Các biện pháp đổi mới nếu được thực hiện tốt ở tất cả các ngành các cấp thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của DNVVN. Đó là tất yếu và là yêu cầu mà chúng ta phải thực hiện trên con đường đưa nước ta phát triển và quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới còn rất nhiều khó khăn. Đòi hỏi tất cả chúng ta phải có sự cố gắng nỗ lực phấn đấu. Với cương vị là một sinh viên đòi hỏi chúng ta không ngừng rèn luyện học hỏi kinh nghiệm để góp phần vào việc đổi mới, xây dựng đất nước. Là một nhà quản lý tương lai tôi tự nhận thấy trách nhiệm lớn lao của bản thân và không ngừng phấn đâú để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Bài viết trên của tôi không tránh khỏi thiếu sót, mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
45 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp và kiến nghị để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta hiện nay, với xu hướng nền kinh tế mở cửa bên cạnh sự tồn tại của hàng trăm nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ là hàng ngàn các doanh nghiệp lớn của các thành phần kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp lớn tư nhân, kể cả tư nhân trong nước và tư nhân nước ngoài. Mà các doanh nghiệp đều có quyền tự định đoạt sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào? Điều đó dẫn đến sự bất lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi cùng sản xuất một loại sản phẩm với doanh nghiệp lớn. Các doanh lớn với nguồn vốn lớn, công nghệ kỹ thuật hiện đại sẽ tạo ra sản phẩm với chi phí thấp, ngược lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ với nguồn vốn hạn hẹp, công nghệ kỹ thuật lạc hậu, lao động thủ công là chủ yếu, sẽ tạo ra cùng loại sản phẩm với chi phí lớn hơn doanh nghiệp lớn. Trong môi trường cạnh tranh nếu cung nhỏ hoặc ngang bằng về loại sản phẩm mà doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất ra, thì nó mới có thể bù đắp được chi phí sản xuất, có lợi nhuận, tồn tại và phát triển được. Ngược lại cung lớn hơn cầu thì doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có thể bù đắp được chi phí sản xuất và dễ dẫn tới nguy cơ phá sản. Vì vậy đòi hỏi phải có cơ chế chính sách bảo vệ doanh nghiệp vừa và nhỏ để nó tồn tại và phát triển.
1.3 Để thực hiện được mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh thì trước hết phải phát triển sản xuất. Nước ta cũng như các nước đanh phát triển khác, nguồn vốn hạn hẹp, nhân lực dồi dào, công nghệ kỹ thuật lạc hậu, thị trường chưa phát triển do vậy việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp nhất đáp ứng được mục tiêu tạo ra công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, đáp ứng yêu cầu bức bách của đất nước. Về lâu dài, sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đóng góp tỷ trọng lớn trong thu nhập quốc dân. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi hình thành một hệ thống chính sách những văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc vận hành của toàn bộ nền kinh tế cũng như trong hoạt động ccủa các doanh nghiệp. Đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ vấn đề ban hành các thể chế pháp lý càng có yêu cầu bức bách hơn.
2. Phương pháp đổi mới:
2.1. Đổi mới về nhận thức tư tưởng.
Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta phải quán triệt sâu sắc những vấn đề sau:
Xuất phát từ học thuyết của Mác về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với hạ tầng kinh tế. Vì vậy, cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ phải được xây dựng phù hợp với mô hình kinh tế đã lựa chọn, đó là nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa và bản chất của cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ phải phù hợp với bản chất của mô hình kinh tế đó. Cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cơ chế thị trường được thể hiện thông qua ai là người quyết định vấn đề cơ bản của doanh nghiệp, bao gồm: sản xuất dịch vụ cái gì? sản xuất dịch vụ như thế nào? sản xuất dịch vụ cho ai? Vấn đề thứ nhất giải pháp cho việc lựa chọn hàng hoá sản xuất hoặc dịch vụ, cái cầu cho nhu cầu thị trường tức là sản xuất, dịch vụ các thị trường cần chứ không phải các doanh nghịêp có sẵn. Vấn đề thứ hai là giải pháp lựa chọn công nghệ như thế nào, để chất lượng hàng hoá có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Vấn đề thứ ba là cung cấp cho ai, ai là người mua. Doanh nghiệp phải tìm lấy thị trường tiêu thụ hàng hoá của mình, xác định rõ đối tượng tiêu dùng và nhu cầu thị hiếu của họ. Cả ba vấn đề trên đã phản ánh rõ ràng là thị trường sẽ đóng vai trò quyết định ba vấn đề cơ bản của doanh nghiệp. Điều này cũng nói lên sự khác biệt của cơ chế thị trường với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp.
Tuy rằng nền kinh tế thị trường phát triển là phù hợp với quy luật phát triển kinh tế nước ta. Nhưng nó vẫn phải có sự tác động quản lý của nhà nước. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường sẽ nảy sinh rất nhiều khuyết tật như độc quyền, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng, thất nghiệp…Do đó cần có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật để các doanh nghiệp hoạt động đúng mục tiêu mà chúng ta hướng tới sao cho lợi ích của họ cũng không bị thay đổi.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ phải phù hợp với chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Bởi phát triển nền kinh tế thành phần là một tất yếu khách quan. Cơ chế mới cần tạo được môi trường cạnh tranh hoàn hảo cho các doanh nghiệp. Hơn nữa nó xác định phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ổn định, lâu dài, thì các ông chủ tư nhân mới thực sự yên tâm đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh, đầu tư chiều sâu vào đổi mới công nghệ và hoạch định chiến lược lâu dài.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là nền tảng cho mọi quan điểm hệ thống pháp luật, chính sách về quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thiếu nó hoặc vận dụng nó không đúng thì cơ chế quản lý doanh nghiệp nói chung, cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng sẽ bị kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp.
Mặt khác cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ phải dưạ trên nền tảng lý luận về quản lý doanh nghiệp nói chung, phải biết kế thừa tinh hoa của nhân loại, không có sự mặc cảm tư bản hay xã hội chủ nghĩa trong khoa học quản lý. Điều đó đòi hỏi phải có một hệ thống quan điểm đồng bộ, nhất quán có tính ổn định lâu dài.
2.2. Những quan điểm cơ bản trong đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Quan điểm hiệu quả kinh tế xã hội.
Trong cơ chế thị trường, tiêu thức quan trọng để đánh giá doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xã hội, mặc dù doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận tức hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Nhưng trên góc độ quản lý không thể xem nhẹ vấn đề xã hội vì vậy phải gắn hiệu quả kinh tế với xã hội làm một. Do đó cơ chế mới cần bảo đảm yêu cầu: thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lợi nhuận, đảm bảo mức doanh thu, mức lãi trên một đồng vốn, thu hút nhiều lao động xã hội. Để đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội- pháp luật, chính sách và định hướng phát triển phải nhằm vào sự khuyến khích phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp vừa và nhỏ .
Quan điểm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để hội nhập vào nền kinh tế thê giới, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, phải tập trung thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá có ý nghĩa là từng bước chuyển đổi căn bản toàn diện phương thức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ hoạt động thủ công, lao động bằng máy móc lạc hậu sang lao động bằng máy móc, thiết bị hiện đại là chủ yếu tạo ra năng suất lao động cao.
Quan điểm tiên tiến và hiện thực.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ trước hết phải đảm bảo yêu cầu tiên tiến hiện đại. Điều đó đòi hỏi ccác nghiên cứu ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật. Nước ta chỉ có thuận lợi là nguồn nhân lực dồi dào, còn lại các mặt như vốn, thị trường thì đều yếu kém. Chính vì thế việc xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách phải linh hoạt, mềm dẻo đảm bảo tính khả thi, tức là sự tiên tiến hiện đại phải phù hợp với khả năng về vốn và trình độ lao động trong từng giai đoạn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng hợp lý nguồn nhân lực đặc biệt là sự hài hoà trong việc sử dụng nguồn lao động và công nghệ để đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất.
Quan điểm kết hợp hài hoà lợi ích của chủ doanh nghịêp, người lao động và nhà nước.
Cơ chế mới phải đảm bảo lợi ích của ba bên chủ doanh nghịêp, người lao động và lợi ích của nhà nước. Lợi ích thoả đáng sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Quan điểm này được quán triệt trong các khâu: phân phối thu nhập, giải quyết các mối quan hệ trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Quan điểm kết hợp nhịp nhàng giữa phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước, nó hỗ trợ đắc lực cho nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy theo quan điểm này xác định doanh nghiệp lớn là những hạt nhân đứng ở vị trí trung tâm, doanh nghiệp vừa và nhỏ là những vệ tinh xung quanh, đó là cơ sở ban đầu để hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, có đủ sức cạnh tranh trên thương trường, có khả năng đáp ứng nhu cầu của cùng về một số loại hàng hóa nhất định. Tuy nhiên, doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có những đối lập riêng, nên yêu cầu của quan điểm này là cơ chế mới phải tạo ra môi trường cho sự liên kết hợp tác sản xuất kinh doanh giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2.3. Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ là hướng tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Trước hết chúng ta cần đoạn tuyệt dứt khoát với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, thiết lập và thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, quyền tự chủ của doanh nghiệp được trả đúng vị trí của nó. Đại hội Đảng lần thứ VII khẳng định: “ tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật kế hoạch chính sách và các công cụ khác”. Nhà nước quản lý bằng kế hoạch, pháp luật và các công cụ kinh tế vĩ mô chứ không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh vi mô. Các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng của bất cứ hình thức nào cũng luôn luôn chịu sự chi phối từ hai phía: quan hệ cung cầu, giá cả thị trường và vai trò điều tiết của, nhà nước. Cơ chế mới đòi hỏi sự “ tự điều chỉnh” hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp cho phù hợp với pháp luật chính sách của nhà nước và nhu cầu và nhu cầu thị trường. Vì vậy quá trình đổi mới đòi hỏi nhà nước phải tạo ra được khuôn khổ pháp luật, chính sách hoàn chỉnh cũng như tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Tác động của nhà nước chính là tác động vào môi trường và chủ yếu thông qua chính sách tiền tệ, lãi suất giá cả, tín dụng…Các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung cần được bảo vệ ưu đãi hỗ trợ cả bằng pháp luật, chính sách, và tổ chức thực hiện, tạo điều kiện cho quá trình tự điều chỉnh.
Tiếp theo nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình đối với các doanh nghiệp bằng pháp luật, chính sách. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật, chính sách, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và điều tiết các hoạt động kinh tế. Đối với loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ quy định rõ lĩnh vực ưu tiên, ngành nghề ưu tiên, cần thiết các quy định trên phải được thực hiện bằng luật, chính sách riêng. Song song với việc quản lý bằng pháp luật, nhà nước còn phải đảm nhiệm chức năng cung cấp dịch vụ công cộng, duy trì sự ổn định của nền kinh tế, tác động phân phối hợp lý của các nguồn lực và bảo vệ môi trường. Nhà nước đảm bảo vai trò điều tiết nền kinh tế, điều tiết hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng các công cụ hành chính- pháp luật và công cụ kinh tế như thuế, tín dụng, đơn đặt hàng…
Công cụ hành chính- pháp luật quan trọng đối với quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là các đạo luật, đặc biệt là luật cơ bản và doanh nghiệp nhỏ, luật khuyến khích đầu tư, chính sách ngành nghề… Nhà nước còn sử dụng các công cụ kinh tế gián tiếp tác động đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông qua hoạt động của cả thị trường như đơn đặt hàng của các cơ quan nhà nước, dịch vụ phi hàng hoá. Nhà nước tác động đến việc sản xuât cái gì? Sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Của các doanh nghiệp thông qua hệ thông pháp luật, thông qua điều tiết bằng công cụ vĩ mô chứ không phải bằng chỉ tiêu pháp lệnh, bằng mệnh lệnh hành chính… Các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng với chức năng quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có quyền tự chủ hoàn toàn về qúa trình sản xuất kinh doanh theo luật định, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh, thực hiện lời ăn lỗ chịu. Doanh nghiệp quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh bằng chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh, trực tiếp điều hành quá trình sản xuất- kinh doanh bao gồm huy động các yếu tố đầu vào, tổ chức sản xuất kinh doanh, giải quyết các yếu tố đầu ra. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình điều chỉnh kế hoạch lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh cho phù hợp với cung – cầu, giá cả thị trường, chịu sự chi phối trực tiếp của thị trường. Doanh nghiệp thực hiện các chức năng quản lý các biện pháp hành chính và biên pháp kinh tế kỹ thuật, trong đó biện pháp kỹ thuật là chủ yếu.
2.4. Đổi mới nội dung các bộ phận cấu thành cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trước hết phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật xuất phát từ thực tiễn hệ thống pháp luật, chính sách chưa đầy đủ và đồng bộ, thậm chí có vấn đề trái ngược nhau, tính hiệu lực chưa cao, do đó trong thời gian tới phải ban hành thêm một số luật cần thiết và triển khai các bộ luật ban hành. Tiến hành xây dựng và ban hành luật thương mại, triển khai thực hiện luật khuyến khích đầu tư trong nước. Bộ luật lao động, luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, luật doanh nghiệp nhà nước, luật phá sản doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam… đồng thời hoàn thiện luật thuế, bao gồm cả thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế nhập khẩu. Ngoài ra còn nghiên cứu để ban hành luật bộ luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong bộ luật này phải xác định mục tiêu thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, mô hình doanh nghiệp và tổ chức quản lý, chế độ trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với nhà nước và người lao động đồng thời cũng phải xác định rõ ngành, nghề, lĩnh vực ưu tiên giành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoặc doanh nghiệp nhỏ nói riêng các ưu đãi về tín dụng, thuế, trợ giúp đào tạo quản lý, đào tạo tay nghề trong những năm đầu thành lập doanh nghiệp. Thực hiện các chế định có liên quan đến tài chính doanh nghiệp, kiểm toán, kế toán, tiếp đến là vấn đề ngành hàng, chất lượng sản phẩm và thuế. Khuôn khổ pháp luật cũng như quy chế quản lý phải đảm bảo tính ổn định lâu dài và tính đồng bộ thống nhất để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tính ổn định lâu dài trước hết thể hiện ở quan điểm nhất quán của nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế, không có sự phân biệt đối xử trong ccác văn bản pháp luật cũng như tổ chức thực hiện. Sự ổn định lâu dài còn thể hiện ở tính khả thi của hệ thống văn bản pháp luật. Xuất phát từ thực tiễn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường, để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội, xây dựng pháp luật, chính sách để quản lý trong một số năm nhất định tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh trên cơ sở chiến lược và kế hoạch, khắc phục tình trạng làm ăn theo kiểu “ chụp giật”. Sự ổn định lâu dài của pháp luật, chính sách là tiền đề quan trọng để đảm bảo quyền tự chủ thực sự trong sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp. Một xu hướng mới là đồng nhất cơ chế quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, không phân biệt hình thức sở hữu quốc doanh hay ngoài quốc doanh. Một hoạt động của doanh nghiệp hoàn toàn độc lập theo pháp luật và chịu sự kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước theo luật định và các chính sách mới bổ sung ( nếu có). Không có hệ thống các cơ quan chủ quản để “chỉ thị” và cho “ý kiến chỉ đạo” như hiện nay đối với các doanh nghiệp nhà nước. Để tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế của doanh nghiệp thì cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc về các cơ quan chức năng của nhà nước. Phải luật hoá, chi tiết hoá các quy định trong các văn bản pháp lý của nhà nước, đặc biệt là các thủ tục hành chính quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ, chấm dứt tình trạng mỗi địa phương tự đặt ra những quy định riêng từ thủ tục đăng ký, cấp phép thành lập doanh nghiệp đến việc kiểm soát chất lượng sản phẩm, định thuế suất và quản lý thuế.
Tiếp theo chúng ta phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
Chúng ta cần tập trung đổi mới các chính sách sau:
Chính sách về ngành nghề và ngành hàng.
Tính đa dạng phong phú về ngành nghề, ngành hàng kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề khách quan phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường mới phát triển ở Việt Nam. Về thị trường phát triển chưa ổn định, các doanh nghiệp vốn ít, do đó các doanh nghiệp nhỏ vẫn hoạt động theo phương châm vốn ít, lãi nhiều, giải thể nhanh. Chính vì vậy chỉ có 30% tổng vốn của nhà kinh doanh đầu tư vào sản xuất, còn 70% đầu tư vào thương nghiệp, dịch vụ. Chính vì vậy để phù hợp với đặc điểm Việt Nam và phát huy lợi thế so sánh tương đối, chính sách ngành nghề cần có sự ưu đãi đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp rừng, biển thông qua thuế, trợ cấp thông tin, trợ giúp kỹ thuật… để thu hút các doanh nghiệp chuyển vào sản xuất- kinh doanh theo định hướng chiến lược và kế hoạch của nhà nước. Trước mắt nhà nước chấp nhận tăng cường quản lý, kiểm soát và áp dụng chế độ thuế khoán là hợp lý nhất. Mặt khác để hạn chế các rủi ro cho các doanh nghiệp nhỏ, nhà nước cần thiết quy định những ngành nghề, ngành hàng dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ như: gia công một số chi tiết máy móc, thiết bị, thực hiện các hợp đồng phụ cho các doanh nghiệp lớn, sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp sử dụng nhiều lao động, thực hiện các công đoạn sử dụng các công cụ thủ công, bấn thủ công đối với tất cả các loại sản phẩm sản xuất trong nước, sản xuất hàng tiêu dùng thônh thường phục vụ quốc tế dân sinh.
Chính sách thuế: Thuế là một trong những chính sách quan trọng tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp vừavà nhỏ ở nước ta, nó không chỉ điều tiết phân phối tu nhập mà quan trọng hơn là điều chỉnh cơ cấu kinh tế, kích thích hoặc hạn chế các hoạt động sản xuất kinh doanh của từng ngành, từng lĩnh vực. Chính sách thuế hiện hành chưa thật sự khuyến khích đầu tư vốn mở rộng sản xuất thu hút nhiều lao động vấn đề không chỉ là hiện tượng thuế chồng thuế, thuế suất cao, mà doanh nghiệp có vốn đầu tư càng lớn, lao động càng đông thì phải đóng thuế càng cao, điều đó đang làm cho doanh thu hẹp phạm vi hoạt động. Để khắc phục tình trạng “ thuế chồng thuế” khi có đủ điều kiện cần phải thay thế thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng. Trước mắt thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ cần thực hiện theo hướng sau:
Giảm mức thuế doanh thu đối với một số mặt hàng tiêu dùng được sản xuất trong nước, tăng thuế nhập khẩu đối với hàng cùng loại đó. Tinh giảm thu nhập, thuế vốn các doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng bằng nguồn vốn lợi tức, hoặc đầu tư năm đầu sẽ được trừ giảm lượng chịu thuế. Giảm mức thuế lợi tức từ 30,40,50% hiện nay xuống còn 20-25% cho các doanh nghiệp có quy mô vừa. Miễn giảm thuế doanh thu cho những doanh nghiệp nhỏ mới hoạt động năm đầu và miễn giảm thuế doanh thu một số năm cho các doanh nghiệp nhỏ ở những vùng kinh tế kém phát triển. Giảm thuế cho các doanh nghiệp có vốn lớn nhưng lại sử dụng nhiều lao động. áp dụng mức thuế nhập khẩu từ 0-1% với máy móc, thiết bị, vật tư, phụ tùng trong nước sản xuất được. áp dụng thuế khoán hàng năm cho doanh nghiệp chưa đủ điều kiện lập xí nghiệp, công ty. Giảm thuế xuất khẩu đối với mặt hàng sử dụng ít vốn nhiều lao động. Bồi dưỡng nâng cao trình độ và sàng lọc đội ngũ cán bộ trong ngành thuế, chống các hiện tượng tiêu cực.
Chính sách xuất nhập khẩu: Để thúc đẩy sản xuất của các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, chính sách xuất khẩu cần được đổi mới một bước, thu hẹp hoặc xoá bỏ độc quyền trong xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp lớn. Chuyển cung cách quản lý với các biện pháp hành chính là chủ yếu sang sử dụng biện pháp kinh tế trong nhập khẩu. Cần khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ trực tiếp xuất nhập khẩu nếu họ đạt ba điều kiện mà nhà kinh doanh nước ngoài cần đó là uy tín của hàng hoá, uy tín của hàng công nghệ sản xuất và vốn liếng..uy tín của chủ hãng cần giảm mức quy định về doanh số để tăng khả năng xuất nhập khẩu trực tiếp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giảm dần xuất nhập khẩu uỷ thác. Các biện pháp quan trọng để khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ xuất khẩu là: sự tài trợ xuất khẩu của các ngân hàng ngoại thương, tài trợ thương maị thông qua các ngân hàng thương mại.
Chính sách lao động tiền lương: Về lao động nhà nước đã có nhiều biện pháp khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng lao động thông qua hỗ trợ vốn, đào tạo tay nghề, nhà nước cũng đã ban hành Pháp lệnh hợp đồng lao động, pháp lệnh bảo hộ lao động. Nhưng chưa có chính sách khuyến khích doanh nghiệp với số vốn nhất định sử dụng nhiều lao động, khuyến khích đào tạo tay nghề người lao động bằng các giải pháp kinh tế hữu hiệu. Vì vậy cần có giải pháp hỗ trợ thông qua thuế, tìa trợ đào tạo vay vốn.. Nhà nướctăng cường hệ thống đào tạo công ccộng và đào tạo tư nhân để cung cập lao động có tay nghề phù hợp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước cần tạo điều kiện để thị trường lao động phát triển, nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin về dịch vụ và lao động. Cần ban hành chế độ bảo hiểm thất nghiệp đối với các doanh nghiệp sử dụng lao động trên một năm trở lên.
Thành lập và giải thể doanh nghiệp: Về thành lập doanh nghiệp cần đơn giản hoá đến mức tối thiểu các thủ tục giấy tờ hành chính, thực hiện gõ một cửa trong một thời hạn nhất định là doanh nghiệp có thể được phép thành lập. Việc thành lập doanh nghiệp cần được tự do hơn, địa điểm không nhất thiết phải ở nơi chủ doanh nghiệp có hộ khẩu thường trú mà họ được phép ở đâu họ thấy có lợi.
Điều hoà quan hệ cung cầu và giá cả thị trường. Để đảm bảo môi trường thuận lợi cho các doanh nghịêp vừa và nhỏ phát triển, nhà nước phải vổn định kinh tế vi mô, thực hiện các chính sách itền tệ, tài chính, tín dụng lãi suất, bảo trợ sản xuất, khuyến khích đầu tư, chuyển nhượng đất đai, chống buôn lậu nhằm điều hoà mối quan hệ cung cầu và giá cả thị trường.
Về chính sách tiền tệ, lãi suất: Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ cực kỳ lợi hại trong việc thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô của nhà nước. Một trong những vấn đề doanh nghiệp vừa và nhỏ quan tâm là lãi suất nói chung. Tín dụng cho các doanh nghiệp không nhất thiết phải ưu đãi bằng tỷ lệ lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất chung, sự ưu đãi chính là ở chỗ Nhà nước quy định tỷ lệ tín dụng từ 25-30% của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Điều hoà cung cầu và giá cả thị trường bằng chính sách thuế. Chính sách thuế linh hoạt cho các ngành hàng sản xuất trong nước, thuế xuất nhập khẩu, thuế ưu đãi cho các doanh nghiệp lớn thực hiện các hợp đồng phụ với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kết hợp với chính sách giải pháp độc quyền, chống buôn lậu… nhằm đảm bảm thị trường tiêu thụ sản phẩm, điều hoà cung cầu và giá cả cho những sản phẩm quan trọng của doanh nghiệp trên một số ngành thiết yếu.
II. Một số kiến nghị nhằm đổi mới cơ chế quản lý
1. Chính sách hỗ trợ DNV&N
1.1. Hoàn thiện chính sách
1.1.1. Chính sách đầu tư
Chính sách đầu tư đổi mới theo hướng khuyến khích mọi nỗ lực đầu tư phát triển vì sự nghịêp dân giàu nước mạnh. Cần lấy lại thế cân bằng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, khuyến khích những công dân Việt Nam có vốn, có kiến thức đứng ra kinh doanh.
1.1.2. Chính sách vốn
Bao gồm việc tạo lập, huy động và sử dụng vốn. Các giải pháp tháo gỡ về vốn có vai trò lớn đối với các DNV&N. Cần thiết phải có giải pháp tác động tới tình hình vốn của DNV&N. Do yếu thế, các DNV&N rất khó tiếp cận với nguồn vốn. Vì vậy, ngoài các chính sách vốn chung cho các doanh nghiệp, cần thiết phải có những ưu đãi vốn đối với các DNV&N để hỗ trợ cho các doanh nghiệp này phát triển bình thường. Để hỗ trợ vốn có hiệu quả cho các DNV&N, cần thiết phải đổi mới chính sách vốn đối với các doanh nghiệp này theo hướng: Ưu đãi lãi suất và khuyến khích thành lập các trung tâm hỗ trợ vốn cho các DNV&N.
Ưu đãi lãi suất: như trên đã phân tích, lãi suất tiền vay là khá cao đôí với các doanh nghiệp và càng cao hơn đối với các DNV&N. Tuy nhiên do số lượng DNV&N trong nền kinh tế khá lớn, mà nguồn tài chính để hỗ trợ thì có hạn, nên không thể ưu đãi cho tất cả các doanh nghiệp này. Do vậy,
trong chính sách ưu đãi vốn ( khác với ưu đãi về thuế), cần chọn đúng đối tượng thì nguồn lực ít mới có thể hỗ trợ hiệu quả. Chỉ nên ưu đãi lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp gắn với các nhiệm vụ chiến lược và hỗ trợ cho các hoạt động như đầu tư vào công nghệ mới, sản xuất thử, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ mới, đào tạo nghề, các hoạt động tư vấn,… Tuy nhiên, để có thể hỗ trợ được nhiều doanh nghiệp trong điều kiện nguồn tài chính có hạn, cần có những giải pháp đặc biệt. Một trong những giải pháp đó là trợ cấp lãi suất cho đối tượng được hỗ trợ, tức là bù chênh lệch giữa lãi xuất thị trường và lãi suất ưu đãi cho các DNVVN vay.
Thành lập các quỹ hỗ trợ: Cần huy động các nguồn vốn để thành lập quỹ hỗ trợ DNVVN. Các nguồn đó có thể là: từ ngân sách Nhà nước trung ương và địa phương, từ các doanh nghiệp lớn, từ các tổ chức trong và ngoài nước. Quỹ này có thể do Nhà nước quản lý và cũng có thể thuê một trung tâm chuyên trách quản lý. Việc sử dụng quỹ này do Nhà nước quản lý với sự nhất trí của người tài trợ thông qua trung gian là người chuyên trách về vốn ( thường là ngân hàng). Quỹ này hỗ trợ cho các hoạt động như đào tạo chủ doanh nghiệp, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ các trung tâm tư vấn cho DNVVN, các hoạt động về cung cấp thông tin kinh tế, khoa học, công nghệ, ….cần thiết cho các DNVVN.
Thành lập trung tâm bảo lãnh: Đối với các DNVVN, một trong những khó khăn nhất là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó rất cần tổ chức trung gian làm cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn. Một trong các hình thức đó là quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ bảo lãnh tín dụng vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn, vừa là hình thức ràng buộc chặt chẽ giữa người vay (doanh nghiệp), người cho vay(ngân hàng), tổ chức trung gian (các công ty bảo lãnh) và Nhà nước, nhờ đó giảm bớt mức độ rủi ro khi vay vốn. Hiện nay, ở Hà Bắc đã thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng. Do nhiều điều kiện nên quỹ này hoạt động chưa rộng. Tuy vậy, đây là mô hình cần được nghiên cứu để nhân rộng ra nhiều tỉnh trongcả nước, đặc biệt là ở các tỉnh phía Nam – nơi có nền kinh tế thị trường phát triển, nhu cầu về vốn lớn, quan hệ và ứng xử quen với cơ chế thị trường: vay – trả.
1.1.3. . Chính sách đất đai
Đất đai là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp. Hiện nay, các DNVVN, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh phổ biến là nhỏ bé, phân tán, diện tích mặt bằng chật hẹp, phải tận dụng nhà ở để sản xuất. Nguyên nhân một phần do các DNVVN thiếu vốn, giá đất cao, phần khác do nhiều vướng mắc trong những quy định hiện hành như: quyền sở hữu và sử dụng đất không rõ ràng, dứt khoát,… Để góp phần tháo gỡ những khó khăn về đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN phát triển, cần thiết phải có những giải pháp tháo gỡ như:
Nghiên cứu sửa đổi những quy định hiện hành chưa phù hợp, đặc biệt là vấn đề thời hạn giao đất, việc chuyển quyền sử dụng đất.
Mở rộng quyền cho chính quyền địa phương trong việc cấp đất sử dụng vào mục đích sản xuất và cho thuê đất.
Cho thuê, đấu thầu những cơ sỏ sản xuất bị giải thể.
Tăng thời hạn sử dụng và miễn, giảm thuế đối với phần vốn bỏ vào việc mở mang đất đai, tận dụng đất thừa, ao hồ, đầm lầy,… Để đưa vào sản xuất.
Đơn giản hoá thủ tục thuê đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp, khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả kinh tế – xã hội cao hơn.
Tiến tới cho phép các DNVVN khu vực ngoài quốc doanh được hưởng quyền sử dụng đất như với các doanh nghiệp nhà nước: được Nhà nước giao quyền sử dụng đất; được thuê đất theo giá như doanh nghiệp nhà nước phải trả; được hưởng đầy đủ 5 quyền lợi với người có quyền sử dụng đất như Luật Đất đai (1993) đã quy định.
Hình thành các khu công nghiệp tập trung để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Khuyến khích các doanh nghiệp liên kết xây dựng hạ tầng để cho thuê mặt bằng, nhà xưởng với gia ưu đãi, đó là cách thức xây dựng “khu công nghịêp nội địa” mà thành phố Hà Nội đang làm.
1.1.4. Chính sách thuế
Cần đổi mới chính sách thuế theo hai nôị dung:
Hệ thống thuế chung đổi mới theo các hướng:
Đơn giản hoá hệ thống thuế suất, hạ mức thuế suất.
Tránh đánh thuế chồng chéo (sớm chuyển sang thuế GTGT).
Cải cách cơ chế định – thu (nộp) – kiểm tra thuế theo hướng có sự độc lập giữa các bộ phận này, có thể kiểm tra lẫn nhau
Thực hiện cơ chế tự khai báo mức thuế, Nhà nước kiểm định và doanh nghiệp tự nộp thuế,…
Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đồng thời ưu tiên các doanh nghiệp trong nước hơn các doanh nghiệp nước ngoài. Hiện nay đang có tình trạng trái ngược: các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều ưu thế hơn, mạnh hơn thì chỉ nộp thuế lợi tức 10 – 15%, trong đó, các doanh nghiệp trong nước phải nộp thuế lợi tức tới 35 – 50%.
Chính sách thuế đối với DNVVN: cần đổi mới theo hướng mở rộng đối tượng được ưu đãi thuế, tăng mức độ ưư đãi…
Mở rộng đối tượng được ưu đãi: Đến nay, trong các chính sách thuế của Nhà nước, loại đối tượng được ưu đãi về thuế không nhiều, chỉ có các doanh nghiệp mới thành lập sau năm 1993 (mà phần lớn đã quá hạn 2 năm được ưu đãi như luật định), các doanh nghiệp ở vùng núi, hải đảo, một số doanh nghiệp trong nghành chế biến nông sản. Như vậy, trong chính sách ưu đãi thuế chưa quan tâm đến sự yếu ớt của các DNVVN để hỗ trợ các doanh nghiệp này đứng vững và kinh doanh có hiệu qủa. Do đó, trong chính sách ưu đãi thuế cần mở rộng đối tượng hơn nữa, vì có như vậy mới nuôi dưỡng được nguồn thu, đồng thời, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích luỹ để phát triển sản xuất, mở rộng quy mô.
Tăng mức độ ưu đãi cho các DNVVN: thời gian qua, mức ưu đãi đã tăng lên nhưng vẫn còn dè dặt, chỉ miễn, giảm thuế cho các DNVVN 1- 2 năm, trong khi mức ưu đãi thuế ở nhiều nước là từ 4 – 5 năm. Hơn nữa, mức giảm thuế còn thấp, số đối tượng được miễn thuế còn ít. Do đó, để các doanh nghiệp có tích luỹ ban đầu cho phát triển sản xuất, đứng vững được thì cần thiết phải tăng mức ưu đãi thuế từ 3 – 5 năm. Miễn thuế cho các DNVVN đầu tư công nghệ hiện đại, công nghệ sạch. Miễn thuế cho các khâu như chi phí đào tạo nhân công và chủ doanh nghiệp, cũng như đầu tư vào sản xuất sản phẩm mới.
Có hình thức và mức độ ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, huy động nhiều vốn. Hiện nay đang có tình trạng, doanh nghiệp càng huy động nhiều lao động (chi phí biên tăng lên) thì mức thuế càng cao, Như vậy, sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quy mô. Các nước đang phát triển đều có chính sách để mở rộng quy mô doanh nghiệp, vì quy mô quá nhỏ sẽ không có hiệu quả.
1.2. Các giải pháp thực hiện chính sách hỗ trợ
1.2.1 .Đào tạo đội ngũ các nhà doanh nghiệp và công nhân
Các nhà doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Họ là những người trự tiếp sử dụng các nguồn lực để tạo ra của cải vật chất, trực tiếp quản lý người lao động. Do đó, nhiều nước rất chú trọng phát triển đội ngũ này. ở Việt Nam, đội ngũ các nhà kinh doanh hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập. Do đó, cần thiết phải đào tạo đội ngũ các nhà kinh doanh: cung cấp kiến thức về luật pháp, kinh tế, công nghệ, quản lý,… Các hình thức đào tạo có thể là:
Mở các lớp ngắn hạn đào tạo về kinh doanh, pháp luật,…
Thành lập các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng về quản lý doanh nghiệp.
Khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề cho các doanh nghiệp, như miễn, giảm thuế; cho vay ưu đãi, cấp vốn,…
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm hiểu thị trường ngoài nước.
đầu tư cho các trung tâm dạy nghề hiện có ở các địa phương, xây dựng các trung tâm mới đáp ứng với nhu cầu đào tạo nghề hiện nay.
Sử dụng quỹ đào tạo lại cho cả việc đào tạo nghề ở các doanh nghiệp.
Khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo, trích một phần thuế trong nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp giữ lại làm quỹ đào tạo; giảm phần chi phí đào tạo trong tổng thu nhập chịu thuế cho các doanh nghiệp.
1.2.2. Cung cấp thông tin
Các DNVVN đang rất thiếu thông tin về thị trường, công nghệ, luật pháp, kinh tế, khách hàng, đối tác kinh doanh…. Do đó, cần thiết phải hỗ trợ thông tin cho doanh nghịêp.
Các giải pháp hỗ trợ thông tin có thể là:
Thành lập các ngân hàng dữ liệu về các DNVVN, về thị trường, công nghệ, thể chế,… để cung cấp hoặc bán cho các doanh nghiệp với giá hợp lý.
Phổ biến những thông tin về pháp luật, chính sách,… thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Phổ biến kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh bằng nhiều hình thức.
Tạo điều kiện cho các DNVVN tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, ký kết hợp đồng kinh tế với các đối tác trong và ngoài nước.
Tổ chức các câu lạc bộ để các DNVVN có thể trao đổi học tập kinh nghiệm của nhau.
Khuyến khích các DNVVN đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu và sử dụng các phương tiện quản lý thông tin hiện đại như máy vi tính, mạng thông tin,… để các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với các cơ sở dữ kiện hiện đại trong và ngoài nước.
1.2.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng kinh tế là điều kiện cơ bản, là tiền đề rất quan trọng thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp. ở nhiều vùng trong cả nước, cơ sở hạ tầng như giao thông, điện, nước kém phát triển. Đó là trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất tốn kém, chậm thu hồi vốn và ít sinh lãi nên các doanh nghiệp không muốn đầu tư. Hơn nữa, các DNVVN không đủ sức đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Do đó, rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước. Theo kinh nghiệm của các nước thì đây là một trong những lĩnh vực hỗ trợ chủ yếu của Nhà nước. Tuy nhiên, do ngân sách Nhà nước trung ương và địa phương còn hạn chế nên cần:
Đầu tư theo trọng điểm, tập trung vào những công trình mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao.
Kết hợp giữa Nhà nước, địa phương và nhân dân cùng làm. ở một số mô hình có hiệu quả: kết hợp giữa vốn của Nhà nước, một phần vốn và quản lý của địa phương với một phần vốn và lao động của dân, của doanh nghiệp.
2. Kiến nghị về tài chính.
Trong giai đoạn hiện nay tình trạng phổ biến trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ là tình trạng thiếu vốn đặc biệt là nguồn vốn dài hạn và trung hạn do vậy cần có các biện pháp giải quyết khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách hữu hiệu. Một trong những giải pháp đó là nhà nước cho phép đa dạng hoá các nguồn vốn để doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội huy động nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần dành tích luỹ hàng năm từ 10-15% GDP để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và từ 1,5-2% GDP cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay, thông qua hệ thống tín dụng và tổ chức tài chính dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Huy động nguồn vốn của nhân dân. Một thực tế cho thấy nguồn vốn cồn tồn đọng ở trong dân rất nhiều chưa được huy động vào sản xuất kinh doanh vì tâm lý nhân dân lo ngại nền kinh tế chưa phát triển ổn định, lạm phát.. Nhà nước phải có nhiều biện pháp để ổn định tâm lý cho nhân dân.
Huy động nguồn vốn nhàn rỗi của các loại nhình doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp lớn thường có một lượng tiền lớn dự trữ, để huy động được nguồn vốn trên cần có cơ chế để hạn chế việc thnah toán bằng tiền mặt giữa các doanh nghiệp trong nước, cũng như mua bán với nước ngoài. Thực hiện thanh toán qua hệ thống ngân hàng qua đó huy động nguồn vốn nhàn rỗi ở các doanh nghiệp. Cần khuyến khích đầu tư trong nước để các doanh nhân mạnh dạn bỏ thêm vốn vào sản xuất kinh doanh.
Vay vốn nước ngoài thông qua liên doanh, liên kết đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam để tăng cường nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh. Mặt khác chính phủ phải tranh thủ nguồn vốn ODA, với hình thức vay lãi suất thấp, viện trợ không hoàn lại để nâng cấp cơ sở hạ tầng, để các doanh nghiệp có cơ hội hoà nhập vào thị trường chung của đất nước và quốc tế. Để làm được điều đó cần thực hiện các biện pháp sau:
Cho phép các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả phát hành cổ phiếu trong nội bộ doanh nghiệp nhằm thu hút vốn nhàn rỗi của người lao động vào sản xuất kinh doanh ở các vùng đô thị lớn, tiến tới thị trường chứng khoán hoàn chỉnh trên địa bàn cả nước: Lập quỹ quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguòn quỹ này được trích từ phần tích luỹ của chính phủ từ 1,5-2% GDP hàng năm. Quy định tỷ lệ tín dụng tối thiểu dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với các ngân hàng thương mại. Hình thành các tổ chức tài chính, ngân hành chuyên hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển thông qua các biện pháp cho vay vốn, thanh toán thương mại.
3. Kiến nghị về thuế.
áp dụng thuế gia trị gia tăng ở các doanh nghiệp đã đăng ký thành lập. Thuế doanh thu hiện nay vừa phức tạp lại vừa có nhiều thiếu sót nghiêm trọng như chi phí cao về quản lý và thực hiện, chi phí phân loại phân tầng, phạm vi thực hiện hạn chế do có những miễn giảm quan trọng và không khuyến khích xuất khẩu. Vì vậy trong tương lai gần cần từng bước thay thế loại thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng. Thuế doanh thu không hoàn toàn bỏ được thuế đánh vào chi phí xuất khẩu, điều này cản trở xuất khẩu. Không có được một hệ thống tỷ mỷ để truy nguyên đến các thành phần chi phí của thuế hoặc các phương pháp ước lượng thành phần thuế trong một mô hình cho trước. Những khó khăn do thuế doanh thu gây ra có thể giải quyết bằng thuế giá trị gia tăng chính là thuế đánh vào tiêu dùng nhưng không chỉ tính bán sản phẩm cuối cùng đến người tiêu dùng mà thu được ở tất cả các đoạn của quá trình sản xuất. Thuế VAT có thể loại trừ được thuế đánh vào chi phí xuất khẩu. VAT cũng khuyến khích các doanh nghiệp giữ gìn tốt các chứng từ, VAT đối với mức thuế duy nhất sẽ dễ dàng quản lý hơn nhiều so với thuế doanh thu phức tạp hiện nay.
Ưu việt của thuế VAT.
Thuế VAT có tính hiệu lực cao, tăng thu rất có hiệu quả và đảm bảo công bằng trên cả chiều dọc lẫn chiều ngang. Sự công bằng theo chiều dọc được thực hiện khi các doanh nghiệp có thu nhập cao hơn, có khả năng thanh toán cao hơn sẽ nộp thuế cao hơn một cách tương ứng. Sự công bằng theo chiều ngang được thể hiện khi các doanh nghiệp có thu nhập ngang nhau được đánh thuế như nhau. Thuế VAT còn khắc phục được tình trạng chồng thuế của thuế doanh thu. Đó là những ưu điểm của thuế giá trị gia tăng.
Đơn giản hoá các thủ tục hành chính về thuế. Trong thực tế, mức thuế hiện nay Nhà nước thu được từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ chiếm 3-5% doanh thu. Từ thực tế trên cho thấy, trong lúc chưa thực hiện VAT, nên áp dụng thống nhất mức thuế doanh thu đối với doanh nghiệp hộ gia đình là 3% doanh nghiệp tư nhân là 5%. áp dụng chế độ thuế khoán theo sự kê khai của chủ doanh nghiệp về mức doanh thu và mức chịu thuế đối với doanh nghiệp đang hoạt động theo nghị định 66/ HĐBT, kết hợp với kinh nghiệm quản lý của cơ quan thuế để xác định thuế. Doanh thu có thể tính theo từng tháng hoặc từng quý tuỳ theo tình hình sản xuất kinh doanh. Việc thu thuế đối với doanh nghiệp hoạt động theo các luật định có thể thực hiện trực tiếp bằng cách chủ doanh nghiệp nộp cho kho bạc địa phương, trên cơ sở có sự xác nhận của cơ quan thuế với mức thuế phải nộp để giảm bớt lực lượng cán bộ thuế. Đối với các doanh nghiệp hoạt động theo nghị định 66/HĐBT có thể nộp trực tiếp cho cơ quan thuế trên cơ sở có hoá đơn hợp lệ. Phải có chính sách miễn giảm thuế rõ ràng để giảm bớt phiền hà trong việc nộp thuế ở những ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
4. Kiến nghị về tổ chức.
Trước hết thiết lập cơ quan quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Việc quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay thuộc nhiều bộ, ngành chức năng khác nhau. Các văn bản pháp lý đều mang tính chất quản lý chung chưa có sự phân biệt các loại quy mô doanh nghiệp. Mỗi bộ, ngành đều có văn bản riêng, chưa có cơ quan đầu mối giúp chính phủ phối hợp với các bộ ngành để thực hiện chức năng quản lý của mình đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì thế cần thiết thành lập uỷ ban nhà nước về doanh nghiệp vừa và nhỏ để nhà nước nghiên cưú hoạch định chiến lược phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tham mưu cho chính phủ thiết lập hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ về tín dụng tư vấn dịch vụ cung cấp thông tin, thị trường, kỹ thuật- công nghệ và đào tạo. Tham gia vào chương trình xây dựng hệ thống luật pháp để thúc đẩy và hỗ trợ cho sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tham gia hoạch định chính sách có liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tiếp theo thiết lập hệ thống tổ các cơ quan hỗ trợ phát triển.
Xuất phát từ thực tế yếu kém, khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta trọng tâm là các vấn đề về vốn. Nhiều doanh nghiệp buộc phải duy trì quy mô vừa và nhỏ vì thiếu vốn mặc dù có cơ hội mở rộng, nhiều doanh nghiệp thua lỗ hay bị phá sản cũng chỉ vì thiếu vốn. Sự hạn về vốn và thông tin về kỹ thuật công nghệ dẫn đến sự hạn chế về kỹ thuật công nghệ. Nó kìm hãm tăng năng suất lao động và thu nhập cản trở sự cạnh tranh và sự tồn tại lâu dài của doanh nghiệp.
Ngoài những vấn đề trên còn phải kể đến tình trạng cơ sở hạ tầng yếu kém và thiếu nguyên liệu. Do đó việc thiêt lập hệ tống tổ chức các cơ quan hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Hệ thống các cơ quan hỗ trợ bao gồm: hệ thống tổ chức tài chính, tín dụng ngân hàng, hệ thống tổ chức đào tạo, hệ thống tổ chức tư vấn- dịch vụ cung cấp thông tin, hệ thống hỗ trợ đổi mới công nghệ, hệ thống tổ chức nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới.
Hệ thống tổ chức tài chính tín dụng, ngân hàng nhà nước lập quỹ tín dụng quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính công cộng để quản lý nguồn quỹ. Bên cạnh đó khuyến khích tư nhân hình thành công ty tài chính hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ với quy chế ưu đãi. Đi đôi với việc hình thành các tổ chức tài chính tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần thiết phải hình thành quỹ bảo hiểm tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ của nhà nước hoặc tư nhân để hạn chế rủi ro cho các tổ chức tài chính tín dụng. Vốn chủ yếu do nhà nước cấp từ quỹ tín dụng quốc gia, một phần do huy động trên thị trường, mặt khác hỗ trợ vốn để hình thành các tổ chức tín dụng tài chính tư nhân, khuyến khích các tổ chức, cá nhân lập các tổ chức tài chính, tín dụng, ngân hàng hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hệ thống tổ chức tài chính tín dụng ngân hàng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ kết hợp với chính sách tài chính, tín dụng phù hợp chắc chắn các doanh nghiệp vừavà nhỏ sẽ có cơ hội tạo vốn để phát triển.
Hệ thống tổ chức đào tạo.
Hệ thống này bao gồm các trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm cho người lao động, các trung tâm đào tạo bồi dưỡng chủ doanh nghiệp. Các trung tâm có thể tổ chức độc lập ở trung ương và ở các vùng, cũng có thể xen ghép vào các trường dạy nghề, đại học hoặc các trung tâm do tư nhân tổ chức…Nhà nước phải thống nhất quản lý về chất lượng đào tạo, để không ngừng nâng cao chất lượng lực lượng lao động. Nhà nước lập quỹ quốc gia về đào tạo và việc làm hỗ trợ các trung tâm do nhà nước tổ chức và hỗ trợ các trung tâm đào tạo tư nhân.
Hệ thống tổ chức tư vấn- dịch vụ- cung cấp thông tin. Đây là nhu cầu cấp thiết đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Họ cần có tư vấn về pháp lý, cung cấp thông tin kinh tế, thông tin về thị trường và dịch vụ. Hệ thống nàycó thể là các trung tâm, công ty do nhà nước hoặc tư nhân thành lập, có tư cách pháp nhân đầy đủ, để thực hiện các dịch vụ trọn gói thoả mãn nhu cầu của các chủ doanh nghiệp về việc thành lập doanh nghiệp, tư vấn pháp lý về việc ký kết hợp đồng, tuyển dụng lao động…Hệ thống tổ chức tư vấn- dịch vụ- cung cấp thông tin phát triển sẽ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có được thông tin cần thiết để xác định chiến lược kinh doanh đúng đắn hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất góp phần tạo nên phong cách làm ăn chân chính và nền kinh doanh văn minh.
III. So sánh với một số nước trên thế giới.
1. Đài Loan.
Từ tháng 5-1967. Cục doanh nghiệp vừa và nhỏ Bộ kinh tế đã đệ trình chính phủ chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó đưa ra khái niệm thế nào là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đến tháng 11-1991 Đài Loan đã 6 lần chỉnh lý khái niệm trên, tuỳ theo sự phê chuẩn của Quốc hội mà độ lớn về tiêu thức về lao động và vốn đầu tư có thể thay đổi cho phù hợp với từng thời kỳ, xu hướng chung là nâng cao độ lớn của các tiêu thức.
2. Hàn Quốc.
Là một nước công nghiệp trẻ đạt được nhiều thành công chính là nhờ sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hàn Quốc đã có những đạo luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó xác định rõ những tiêu chuẩn để được công nhận là doanh nghiệp vừa và nhỏ và được hưởng chế độ ưu đãi của đạo luật.
Kết luận và kiến nghị
Việc nghiên cứu các DNVVN, hình thành hệ thống chính sách phú hợp nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển là công việc phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và nỗ lực của nhiều nghành, nhiều cấp, nhiều tổ chức và nhiều người. Xuất phát từ vai trò quan trọng của DNVVN và đặc điểm của nước ta khi bước vào nền kinh tế thị trường với xuất phát điểm rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới đòi hỏi chúng ta phải có cơ chế quản lý mới phù hợp, tạo ra được hành lang pháp lý và môi trường kinh tế xã hội thuận lợi để DNVVN phát triển .
Trong điều kiện thời gian và các nguồn lực có hạn đề án đã cố gắng thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề ra và đạt được một số kết quả:
Dựa trên thực tiễn Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, đề án đã phân tích được đặc điểm ,tiềm năng ,lợi thế, vai trò và hạn chế của các DNVVN ở Việt Nam,kinh nghiệm của các nước trong vịêc hỗ trợ các DNVVN.
Dựa vào kết quả xã hội học đã xác định được những điểm tắc nghẹn trong cơ chế quản lý ,chính sách,nhất là chính sách đất đai, thuế,đào tạo huy động vốn,thị trường.
Hình thành một số giải pháp và quan điểm hỗ trợ,tăng cường vai trò của nhà nước trong việc hỗ trợ các DNVVN,đặc biệt là việc hình thành khuôn khổ pháp lý,đổi mới cơ chế quản lý,đổi mới hệ thống chính sách liên quan,hình thành các cơ quan nhà nước về quản lý nhà nước đối với các DNVVN, khuyến khích các tổ chức hỗ trợ và phát huy sức mạnh hỗ trợ cộng đồng.
Kết quả đạt mơi chỉ là bước đầu , để các DNVVN có thể đứng vững và tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả , có rất nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.Song điều quan trọng trước hết phải là:
Nhà nước cần có chiến lược phát triển DNVVN.
Sớm ban hành Luật DNVVN làm cơ sở pháp lý bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp này và giao trách nhiệm cho cơ quan liên quan, đồng thời thiết lập các giải pháp khung cho hoạt động hỗ trợ.
Tiếp tục giải quyết những khó khăn, vướng mắc đối với các DNVVN, nhất là chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách đào tạo nguồn nhân lực, chính sách huy động vốn, chính sách thị trường.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của Nhà nước trung ương và địa phương, các tổ chức, các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ, các doanh nghiệp lớn… trong việc hỗ trợ các DNVVN. Như vậy, sự hỗ trợ thực sự có hiệu quả khi có sự nỗ lực từ ba phía: Nhà nước, cộng đồng và bản thân các doanh nghiệp.
Có thể nói rằng, việc hỗ trợ các DNVVN phát triển sẽ góp phần quan trọng vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Các biện pháp đổi mới nếu được thực hiện tốt ở tất cả các ngành các cấp thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của DNVVN. Đó là tất yếu và là yêu cầu mà chúng ta phải thực hiện trên con đường đưa nước ta phát triển và quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới còn rất nhiều khó khăn. Đòi hỏi tất cả chúng ta phải có sự cố gắng nỗ lực phấn đấu. Với cương vị là một sinh viên đòi hỏi chúng ta không ngừng rèn luyện học hỏi kinh nghiệm để góp phần vào việc đổi mới, xây dựng đất nước. Là một nhà quản lý tương lai tôi tự nhận thấy trách nhiệm lớn lao của bản thân và không ngừng phấn đâú để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Bài viết trên của tôi không tránh khỏi thiếu sót, mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn !
Danh mục viết tắt
CNH - HĐH : Công nghiệp - hiện đại hoá
DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DN : Doanh nghiệp
LLSX : Lực lượng sản xuất
Mục lục
Trang
Danh mục tài liệu tham khảo
Nguyễn Cúc : “Vai trò và xu thế phát triển của các DNVVN ở Việt Nam “
Tạp chí Nghiên cứu lí luận Số 1 /1999 “Sớm hình thành quĩ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN “
Tạp chí Ngân hàng
Nguyễn Hải Đạt : ”Phát triển DNVVN ở Việt Nam “
Tạp chí kinh tế phát triển
Vũ Bá Định : “Chính sách hỗ trợ tài chính đối với DNVVN ở Việt Nam “
Tạp chí Châu á Thái Bình Dương Số 4 (33) T8-2001
“Một số hạn chế trong chính sách phát triển DNVVN ở Việt Nam “
Tạp chí Châu á Thái Bình Dương Số 1 (30) T2-2001
Hồ Sĩ Hùng : “Một số vấn đề chính sách hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam “
Tạp chí kinh tế và dự báo Số 4 /2000
Tương Lai : “Vai trò của DNVVN trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam “
Tạp chí xã hội học
Đức Minh : “ DNVVN ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp “
Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam Số 11/1999
Dương Bá Phượng :”Phát triển DNVVN trong quá trình CNH ở Việt Nam “
Tạp chí nghiên cứu kinh tế Số 248 T1-1999
Nguyễn Mỹ Trinh :”DNVVN ở nước ta – Tiềm năng và hạn chế “
Tạp chí kinh tế phát triển Số 144 /2000
Vũ Quốc Tuấn : “Về thể chế chính sách phát triển DNVVN “
Tạp chí nghiên cứu kinh tế Số 268 T9-2000
Vũ Huy Tư : “Công tác đào tạo xúc tiến kinh doanh đối với DNVVN “
Tạp chí kinh tế phát triển
Nguyễn Hải Hữu “đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường ở việt nam” - nhà xuất bản chính trị quốc gia- hà nội .
Nguyễn Cúc , Hồ Văn Vĩnh , Đặng Ngọc Lợi , Nguyễn Hữu Thắng “chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở việt nam ” - nhà xuất bản chính trị quốc gia- hà nội .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35628.doc