loại hình. Đối với du lịch cuối tuần, các cơ sở này cần được đầu tư phát triển mạnh hơn nữa. 2.2. Hiện trạng về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tại một số điểm trong khu vực Sơn Tây – Ba Vì. Trong nhiều năm gần đây du lịch Sơn Tây - Ba Vì đã có nhiều bước tiến đáng kể. Ngành du lịch đã có những đầu tư lớn để phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch: năm 1999 đầu tư đạt 84,4 tỉ đồng, đến năm 2000 đầu tư đạt 96,8 tỉ vào năm 2001 tổng vốn đầu tư là 105 tỉ đồng. Từ những đầu tư này, khu vực đã thu hút được lượng khách đến thăm quan nghỉ ngơi ngày một tăng. Năm 1998 là 22,1 vạn lượt đã tăng lên 38,1 vạn lượt năm 2001. Tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 21,7%. Doanh thu du lịch của vùng cũng có những bước tăng cao. Năm 1998 đạt 17 tỉ đồng, năm 1999 đạt 21tỉ đồng, năm 2000 đạt 27 tỉ đồng và năm 2001 đạt 29 tỉ đồng. Tuy đã thu được những kết quả quan trọng như vậy, nhưng du lịch Sơn Tây - Ba Vì vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần quan tâm hơn nữa về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, về môi trường, về sự kết hợp giữa các ban ngành .... 2.2.1. Vườn Quốc gia Ba Vì. Vườn Quốc gia Ba Vì được thành lập vào năm 1997 với diện tích 7,377ha, thuộc xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Tây, cách trung tâm Hà Nội 60km về phía Tây và được coi là " lá phổi xanh" của Hà Nội Vườn nằm trong toạ độ địa lý: 21°01- 21°07 vĩ Bắc; 108°15- 105°251 kinh độ Đông, được chia làm hai phân khu chức năng: phân khu bảo tồn nguyên vẹn từ cốt 400m trở lên và phân khu phục hồi sinh thái từ cốt 400m trở xuống cốt 100m. Dưới cốt 100m là vùng đệm, có tổng diện tích là 14,144ha. Vườn quốc gia Ba Vì nằm trên núi Tản Viên - một quả núi đẹp nổi lên giữa đồng bằng, đồng thời là dãy núi huyền thoại mà từ bao đời người Việt Nam hằng ngưỡng mộ. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch của vườn. -Cơ sở lưu trú: ở độ cao 400m - trung tâm của vườn, có 6 nhà nghỉ gồm 26 phòng đạt tiêu chuẩn phòng nội địa ( các phòng đều là nhà mái bằng, một tầng), giá thuê 120.000 đồng/1người/đêm và 80.000 đồng/3 tiếng. -Cơ sở ăn uống: Có một nhà ăn (cốt 400m) có sức chứa một trăm người phục vụ các món ăn đặc sản của vùng. - Có một phòng hội trường trên nhà sàn có thể cho 60 người sử dụng. -Cơ sở vui chơi, giải trí. Có một bể bơi rộng 200m2 lát gạch men, nước tương đối sạch và được khử trùng cẩn thận, 1 sân tennis gần vườn nuôi chim đạt tiêu chuẩn quốc tế với giá 120.000 đồng/giờ. Số lượng lao động tại vườn: Ngoài lượng nhân viên khác,ban dịch vụ du lịch của Vườn Quốc gia Ba Vì có 23 lao động, trong đó có 7 công chức do ban quản lý vườn quản lý. Tỷ lệ có tay nghề chiếm 20% còn lại chưa qua đào tạo hoặc đào tạo ngắn hạn về du lịch. Thu nhập bình quân đầu người hàng tháng khoảng 360.000 đồng 2.2.2.Điểm du lịch Ao Vua. Điểm du lịch Ao Vua nằm ở sườn phía Bắc núi Ba Vì. Suối Ao Vua chảy từ độ cao 800m, dài 8,2 km có nhiều thác nước đẹp. Các thác nước chảy từ trên núi xuống đổ dồn về đây tạo thành hồ nước lớn, nước thông thuỷ rất thuận lợi cho việc nghỉ dưỡng tắm mát vào mùa hè. Theo truyền thuyết, Sơn Tinh cùng vợ là công chúa Ngọc Hoa đã dùng nước suối tiên ở Ao Vua để gột bụi trần, bay về trời sau khi chiến thắng Thuỷ Tinh. Đền Ao Vua dựng lên từ truyền thuyết này là nơi du khách có thể rũ bỏ nhiều lo lắng của công việc vào nhiều ngày cuối tuần. Cách đây độ một vài năm nếu đến khu du lịch Ao Vua, du khách sẽ bắt gặp một phong cảnh hết sức hoang vu: ao cạn, suối khô, các dịch vụ để phục vụ du khách hầu như không có. Lượng khách đến Ao Vua khi đó còn khiêm tốn. Đến nay Ao Vua đã trở thành một khu du lịch hấp dẫn bởi non xanh nước biếc, suối chảy quanh năm, không khí trong lành, nhiệt độ thấp hơn mức trung bình 4-5°C nên rất hấp dẫn du khách. Năm 2001 khu du lịch Ao Vua đón 17,1 vạn lượt khách chiếm 35% khách du lịch đến khu vực Sơn Tây – Ba Vì và 11,6% lượng khách đến tỉnh.. So với năm 2000, số lượng khách đến khu du lịch Ao Vua tăng 33%. Tổng doanh thu đạt 3,5 tỉ đồng, tăng 17%. Nộp ngân sách Nhà nước 1,2 tỉ đồng, tăng 22,5% so với năm 2000, đứng đầu trong số các điểm trong khu vực. Để đạt được nhiều thành quả như vậy, công ty cổ phần du lịch Ao Vua đã phải đầu tư rất lớn cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. - Cơ sở lưu trú: Trong nhiều năm qua, Ao Vua đã nâng cấp và xây dựng mới hệ thống nhà nghỉ. Hiện nay, điểm có thể cung cấp 100 phòng khép kín tương đối đầy đủ tiện nghi, đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch nội địa với mức giá từ 120.00đồng-150.000 đồng/ngày đêm. - Cơ sở ăn uống: Công ty đã xây dựng 2 nhà sàn phục vụ ăn uống cho hơn 100 người. - Cơ sở vui chơi, giải trí: Có khu vui chơi thể thao nước với 6 làn trượt nước, bể nước rộng, khu đu quay, đường đi ven hồ. Khu du lịch 12 con giáp , vườn khủng long, tái hiện lại truyền thuyết Sơn Tinh – Thuỷ Tinh với lẽ hội cầu hôn và trận chiến Sơn Tinh – Thuỷ Tinh. Khu bảo tồn động vật hoang dã bao gồm : Vườn chim được xây dựng trên diện tích 4000m2 và vườn thú rộng 4000m2.Đến năm 2002, vườn chim sẽ nuôi thả 40 loài chim với 1000 con và vườn thú sẽ có 20 loài. Ngoài ra Ao Vua còn cho xây dựng bãi đỗ xe rộng và trồng nhiều loại cây cảnh,... (nguồn: Công ty cổ phần du lịch Ao Vua). Khu du lịch Ao Vua phát triển đã giải quyết cho 90 lao động làm thường xuyên và thu hút 500 lao động có việc làm trong mùa hè. Công ty cũng đã kết hợp với trường Trung học Du lịch Việt Nam mở lớp bồi dưỡng kỹ năng phục vụ du lịch cho 50 cán bộ, nhân viên, tạo cho mọi người nâng cao trình độ nghề nghiệp phục vụ khách. 2.2.3. Điểm du lịch Hồ Suối Hai. Hồ Suối Hai là hồ nước nhân tạo được khởi công xây dựng từ tháng 12/1958 thuộc địa phận huyện Ba Vì với hệ thống đập chính và phụ dài 4km để giữ nước từ 2 suối chính Yên Cự và Cầu Rồng từ núi Ba Vì chảy xuống làm nguồn nước cung cấp nước tưới cho trên 7000 ha đất canh tác. Hồ Suối Hai có diện tích mặt nước gần 100 ha, dài 7km, rộng 4km, chu vi hồ tới 36km với lượng nước chứa trong hồ khoảng 13 triệu m3 . Trong lòng hồ có tới 14 hòn đảo lớn nhỏ, diện tích khoảng 90 ha. Trên các đảo ven hồ đã được trồng cây gây rừng, xây dựng các vườn cây ăn quả, các trại chăn nuôi. Hồ rộng,nước sạch, có nhiều bãi tắm đẹp kết hợp với điều kiện khí hậu mát mẻ trong lành , phong cảnh “Sơn thuỷ hữu tình “ thoáng đãng với những thảm cỏ xanh và bóng cây dâm mát nên được khách du lịch rất ưu thích. Hồ còn có khả năng cung cấp mỗi năm hàng chục tấn cá. Đặc biệt hệ sinh thái vùng hồ còn được bổ sung thêm các đàn chim trời như: Le Le, Mòng Mòng, Két, Vịt trời, Sâm Cầm, Giang, Sếu, đông đến hàng vạn con, làm cảnh quan thiên nhiên thêm phong phú sinh động và hấp dẫn. Hồ Suối Hai là nơi an dưỡng, tham quan nghỉ ngơi rất tốt. ở đây có những điều kiện lý tưởng để xây dựng khu nghỉ ngơi cuối tuần của thủ đô Hà Nội và các vùng lân cận. Tuy nhiên, hiện trạng khai thác phát triển du lịch cuối tuần ở đây còn rất hạn chế. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: -Cơ sở lưu trú: ở hồ Suối Hai có nhà nghỉ Suối Hai( Công ty DL Công Đoàn) và hai nhà nghỉ tư nhân khác. Trong đó nhà nghỉ Suối Hai có 30 phòng đạt tiêu chuẩn khách nội địa phục vụ 2 mức giá 100 nghìn đồng và 70 nghìn đồng 1phòng/ngày- đêm. Ngoài ra còn có một nhà nghỉ 4 phòng, 2 nhà sàn, một nhà sàn tập thể chứa được 50-70 người, một nhà sàn 4 phòng, và nhiều nhà sàn kiểu camping cho hai người, thuộc công ty Thủy Sản dịch vụ du lịch Suối Hai quản lý. -Cơ sở ăn uống: Tại nhà nghỉ Suối Hai có phục vụ ăn uống với các món ăn đặc sản của hồ Suối Hai, phòng ăn có sức chứa 300 khách. Ngoài ra ở trung tâm dịch vụ du lịch của hồ có phục vụ ăn uống tại các nhà sàn. -Phòng hội thảo: Tại nhà nghỉ Suối Hai có thể cung cấp một phòng hội thảo có thể chứa 200-300 người. Hiện nay phòng được kết hợp làm phòng ăn do công suất sử dụng thấp. -Cơ sở vui chơi, giải trí: Khách du lịch đến thăm hồ Suối Hai chủ yếu để nghỉ ngơi, bơi lội và thăm quan mặt hồ do cơ sở vui chơi giải trí ở đây chưa được đầu tư phát triển. ở đây chỉ phục vụ các dịch vụ cho bơi lội tại các bãi tắm, có hai tàu chứa khoảng 60-70 người mỗi tàu, một thuyền và một ca nô phục vụ du khách sang đảo và đi thăm hồ. Ngoài ra còn có một số tuyền đạp nước, thuyền bơi tay và lều bạt phục vụ cắm trại,... Hiện nay, ở đây đang xây dựng thêm bể bơi và sửa sang lại các bãi tắm phục vụ nhu cầu vui chơi bơi lội cho khách du lịch. Số lượng lao động: Tại nhà nghỉ Suối Hai có 17 nhân viên và tại trung tâm dịch vụ du lịch của hồ có 12 nhân viên. Nhìn chung các nhân viên ở đây có kinh nghiệm trong phục vụ khách du lịch nhưng chưa được đào taọ một cách chuyên nghiệp do vậy khả năng phục vụ chưa cao. 2.2.4.Điểm du lịch Khoang Xanh - Suối Tiên. Nằm ở sườn phía Đông Nam của núi Ba Vì, Khoang Xanh – Suối Tiên là nơi tập trung các con suối bắt nguồn từ núi Ba Vì. Các dòng suối chảy theo địa hình tạo thành thác Sấu, thác Mâm Xôi và cuối cùng đổ vào hồ tắm thác Mơ. Cũng như điểm du lịch Ao Vua, ở đây có sự tập trung đa dạng hệ sinh thái kết hợp với khí hậu mát mẻ và cảnh quan đẹp rất thuận lợi cho việc phát triển du lịch, đặc biệt là vào mùa hè. Cơ sở hạ tầng. Điểm du lịch Khoang Xanh nằm trên trục đường 84A liên kết với các điểm du lịch khác trong vùng như: Ao Vua, Vườn quốc gia Ba Vì,Hiện nay đường tới đây tương đối thuận tiện, chủ yếu là đường rải nhựa. Hệ thống cung cấp điện nước ở đây đã được nâng cấp khá hoàn chỉnh với trạm điện riêng và bể lọc nước có thể cung cấp nước cho hoạt động du lịch. Hệ thống thông tin liên lạc chưa phát triển , mật độ điện thoại thấp và khả năng đáp ứng chưa cao. Cơ sở vật chất kỹ thuật. -Cơ sở lưu trú: Tại đây có 1 nhà nghỉ gồm 13 phòng khép kín. Tuy nhiên chất lượng phòng chưa cao, chỉ có thể phục vụ khách nội địa. Công suất sử dụng phòng thấp. -Phòng hội thảo: Có 1 phòng với 70 ghế. -Cơ sở ăn uống: Khoang Xanh có một quầy bar, nhà hàng có thể phục vụ ăn uống cho khoảng 100 khách. -Cơ sở vui chơi giải trí: Có hồ bơi tạo sóng rộng , khu thể thao nước với 5 làn trượt .Ngoài ra, còn có hồ câu cá và các vườn cây cảnh, Nhìn chung, điểm du lịch Khoang Xanh có những điều kiện thuận lợi về tài nguyên du lịch cũng như khả năng khai thác để phát triển du lịch. Cần chú trọng đầu tư vào phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cũng như quản lý và bảo vệ môi trường để trở thành một điểm du lịch hấp dẫn của người dân trong vùng và phụ cận. 2.2.5. Điểm du lịch Hồ Đồng Mô - Ngải Sơn. Hồ Đồng Mô cách thị xã Sơn Tây 10km theo hướng Sơn Tây đi Xuân Mai. Hồ được xây dựng từ cuối năm 1969 và đến đầu những năm 1970 thì hoàn thành. Hồ có tổng diện tích mặt nước là 1.200 ha, trong hồ có 21 hòn đảo, bán đảo với diện tích 450 ha. Trên các đảo ven hồ đã được trồng cây gây rừng và xây dựng các vườn cây ăn quả, các trại trăn nuôi. Đây là nơi có phong cảnh hữu tình, khí hậu trong lành, mát mẻ, mặt hồ rộng có nhiều bãi tắm đẹp nên được khách du lịch rất ưa thích đặc biệt là vào mùa hè. Hồ còn có khả năng cung cấp hàng chục tấn thuỷ sản mỗi năm và là nơi tập trung của đàn chim nước đông đến hàng vạn con làm cho cảnh quan thiên nhiên thêm phong phú và sinh động. Cơ sở hạ tầng. Hiện nay đường tới hồ Đồng Mô tương đối thuận tiện , đặc biệt quốc lộ Láng - Hoà Lạc đã hoàn thành làm rút ngắn thời gian vận chuyển của khách. Tuy nhiên hệ thống đường trong khu du lịch còn chưa được đầu tư hoàn thiện, vẫn còn nhiều đoạn đường đất sỏi. Hệ thống điện tương đối tốt, có trạm biến thế riêng. Nước sinh hoạt dùng nước bơm trực tiếp từ hồ qua hệ thống bể lọc, về nước ăn có hệ thống giếng khơi. Khu du lịch có trạm điện thoại Đồng Mô có thể liên lạc trong nước và quốc tế, song số lượng máy điện thoại còn hạn chế. Cơ sở vật chất kỹ thuật - Cơ sở lưu trú. Có 150 phòng khép kín ,trong đó có 50 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế được trang bị TV, nước nóng lạnh, điều hoà nhiệt độ,...Ngoài ra còn 8 nhà sàn tập thể có thể chứa 40 người mỗi phòng và nhiều nhà sàn kiểu camping cho hai người. Vì gần trung tâm Hà Nội , đường sá đi lại khá thuận tiện nên khách chủ yếu đi trong ngày. Công suất sử dụng buồng trung bình cả năm đạt 40%, đặc biệt trong hai tháng 6,7 đạt 90 – 100% chủ yếu là khách đoàn. - Phòng hội thảo. ở đây có 3 phòng hội thảo, có phòng được trang bị đầy đủ các trang thiết bị, có thể chứa 200 người. - Cơ sở ăn uống. Có 4 nhà ăn với hơn 400 ghế và các quầy bar phục vụ khách. Ngoài ra còn có nhiều ca nô, xuồng máy phục vụ khách tham quan và ra đảo chơi golf. ở đây luôn có cán bộ y tế thường trực để kịp thời cấp cứu khi cần thiết. Bảng 2:cơ sở vật chất kỹ thuật ở khu du lịch Đồng Mô Hạng mục Đơn vị tính Số lượng Cơ sở lưu trú Số cơ sở Số buồng 3 150 Phòng hội nghị, phòng họp Số cơ sở Số ghế 3 200 Nhà hàng Số cơ sở Số ghế 3 300 Ca nô Số chiếc Số ghế 10 40 Xuồng máy Số chiếc Số ghế 20 180 Cơ sở vui chơi giải trí Bãi tắm Sân golf Số cơ sở Số cơ sở Số cơ sở 3 2 1 Nguồn : Khu du lịch Đồng Mô. Điểm du lịch Đồng Mô không chỉ thu hút người dân Hà Nội và các vùng xung quanh đến nghỉ cuối tuần mà còn là điểm hẹn của hàng nghìn người nước ngoài đang sống và làm việc tại Hà nội. Đầu năm 2002 công ty Thung Lũng Vua đã khởi công xây dựng nhà câu lạc bộ mới và trung tâm giải trí đảo Vua tại khu du lịch Đồng Mô gồm nhà câu lạc bộ mới rộng 4740m2 , bể bơi, nhà nghỉ, sân tennis,...đồng thời công ty sẽ xây dựng thêm 18 hố golf, khu villas, nhằm đưa đảo Vua trở thành nơi tham quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí cho du khách trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, dự án Làng văn hoá các dân tộc Việt Nam và khu công nghệ cao Hoà Lạc đã được khởi công xây dựng ở phía nam hồ Đồng Mô. Như vậy ,chắc chắn trong tương lai khả năng phát triển du lịch của Đồng Mô ngày càng tăng lên. Ngoài năm điểm du lịch trên đây ,Sơn Tây- Ba Vì còn tập trung nhiều điểm du lịch có quy mô nhỏ hơn như :điểm du lịch Thác Đa, Suối Mơ, vườn Cò Ngọc Nhị,khoảng cách giữa các điểm này là tương đối gần và điều có khả năng kết hợp được với nhau và với các di tích lịch sử trong vùng như: đền Và, chùa Mía, thành cổ Sơn Tây,...hay làng Việt cổ Đường Lâm. 2.3. Đánh giá chung về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì. Qua khảo sát, phân tích điều kiện và hiện trạng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì, sau đây là một số kết luận: bảng 3: Lượng khách đến một số điểm ở Ba vì - sơn tây năm 2001 Đơn vị: Lượt STT Điểm du lịch Lượng khách quốc tế % so với cả tỉnh Lượng khách nội địa % so với cả tỉnh Tổng lượng khách % so với cả tỉnh 1 Vườn quốc gia Ba Vì 400 0,5 42.600 2,9 43.000 2,8 2 Ao Vua 19.000 21,3 151.500 10,4 170.500 11,0 3 Suối Hai 15 0,02 6.626 0,5 6.641 0,4 4 Khoang Xanh 500 0,6 67.000 4,6 67.500 4,4 5 Đồng Mô 29.000 32,5 29.000 30 58.000 3,7 6 Vườn cò Ngọc Nhị 0 0 20.000 1,7 20.000 1,3 7 Cả tỉnh Hà Tây 89.115 100% 1.458.921 100% 1.542.247 100% Nguồn: Sở Du lịch Hà Tây. Một số đánh giá. - Mạng lưới giao thông trong khu vực còn yếu kém, nhiều đoạn đường nối các điểm du lịch và trong khu du lịch là đường hẹp, đường xấu, chưa được đầu tư xây dựng. - Cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối nghèo nàn: Cơ sở lưu trú chưa đảm bảo chất lượng quốc tế, không đa dạng; cơ sở ăn uống chưa cung cấp được những món ăn hợp vệ sinh; cơ sở vui chơi giải trí nhìn chung còn thiếu thốn, chưa hấp dẫn nên thời gian ở điểm du lịch của khách còn thấp, chưa tận dụng được hết khả năng chi tiêu của khách. - Hầu hết các điểm du lịch còn chưa có cơ sở y tế, trạm cấp cứu, bộ phận cứu hộ. - Các trạm thông tin liên lạc, điện thoại còn ít, chưa đảm bảo thông tin liên lạc kịp thời. - Vấn đề môi trường chưa được thực sự quan tâm, thiếu các khu vệ sinh công cộng sạch sẽ, rác thải chưa được thu gom và vấn đề ô nhiễm nguồn nước bắt đầu xảy ra. - Các điểm du lịch chưa có các hoạt động Marketing quảng bá mạnh để thu hút khách. - Các công ty du lịch, điểm du lịch còn thiếu cán bộ được đào tạo chuyên môn, tổ chức kinh doanh du lịch. - Hiện nay, theo các số liệu thu thập được thì lượng khách quốc tế đến khu vực chủ yếu đến chơi golf tại khu du lịch hồ Đồng Mô, nhưng lượng khách tập trung nhiều nhất là tại điểm du lịch Ao Vua. Sơn Tây – Ba Vì là khu vực có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, tài nguyên du lịch để phát triển du lịch. Tuy nhiên để khai thác du lịch có hiệu quả cần có sự đầu tư hợp lý về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuận du lịch, đồng thời cần phải nâng cao công tác quản lý và có sự liên kết của các ngành, các cấp, đẩy mạnh hoạt động marketing, quảng bá du lịch. 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở Sơn Tây - Ba Vì Trước hết là phải đổi mới tư duy đầu tư cho du lịch, coi đây là đầu tư cho một ngành công nghiệp không khói và có giá trị kinh tế lớn trong nhiều năm tới. Nó không những đem lại lợi nhuận cho các nhà kinh doanh du lịch, lợi ích cho nhà nước mà còn đem lại hiệu quả kinh tế vùng, trước hết là lợi ích của nhân dân ở các điểm du lịch. Đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là nền tảng cho sự vươn xa và tăng sức hấp dẫn của điểm du lịch. 3.1. Cở sở hạ tầng. Hệ thống đường sá: Hệ thống đường sá tới các điểm du lịch trong khu vực đã tương đối hoàn chỉnh.Tuy nhiên do đường hẹp, lưu lượng xe lớn làm chất lượng đường xuống cấp nhanh chóng và gây ách tắc giao thông như: trên quốc lộ 32 từ Hà Nội đến Sơn Tây, Do đó cần có kế hoạch mở rộng và cải tạo các trục đường chính để giảm bớt thời gian đi lại của khách. Đồng thời cần tu bổ, nâng cấp các con đường đất, rải sỏi nối từ các trục đường chính đến các điểm du lịch và trong điểm du lịch, như đoạn đường nối từ quốc lộ 21 tới khu du lịch Đồng Mô, đoạn đường thuộc tỉnh lộ 88 nối Sơn Tây với điểm du lịch Suối Hai, nâng cấp đường vào khu du lịch Ao Vua, đường Ba Trại – Thuần Mỹ,... Phương tiện giao thông: Phương tiện giao thông chính đang được sử dụng tới các điểm du lịch cuối tuần trong vùng là xe máy cá nhân và ô tô thuê theo hợp đồng. Như vậy việc đi lại chưa thuận tiện, gây tốn kém và mệt mỏi cho du khách. Giải pháp đưa ra đây là các tổ chức ở Sơn Tây - Ba Vì nên kết hợp các đơn vị vận chuyển ở các trung tâm nguồn khách như Hà Nội, Việt Trì,... mở các tuyến xe buýt du lịch tới các điểm du lịch. Xe buýt hoạt động một mặt làm giảm bớt lượng phương tiện cá nhân lưu thông trên đường, giảm bớt ách tắc. Mặt khác, tạo điều kiện cho nhiều người không có thu nhập cao, không có phương tiện cũng có thể đi du lịch. Bên cạnh đó, có thể mở các tuyến đường sông, làm tăng tính hấp dẫn và giảm được lưu lượng người đi đường bộ. Các tuyến đường sông như tuyến chạy dọc theo sông Hồng có thể phục vụ khách từ Hà Nội, Việt Trì và các khu vực khác, hay tuyến nội tỉnh theo sông Tích nhằm phục vụ khách từ các khu vực lân cận nội tỉnh. Cung cấp điện và nước: Vấn đề cung cấp điện nước cần có sự đầu tư nâng cấp. Phải đảm bảo nguồn nước đầy đủ và hợp vệ sinh cho khách du lịch nhất là tại các điểm trên cao như vườn Quốc gia Ba Vì,.. thiếu nước là yếu tố gây mất vệ sinh và cảm giác khó chịu cho khách nhất là trong những ngày hè nóng nực. Thông tin liên lạc: Đây là vấn đề yếu kém trong vùng. Do vậy cần đầu tư xây dựng thêm các trạm thông tin liên lạc, gia tăng máy điện thoại tại các điểm du lịch để khách du lịch có thể dễ dàng, nhanh chóng liên lạc khi cần thiết. 3.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật. Cơ sở lưu trú: Hiện nay ở các điểm du lịch đã có một số lượng cơ sở lưu trú tương đối tốt như Đồng Mô, Ao Vua. Tuy nhiên nhìn chung, tại các điểm vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu lưu trú của khách, như đã nói ở trên. Do đó cần đầu tư xây dựng các cơ sở lưu trú tại các điểm du lịch. Các điểm du lịch thường có phong cảnh thiên nhiên đẹp, do đó không nên xây dựng các công trình làm phá vỡ sự hài hoà của cảnh quan chung. Xung quanh các điểm Đồng Mô, Suối Hai, Ao Vua, cần xây dựng tập trung ở các dạng khu biệt thự, khách sạn nhỏ thấp tầng, ở quanh khu vườn Quốc gia Ba Vì nên xây dựng theo dạng villa hay các bungalow, camping. Người đi nghỉ cuối tuần có thể là thanh niên, theo gia đình vì vậy cần có các loại hình lưu trú phù hợp như lều trại, bungalow,... Để phù hợp với khả năng thanh toán của đại đa số khách và phục vụ khách đoàn nên xây dựng các khu nhà sàn tập thể với vật liệu gọn nhẹ, giá rẻ. Cụ thể là: - Tại điểm du lịch Đồng Mô, do nguồn khách đến đây thường là khách cao cấp ( VIP), khách quốc tế, đi theo đoàn với số lượng nhỏ đến chơi golf. Do vậy tại đây nên xây dựng các biệt thự loại vừa và nhỏ, các nhà sàn nhỏ dưới tán cây hay ven theo hồ nước phục phụ khách nghỉ ngơi ở các đảo, - Tại Ao Vua, Khoang Xanh nên xây dựng các nhà nghỉ loại nhỏ phục vụ khách đoàn và khách đi theo gia đình, bên cạnh đó có thể xây dựng cac nhà sàn, Bungalow, hay có các bãi cắm trại,phục vụ giới trẻ,.. - Tại vườn Quốc gia Ba Vì cần quan tâm đến cảnh quan môi trường và những tác động của hoạt động lưu trú tới hệ động thực vật trong vườn. Xung quanh khu vực này, có thể xây dựng các villa, các nhà nghỉ cỡ nhỏ, bungalow. Tuy nhiên các công trình này phải có kiến trúc phù hợp với cảnh quan và tránh đặt ở khu vực sinh sống của các loài động vật, - Tại hồ Suối Hai, do lượng khách đến đây là khách đoàn chủ yếu là người cao tuổi đến nghỉ ngơi, hay giới trẻ như học sinh, sinh viên,do vậy nên xây dựng các nhà nghỉ, các khách sạn thấp 1-2 tầng, hoặc các Bungalow, các bãi cắm trại, Cơ sở ăn uống: Nên tổ chức các quán ăn phong phú đa dạng phù hợp với nhiều loại khách và cung cấp các món ăn đặc sản của điểm du lịch. Tuy nhiên cần đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó nên có các đồ dùng nấu ăn cho khách thuê. Cơ sở vui chơi giải trí: Vui chơi giải trí rất quan trọng với hoạt đọng du lịch đặc biệt là du lịch cuối tuần do đó cần thu hút khách vào các hoạt động vui chơi giải trí. Đặc biệt cần nghiên cứu phát triển các hình thức hoạt động vui chơi giải trí theo mùa, có như vậy mới thu hút được khách đến quanh năm, làm giảm tính mùa vụ của các điểm du lịch.Đối với du lịch cuối tuần, thì chỉ cần các loại hình thể thao nhẹ nhàng, không làm ảnh hưởng đến cảnh quan du lịch. Khách đến đây, mục đích là để thư giãn sau thời gian làm việc nên thường tránh chỗ tập chung người, ồn ào, tấp nập. Tuy nhiên, đối với giới trẻ nên vẫn có các khu thể thao, vui chơi, Hiện tại ở Sơn Tây - Ba Vì, ngoài sân golf Đồng Mô đã có khu thể thao nước ở Ao Vua, Khoang Xanh,...Tuy nhiên như vậy vẫn chưa đủ. Cần sớm hoàn thiện và xây dựng các khu thể thao phong phú như câu cá, trượt nước, lướt ván, bơi, đua thuyền,... trong tương lai có thể phát triển loại hình dù bay ca nô kéo ở các hồ nước. Bên cạnh đó là các khu thể thao núi, cắm trại (núi BaVì) hay sân tennis, nhà chơi bowling, hay các sân khấu tổ chức biểu diễn các loại hình văn hoá truyền thống của dân cư người Mường, Dao trong vùng. Bảng 4: một số loại hình cơ sở vui chơi giải trí thích hợp ở sơn tây- ba vì Golf Tennis Leo núi Khu thể thao nước Câu cá Du thuyền Các vườn sinh vật Sân khấu biểu diễn Đồng Mô Suối Hai Khoang Xanh Ao Vua VQG Ba Vì V V V V V V V V V V V V V V V V V V V V V V V V V (V: Thích hợp). Cửa hàng (Shop): Cần xây dựng hệ thống các cửa hàng thực phẩm cung cấp các loại thực phẩm thường dùng, hoa quả và thực phẩm địa phương đảm bảo vệ sinh an toàn, nên có sự quy định giá cụ thể vì khách đi nghỉ cuối tuần thường quay lại điểm du lịch nhiều lần vì vậy nếu giá chênh lệch nhiều khách sẽ tự chuẩn bị ở nhà. Cửa hàng bán đồ lưu niệm nên bán hàng thủ công, mỹ nghệ của địa phương mang nét đặc trưng của điểm du lịch. Các cơ sở y tế: Việc xây dựng các trạm y tế cấp cứu tại các điểm du lịch là rất cần thiết để kịp thời tiến hành các biện pháp cấp cứu, tránh những trường hợp đáng tiếc xảy ra. Các cơ sở dịch vụ bổ sung: Các dịch vụ như trạm xăng, xưởng sửa chữa xe cần phải có ở các khu vực xung quanh các điểm du lịch. Bên cạnh đó, các điểm du lịch cần có đội cứu hộ để kịp thời ứng cứu khi có tai nạn như ở các hồ Đồng Mô, Suối Hai hay các thác nước. Để thực hiện giải pháp cần tranh thủ sự giúp đỡ về vốn của Trung Ương, của tỉnh, thị xã và huy động nội lực của các ngành, các địa phương, đơn vị hoạt động kinh doanh du lịch để thực hiện từng bước và đạt được hiệu quả. 3.3. Một số kiến nghị đối với ngành du lịch Sơn Tây – Ba Vì và các ban ngành có liên quan nhằm thúc đẩy sự phát triển du lịch của khu vực. Ngành du lịch cần có sự đầu tư, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch nhằm phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng như ở: vườn Quốc Gia Ba Vì, Suối Mơ, khu vực hồ Suối Hai, hay khu vực hồ Đồng Mô. Tuy nhiên phải gắn khai thác du lịch với bảo vệ môi trường cảnh quan nhằm mục đích khai thác lâu dài. Ngành du lịch phải kết hợp với các cấp quản lý nhà nước để nâng cao trình độ dân trí của nhân dân địa phương, từ đó nâng cao nhận thức về những lợi ích của việc phát triển du lịch, tạo thuận lợi cho đầu tư phát triển du lịch trên địa bàn. Nâng cao công tác quản lý Nhà nước về du lịch nhất là trong lĩnh vực quản lý quy hoạch đất đai, xây dựng và nộp nhân sách Nhà nước. Kết hợp với việc phát triển các ngành kinh tế khác gắn với du lịch của địa phương, như trồng cây ăn quả, cây đặc sản, làng nghề,... để phục vụ khách du lịch. Nhà nước nên có những chính sách ưu đãi cho phát triển du lịch ở Sơn Tây – Ba Vì nói riêng. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thuê đất, đầu tư phát triển du lịch, đồng thời có thể hỗ chợ về vốn cho các dự án phát triển du lịch, hỗ chợ trong việc quảng cáo, tuyên truyền kết luận Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, du lịch sẽ ngày càng trở nên phổ biến và trở thành một thói quen của người dân tại các đô thị. Như vậy có thể nói nhu cầu du lịch không ngừng tăng lên, đòi hỏi các khu du lịch, các điểm du lịch phục vụ nhu cầu du lịch cần không ngừng hoàn thiện và đầu tư phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn này. Không gian du lịch Sơn Tây – Ba Vì có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch không chỉ của tỉnh Hà Tây mà còn của trung tâm du lịch Hà Nội, các khu vực phụ cận và cả vùng du lịch Bắc Bộ. Đặc biệt khi các trung tâm công nghiệp, chuỗi đô thị được hình thành trong khu vực thì đây sẽ trở thành cụm du lịch chủ yếu cho đân cư các đô thị. Khu vực Sơn Tây – Ba Vì là nơi có điều kiện thuận lợi về tài nguyên du lịch cả về tự nhiên và nhân văn để phát triển du lịch. Là một vùng lịch sử văn hoá lâu đời, cộng thêm hệ sinh thái núi, hồ phong phú và cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, điều kiện khí hậu thuận lợi, Sơn Tây – Ba Vì từ lâu đã được khám phá như một nơi nghỉ dưỡng, tham quan, nghiên cứu lý tưởng cho khách du lịch. Trong thời gian qua, ngành du lịch Sơn Tây – Ba Vì đã được Đảng, Nhà nước, tỉnh Hà Tây và địa phương quan tâm phát triển và đã có được những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, tiềm năng tài nguyên du lịch của khu vực chưa được khai thác hợp lý. Nhiều điểm chưa được đầu tư phát triển tương xứng với tiềm năng và còn nhiều yếu kém trong quản lý, trong việc thực hiện các quy hoạch,... Nhìn chung hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch của khu vực vẫn ở trong tình trạng thấp kém, gây những tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế nói chung và du lịch nói riêng. Mặc dù trong thời gian qua đã có sự đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, tuy nhiên tốc độ phát triển vẫn chưa theo kịp yêu cầu đặt ra. Do vậy Khu vực Sơn Tây – Ba Vì cần phải đầu tư nhiều hơn nữa, đặc biệt là hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống thông tin liên lạc, vui chơi giải trí, tài liệu tham khảo 1. GS.TS. Nguyễn Văn Đính, TS. Trần Thị Minh Hoà, Giáo trình Kinh tế Du lịch, NXB Lao động - Xã hội, 2004. 2. Phạm Trung Lương, Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, NXB Giáo Dục, 2000. 3. PGS.PTS. Lê Thông, PGS.PTS; Nguyễn Minh Tuệ, Tổ chức lãnh thổ du lịch, NXB Giáo dục,1998. 4. Báo cáo tổng kết hoạt động du lịch Sơn Tây – Ba Vì, Sở Du lịch Hà Tây, 1998,1999,2000,2001. 5. Báo Du lịch, số 17 +18,4/2002. 6. Các vườn Quốc gia Việt Nam, NXB Nông nghiệp, 2001. 7. Địa chí Hà Tây, Sở Văn hoá Thông tin Hà Tây, 1999. 8. Địa lý Hà Tây, NXB Giáo dục, 1994. 9. Người quê ta, đất quê ta; Báo Hà Tây, tuyển tập 1991- 1999. 10. Sơn Tinh và Vùng văn hoá cổ Ba Vì, Sở văn hoá thông tin Hà Tây, 1997. 11.Việt Nam toàn cảnh, NXB Thống Kê, 1999.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV290.doc