- Cần phải xây dựng chiến lược cụ thể để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước nên đi tiên phong trong những lĩnh vực khó để mở đường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, ban hành các luật riêng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ (Luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, Luật về bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.), để tạo hành lang pháp lý thuận lợi và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh. Hiện nay đã có Luật cạnh tranh nhưng cần nhanh chóng thực thi một cách có hiệu quả, và cần có thêm các luật chống độc quyền.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách: Khắc phục tình trạng chính sách thiếu nhất quán, còn chồng chéo, mâu thuẫn, thực hiện không thống nhất giữa các cấp, các ngành; đơn giản hoá các thủ tục hành chính như thủ tục cấp giấy phép, xin giấy hải quan; xoá bỏ tình trạng nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp ở nhiều nơi.
- Phát triển đồng bộ các loại thị trường: Trong đó, đặc biệt là các thị trường đầu vào (thị trường đất đai, thị trường lao động, khoa học - công nghệ, thị trường vốn trung và dài hạn).
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng để hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ:
+ Trước hết, cần phải tạo một “sân chơi bình đẳng” để tất cả mọi doanh nghiệp đi vay đều phải tuân thủ những quy định giống nhau, bảo đảm để mọi khoản vay đều được thực hiện trên cơ sở phân tích tính khả thi của dự án;
+ Từng bước loại bỏ những thủ tục gay phiền hà cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc đánh giá tài sản thế chấp, thẩm định dự án cho vay;
+ Cho vay với lãi suất ưu đãi, trợ cấp lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh hiệu quả;
+ Nhanh chóng thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng, làm cầu nối giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các ngân hàng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ vay vốn;
+ Chấn chỉnh và đổi mới cơ chế hoạt động các dịch vụ tài chính ngân hàng, tăng cường nguồn vốn cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ; đồng thời tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động thị trường chứng khoán.
- Đổi mới chính sách thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: Mở rộng đối tượng được ưu đãi thuế, tăng mức độ ưu đãi (đặc biệt hạ thấp mức thuế nhập khẩu đối với các thiết bị sản xuất, linh kiện và nguyên vật liệu; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện tự tạo vốn).
- Bảo hộ hợp lý hàng trong nước, chống nhập khẩu hàng lậu.
- Tăng cường hỗ trợ việc nghiên cứu phát triển công nghệ cho các doanh nghiệp: Trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển giao công nghệ, tiến tới cạnh tranh bằng sản phẩm có hàm lượng tri thức cao và tính độc đáo.
- Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ: thông qua việc tăng cường mở các lớp đào tạo nâng cao kỹ năng quản lý, các khoá tập huấn về quản trị kinh doanh cho giám đốc và cán bộ quản lý; khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề cho các doanh nghiệp.
- Cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về thị trường, công nghệ, đối tác kinh doanh., tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tiếp cận và tìm hiểu thị trường quốc tế thông qua các hội chợ, triển lãm.
- Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ liên kết hợp tác với nhau và với các doanh nghiệp khác nhằm tạo được sức mạnh tổng hợp; chính sách khuyến khích thành lập các hiệp hội hỗ trợ.
45 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1948 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách hàng.
Doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp = -------------------------------------- x 100
Tổng doanh thu của toàn ngành
Chỉ tiêu càng lớn phản ánh vị trí càng cao của doanh nghiệp trong ngành.
3.3.2. Tốc độ tăng doanh thu
Tốc độ tăng doanh Tốc độ tăng doanh thu của doanh nghiệp
thu của DN so với = -------------------------------------------------------- x 100
đối thủ cạnh tranh Tốc độ tăng doanh thu của đối thủ cạnh tranh
Nếu chỉ tiêu này lớn hơn 1 thì chứng tỏ doanh thu của doanh nghiệp tăng nhanh hơn doanh thu của đối thủ cạnh tranh, do đó doanh nghiệp có thể có năng lực cạnh tranh cao hơn đối thủ cạnh tranh và ngược lại, nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thấp hơn đối thủ cạnh tranh.
3.3.3. Tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận của doanh nghiệp
Tỷ suất lợi nhuận = ------------------------------------ x 100
Doanh thu của doanh nghiệp
Chỉ tiêu này cho thấy nếu thu được 100 đồng doanh thu thì sẽ có bao nhiêu đồng lợi nhuận trong đó. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ DN làm ăn hiệu quả đồng thời phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là cao7. Giáo trình Phân tích kinh doanh, NXB Giáo dục, tr.187.
.
3.3.4. Tỷ trọng chi phí
Tổng chi phí
Tỷ trọng chi phí = ---------------------- x 100
Tổng doanh thu
Chỉ tiêu này phản ánh để thu được 100 đồng doanh thu thì phải mất bao nhiêu đồng chi phí. Nếu chỉ tiêu này quá cao thì chứng tỏ doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn lực là chưa hiệu quả và cần có biện pháp giảm chi phí để tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp8. Giáo trình Phân tích kinh doanh, NXB Giáo dục,tr. 262.
.
3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
3.4.1. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài
Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài là các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng tạo ra những cơ hội cũng như thách thức cho doanh nghiệp. Môi trường bên ngoài gồm:
* Môi trường vĩ mô
* Môi trường vi mô (môi trường ngành)
a. Môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô của doanh nghiệp là tổng hợp các nhân tố kinh tế, chính trị - pháp luật, văn hoá - xã hội, tự nhiên, công nghệ, tự nhiên... Các nhân tố có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới doanh nghiệp và doanh nghiệp không thể thay đổi nó mà cần phải biết thích nghi một cách sáng tạo.
* Môi trường kinh tế: Tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế... Chúng có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Môi trường chính trị - pháp luật: Luật doanh nghiệp, chính sách thuế, các quan điểm, đường lối của nhà nước... ngày càng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp. Một thể chế chính trị ổn định, pháp luật rõ ràng sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh và ngược lại.
* Môi trường khoa học công nghệ: Khi mà khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì nó sẽ tạo ra những cơ hội cũng như những nguy cơ cho các doanh nghiệp. Cho phép các doanh nghiệp ứng dụng những khoa học hiện đại để tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh lớn và ngược lại nó cũng có thể làm cho công nghệ hiện tại của doanh nghiệp trở nên lỗi thời.
* Môi trường văn hoá - xã hội: Các yếu tố văn hoá - xã hội như phong tục tập quán, lối sống, thói quen... có ảnh hưởng đến việc tiêu dùng của khách hàng. Nếu doanh nghiệp có sự hiểu biết và thích nghi sáng tạo về môi trường văn hoá - xã hội có thể tạo ra cho mình năng lực cạnh tranh cao hơn so với đối thủ.
* Môi trường tự nhiên: Đó là các tài nguyên thiên nhiên, đất đai, khoáng sản, nước... Nếu doanh nghiệp nào có thể khai thác hiệu quả, hợp lý các tài nguyên thiên nhiên thì có thể tạo dựng được cho mình năng lực cạnh tranh cao.
* Môi trường quốc tế: Là các tiêu chuẩn kinh doanh của quốc tế, thông lệ quốc tế... Khi mà hội nhập ngày càng mở rộng thì nó mở ra cho các doanh nghiệp cơ heir và những thách thức, do đó có thể làm tăng hoặc giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
b. Môi trường vi mô
So với môi trường vĩ mô, môi trường vi mô có tác động trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành.
Theo M.Porter thì có 5 lực lượng chính có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
* Đối thủ cạnh tranh trực tiếp: Đó là những doanh nghiệp cùng tạo ra và cung ứng một loại sản phẩm trên cùng một thị trường giống doanh nghiệp. Cạnh tranh với các đối thủ trực tiếp thường là gay gắt nhất. Nếu đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn hơn so với doanh nghiệp thì sẽ là mối đe doạ lớn đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn thắng được các đối thủ cạnh tranh thì cần phải nghiên cứu về họ thật thận trọng để có thể đưa ra những chiến lược tác chiến hợp lý.
* Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: Đó là những người có dự tính sắp gia nhập thị trường, những người mới gia nhập. Sự xuất hiện đối thủ cạnh tranh tiềm năng làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, có thể là yếu tố làm thu hẹp thị phần, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
* Những nhà cung cấp: Đó là những người cung ứng những đầu vào cho doanh nghiệp. Nhà cung ứng có thể áp lực mạnh cho doanh nghiệp về giá, khối lượng khiến giá thành sản phẩm của doanh nghiệp cao do đó có thể làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần phải lựa chọn cho mình nhà cung ứng tốt nhất với giá cả và khối lượng ổn định.
* Khách hàng: Khách hàng là người có ảnh hưởng lớn đến sự thành công của doanh nghiệp. Nếu khách hàng ép giá, giảm khối lượng mua, yêu cầu chất lượng cao hơn mà mức giá như cũ hay yêu cầu cung cấp nhiều dịch vụ hơn hoặc từ bỏ doanh nghiệp để lựa chọn doanh nghiệp khác thì có thể làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, giảm sự cạnh tranh của doanh nghiệp so với những đối thủ cạnh tranh. Do đó, doanh nghiệp muốn thành công thì phải tạo dựng được lòng tin nơi khách hàng bằng cách thoả mãn tốt nhu cầu, thị hiếu... của khách hàng.
* Sản phẩm thay thế: Khi giá cả mặt hàng mà doanh nghiệp cung ứng cao thì khách hàng có xu hướng sử dụng các sản phẩm thay thế. Nó có thể làm giảm thị phần và làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp9. Tham khaỏ: Chiến lược chính sách và kinh doanh, NXB Thống Kê, 1997, tr. 41 - 71.
.
3.4.2. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong
Đó là những tiềm lực mà doanh nghiệp sử dụng để tạo ra những lợi thế cạnh tranh so với đối thủ cạnh tranh.
* Nguồn nhân lực: Yếu tố con người có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có đội ngũ công nhân viên lành nghề, giàu kinh nghiệm, nhiệt tình với công việc, đoàn kết, trung thành với doanh nghiệp thì đó sẽ là cơ sở làm tăng năng suất cho doanh nghiệp, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đồng thời doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực, có đức hạnh, nghị lực, nhạy bén với cơ chế thị trường sẽ giúp doanh nghiệp có chiến lược cạnh tranh đúng đắn, dẫn dắt doanh nghiệp đi tới được mục tiêu mà doanh nghiệp đã đặt ra.
* Nguồn tài chính của doanh nghiệp: Vốn là một nhân tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời nó cũng là một nhân tố quyết định tạo dựng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp có quy mô tài chính lớn, khả năng huy động vốn tốt, chi phí huy động vốn thấp, cơ cấu tài chính hợp lý, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn vốn sẽ cho phép doanh nghiệp theo đuổi những chiến lược lâu dài, thích ứng với những điều kiện biến động... và dành thắng lợi trong cạnh tranh.
* Công nghệ - kỹ thuật của doanh nghiệp: Công nghệ - kỹ thuật của doanh nghiệp là một yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của sản phẩm. Do đó, nó có ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiêp có máy móc với công nghệ hiện đại, cập nhật, sẽ cho phép doanh nghiệp tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.
* Cơ cấu tổ chức: Nếu doanh nghiệp có một cơ cấu thích hợp và linh hoạt sẽ cho phép doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh và có khả năng ứng biến với những sự thay đổi của môi trường.
* Văn hoá doanh nghiệp: Doanh nghiệp mà có bầu không khí và nề nếp tổ chức tốt, phát triển được các mối quan hệ phi chính thức tốt đẹp của doanh nghiệp, ban lãnh đạo có sự quan tâm tới người lao động, các thành viên đoàn kết, cởi mở sẽ khuyến khích các thành viên của doanh nghiệp hoạt động tích cực, có hiệu quả từ đó làm cho hoạt động của doanh nghiệp tăng lên, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp10. Tham khaỏ: Chiến lược chính sách và kinh doanh, NXB Thống Kê, 1997, tr. 79 - 97.
.
4. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Cạnh tranh đó là một trong những quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường. Bất cứ doanh nghiệp nào khi tham gia thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh có hai mặt, một mặt nó đào thải những doanh nghiệp yếu kém, mặt khác nó kích thích các doanh nghiệp không ngừng hoàn thiện nhằm tạo ra những lợi thế so sánh quan trọng để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường phức tạp và luôn biến động.
Hơn nữa, để có thể hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Việt Nam chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với các nước trên thế giới, khuyến khích xuất khẩu và đồng thời thay thế hàng hoá nhập khẩu bằng các sản phẩm hữu hiệu trong nước. Với tinh thần đó, nước ta đã gia nhập ASEAN, APEC, cam kết thực hiện AFTA và trong tương lai sẽ tham gia WTO khi có đủ điều kiện. Khi tham gia hội nhập, thì các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng sẽ có điều kiện tiếp cận với các thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến và tiếp cận, tham nhập thị trường thế giới. Nhưng khi Việt Nam tham gia các tổ chức kinh tế thế giới thì đồng nghĩa với việc chúng ta phải thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan, phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt hơn với hàng nhập khẩu, với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên sân nhà. Mặc dù các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ta với sự năng động, nhạy bén với cơ chế thị trường đã và đang khẳng định vai trò to lớn của mình trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhưng thực tế cho thấy năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn rất yếu. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với sự xâm nhập và bành trướng của các công ty đa quốc gia, và sự đòi hỏi đáp ứng ngày càng cao của thị trường về chất lượng sản phẩm, dịch vụ, giá cả, các dịch vụ bổ sung... thì sức ép phải nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để có thể thích nghi được với những điều kiện, đòi hỏi mới là một vấn đề thật sự cấp bách.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM
1. Những đặc trưng cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
- Việt Nam là một nước kinh tế còn kém phát triển nên sản xuất nhỏ là chủ yếu, do đó, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số.
- Về sở hữu, bao gồm sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân (trong đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm khoảng 97%, doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 3%).
- Phân bổ không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn.
- Trình độ quản lý, công nghệ, trình độ văn hoá kinh doanh còn thấp.
- Xu hướng tập trung vào các ngành có vốn thấp, thu hồi vốn nhanh.
- Nhà nước chỉ mới có những định hướng lớn khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phần lớn các doanh nghiệp tự lo là chính.
- Thiếu sự hỗ trợ của các hội nghề nghiệp, các trung tâm tư vấn và các doanh nghiệp lớn.
2. Sự đóng góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm qua
2.1. Những ưu điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
- Dễ thành lập vì đòi hỏi vốn ít (có thể với vốn tự có, vốn vay mượn người thân, tổ chức tín dụng), diện tích mặt bằng không lớn, các điều kiện sản xuất đơn giản.
- Quy mô nhỏ, năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh.
- Nhạy bén với cơ chế thị trường, dễ gia nhập và rút lui.
- Dễ đổi mới trang thiết bị, công nghệ, chúng gắn liền với công nghệ trung gian là cầu nối giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại.
- Thu hút lao động với chi phí thấp và do đó có thể giảm chi phí, hạ giá thành.
- Khai thác được thị trường trong nước...
2.2. Thành tích cụ thể của các doanh nghiệp vừa vừa và nhỏ
Đối với Việt Nam thì vị trí, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại càng quan trọng vì nước ta có trình độ phát triển kinh tế còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam khá lớn, cả nước đã có hơn 130.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ đăng ký kinh doanh chiếm 97% tổng số doanh nghiệp. Trong đó, các doanh nghiệp nhà nước chiếm 3,5%, còn lại chủ yếu là doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm xấp xỉ 97%. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 17%, xây dựng 14%, nông nghiệp là 14%, còn lại 55% số doanh nghiệp này hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ11. Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 10 - 2004, tr. 19.
.Và trong những năm qua doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển của đất nước. Cụ thể:
- Hàng năm đóng góp khoảng 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% mức bán lẻ, nộp ngân sách nhà nước 14%12. Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 10 - 2004, tr. 19.
.
- Đáng chú ý là kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2003 ước tính chiếm gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (không tính đến kim ngạch xuất khẩu dầu thô). Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất khẩu liên tục tăng: theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2000 có 12.674 DN; năm 2001, 2002 tương ứng là 17.070 DN và 23.330 DN; tính đến tháng 10/2003 có khoảng 29.450 DN tham gia xuất khẩu13. Tạp chí: Thông tin tài chính, số 15 – 2004, tr.6.
. Và chắc chắn rằng hết năm 2004 này thì kim ngạch xuất khẩu cũng như số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất khẩu sẽ còn tăng cao hơn nữa.
- Thu hút được nhiều lao động với chi phí thấp (chi phí cho một chỗ việc làm ở doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ bằng 3 - 10% so với các doanh nghiệp lớn), hàng năm tạo việc làm cho khoảng 25% lực lượng lao động trong cả nước14. Tạp chí: T ài chính doanh nghiệp, số 10 - 2004, tr. 19.
.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần khai thác tiềm năng phong phú trong dân: Vì hiện nay, còn nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác như tiềm năng về trí tuệ, tay nghề tinh xảo, lao động, đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, bí quyết nghề.
- Sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm qua đã cho phép đào tạo, phát triển nhiều cán bộ quản lý có trình độ, năng động và nhiều lao động có trình độ chuyên môn cho đất nước.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Trong những năm qua nhờ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà đã góp phần phát triển nhiều ngành nghề phong phú, đa dạng.
- Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn: Do số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên rất lớn, nên làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế, đồng thời làm tăng số lượng và chủng loại hàng hoá trong nền kinh tế. Ngoài ra, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tác dụng hỗ trợ các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu qủa hơn: làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hoá, cung cấp các đầu vào, có thể thâm nhập mọi thị trường ngõ ngách mà doanh nghiệp lớn không chú ý tới...
3. Khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay
Nhìn chung, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có nhiều nỗ lực vươn lên, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên, so với các nền kinh tế trong khu vực thì con số doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn. Ví dụ như ở Đài Loan có tới 1triệu doanh nghiệp vừa và nhỏ/23 triệu dân. Một nền kinh tế chỉ được coi là phát triển nếu có tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ so với tổng số dân là 1/2014. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, số 9 - 2003, tr. 16.
. Hơn nữa, tiềm lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn rất hạn chế. Cụ thể là:
* Khó khăn về vốn: Đối với doanh nghiệp nói chung thì vốn là một trong những nhân tố quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ hoạt động không hiệu quả, không chủ động, khó đổi mới nếu tiềm lực tài chính hạn hẹp. Thế nhưng, một thực tế đáng buồn là ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ tình trạng thiếu vốn đang là một trong những khó khăn tài chính lớn nhất.
Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Thực tế thì các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa trên vốn tự có hoặc huy động từ người thân, bạn bè và những khoản vay tín dụng không chính thức (tới 80%), và chỉ có 20% là vay tín dụng ngân hàng nên khối lượng huy động được có quy mô nhỏ mà mức lãi suất lại thường cao (cao hơn từ 3 đến 6 lần so với lãi suất chính thức)16. Tạp chí: Thông tin tài chính, số 9 - 2004, tr 13.
. Vì vậy chí phí vốn rất lớn,
mức độ rủi ro cao, làm tăng chi phí sản xuất nói chung.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn. Thật vậy:
+ Nhiều năm qua đã có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thật vậy: Các doanh nghiệp nhà nước có thể nhận được sự bảo lãnh của nhà nước đối với các khoản vay, trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó có được sự bảo lãnh đó; các doanh nghiệp nhà nước khi vay vốn thì không cần tài sản thế chấp trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì bắt buộc phải có tài sản thế chấp thì mới được vay vốn mà kể cả khi có tài sản thế chấp rồi các doanh nghiệp cũng chỉ được vay tối đa 80% giá trị tài sản thế chấp (trong thực tế, hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ được vay khoảng 50% giá trị tài sản thế chấp)17. Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 9 - 2003, tr. 16.
. Những điều kiện này phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay không đáp ứng được. Về khung pháp lý, trong khi luật pháp quy định khá chi tiết chính sách tín dụng cho doanh nghiệp nhà nước nhưng lại bỏ ngỏ đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
+ Sự thành kiến của các ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay một khoản không lớn nhưng mức độ phức tạp và độ rủi ro có thể lớn hơn hoặc bằng việc cho một doanh nghiệp lớn vay, hiệu quả sử dụng vốn thấp, lợi nhuận đem lại không cao.
+ Thủ tục vay phức tạp, việc thẩm định các dự án đầu tư để cho vay quá cứng nhắc làm cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể đáp ứng được khi muốn vay tín dụng từ các tổ chức chính thức và các phương thức định giá tài sản thế chấp không rõ ràng và các ngân hàng làm việc này một cách chuyên quyền và độc đoán nên bản thân các doanh nghiệp nhiều khi cũng không muốn vay.
+ Mặt khác thì thị trường chứng khoán tại Việt Nam còn rất non trẻ mà đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán là rất khó khăn do các doanh nghiệp này khó có thể đáp ứng được các yêu cầu (đặc biệt là vốn để niêm yết), việc huy động vốn dưới hình thức chứng khoán khó có thể triển khai, các doanh nghiệp này cũng khó tiếp cận với các nguồn vốn nước ngoài.
Chính vì vậy mà hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều thực hiện chính sách vay vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Mà đây lại là một điều tối kỵ, vi phạm nguyên tắc sử dụng vốn trong kinh doanh. Khi đầu tư theo quy trình ngược này thì tất yếu hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao; thậm chí có doanh nghiệp phải vay vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn dẫn đến thâm hụt đầu tư, phá sản doanh nghiệp.
- Thêm vào đó, hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện tại chưa cao. Một hiện tượng phổ biến là nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ bán hàng trả chậm rất nhiều và khó thu hồi vốn. Tình trạng nợ nần dây dưa, khó đòi, chiếm dụng vốn lẫn nhau ngày càng nghiêm trọng làm cho tốc độ lưu chuyển vốn thấp và dẫn đến tình trạng thiếu vốn.
* Thực trạng về nguồn nhân lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
- Nhìn chung, chất lượng lao động ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp, lao động ít được đào tạo chính quy mà chủ yếu theo phương pháp truyền nghề, kinh nghiệm. Gần 75% lao động chưa tốt nghiệp phổ thông, chỉ có khoản 5,3% lao động ngoài quốc doanh có trình độ đại học mà lại tập trung chủ yếu ở cá công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần18. Tạp chí : Thông tin tài chính, số 9 - 2004, tr. 13.
. Hơn nữa, lao động ít được đào tạo tay nghề và nâng cao tay nghề nên năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng hoá.
- Năng lực và hiệu quả quản lý của các chủ doanh nghiệp còn yếu kém: Đội ngũ chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được đào tạo đầy đủ.Trong năm 2002 - 2003, số chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ đã qua đào tạo đại học chỉ chiếm khoảng 20 - 30%, 15 - 20% các chủ doanh nghiệp đã qua các trường dạy nghề19. Tạp chí : Thông tin tài chính, số 9 - 2004, tr. 13.
. Các chủ doanh nghiệp hoạt động chủ yếu dựa trên kinh nghiệm và các mối quan hệ thân quen, chưa đáp ứng được đòi hỏi của cơ chế thị trường, điều kiện hội nhập quốc tế.
- Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp chưa có chiến lược nhân sự, chưa có sự quan tâm thích đáng đến sự đào tạo và phát triển lao động.
Những yếu kém của nguồn nhân lực trong những doanh nghiệp vừa và nhỏ là một trong những nguyên nhân làm cho năng suất lao động, hiệu quả sản xuất thấp, giá thành sản phẩm tăng, làm giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp này.
* Trình độ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu ở mức thấp và chậm tiến bộ: Theo đánh giá thì phần lớn công nghệ mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang sử dụng đã trở nên lạc hậu từ 1 - 2 thế hệ (hơn 70% máy móc thiết bị thuộc thế hệ những năm 50 - 60 của thế kỷ 20). Ngay cả trong các ngành dệt may - ngành đòi hỏi phải áp dụng những công nghệ mới vì luôn phải đáp ứng về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng ngày càng cao thì ngành dệt vẫn còn gần 50% thiết bị đã sử dụng trên 20 năm và hầu như đã hết khấu hao và mới đáp ứng được khoảng 30% nguyên liệu cho may xuất khẩu, còn ngành may mặc thì máy móc, thiết bị đã lạc hậu từ 5 - 7 năm, phần mềm điều khiển lạc hậu từ 15 - 20 năm so với nhiều nước trong khu vực20. Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 12 - 2003, tr. 18.
. Trừ một số ít các doanh nghiệp mới thành lập, còn phần lớn sử dụng thiết bị lạc hậu nhiều thế hệ so với các nước trong khu khu vực, do đó, gây lãng phí năng lượng, nguyên nhiên vật liệu, ô nhiễm môi trường, năng suất thấp, chất lượng kém, giá thành cao nên rất khó cạnh tranh với thị trường trong nước và quốc tế.
Sở dĩ có tình trạng trên là do:
+ Tiềm lực vốn của các doanh nghiệp rất nhỏ, hơn nữa lại rất khó vay được một khoản tín dụng trung và dài hạn cần thiết để nâng cấp công nghệ.
+ Một số các quy tắc, chính sách và thủ tục hiện hành làm cho việc chuyển giao công nghệ từ ngoài vào Việt Nam khó khăn và tốn kém.
+ Rất khó tiếp cận với thị trường công nghệ, máy móc, thiết bị quốc tế do thiếu những thông tin về thị trường này.
+ Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó tiếp cận những dịch vụ tư vấn có tính chất hỗ trợ trong việc xác định công nghệ thích hợp và hiệu quả, giúp họ cải tiến công nghệ.
* Thiếu mặt bằng sản xuất: Đây là một thực tế phổ biến đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đại đa số các doanh nghiệp này phải tự xoay sở, tìm kiếm đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, để có đất các doanh nghiệp này phải mua lại đất của người khác với chí phí rất cao. Mặt khác, diện tích đất nhà nước có để cho thuê thường quá ít so với nhu cầu ở một số tỉnh thành phố tập trung nhiều doanh nghiệp mà nếu có để cho thuê thì giá lại rất cao, phải trả tiền một lần cho thời gian dài từ 10 - 50 năm. Điều này vượt quá khả năng tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và chi phí đất cao dẫn đến chi phí sản xuất nói chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng khiến giá thành sản phẩm tăng, giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
* Khó khăn về thị trường: Khó khăn về thị trường là một trong những khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nói đến khó khăn về thị trường phải nói đến hai nguyên nhân: Từ phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ và từ môi trường bên ngoài.
- Về phía doanh nghiệp: Phải thừa nhận rằng năng lực thị trường, năng lực cạnh tranh của hàng hoá ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn yếu do:
+ Vì không có chiến lược sản xuất kinh doanh dài hạn và ổn định cũng như chưa có kế hoạch chi tiết dài hạn về phát triển thị trường nên hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn theo kiểu thời vụ.
+ Thiếu thông tin về thị trường: Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu thị trường nên không biết rõ về khách hàng và các đối thủ cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Dó đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa quan tâm nhiều đến việc phát triển sản xuất những gì thị trường cần mà chủ yếu sản xuất, kinh doanh và bán những gì mà mình có nên năng lực cạnh tranh chưa cao.
+ Sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực cạnh tranh rất yếu: sản phẩm thường có chất lượng thấp, mẫu mã xấu mà giá thành lại cao do chi phí đầu vào quá cao nên trong nước rất khó cạnh tranh với hàng nhập khẩu thường có chất lượng cao hơn, mẫu mã đẹp hơn và nhiều khi giá thành của chúng lại còn rẻ hơn. Nhiều sản phẩm không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu chứ không nói gì đến việc cạnh tranh với hàng hoá của các nước khác trên thị trường quốc tế. Và phần lớn các doanh nghiệp gặp khó khăn khi cạnh tranh trên thị trường quốc tế vì các chi phí sản xuất rất cao so với các nước khác đặc biệt là các nước Đông Nam Á (những nước mà thường có chung thị trường với ta).
+ Do chưa nhận rõ vai trò của thương hiệu nên hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa quan tâm đến việc xây dựng và đăng ký bảo hộ thương hiệu. Trong số 100.000 nghìn thương hiệu được bảo hộ ở nước ta thì số doanh nghiệp trong nước đăng ký chỉ có 20% và đến nay chỉ có 43 doanh nghiệp đăng ký ra nước ngoài. Theo kết quả thăm dò, trong số các doanh nghiệp được hỏi thì có đến 74% các doanh nghiệp đầu tư dưới 5% cho việc xây dựng thương hiệu, 20% số doanh nghiệp không hề chi cho việc xây dựng thương hiệu21. Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 12 - 2004, tr. 18.
. Tình trạng đó đã dẫn đến sự thua thiệt lớn của một số doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu trên thị trường nước ngoài, đã có những thương hiệu có tên tuổi của ta bị đăng ký mất chẳng hạn như cà phê Trung Nguyên, Vinataba, Petro...
+ Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đầu tư thích đáng vào hoạt động xúc tiến thương mại như: tiếp thị, triển lãm, quảng cáo, hội chợ nên cũng làm hạn chế năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ.
- Về phía môi trường bên ngoài:
+ Thị trường nước ta còn kém phát triển, thiếu đồng bộ và bị chia cắt. Hiện nay mới có thị trường hàng hoá và dịch vụ là tương đối còn các loại thị trường khác chưa có hoặc còn rất manh múm. Thị trường đầu vào như đất đai, vốn... đang là khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, về cơ bản vẫn là cơ chế “xin - cho” nên rất bất lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Điều kiện thị trường chưa bình đẳng, còn nhiều doanh nghiệp lớn độc quyền trên một số lĩnh vực, làm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ ngay từ khi mới ra đời đã phải cạnh tranh không cân sức.
+ Khó khăn lớn nhất của thị trường trong nước là sức mua thấp. Các hàng hoá của các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị chèn ép do hàng nhập lậu tràn lan, phần lớn hàng tiêu dùng bị nước ngoài chiếm lĩnh.
+ Hơn nữa, chính sách xuất khẩu theo hạn ngạch hoặc quy định mức vốn tối thiểu đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
* Việc liên kết, hợp tác kinh doanh của các doanh nghiệp còn rất hạn chế: Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều hoạt động theo kiểu mạnh ai nấy chạy còn sự liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp còn rất hạn chế nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ phần lớn không có khả năng tham gia sản xuất, kinh doanh ở những ngành nghề, lĩnh vực đòi hỏi có nguồn vốn lớn và công nghệ cao.
* Chí phí sử dụng các dịch vụ quá cao: Mặc dù kết cấu hạ tầng ở nước ta tuy đã được đầu tư và cải thiện đáng kể trong những năm gần đây nhưng vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ. Tình trạng áp đặt giá cao của các dịch vụ trong khi chất lượng dịch vụ thấp, làm cho chi phí đầu vào cho các dịch vụ mà các doanh nghiệp sử dụng trở nên quá cao so với các nước trong khu vực, chẳng hạn như: tình trạng cung ứng điện với điện áp không ổn định và cắt điện bất thường; giá dịch vụ viễn thông quốc tế, phí Internet tại nước ta ở mức cao nhất khu vực mà tốc độ truyền dẫn chậm; chi phí bốc xếp ở các cảng, phí lưu kho đều cao cộng với thủ tục rườm rà đã làm cho các doanh nghiệp tốn nhiều thời gian và chí phí.
* Khó khăn về môi trường pháp luật (thể chế kinh tế): Mặc dù đã cố gắng trong việc ban hành và sửa đổi hệ thống pháp luật, trong đó có những tiến bộ rõ rệt như Luật Doanh Nghiệp và các chính sách cởi mở về xuất khẩu... nhưng nhìn chung thì hệ thống pháp luật về kinh tế ở nước ta chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, không ổn định và chưa bình đẳng với các doanh nghiệp (kể cả khi thành lập doanh nghiệp cũng như khi đi vào hoạt động kinh doanh), chậm cải tiến so với các nước trong khu vực, nhiều nội dung chưa phù hợp với pháp luật quốc tế về kinh tế. Nhiều quy định pháp luật hiện nay còn rắc rối, rườm ra (như các thủ tục hành chính liên quan trong việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, làm tăng chi phí cơ hội của các doanh nghiệp), bên cạnh đó việc tuyên truyền pháp luật lại rất hạn chế và nạn quan liêu, tham nhũng còn rất phổ biến và nghiêm trọng khiến cho các doanh nghiệp có tâm lý ngại và không muốn thực hiện các quy định đó. Do đó, môi trường kinh doanh ở nước ta rất khó dự đoán, thiếu tính ổn định. Các thể chế kinh tế chưa thực sự phát huy vai trò hướng dẫn trong kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các doanh nghiệp này nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Hơn nữa thì ý thức tuân thủ và thực hiện pháp luật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp, pháp luật của ta có quá nhiều kẽ hở để các doanh nghiệp lợi dụng nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang bộc lộ nhiều khiếm khuyết khá nghiệm trọng như: Trốn lậu thuế; một số doanh nghiệp còn trốn đăng ký kinh doanh hoặc kinh doanh không đúng đăng ký; làm hàng giả, hàng kém chất lượng... Với cung cách làm ăn như thế này các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ta rất khó có thể tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế trong bối cảnh hội nhập, nơi mà những thể chế, quy định là khá chặt chẽ và nghiêm khắc.
* Khó khăn vì chưa có sự hỗ trợ thích đáng của Nhà nước và các hiệp hội:
Đây là một khó khăn rất lớn, vì thiếu sự hỗ trợ thích đáng như (hỗ trợ lập nghiệp, chuyển giao công nghệ, bảo lãnh tín dụng...), các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn nhất là khi các doanh nghiệp này đã và đang phải chụi sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn từ phía các doanh nghiệp lớn từ nước ngoài xâm nhập vào nước ta và trên thị trường quốc tế.
4. Cơ hội và thách thức mà hội nhập mang lại cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
a. Cơ hội đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Mở rộng thị trường ra nước ngoài, có thêm nhiều bạn hàng lớn;
- Tận dụng được những tiến bộ khoa học công nghệ thế giới, chuyển giao công nghệ dễ dàng hơn;
- Giúp các doanh nghiệp trưởng thành hơn, hoàn thiện mình hơn nếu muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt...
b. Những thách thức mà doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đối mặt
- Cạnh tranh ngày càng gay gắt, nguy cơ sẽ bị mất thị trường. Vì khi Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới thì phải cắt giảm thuế quan nhiều mặt hàng, tạo điều kiện cho hàng hoá nhập khẩu tràn vào Việt Nam chiếm lĩnh thị trường. Hơn nữa, chúng ta lại có chung thị trường quốc tế với nhiều doanh nghiệp lớn trên thế giới nên nếu không cẩn thận sẽ bị các doanh nghiệp này đánh bại và chiếm lĩnh thị trường quốc tế hiện tại mà các doanh nghiệp đang có.
- Sức ép phải đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động.
- Phải chấp nhận cung cách làm ăn mới với những thông lệ, quy định, tiêu chuẩn thế giới. Mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện rất thiếu thông tin về thị trường thế giới...
5. Đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam thông qua một số chỉ tiêu
Từ những số liệu cụ thể và những đánh giá chi tiết về những khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, chúng ta đã phần nào thấy được năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bây giờ, để có thể thấy rõ hơn nữa về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, chúng ta sẽ tiến hành đánh giá thông qua một số chỉ tiêu sau:
5.1. Một số chỉ tiêu đầu vào cơ bản
- Quy mô vốn hạn hẹp: Mặc dù số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay chiếm 97% tổng số doanh nghiệp cả nước nhưng số vốn đăng ký của các doanh nghiệp này chỉ chiếm gần 30% tổng số vốn kinh doanh của các doanh nghiệp trong cả nước. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ có số vốn dưới 5 tỷ đồng22, Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 10 - 2004, tr. 16.
.
- Công nghệ lạc hậu: Phần lớn lạc hậu từ 1- 2 thế hệ so với các nước trong khu vực.
VD: Ngành dệt may (một ngành đòi hỏi công nghệ phải thường xuyên cập nhật để đáp ứng về nhu cầu chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã luôn thay đổi) thì vẫn còn gần 50% thiết bị dệt đã sử dụng trên 20 năm, ngành may máy móc thiết bị lạc hậu từ 5 -7 năm so với các nước trong khu vực23. Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 12 - 2003, tr. 18.
.
- Nguồn nhân lực:
+ Mặc dù giá nhân công ở nước ta rẻ hơn so với các nước trên thế giới và khu vực nhưng lao động ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu hết chưa qua đào tạo (gần 75% lao động chưa tốt nghiệp phổ thông, chỉ có khoản 5,3% lao động ngoài quốc doanh có trình độ đại học mà lại tập trung chủ yếu ở cá công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần).
+ Năng lực quản lý kém: Số chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ đã qua đào tạo đại học chỉ chiếm khoảng 20 - 30%, 15 - 20% các chủ doanh nghiệp đã qua các trường dạy nghề, còn lại là tự đào tạo, làm việc theo kinh nghiệm24. Tạp chí: Thông tin tài chính, số 9 - 2004, tr. 13.
.
- Tỷ trọng chi phí dành cho hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến hỗn hợp quá thấp, đầu tư cho thương hiệu hàng hoá còn quá thấp:
+ Theo kết quả thăm dò, trong số các doanh nghiệp được hỏi thì có đến 74% các doanh nghiệp đầu tư dưới 5% cho thương hiệu, 20% số doanh nghiệp không hề chi cho việc xây dựng thương hiệu25. Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 12 - 2003, tr. 18.
.
+ Hiện nay, sử dụng Internet trong các doanh nghiệp này rất ít, chỉ khoảng 5 -10% hoặc cao nhất là 12%. Tổng số doanh nghiệp sử dụng điện thoại, thương mại điện tử chiếm 60 -70%26. Tạp chí: Thông tin tài chính, số 9 - 2004, tr. 14.
27. Tạp chí: Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp, số 10 - 2004, tr. 19.
. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có thói quen kinh doanh qua mạng, hợp tác kinh doanh qua mạng hay quảng cáo hàng hoá của mình. Nên khả năng tiếp cận, nghiên cứu thị trường (đặc biệt là thị trường quốc tế) rất hạn chế.
- Chi phí cho một đơn vị sản phẩm cao:
VD: Ngành dệt may, chi phí cho một đơn vị sản phẩm cao từ 15% đến 20% so với các nước trong khu vực.
5.2. Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế
- Hàng năm đóng góp khoảng 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% mức bán lẻ, 64% tổng khối lượng hàng hoá vận chuyển, nộp ngân sách nhà nước 14%
.
Tất nhiên, phải thừa nhận là so với những năm trước đây (trước khi Luật doanh nghiệp ra đời) thì đây đúng là một kết quả đáng mừng nhưng nếu nhìn vào số liệu trên ta có thể thấy rằng so với các doanh nghiệp lớn thì hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn quá khiêm tốn (các doanh nghiệp này mới chỉ đóng góp 26% GDP và 14% ngân sách nhà nước trong khi đó về quy mô thì chiếm tới 97% tổng số doanh nghiệp cả nước).
- Trong công nghiệp: Doanh thu và lãi bình quân/lao động của doanh nghiệp nhà nước nhỏ chỉ tương ứng bằng 37,4% và 26,7% so với toàn bộ công nghiệp quốc doanh và số liệu tương ứng cho doanh nghiệp vừa là 59,5% và 46,7%28 + 29: Nguyễn Cúc, Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, NXB: Chính trị Quốc Gia, tr. 54.
.
- Trong thương mại: Bình quân một lao động trong các doanh nghiệp nhỏ tạo ra doanh thu và lãi tương ứng bằng 32% và 12,8% so với toàn bộ thương nghiệp quốc doanh. Và đối với doanh nghiệp vừa, thì số liệu tương ứng là 62,9% và 33,3% so với toàn bộ thương nghiệp quốc doanh. Nếu so riêng với các doanh nghiệp lớn trong thương mại thì các chỉ số đó còn thấp hơn nhiều
.
5.3. Các chỉ tiêu đánh giá về sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
- Chất lượng: Thấp, do công nghệ lạc hậu và trình độ nguồn nhân lực hạn chế (Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều ở dạng thô hoặc mới qua sơ chế nên năng lực cạnh tranh là yếu; hàng hoá của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít thay đổi mẫu mã, hầu như không có sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, không bám sát thị hiếu của người tiêu dùng).
- Giá cả: Chưa đủ sức cạnh tranh. Trong nước hàng nội địa rất khó cạnh tranh với các hàng hoá nhập khẩu đặc biệt là hàng hoá nhập khẩu từ Trung Quốc, Thái Lan... Xuất khẩu thì rất khó cạnh tranh về giá đối với các nước trong khu vực có chung thị trường do chi phí đầu vào của ta quá cao (VD: Ngành dệt may, chi phí cho một đơn vị đầu vào cao hơn từ 15% - 20% so với các nước trong khu vực).
- Chủng loại mặt hàng: Chưa phong phú. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu do doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia chủ yếu là các mặt hàng nông sản, dệt may, thủ công mĩ nghệ (trong đó có rất nhiều các mặt hàng chúng ta sẽ phải thực hiện cắt giảm thuế quan, bảo hộ).
6. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
Từ một số thực trạng nói trên của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, ta có thể dễ dàng nhận ra rằng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn quá yếu (tiềm lực tài chính hạn hẹp; công nghệ lạc hậu; chất lượng lao động thấp; năng lực quản lý kém; chưa có chiến lược kinh doanh dài hạn; hiểu biết về thị trường còn yếu; ít đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu phát triển, marketing, đào tạo nhân lực; chi phí đầu vào cao; sản phẩm kém chất lượng, mẫu mã không hấp dẫn mà giá lại cao nên năng lực cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại kém...). Hơn nữa, các thể chế kinh tế thiếu tính nhất quán, chưa đầy đủ, không ổn định cộng với môi trường kinh doanh chưa bình đẳng đã chưa có tác dụng giúp cải thiện năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tóm lại, với năng lực hiện tại thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có thể đáp ứng được đòi hỏi của thị trường và yêu cầu hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM
Trong tiến trình hội nhập, chỉ có doanh nghiệp nào chuẩn bị tốt mới có cơ may tồn tại, nếu không thì nguy cơ bị đào thải, bị loại khỏi cuộc đua sẽ là tất yếu. Do đó, điều cấp bách hiện nay là phải tìm mọi biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để khắc phục những yếu kém trên, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa nhỏ để các doanh nghiệp này đủ điều kiện và chủ động hơn nhằm hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực thì cần nỗ lực cả từ hai phía: Bản thân các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện mình và song cũng cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước.
1. Về phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải xây dựng cho mình chiến lược phát triển dài hạn hơn. Trong đó phải xác định rõ những mục tiêu cần đạt được sau một thời gian nhất định, vạch ra những phương án phát triển dài hạn để đạt được mục tiêu của mình trên cơ sở thường xuyên phân tích, đáng giá những cơ hội, thách thức từ môi trường (trong đó phải chú ý đặc biệt vào việc phân tích khách hàng và đối thủ cạnh tranh), những điểm mạnh và điểm yếu của mình một cách nghiêm túc để tìm ra được phương án kinh doanh tối ưu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình.
- Cần tăng cường các biện pháp giảm chi phí về nguyên vật liệu và năng lượng nhằm giảm chi phí đầu vào:
+ Tích cực, chủ động đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ tiến bộ và phương thức tổ chức sản xuất hiện đại phù hợp với đặc điểm của từng doanh nghiệp để tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
+ Cơ cấu lao động trong dây truyền sản xuất, đào tạo tay nghề cho người lao động, giảm thiểu chi phí trung gian trong quá trình sản xuất, áp dụng các phương pháp quản lý sản xuất, kinh doanh tiên tiến...
- Nâng cao trình độ nguồn nhân lực:
+ Trước hết cần xác định rõ mục tiêu đào tạo để đào tạo đúng hướng, tránh đào tạo tràn lan;
+ Dành một sự đầu tư hợp lý cho việc đào tạo nguồn nhân lực;
+ Xây dựng hệ thống quản lý nhân lực hiện đại trong các doanh nghiệp, bao gồm các nội dung như tuyển dụng, phân công công việc, đào tạo, đánh giá, trả lương, thưởng...
+ Đào tạo lại tay nghề cho người lao động;
+ Thường xuyên mở những lớp bồi dưỡng cho các cán bộ quản lý để có được đội ngũ các nhà quản lý đủ trình độ, năng động, nhạy bén.
- Xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp: Tạo bầu không khí thoải mái, đoàn kết giữa các công nhân viên, có sự quan tâm của cấp trên với cấp dưới, xây dựng và phát triển các mối quan hệ phi chính thức tích cực... Chúng sẽ làm cho người lao động trung thành, nhiệt tình hơn, từ đó kích thích tăng năng suất lao động đáng kể, sản phẩm có chất lượng cao hơn.
- Đầu tư thích đáng hơn nữa cho công tác nghiên cứu và dự báo thị trường: Để có được thông tin đầy đủ, chính xác về các loại thị trường đầu vào như vốn, công nghệ, nguyên vật liệu; và quan trọng là có được thông tin về đối thủ cạnh tranh và khách hàng để từ đó có những phương án kinh doanh tối ưu.
- Phát triển sản phẩm dựa trên nhu cầu của thị trường: Phải sản xuất những sản phẩm, dịch vụ mà thị trường cần chứ không phải sản xuất, kinh doanh những gì mà mình có. Muốn vậy, thì doanh nghiệp cần phải:
+ Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ theo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (như là sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000);
+ Tạo ra những sản phẩm có mẫu mã, kiểu dáng đẹp; tính năng độc đáo, nổi trội để có thể cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu và đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế;
+ Sản xuất sản phẩm với chi phí thấp nhằm tạo lợi thế cạnh tranh về giá so với các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước.
- Mỗi doanh nghiệp cần tạo riêng cho mình một số sản phẩm mũi nhọn, có năng lực cạnh tranh, có thương hiệu riêng để khẳng định vị trí của mình trên thị trường.
- Đẩy mạnh hoạt động Marketing: Xúc tiến hỗn hợp (quảng cáo, tiếp thị, bán hàng, khuyến mại...) trên cả những thị trường truyền thống và thị trường mới. Tích cực tham gia các cuộc triển lãm, hội chợ để giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp mình, tiếp cận với những tiến bộ khoa học - công nghệ, đồng thời để tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường.
- Đề cao văn hoá trong kinh doanh, xây dựng truyền thống và uy tín của doanh nghiệp. Muốn vậy, trước hết kinh doanh đúng pháp luật, tôn trọng chữ tín, cần đặt lợi ích của mình trong sự kết hợp hài hoà với lợi ích của cộng đồng và đất nước.
- Tăng cường sự phối hợp, hợp tác trong sản xuất, kinh doanh thay vì mạnh ai nấy chạy:
+ Tăng cường hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất cùng loại sản phẩm để hỗ trợ nhau khi thị trường biến động hoặc khi có đơn đặt hàng lớn, để xây dung thương hiệu hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Vì vậy cần nhanh chóng thành lập các hội nghề nghiệp, các tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
+ Đồng thời, cần phải liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn; có sự phân công chuyên môn hoá, cung cấp nguyên liệu, sản phẩm đầu vào, đầu ra trên cơ sở các bên cùng có lợi.
2. Một số kiến nghị với nhà nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
- Cần phải xây dựng chiến lược cụ thể để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước nên đi tiên phong trong những lĩnh vực khó để mở đường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, ban hành các luật riêng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ (Luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, Luật về bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ...), để tạo hành lang pháp lý thuận lợi và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh. Hiện nay đã có Luật cạnh tranh nhưng cần nhanh chóng thực thi một cách có hiệu quả, và cần có thêm các luật chống độc quyền.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách: Khắc phục tình trạng chính sách thiếu nhất quán, còn chồng chéo, mâu thuẫn, thực hiện không thống nhất giữa các cấp, các ngành; đơn giản hoá các thủ tục hành chính như thủ tục cấp giấy phép, xin giấy hải quan; xoá bỏ tình trạng nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp ở nhiều nơi.
- Phát triển đồng bộ các loại thị trường: Trong đó, đặc biệt là các thị trường đầu vào (thị trường đất đai, thị trường lao động, khoa học - công nghệ, thị trường vốn trung và dài hạn).
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng để hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ:
+ Trước hết, cần phải tạo một “sân chơi bình đẳng” để tất cả mọi doanh nghiệp đi vay đều phải tuân thủ những quy định giống nhau, bảo đảm để mọi khoản vay đều được thực hiện trên cơ sở phân tích tính khả thi của dự án;
+ Từng bước loại bỏ những thủ tục gay phiền hà cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc đánh giá tài sản thế chấp, thẩm định dự án cho vay;
+ Cho vay với lãi suất ưu đãi, trợ cấp lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh hiệu quả;
+ Nhanh chóng thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng, làm cầu nối giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các ngân hàng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ vay vốn;
+ Chấn chỉnh và đổi mới cơ chế hoạt động các dịch vụ tài chính ngân hàng, tăng cường nguồn vốn cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ; đồng thời tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động thị trường chứng khoán.
- Đổi mới chính sách thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: Mở rộng đối tượng được ưu đãi thuế, tăng mức độ ưu đãi (đặc biệt hạ thấp mức thuế nhập khẩu đối với các thiết bị sản xuất, linh kiện và nguyên vật liệu; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện tự tạo vốn).
- Bảo hộ hợp lý hàng trong nước, chống nhập khẩu hàng lậu.
- Tăng cường hỗ trợ việc nghiên cứu phát triển công nghệ cho các doanh nghiệp: Trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển giao công nghệ, tiến tới cạnh tranh bằng sản phẩm có hàm lượng tri thức cao và tính độc đáo.
- Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ: thông qua việc tăng cường mở các lớp đào tạo nâng cao kỹ năng quản lý, các khoá tập huấn về quản trị kinh doanh cho giám đốc và cán bộ quản lý; khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề cho các doanh nghiệp.
- Cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về thị trường, công nghệ, đối tác kinh doanh..., tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tiếp cận và tìm hiểu thị trường quốc tế thông qua các hội chợ, triển lãm.
- Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ liên kết hợp tác với nhau và với các doanh nghiệp khác nhằm tạo được sức mạnh tổng hợp; chính sách khuyến khích thành lập các hiệp hội hỗ trợ.
LỜI KẾT
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các doanh nghiệp này đáp ứng được những điều kiện mới và những đòi hỏi mới là một vấn đề thực sự cấp bách nhưng tuyệt đối không được nóng vội, cần phải hết sức thận trọng và có chiến lược cụ thể để không mắc phải những sai lầm đáng tiếc và thu được kết quả tốt nhất.
Cuối cùng, em xin chân thành cám ơn cô giáo đã giúp em hoàn thành đề tài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Sách tham khảo
1. GS.TS Chu Văn Cấp: Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002.
2. Nguyễn Cúc: Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002.
3. PGS.TS Nguyễn Thị Liên Diệp: Chiến lược chính sách và kinh doanh, NXB Thống kê, Hà Nội 1997.
4. Lê Đăng Doanh: Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội 2001.
5. Nguyễn Đình Hương: Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002.
6. Nguyễn Hải Hữu: Đổi mới quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995.
7. Trần Hoàng Kim: Vũ khí cạnh tranh thị trường, NXB Thống kê, Hà Nội 1992.
8. Khoa khoa học quản lý: Giáo trình quản lý học Kinh tế Quốc dân tập 2, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội 2002.
9. Khoa khoa học quản lý: Giáo trình khoa học quản lý tập 1, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội 2001.
10. Khoa kế toán kiểm toán: Giáo trình phân tích kinh doanh, NXB Giáo dục, Hà Nội 2001.
11. GS.PTS. Vũ Thị Ngọc Phùng: Giáo trình chiến lược kinh doanh, NXB Thống kê, Hà Nội 1999.
II. Tạp chí tham khảo
1. PTS. Trần Kim Hào: Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí kinh tế và dự báo, số 4/2004.
2. Th.S. Ngô Thị Thu Hồng: Doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, Tạp chí tài chính doanh nghiệp, số 9/2003.
3. PGS.TS. Bạch Thị Minh Huyền: Chính sách tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ, Tạp chí tài chính doanh nghiệp số 8/2003.
4. PGS.TS. Bạch Thị Minh Huyền: Những vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, Tạp chí tài chính doanh nghiệp số 12/2003.
5. Nguyễn Thị Hoài Lê: Nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam, Tạp chí tài chính doanh nghiệp số 9/2004.
6. Nguyễn Thảo: Doanh nghiệp vừa và nhỏ - Thực trạng và giải pháp, Tạp chí tài chính doanh nghiệp số 1/2004.
8. Trần Việt Tuấn: Trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ - Những vấn đề đặt ra, Tạp chí tài chính doanh nghiệp số 10/2004.
9. Phạm Thị Tường Vân: Những thách thức đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ VN trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Thông tin tài chính, số 9/ 2004.
10. Phạm Thị Tường Vân: Cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất khẩu, Tạp chí Thông tin tài chính, số 15/ 2004.
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO 38
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTO012.doc