Giờ đây chúng ta đã có lý luận căn bản về chính sách tiền tệ, đó là cơ sở cho chúng ta hiểu, phân tích và đánh giá biện pháp mà Ngân hàng trung ương sử dụng trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ.
Với Việt Nam mục tiêu của chính sách tiền tệ là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát. Việc vân dụng chính sách này vào thực tế như thế nào để đạt được mục tiêu luôn là một vấn đề đặt ra cho các nhà hoạch định.
Chúng ta có thể sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt. ở đó chúng ta nên dùng nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết lượng tiền cung ứng hay là chính sách chiết khấu hay là dự trữ bắt buộc hay quản lý lãi suất Các bạn có thể đặt mình như những nhà hoạch định chính sách và lựa chọn một phương án khả thi với quan điểm của riêng các bạn, phù hợp với mục tiêu mà chính sách tiền tệ ưu tiên ( kìm chế lạm phát, việc làm, hay thúc đẩy tăng trưởng ), và những tồn tại ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách cần phải giải quyết thế nào. Có lẽ, việc thực thi chính sách tiền tệ để đạt được tất cả các mục tiêu cùng một lúc là điêu không thể. Vận dụng công cụ, mô hình , chính sách tiền tệ luôn có vị trí xung lực ấn nút với nền kinh tế quốc dân mỗi nước. Vì vậy, chúng ta phải nhanh chóng khắc phục những tồn tại và vận hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt để đạt được mục tiêu mà nó đề ra và mục tiêu chung của nền kinh tế.
34 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1634 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số vấn đề về chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à của cải giữa các tầng lớp giai cấp khác nhau. Khi giá cả tăng lên một cách bất thường thì người mất là những người đang nắm các tài sản danh nghĩa còn người được là những người có các khoản nợ tính theo các giá trị danh nghĩa. Khi lạm phát tăng lên ở mức độ cao thu nhập thực tế của dân cư sẽ giảm, đời sống của nhân dân lao động sa sút , lạm phát cao còn gây ra hiện tượng đầu tư tích trữ hàng hoá và hiện tượng chuyển tiền sang các loại hàng hoá khác, làm cho cầu về hàng hoá tăng (gồm cả cầu giả tạo) dẫn tới mất cân đối cung cầu và giá cả hàng hoá tăng lên làm tốc độ lạm phát càng cao và dễ bị rơi vào vòng xoáy lạm phát nếu tình trạng này diễn ra trong một thời gian dài. Lạm phát cao còn làm sai lệch các biến số kinh tế vĩ mô, gây khó khăn cho việc lập kế hoạch cho tương lai và con có thể gây xung đột trong xã hội.
Còn khi lạm phát ở mức độ vừa phải (lạm phát dự tính), thường là dưới 10% thì nó không có tác động tiêu cực mà theo nhiều nhà kinh tế nó còn là một liều thuốc bổ tăng trưởng kinh tế. Vì khi đó một khối lượng tiền cho lưu thông tăng lên, kích thích đầu tư, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo đà cho tăng trưởng kinh tế.
Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát lạm phát bằng cách mở rộng cung ứng tiền tệ, đồng nghĩa với lạm phát tăng và ngược lại, thắt chặt cung ứng tiền tệ đồng nghĩa với lạm phát giảm. Kiểm soát lạm phát được biểu hiện trước hết là ổn định giá trị đối nội của đồng tiền. Mặt khác, là sự biểu hiện đối ngoại của đồng tiền, được đo bằng tỷ giá hối đoái thả nổi, bởi khi giá trị đồng bản tệ tăng so với ngoại tệ sẽ hạn chế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, hạn chế xuất khẩu.
Lạm phát và lãi suất có mối quan hệ đặc biệt, khi lạm phát đâ được kiểm soát như mong muốn thì lãi suất cũng phải phù hợp và ổn định. Bởi khi lãi suất thường xuyên thay đổi làm cho nền kinh tế bấp bênh và càng khó lập kế hoạch cho tương lai.
3.2. Tạo việc làm, giảm bớt thất nghiệp
Những người trong lực lượng lao động khi không có việc làm sẽ trở thành người thất nghiệp. Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường cho dù quốc gia đó là phát triển, đang phát triển hây kém phát triển.
Khi thất nghiệp xảy ra, các gia đình lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, lòng tự trọng mất đi sinh ra nhiều tội ác. Người lao động ngồi không, nguồn tài nguyên để không,…, làm cho tổng sản phẩm quốc dân (GDP) giảm xuống.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ là tạo việc làm, giảm bớt thất nghiệp chứ không phải là làm cho thất nghiệp bằng không mà ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, khi nền kinh tế toàn dụng nhân công. Bởi lẽ, trong thực tế có một số người thất nghiệp là có lợi cho nền kinh tế. Đó là khi người lao động quyết định đi tìm một công việc khác tốt hơn, phù hợp hơn, thì người lao động đó bị thất nghiệp trong thời gian đang tìm việc làm. Một số khác thì đi học hoặc là tìm một công việc khác thích hợp hơn.
Ngân hàng trung ương có thể sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng, tức cung ứng tiền tệ tăng. Khi đó đầu tư được mở rộng, nền kinh tế cần nhiều lao động hơn, việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại, cung ứng tiền tệ giảm xuống sẽ thu hẹp các hoạt động sản xuất kinh doanh, nền kinh tế cần ít lao động hơn, việc làm giảm và thất nghiệp tăng.
3.3. ổn định và tăng trưởng kinh tế
Mục đích cao nhất của chính sách tiền tệ là làm thế nào để phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng của nền kinh tế.
Mục tiêu ổn định tăng trưởng kinh tế có quan hệ chặt chẽ với mục tiêu việc làm cao. Chính sách tiền tệ có thể tác động đồng thời đến hai mục tiêu này. Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung ứng tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất tăng sẽ hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh và cần ít lao động hơn, lam cho sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại.
3.4. Quan hệ giữa các mục tiêu
Nhìn một cách tổng quát và có chiến lược lâu dài thì các mục tiêu chính sách tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Điều đó cho thấy rằng, trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ không thể tuyệt đối hoá một mục tiêu nào, không thể giải quyết các mục tiêu một cách độc lập trên tầm vĩ mô.
Mặc dù nhiều mục tiêu nêu ra nhất trí với nhau - việc làm cao với tăng trưởng kinh tế hoặc ổn định lãi suất với ổn định thị trường tài chính - nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. Trong ngắn hạn, các mục tiêu tăng trưởng, thất nghiệp và lạm phát có mối quan hệ chế ước lẫn nhau. Khi kìm chế được lạm phát thì tăng trưởng chậm lại dẫn đến suy thoái, thất nghiệp cao. Và khi mở rộng đầu tư khắc phục suy thoái, phát triển kinh tế thì sẽ tạo được nhiều công ăn việc làm hơn, thất nghiệp giảm nhưng lại rất khó kìm chế lạm phát.
4. Quan hệ giữa chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Để đạt được các mục tiêu và vận hành một cách hiệu quả chính sách tiền tệ, nó cần được có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Trước hết, phải phối hợp với chính sách tài khoá trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Bởi lẽ, mục tiêu của chính sách tài khoá là nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của chính phủ, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và sử dụng nhân lực ở mức tiềm năng. Song điều đó còn phụ thuộc vào tình hình thu chi của ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước vững vàng là cơ sở quan trọng bậc nhất cho giá trị đồng bản tệ được ổn định. Ngược lại, sự thiếu hụt ngân sách nhà nước làm cho giá trị đồng bản tệ không được ổn định, dù có khắc phục bằng hình thức nào, vay ngân hàng, vay các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế.
Thông thường chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ đều phát huy tác dụng thông qua ảnh hưởng của nó đối với tổng cầu. Trong khi đó, theo cơ chế thị trường thì tiền lương và giá cả lại được quyết định bởi các yếu tố của thị trường. Trong thực tế, chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ có thể làm tăng nhu cầu, giảm thất nghiệp, nhưng sẽ gia tăng lạm phát. Giải quyết mâu thuẫn này, cần có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách phân phối thu nhập trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Trong trường hợp này, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước phải thể hiện sự kiểm soát chặt chẽ về tiền lương, tiền thưởng và giá cả.
Cũng cần phải kết hợp chính sách tiền tệ và chính sách kinh tế đối ngoại. Đặc biệt, với các nước có tình trạng bội chi ngân sách, kém phát triển, tăng trưởng kinh tế chưa cao…Qua đó, thể hiện một chính sách kinh tế mở, hướng xuất khẩu, tận dụng khoa học và nguồn vốn từ các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế.
5. Các công cụ của chính sách tiền tệ.
5.1. Nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua và bán các chứng khoán có giá, mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc nhà nước (do tín phiếu kho bạc nhà nước có dung lượng lớn, tính lỏng cao, rủi ro thấ), nhằm làm thay đổi lượng tiền cung ứng.
Khi Ngân hàng trung ương mua bán chứng khoán trên thị trường sẽ làm thay đổi cơ số tiền tệ (tiền đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng và tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng). Do các ngân hàng thương mại có thể tạo ra tiền (tuỳ vào tỷ lệ dự trữ), vì vậy lượng tiền cung ứng có thể tăng hoặc giảm ngoài lượng tiền mà Ngân hàng trung ương cung ứng.
Khi Ngân hàng trung ương mua chứng khoán, làm tăng cơ số tiền tệ, qua đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Khi Ngân hàng trung ương bán chứng khoán, thu hẹp cơ số tiền tệ, qua đó giảm lượng tiền cung ứng.
Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ thị trường mở chủ động nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ sồ tiền tệ và nghiệp vụ thị trường mở thụ động nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố khác đã ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ quan trọng nhất của Ngân hàng trung ương trong viêc điều tiết lượng tiền cung ứng, bởi những ưu thế vốn có của nó:
* Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát được hoàn toàn lượng nghiệp vụ thị trường tự do.
* Nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào, điều chỉnh một lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ.
* Ngân hàng trung ương dễ dàng được đảo ngược lại tình thế của mình. Nếu Ngân hàng trung ương thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do mua quá nhiều trên thị trường mở, thì lập tức nó có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán và ngược lại.
* Thực hiện nhanh chóng, ít tốn kém về chi phí và thời gian …
Tuy nhiên, nghiệp vụ này phụ thuộc rât lớn vào thị trường chứng khoán và chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu thông đều nằm ở tài khoản tại ngân hàng.
5.2. Chính sách chiết khấu.
Chính sách chiết khấu là công cụ của Ngân hàng trung ương trong việc thực thi chính sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi cho vay làm tăng thêm lượng tiền cung ứng.
Ngân hàng trung ương kiểm soat công cụ này chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết khấu).
Khi nâng lãi suất tái chiết khấu, giá của khoản vay tăng, hạn chế cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng cho vay đối với nền kinh tế của các ngân hàng kinh doanh giảm xuống, làm lượng tiền cung ứng giảm và ngược lại.
Chính sách chiết khấu là một công cụ rất quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Ngoài điều tiết lượng tiền cung ứng, Ngân hàng trung ương sử dụng công cụ chính sách chiêt khấu để tránh những cơn sụp đổ tài chính bằng cách thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng và tác động đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế.
Tuy nhiên, với công cụ này. Ngân hàng trung ương thường bị động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Bởi vì:
* Các ngân hàng thương mại phải chịu lợi tức chiết khấu và các khoản phí khi được vay.
* Ngân hàng trung ương chỉ có thể thay đổi khung lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt các ngân hàng kinh doanh vay chiết khấu.
5.3. Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dung phải giữ lại, mà không được dùng để cho vay hoặc đầu tư, mức dự trữ này do Ngân hàng trung ương quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng. Dự trữ bắt buộc mang tính pháp luật, được gửi ở Ngân hàng trung ương và không được hưởng lãi.
Ngân hàng trung ương sử dụng dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền cung ứng trên hai phương diện:
Thứ nhât: Tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các ngân hàng thương mại. Trong trường hợp ngân hàng thương mại quá ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức, có thể phương hại tới quyền lợi của người ký gửi tiền. ở đây, Ngân hàng trung ương đảm bảo an toàn tiền gưỉ cho khách hàng. Theo thuyết tạo tiền, hệ thống ngân hàng thương mại có thể tạo ra một lượng tiền lớn gấp nhiều lần, với công thức tổng quát:
Tiền gửi mới được tạo ra = (1/ tỷ lệ dự trữ bắt buộc) * Tiền dự trữ ban đầu.
Thứ hai: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại. Tiền dự trữ không được hưởng lãi nên khi mức dự trứ tăng lên, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại giảm xuống, và theo đó lượng tiền cung ứng giảm xuống. Ngược lại, khi mức dự trữ giảm xuống, lãi suất cho vay giảm, khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại tăng và làm cho lượng tiền cung ứng tăng.
Hiện nay, công cụ dữ trữ bắt buộc đóng vai trò kém quan trọng trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương, bởi nó ảnh hưởng tới lợi nhuận của các ngân hàng thương mại và kém linh hoạt tuy nó tác động như nhau tới các ngân hàng thương mại.
5.4. Quản lý lãi suất của các ngân hàng thương mại.
Lãi suất được xem là công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc cung ứng tiền vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông. Sở dĩ, nói lãi suất là công cụ gián tiếp, bởi lẽ, lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông.
Thông thường, chính sách lãi suất đi vay hay lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay biến đổi cùng chiều. Nghĩa là, cả hai mức lãi suất đó đều tăng lên hay giảm xuống đồng thời. Tuy nhiên, nó vận động ngược chiều với giá cả của chứng khoán.
Hiện nay, trên thế giới có hai quan điểm về cơ chế hình thành lãi suất.
* Quan điểm thứ nhất: ấn định lãi suất, tức là ngân hàng trung ương phải qui định lãi suất đối với các ngân hàng trung gian.
* Quan điểm thứ hai: Thả nổi lãi suất, tức là lãi suất do thị trường quyết định.
Vận dụng quan điểm nào còn tuỳ thuộc vào tựng nước. Theo chính phủ ở nhiều nước đang phát triển ngày càng thừa nhận lãi suất chịu sự quản lý của nhà nước có thể có hại, họ có khuynh hướng để cho thị trường có tiếng nói lớn hơn đảm bảo cho môi trường cành tranh lành mạnh. Song, trong điều kiện sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa được thiết lập, nhà nước có thể tiếp tục quản lý lãi suất.
Tóm lại, công cụ lãi suất trong chính sách tiền tệ là công cụ cực kỳ lợi hại, có sức phản công rất ghê gớm, một nhà kinh tế người Mỹ đã nói, nó là một công cụ để kích thích sản xuất đồng thời là một công cụ để kìm hãm sản xuất, tuỳ thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại của những người sử dụng công cụ này.
5.5. Kiểm soát hạn mức tín dụng.
Hạn mức tín dụng là việc ngân hàng trung ương quy định một khối lượng tín dụng nhất định cho các ngân hàng thương mại, cho từng thời kỳ phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ. Nó được xác định trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát, thâm hụt ngân sách, tốc độ lưu thông tiền tệ …
Để hạn chế việc tạo tiền quá mức của ngân hàng thương mại làm tăng tổng khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, Ngân hàng trung ương quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng ngân hàng thương mại. Và phần lớn, hạn mức được căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống ngân hàng.
Hạn mức tín dụng được Ngân hàng trung ương sử dụng như một côg cụ quan trọng của chính sách tiền tệ, khi mà công cụ truyền thống kém hiệu quả. Tuy nhiên, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất thị trường tăng lên, làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, làm lệch lạc cơ cấu đầu tư của các ngân hàng thương mại, làm phát sinh các thị trường tài chính “ngầm” ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng trung ương, gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp nhỏ …
Chương II
Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay
1. Tình hình kinh tế tiền tệ việt nam hiện nay
Tuỳ vào từng thời điểm khác nhau, mỗi nước có mục tiêu riêng về chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam đã được xác định là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát và chúng ta đã thu được một số thành tựu trong những năm qua.
* Tình hình tỷ giá.
Tháng 9/1994, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thiết lập, NHNN thực hiện vai trò người mua bán cuối cùng trong ngày. Tỷ giá chính thức vẫn được ngân hàng công bố, chỉ có biên độ dao động là có sự thay đổi. Đồng USD là đồng ngoại giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, và có xu hướng tăng giá so với VNĐ.
* Tình hình lạm phát.
Những năm gần đây, theo ước tính lạm phát ở Việt Nam là hai con số, trung bình khoảng 6%. Theo như lời của Ngân hàng nhà nước thì chúng ta vẫn khống chế được tỷ lệ lạm phát như mong muốn. Sự ra đời với mệnh giá lớn của đồng tiền việt nam không phải là dấu hiệu của lạm phát, chúng ta vẫn chưa nên thay đổi chính sách tiền tệ trong trường hợp này.
* Tình hình thất nghiệp.
Tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã lên mức báo động. Theo tính toán không chính thức của NH thế giới, thì giai đoạn hiện nay tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam xấp xỉ 7%, lao động qua dạy nghề chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số lao động.
* Tăng trưởng kinh tế.
Trong công cuộc đổi mới kinh tế những năm vừa qua, chúng ta đã thu được kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong dân chúng cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nền kinh tế đã đạt được kết quả tương đối cao và bắt đầu có tích luỹ, đầu tư được mở rộng sản xuất lưu thông phát triển. Chúng ta đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng trên 7%/năm trong những năm qua. Tuy nhiên kinh tế nước ta có chiều hướng chững lại, do cơ chế của chúng ta không tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài …
2. Thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ ngày 5/7/1999 đối với tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng của các NHTM và các công ty tài chính là 5% của NHTM cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng TW và quỹ tín dụng khu vực là 1%, riêng ngân hàng NHNN & PTNT do phải tập trung vốn thực hiện một số chính sách phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn, nên từ trung tuần tháng 9/1999 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được giảm từ 5% xuống3%.
Hành động này giúp cho các tổ chức tín dụng mở rộng qui mô tín dụng của mình tăng khả năng cung ứng vốn cho nên kinh tế và các tổ chức tín dụng có điều kiện để giảm thêm lãi suất cho vay.
2.2. Chiết khấu, tái chiết khấu.
Do chưa có thị trường tiền tệ (kể cả thị trường thương phiếu) nên lãi suất tái cấp vốn được sử dụng trong quản lý tiền tệ thay cho lãi suất tái chiết khấu. Trong quá trình đổi mới, một mặt NHNN luôn nỗ lực phát triển khu vực thị trường tiền tệ, mặt khác cũng chú trọng hoàn thiện việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn điểm nổi bật trong việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn thời gian qua là chuyển lãi suất tái cấp vốn thế từ bị động sang thế chủ động.
NNNH đã liên tục giảm lãi suất cho vay trên thị trường tái cấp vốn đối với NHTM từ 1.1%/tháng thời điểm ngày 21/1/1998 và đến 11/1999) chỉ còn 0.5%/tháng đồng thời NHNN công bố lãi suất chiết khấu là 0.45%/tháng.
2.3. Nghiệp vụ thị trường mở.
ở Việt Nam hiện nay nghiệp vụ thị trường mở chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền. Nguyên nhân cơ bản nhất là chúng ta mới chỉ có thị trường sơ cấp còn thị trường thứ cấp mới được hình thành và manh nha hoạt động. Hàng hoá trên thị trường chủ yếu là tín phiếu kho bạc, nhưng khối lượng được phát hành còn ít lại chưa thường xuyên. Trong năm 1999 tính đến giữa tháng 11, kho bạc nhà nước phối hợp với NHNN tổ chức được 40 phiếu đấu thầu tín phiếu kho bạc kỳ hạn một năm. Tổng giá trị đấu thầu trong 40 phiếu này là 4000 tỷ đồng (100tỷ/phiếu) tổng khối lượng tín phiếu đã đấu thầu là 2.863,6 tỷ đồng, bằng 78.59% tổng khối lượng tín phiếu đấu thầu.
Đây là một công cụ hết sức linh hoạt, chính xác, chủ động và dễ dàng mua bán. nhằm tiến hành chuyển hướng điều hành tiền tệ từ các công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp năm 1999, NHNN đã gấp rút các điều kiện chuẩn bị về pháp lý cũng như công cụ cho hoạt động thị trường mở, dự kiến sẽ hoạt động vào quý I năm 2000.
2.4. Quản lý lãi suất của ngân hàng thương mại.
Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8, tháng 8/1995 cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động kinh doanh và khống chế mức lãi suất huy động và cho vay bình quân là 0.35%/tháng.
Việc quy định trần lãi suất và quy định sàn lãi suất. Vì thế từ 1/1/96, NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch 0.35% thay cho việc điều hành lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định trước đó.
Từ 21/1/1998 đến nay, tại kỳ họp thứ 2 tháng 12/1997, quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch 0.35%/tháng đồng thời để thu hẹp mức cách biệt giữa mức lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn, NHNN quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn ba trần lãi suất
Trẫn lãi suất cho vay ngắn hạn : 1.2%/tháng
Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn: 1.25%/tháng
Trần lãi suất quỹ tín dụng cho vay thành viên 1.5%/tháng.
Trong năm 1999, trước tình hình thiểu phát, tốc độ tăng trưởng có xu hướng chậm lại, NHNN đã điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất trần và được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở bám sát các diễn biến kinh tế vĩ mô cung cầu vốn trên thị trường tiềng tệ và xu hướng nới lỏng tiền tệ, kích cầu. Từ đầu năm đến nay NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay. Cho đến tháng 10/1999 trần lãi suất cho vay áp dụng cho khu vực thành thị là 0.85%/tháng. Khu vực nông thôn là 1%/tháng riêng NHTN cổ phần nông thôn vẫn là 1.15%/tháng, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và hợp tác xã tín dụng cho vay đối với thành viên vẫn là 1.15%/tháng.
2.5. Quản lý ngoại hối.
Thực hiện chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ, năm 1999 NHNN đã tăng cường theo dõi , giam sát các tổ chức tín dụng thực hiện các quy định của thủ tướng chính phủ về kết hối ngoại tệ, thường xuyên có đánh giá tình hình thực hiện và kịp thời trình chính phủ sửa đổi cơ chế cho phù hợp với thức tế (giảm tỷ lệ kết hối bắt buộc đối với các tổ chức kinh tế có nguồn thu ngoại tệ vãng lãi từ 80% xuống còn 50% số ngoại tệ thu được); xây dựng và trình thủ tướng chính phủ ban hành quy định về việc quy định người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước nhằm thu hút nguồn ngoại tệ phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của đất nước.
Cung với việc đổi mới trong quản lý các giao dịch vãng lai, NHNN đã tăng cường các biện pháp trong quản lý vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp, quản lý đầu tư nước ngoài, quản lý hoạt động kinh doanh vàng.
3. Đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
3.1. Những mặt tích cực.
Việc cho ra đời và vận hành một chính sách tiền tệ theo các nguyên tắc cơ bản của hoạt động tiền tệ trong nền kinh tế thị trường là một bước ngoặt trong lịch sử điều hành và thể hiện tập nhất của quá trình đổi mới hệ thống tiền tệ NH thời gian qua.
Thứ nhất: Về hoạt động cung ứng tiền.
Thời điểm thay đổi có tính chất quyết định đối với cơ chế cung ứng tiền là năm 1990, khi cơ chế xác định lượng tiền cung ứng một cách hành chính bị xoá bỏ, thay và đó là lượng tiền cung ứng hàng năm được xác định trên các căn cứ tương đối hợp lý đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát dự tính. Xác định các căn cứ cung ứng tiền trên đây cũng đồng nghĩa với việc xoá bỏ một kênh cung cấp tiền truyền thống in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách (năm 1991). Cơ chế điều hành việc cung ứng tiền cũng đã có những thay đổi rõ rệt. Với chức năng điều tiết lưu thông tiền tệ kể từ năm 1993, NHNN đã được trao quyền chủ động hơn và rút tiền khỏi lưu thông trên cơ sở chỉ tiêu năm đã được duyệt, loại bỏ vĩnh viễn tình trạng thiếu tiền mặt có tính thời điểm trong nền kinh tế.
Thứ hai: Về chính sách lãi suất.
Lãi suất đối với nền kinh tế: Nội dung việc điều tiết lãi suất đã kết hợp được cả hai yêu cầu, đó là quán triệt nguyên tắc lãi suất dương và từng bước thị trừơng hóa việc điều tiết lãi suất tạo môi trường tự chủ cho các tổ chức tận dụng cũng như khu vực khách hàng. Từ chỗ ấn định cụ thể mức lãi suất đối với các hoạt động huy động và cho vay của hệ thống NH, đến nay NHNN chỉ quản lý trần lãi suất thả nổi hoàn toàn lãi suất đầu vào cũng trong thời gian đó, mức lãi suất liên tục điều chỉnh giảm 4-5 lần/năm vào các năm 96-99.
Lãi suất tái cấp vốn: do chưa có thị trương tiền tệ (kể cả thị trường thương phiếu) nên lãi suất tái cấp vẫn được sử dụng trong quản lý tiền tệ thay cho lãi suất chiết khấu. Trong quá trình đổi mới một mặt NHNN luôn nỗ lực phát triển thị trường tiền tệ, mặt khác cũng chú trọng việc điều tiết lãi suất tái cấp vốn. Điểm nổi bật trong điều tiết lãi suất tái cấp vốn thời gian qua là chuyển lãi suất tái cấp vốn từ thể bị động sang thể chủ động, kể từ khoảng tháng 3/97, lãi suất tái cấp vốn đã được xác định một cách độc lập.
Tương quan lãi suất nội ngoại tệ cũng được điều tiết tương đối thích hợp. Từ năm 1997-1999 do VND được điều tiết giảm theo những tín hiệu trên thị trường nên lãi suất VND được điều tiết cao hơn lãi suất ngoại tệ. Chính vì vậy, ngay cả khi khủng hoảng tài chính châu á xảy ra, các đông tiền trong khu vực mất giá mạnh nhưng giá trị đồng Việt Nam vẫn được duy trì tương đối ổn định việc chuyển dịch tiền tệ (đô la hoá) không xảy ra ồ ạt.
Thứ ba: Về tài chính chính sách quản lý ngoại hối.
Quan điểm chủ đạo trong chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới là: Từng bước đảm bảo nhà nước nắm được ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu và ổn định giá tri đồng nội tệ. Định hướng lâu dài của chính sách ngoại hối là tăng cường dự trữ ngoại hối củng cố nâng cao gia trị VND và đưa VND thành đông tiền tự do chuyển đổi, các giao dịch ngoại hối mang tính thị trường như giao dịch kỳ hạn , giao dịch hoán đổi ... đã được chú ý phát triển. đây có thể coi là những bước đột phá trên thị trường ngoại hối và có tác dụng hỗ trợ tích cực cho việc thực thi các quy chế ngoại hối, phần nào giảm bớt những khó khăn cho nền kinh tế đang trong qua trình tự do hoá thương mại.
Thứ 4: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
NHNN đã liên tục giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng đây là một giải pháp kịp thời, linh hoạt và đồng bộ của NHNN, góp phần làm dịu đi những khó khăn của các tổ chức tín dụng do lãi suất giảm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay tăng khả năng cung ứng vốn đối với nền kinh tê và góp phần thúc đẩy phát triển tăng trưởng kinh tế.
3.2. Những kết quả đạt được.
Việc thực hiện chính sách tiền tệ kích hoạt có kiểm soát, lượng tiền đưa vào lưu thông liên tục tăng, khoảng trên 20%, phương tiện thanh toán được đảm bảo trong nền kinh tế. Nó đã góp phần quan trọng thúc đầy nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, bình quân khoảng hơn 7% trong những năm gần đây.
Giữ được ổn định vĩ mô, ổn định tỷ giá điều chỉnh lãi suất phù hợp để đáp ứng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ngoại tệ phù hợp tăng ngoại tệ cho đất nước thị trường ngoại tệ sôi động doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ tăng.
Huy động được quyền vốn đầu tư bù đắp sự giảm sút vốn đầu tư nước ngoài, ngoài dư nợ cho vay thông thường còn đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của nhà nước, đáp ứng đủ ngoại tệ để đầu tư những dự án trọng điểm với lãi suất thấp hơn lãi suất quốc tế.
Cái được lớn nhất trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thời gian qua là tốc độ gia tăng nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng góp phần quan trọng vào việc ổn định lưu thông tiền tệ, đáp ứng nhu cầu to lớn về vốn cho phát triển kinh tế trong bối cảnh cơ sở vật chất tự có còn rất hạn chế (theo ước tính vốn tự có của khu vực sản xuất chiếm khoảng 10-20% tổng vốn sản xuất).
3.3. Mặt hạn chế còn tồn tại.
Tỷ lệ lạm phát biến động không đông đều, lạm phát ở nước ta thấp ở mức kỷ lục và có thể rơi vào vòng xoáy lạm phát từ tháng 3 đến tháng 10 năm 99 chúng ta có lạm phát âm gây ra những tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Tỷ lệ thất nghiệp trong giai đoạn hiện nay đã lên đến mức báo động đạt xấp xỉ 7% gây lãng phí về nguồn lực gây ra các tệ nạn xã hội
Đầu tư của nền kinh tế đang chậm lại hoặc đang thiếu vốn, đặc biệt là vốn cho sản xuất của các doanh nghiệp.
Tỷ lệ nợ của các ngân hàng thương mại còn qua cao tới mức báo động quan hệ giữa lãi suất huy động cho vay ngoại tệ và VNĐ còn chưa hợp lý gây ra tình trạng cốn huy động bằng ngoại tệ tăng nhưng dư nợ cho vay ngoại tệ lại giảm.
3.4. Nguyên nhân.
3.4.1. Nguyên nhân khách quan.
Ngày 2/7/1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á xảy ra bắt đầu từ thái lan, cuộc khủng hoảng lạm phát ảnh hưởng đến nhiều nước, trong đó có nước ta.
Hạn hán, thiên tai, dịch bệnh … thường xuyên xảy ra gây ảnh hưởng nặng nề lên nền kinh tế và xã hội.
Một số vụ án về ngân hàng như Minh Phụng, Tân Trường Xanh … đã làm phương hại đến ngành ngân hàng cả về tài sản lẫn uy tín.
3.4.2. Nguyên nhân chủ quan.
Đó là hạn chế cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành hành chính về chính sách tiền tệ ở việt nam.
Các công cụ trực tiếp có thể hiểu là các công cụ tác động trực tiếp vào các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ, còn công cụ gián tiếp tác động vào mục tiêu thông qua điều tiết dữ trữ vượt mức (vốn khả dụng) của hệ thống NHTM, với cách hiểu như vậy, hiện nay NHNN Việt nam đang sử dụng một hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp bao gồm hạn mức tín dụng, lãi suất (thông qua hệ thống trần lãi suất cho vay), tỷ giá, bên cạnh đó các công cụ gián tiếp như dự trữ bắt buộc và chính sách tái cấp vốn (bao gồm hạn mức tái cấp vốn và lãi suất tái cấp vốn) cũng được sử dụng, nhưng hiệu quả tác động rất hạn chế để bổ trợ cho các công cụ trên , NHNN còn sử dụng một loạt các chính sách khác như chính sách tín dụng, chính sách tỷ giá ngoại hối. Những hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ ngày càng bộc lộ rõ nét.
Hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạn chế vì không lợi dụng được các kênh dẫn suất đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và qua thị trường tài chính với những ảnh hưởng qua giá trái phiếu, cổ phiếu và giá ngoại tệ.
Việc sử dụng các công cụ trực tiếp và các chính sách điều chỉnh như hiện nay chỉ cho phép chính sách tiền tệ tác động đến các biến số vĩ mô thông qua kênh truyền dẫn trực tiếp.
Kênh truyền dẫn trực tiếp chủ yếu lợi dụng cơ chế tác động của thị trường tài chính thông qua sự thay đổi giá tài sản và sự cơ cấu lại danh mục đầu tư của người đầu tư . Với các công cụ, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương có thể đa phương truyền tác động của nó đến các mục tiêu của chính sách tiền tệ bao gồm các kênh dẫn truyền trực tiếp và gián tiếp.
Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ hiện có chưa phát huy tốt tác dụng trong cơ chế thị trường , thậm chí có công cụ vẫn còn ở dạng sơ khai và rất thiếu công cụ cần thiết để đáp ứng đòi hỏi mới của tình hình.
NHNN việt nam chỉ sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc là chính , nhưng công cụ này rất khó sử dụng, rất rễ bị lỡ tay và trong thực tế nó cũng chưa phát huy được hết tác dụng. Trong khi đó nghiệp vụ thị trường mở rất linh hoạt, chính xác, chủ động và rễ ràng đảo ngược việc mua lại chưa được sử dụng
3.4.3. Sự bất cập của các thủ tục pháp lý, hành chính và sự yếu kém của bộ máy hành chính.
Hệ thống ngân hàng chưa thoát khỏi cơ chế cũ, chưa bám thị trường, chưa bám khách hàng, chưa đủ năng động. Để vay được vốn của ngân hàng là điều rất khó, khó hơn rất nhiều so với gửi tiền vào. Còn trong quan hệ của NHTM và NHNN thì những điều kiện để chiết khấu, tái chiết khấu cũng rất khó. Gần đây NHNN ra quyết định về việc trích dự phòng rủi ro tín dụng. Đây là vấn đề mà các NHTM mong đợi từ lâu song khi có rồi lại thất vọng. Bởi vì, khi điều kiện thực hiện quá ngặt nghèo, nằm ngoài tầm với của NHTM thì có cũng như không.
3.4.4. Nguyên nhân thuộc về những người lập, ra quyết định, thực hiện quyết định.
Những người lập chính sách còn chưa có trình độ cao nhiều khi còn ra các quyết định sai lầm , thêm vào đó là chất lượng thông tin về các biến số vĩ mô còn chưa được cao.
Những biện pháp đề ra chưa đủ nhanh, mạnh, nội dung công việc triển khai chậm chưa bám sát thực tiễn.
3.4.5. Những hạn chế của chính sách lãi suất.
Thứ nhất: Quá trình điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay chưa đồng bộ gây ảnh hưởng đến hiệu qủa quá trình huy động và cho vay vốn.
Thứ hai: Lãi suất thực chưa cao làm ảnh hưởng đến đầu tư, do lãi suất danh nghĩa và lạm phát chưa có mối liên hệ chặt chẽ.
Thứ ba: Bên cạnh đó mức lãi suất ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu chưa hợp lí, không thúc đẩy quá trình mở rộng xuất khẩu ở Việt Nam.
Hiện nay cần thực hiện quy định mức lãi suất ưu đãi cho các ngành khi nhập máy móc hiện đại phục vụ các ngành trọng tâm trong tiến trình công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu .
Muốn đẩy mạnh chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu thì ngay trước mắt cũng cần có một biểu lãi suất cho vay hợp lí để đầu tư vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng mà trước hết là cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu như hệ thống cảng biển , cảng hàng không …
Thứ tư: Khu vực nông thôn chưa được tạo điều kiện để phát triển kinh tế, trong khi đó nước ta lại là một nước nông nghiệp đi lên và nông nghiệp là chủ đạo.
Thứ năm: Chất lượng tín dụng có chiều hướng thay đổi xấu đi
Thống kê toàn ngành cho thấy nợ quá hạn đến hết năm 1996 ước khoảng 4%, tỷ lệ có thấp hơn so với những năm đầu đổi mới song con số đó so với yêu cầu còn quá cao và cũng chưa phản ánh đúng thực tế. Đáng báo động ở một số ngân hàng con số này đã lên tới 10%, tín dụng bị sa sút nghiêm trọng về chất lượng.
Thứ sáu: Lãi suất cho vay bằng nội tệ vẫn cao hơn nhiều lãi suất ngoại tệ trong khi tỷ giá hối đoái ổn định.
Quan hệ giữa lãi suất cho vay bằng VND và bằng USD còn chưa hợp lý . Trong khi chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra của tín dụng bằng ngoại tệ là 3% /năm (mặc dù thấp hơn so với một số nước trên thế giới: Thái lan, Trung quốc 3,2% , Mỹ 4%) nhưng so với mức chênh lệch lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào của VND quả là không cân xứng. Như vậy là kinh doanh ngoại tệ có thu nhập cao hơn kinh doanh tiền đồng. Không ít ngân hàng huy động được ngoại tệ đã không cho các doanh nghiệp trong nước vay mà gửi ra nước ngoài kiếm chênh lệch cao hơn cho vay trong nước.
ChươngIII
Nâng cao hiệu quả của
chính sách tiền tệ ở Việt Nam
1. Với các công cụ trực tiếp
1.1. Một số giải pháp sử dụng nghiệp vụ thị trường mở.
Ngân hàng trung ương các nước thường tiến hành phần lớn các nghiệp vụ thị trường mở theo yêu cầu điều chỉnh cùng cầu tiền tệ, đặc biệt khi không thể thực hiện được với công cụ tái chiết khấu.
ở Việt Nam hiện nay, thị trường mở chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền tệ.
Để sớm có thể đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động, cần có các giải pháp sau:
1.1.1. Hoàn thiện cơ chế tổ chức, điều kiện công nghệ nhằm thực hiện có hiệu quả nghiệp vụ thị trường mở.
Để thực hiện tốt nghiệp vụ thị trường mở, NHNN cần có bộ máy gồm các chuyên gia tài chính - tiền tệ giỏi chuyên môn theo dõi, phân tích đánh giá diễn biến tình hình tiền tệ, lạm phát ... để đưa ra những quyết định can thiệp vào thị trường một cách kịp thời, cùng các công cụ khác thực thi có hiệu quả mục tiêu chính sách tiền tệ. Bộ máy này có thể gọi là ban thị trường mở trực thuộc NHNN. Nhiệm vụ chủ yếu của ban thị trường mở gồm.
* Theo dõi, tính toán dự toán vốn khả dụng của các ngân hàng (qua bộ phận nghiệp vụ). Các thông tin này giúp ban thị trường mở quyết định cần phải thay đổi vốn khả dụng của các NHTM ở mức độ cần thiết để đạt được yêu cầu cung ứng tiền tệ.
* Theo dõi diễn biến xu hướng vận động của tình hình lạm phát, lãi suất đầu tư cùng kết quả phân tích ở trên, tính toán đề xuất phương án mua hoặc bán, khối lượng mua, bán từng đợt, lãi suất trình thống đốc quyết định.
* Phát triển công nghệ ngân hàng, bao gồm đào tạo con người và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại.
1.1.2. Ban hành quy chế về hoạt động của thị trường mở và hình thành cơ chế can thiệp linh hoạt, kịp thời của NHNN trên thị trường mở.
* NHNN cần quy định rõ các công cụ được mua bán trên thị trường mở, quy định cụ thể phạm vi đối tượng tham gia thị trường mở.
* NHNN cũng cần thực hiện linh hoạt cơ chế mua bán tại thị trường mở giả sử nếu CSTT đặt trọng tâm vào việc điều tiết lãi suất thì NHNN nên áp dụng giá cố định. Khi cần tăng lãi suất trên thị trường hoặc khống chế khối lượng tiền tệ trong lưu thông, NHNN đặt mua lại các tín phiếu trên thị trường mở với mức lãi suất cao, mức lãi suất đó sẽ tác động đến lãi suất thị trường nói chung, đồng thời giúp NHNN nhanh chóng thu hẹp được khối tiền tệ ngoài lưu thông như dự định.
1.1.3. Các biện pháp liên quan khác.
Việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc phải tập trung vào một đầu mối thông qua NHNN làm đại lý.
* NHNN cần tiếp tục củng cố, hoàn thiện thị trường tiền tệ liên ngân hàng hoạt động thực sự sôi nổi, lành mạnh và thực hiện đúng vai trò người cho vay cuối cùng.
* Thực hiện các biện pháp cần thiết, đồng bộ từ chính phủ, uỷ ban chứng khoán nhà nước đến các ngành, các cấp để sớm đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động.
* Thực hiện các biện pháp để thúc đẩy hình thức tín dụng thương mại như ban hành luật thương phiếu, quy chế hoạt động, các văn bản hướng dẫn liên quan.
* Hệ thống NHTM cần tiếp tục đổi mới công nghệ thanh toán, tiến tới thực hiện xã hội hoá việc mở tài khoản thanh toán cho các chủ thể trong xã hội. Có như vậy khi các chủ thể này tham gia mua bán tín phiếu tại thị trường mở , nó sẽ nhanh chóng tác động ngay đến khả năng tín dụng của các NHNN và công cụ thị trường mở mới có thể phát huy hết các ưu thế vốn có của nó.
2. Cần có các công cụ gián tiếp để điều hành CSTT.
Các công cụ trực tiếp ngày càng bộc lộ những yếu điểm và ngày càng kém hiệu lực trong một nền kinh tế thị trường đầy biến động.
Để có một chính sách tiền tệ mềm dẻo, linh hoạt cần có các công cụ gián tiếp như: Quản lý lãi suất của các NHTM, chính sách tái cấp vốn (bao gồm hạn mức tái cấp vốn và chính sách tái cấp vốn).
Để có thể sử dụng các công cụ gián tiếp cần phải:
* Có một hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh trong cơ chế cạnh tranh.
* Một thị trường tiền tệ thứ cấp hoạt động tích cực và được điều tiết hiệu quả.
Nền kinh tế nước ta đang đứng trước thách thức của nhu cầu mở cửa và hội nhập toàn diện, một chính sách tiền tệ cứng nhắc và kém hiệu quả sẽ không bảo đảm cho nó tránh được những ảnh hưởng mạnh mẽ từ thị trường bên ngoài. Hơn nữa sau 10 năm đổi mới và những cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực ngân hàng, những điều kiện cho phép sử dụng cơ chế điều chỉnh gián tiếp đang dần hình thành hứa hẹn một khả năng chắc chắn cho sự chuyển đổi cơ chế điều tiết lượng tiền cung ứng. Công việc cần phải làm tiếp theo là đánh giá và dự tính hiệu quả tác động của công cụ gián tiếp trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
2.1. Các giải pháp đối với chính sách lãi suất.
2.1.1. Cần có một chính sách lãi suất đồng bộ.
Thứ nhất: Tiền lãi suất cho vay bằng nội tệ cần phải dựa trên các cơ sở sau:
* Tỷ lệ lạm phát: Lãi suất danh nghĩa phải được xác định cao hơn tỷ lệ lạm phát để đảm bảo một tỷ lệ lãi suất thực dương.
* Tỷ suất lợi nhuận bình quân: Giới hạn tối đa đối với tỷ lệ lãi suất là tỷ suất lợi nhuận bình quân.
* Cơ cấu rủi ro: Mức độ rủi ro của một khoản vay xác định lãi suất của khoản vay đó, theo đó rủi ro càng cao thì lãi suất càng cao.
* Cơ cấu ưu tiên: Một mức lãi suất thấp hơn sẽ áp dụng cho các khu vực được ưu tiên như khu vực các doanh nghiệp quốc doanh hay khu vực các doanh nghiệp quốc doanh hay khu vực nông nghiệp, khu vực sản xuất háng xuất khẩu.
* Chi phí hoạt động của ngân hàng.
Lãi suất cho vay phải bù đắp được các chi phí hoạt động cho ngân hàng và đảm bảo có lãi cho các ngân hàng.
Thứ hai: Mối quan hệ giữa lãi suất cho vay bằng nội tệ và các loại lãi suất khác.
* Tiền lãi suất cho vay bằng ngoại tệ và nội tệ phải cân xứng với nhau tuỳ theo sự biến động của tỷ giá , tốc độ mất giá của đồng nội tệ và đồng sản tệ sao cho chi phí vay vốn bằng nội tệ hay ngoại tệ đều như nhau.
* Tiền lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp vốn đều là các công cụ của chính sách tiền tệ. Chúng cần được điều hành đồng bộ với nhau để thực hiện tốt các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
* Tiền lãi suất cho vay và lãi suất của các công cụ trên thị trường mở. Ví dụ: Để giảm mức cung tiền chúng ta có thể tăng trần lãi suất hoặc đặt mua các tín phiếu trên thị trường mở với mức lãi suất ấn định cao.
2.1.2. Thực hiện lãi suất cơ bản để tiến tới tự do hoá lãi suất.
Tháng 1/1998 chúng ta đã bỏ quy định về mức chênh lệch bình quân 0,35%. Đó là một bước đi để tiến tới tự do hoá lãi suất. Để thực hiện tự do hoá lãi suất chúng ta cần phải thực hiện lãi suất cơ bản.
Lãi suất cơ bản có thể được hiểu theo nhiều nội dung khác nhau, đó là:
* Lãi suất trần do NHTW quy định (như ở nước ta) có thể là:
- Lãi suất cho vay tối đa.
- Lãi suất cho vay tối thiểu.
* Lãi suất sàn do NHTW quy định có thể là
- Lãi suất tiền gửi tối thiểu
- Lãi suất tiền gửi tối đa
Nhưng cơ sở nào để xác định lãi suất cơ bản thì đó là một vấn đề còn nhiều tranh cãi.
Hiện nay có một số quan điểm tiếp cận lãi suất cơ bản như sau:
* Quan điểm thứ nhất cho rằng: Nên lấy lãi suất tái cấp vốn của NHNN làm lãi suất cơ bản, theo quan điểm này mô hình chung đã phủ nhận nội dung điều luật 18 của luật NHNN là: NHNN xác định nội dung và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn, như vậy có sự phân định giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cơ bản mà NHNN đã quy định đối với khoản tín dụng mà NHNN quy định thực hiện cho vay cuối cùng với ba hình thức:
+ NHNN cho vay chiết khấu và tái chiết khấu đối với các thương phiếu của NHTM.
+ NHNN cho vay đối với giá trị các hợp đồng tín dụng chưa đến hạn hợp đồng của các NHTM.
+ NHNN cho vay cầm cố bất động sản và thế chấp các chứng từ có giá khác của NHTM. Lãi suất tái cấp vốn của ba hình thức chủ yếu này được NHNN sử dụng để thắt chặt hoặc mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế qua đó thực hiện chính sách tiền tệ. ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì NHNN thường sử dụng lãi suất chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu để điều khiển lãi suất tín dụng, trong khi ở nước ta hình thức này chưa xuất hiện do vậy lãi suất tái cấp vốn chưa thể chi phối.
* Quan điểm thứ hai cho rằng: Vẫn duy trì lãi suất trần hiện nay và xem đó là lãi suất cơ bản nhưng có thể quy định mức biên độ, tuy nhiên chúng ta đã chấp nhận lãi suất trần lại còn có biên độ dao động.
* Quan điểm thứ ba cho rằng: Việc xác định lãi suất cơ bản trên cơ sở lãi suất đầu vào đồng thời công bố giới hạn tối đa để NHTM được phép ấn định lãi suất cho vay.
* Quan điểm thứ tư cho rằng: Học tập kinh nghiệm của Malaisya, NHNN quy định lãi suất cơ bản và cho phép các NHTM được cộng thêm một khoản tỷ lệ khi cho vay nhưng không được cho vay thấp hơn lãi suất cơ bản.
Nhưng theo em thì cần có một lãi suất sàn để làm lãi suất cơ bản
2.1.3. Đã đến lúc cần một lãi suất sàn.
Chính sách trần lãi suất nhằm bảo vệ cho người đi vay không bị ép bởi các ngân hàng. Nhưng chính sách trần lãi suất chỉ thích hợp trong trường hợp:
* Nhu cầu tín dụng lớn hơn cung tín dụng
* Ngân hàng hoạt động trong một môi trường độc quyền.
Trong điều kiện như vậy, ngân hàng luôn cho vay với mức lãi suất cao, không quan tâm nhiều đến việc tiết kiệm chi phí và thái độ phục vụ.
Tuy nhiên, tình hình năm 1999 (nhất là các tháng cuối năm 1999) điều kiện của thị trường đã thay đổi. Nhu cầu vốn đã thu hẹp, các NHTM không cho vay ra được trong khi đó các tổ chức tín dụng lại gia tăng số lượng dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các tổ chức tín dụng. Việc cạnh tranh giành thị trường hầu như là bằng cách hạ lãi suất. Điều này làm cho rủi ro cao nhưng tỷ suất lại nhỏ. Dẫn tới sự vội vã trong kiểm tra các điều kiện vay vốn để giành giật khách hàng, dẫn tới việc không quan tâm đến tính thời vụ, tính chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp và làm cho tính rủi ro càng cao hơn. Việc hạ lãi suất như vậy làm cho các ngân hàng bị thiệt hại có thể thua lỗ, phá sản.
Trước tình trạng như thế thì chính sách lãi suất điều hành bằng trần lãi suất xem ra không còn thích hợp. Lúc này không còn ngân hàng nào áp dụng lãi suất tối đa để cho vay vì sẽ không có khách hàng vay, mà chỉ cố gắng tối thiểu lãi suất để giành khách hàng.
Do đó để tránh tình trạng trên, gây thiệt hại cho ngân hàng, ngày 6/12/1999 bốn NHTM quốc doanh đã thống nhất sàn lãi suất cho vay không thấp hơn 0,75%/tháng khi các NHTM quốc doanh hạ lãi suất cho vay thì các NHTM cổ phần tất yếu cũng phải hạ lãi suất cho vay (có thể còn phải thấp hơn của các NHTMquốc doanh) để có thể cạnh tranh giành khách hàng.
Nhưng sự thống nhất về sàn lãi suất cho vay của bốn NHTM quốc doanh chưa thể hiện một chính sách điều hành bằng lãi suất. Bởi lẽ nó chưa mang tính pháp lý đối với các NHTM đang hoạt động tại Việt Nam. Nhất là đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, thực tế đã có một số NH này cho vay với lãi suất 0,68% tháng.
Vì vậy, chúng ta cần một chính sách, nghĩa là sàn lãi suất phải được NHNN ban hành. Tỷ lệ bao nhiêu còn cần được xem xét tới nhiều yếu tố liên quan như lãi trả cho tiền gửi huy động, phí hoạt động cần thiết của NH, tỷ giá tỷ lệ dự trữ, tỷ lệ lạm phát... khả năng kinh doanh và tỷ suất phát triển bình quân của các doanh nghiệp.
Khi áp dụng một lãi suất sàn cần có các lưu ý sau:
* Một là, lãi suất sàn chỉ áp dụng ở khu vực thành thị, nơi có nhiều ngân hàng đóng trụ sở và là nơi đã và đang có các điều kiện thuận lợi thu hút sự đầu tư và dễ huy động vốn, bởi vì chính nơi đây đang diễn ra sự cạnh tranh lãi suất gay gắt theo chiều hướng bất lợi.
* Hai là, lãi suất sàn không cần áp dụng ở khu vực nông thôn nơi đang thiếu vốn; một nơi nghèo, chậm phát triển đang cần sự đầu tư với lãi suất ưu đãi hơn để tăng trưởng; do đó, không cần phải khống chế sàn lãi suất cho khu vực này, đây là khu vực cơ sở phát triển cho toàn bộ nền kinh tế đất nước; vì thế ở khu vực này phải được bảo vệ bằng trần lãi suất (việc đầu tư ở khu vực nông thôn cần hiểu là cho vay trực tiếp cho sản xuất hoặc xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất). Sự không khống chế lãi suất sàn ở khu vực nông thôn trong điều kiện hiện nay sẽ tạo ra một luồng chảy vốn từ các ngân hàng ở thành thị về nông thôn, từ đó mới có điều kiện phát triển kinh tế hàng hoá ở nông thôn.
* Ba là, lãi suất sàn cũng cần phải quy định luôn cho trung và dài hạn theo nguyên tắc, lãi suất sàn trung và dài hạn lớn hơn lãi suất sàn ngắn hạn.
Tóm lại , một chính sách lãi suất sàn ở giai đoạn này với những lý do như đã trình bày ở trên là điều cần thiết. Hơn nữa, chúng ta chưa có điều kiện đủ cho việc áp dụng chính sách tự do hoá lãi suất, khi mà ngân hàng vẫn phải trả lãi cho tiền gửi, chứ không phải thụ phí của tiền gửi để phục vụ cho khách hàng những tiện ích của dịch vụ.
3. Chính sách tiền tệ cần được sử dụng một cách đồng bộ cùng với các chính sách khác.
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế - xã hội quan trọng của quốc gia , nó có mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác, nhất là chính sách tài khoá quốc gia. Do đó khi điều hành chính sách tiền tệ cần phải đặt trong mối quan hệ với các chính sách khác, trong một tổng thể vĩ mô vì các biến số vĩ mô cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các công cụ của chính sách tiền tệ cũng cần được sử dụng một cách đồng bộ cùng hướng đến mục tiêu định trước. Để làm được điều đó cần phải chú ý đến cả các tác động trực tiếp và gián tiếp, ngắn hạn và dài hạn của các chính sách, các công cụ riêng lẻ. Cần có sự phối hợp giữa các bộ ngành có liên quan. Đặc biệt cần tăng cường sự phối hợp giữa NHNN và bộ tài chính trong điều hành chính sách tài chính , tiền tệ.
Qua 5 cuộc tranh luận về chính sách kinh tế vĩ mô, chúng ta sẽ lựa chọn các chính sách khác phù hợp với nó trong từng trường hợp cụ thể như: Các nhà hoạch định chính sách tài khoá và tiền tệ nên tìm cách ổn định nền kinh tế, Chính sách tiền tệ nên được hoạch định theo luật và có những biện pháp phù hợp khi có sự thay đổi, Ngân hàng trung ương không nên theo đuổi chính sách lạm phát bằng không, nên cải cách luật thuế để khuyến khích tiết kiệm…
4. Về các thủ tục hành chính, bộ máy hành chính.
Các thủ tục hành chính vẫn còn rắc rối, kém hiệu quả, nhiều chỗ còn chưa rõ ràng, có khi còn chồng chéo, chưa hợp lý. Do đó cần phải có một cơ chế thông thoáng hơn, hợp lý hơn, cần có các văn bản hướng dẫn việc thi hành các văn bản pháp luật một cách rõ ràng, cụ thể, chính sách bộ máy hành chính nói chung và của NHNN nói riêng còn cồng kềnh, yếu kém, còn nhiều bất cập, làm việc kém hiệu quả cho nên các quyết định nhiều khi chưa chính xác, việc chỉ đạo thực hiện các chính sách nhiều khi chậm trễ, không hiệu quả.
Yếu tố con người là cực kỳ quan trọng do đó cần phải đào tạo, bồi dưỡng để có những cán bộ tín dụng có kiến thức, trình độ , có đạo đức, trình độ nghề nghiệp và phải có bản lãnh, kinh nghiệm nghề nghiệp.
Bên cạnh đó cần phải giảm biên chế bộ máy hành chính, tăng cường các mối quan hệ theo chiều ngang. Tiếp tục thực hiện một cách mạnh mẽ dứt điểm việc củng cố, sắp xếp các tổ chức tín dụng.
Ngoài ra cần phải nâng cao chất lượng của thông tin, bao gồm cả thông tin tài chính và thông tin phi tài chính, hiện đại hoá công nghệ NH mà trọng tâm là nghiệp vụ thanh toán qua NH. Phát triển các công cụ và dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt để dễ dàng hơn trong việc kiểm soát khôí lượng tiền cung ứng, lưu thông điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả hơn.
Kết luận
Giờ đây chúng ta đã có lý luận căn bản về chính sách tiền tệ, đó là cơ sở cho chúng ta hiểu, phân tích và đánh giá biện pháp mà Ngân hàng trung ương sử dụng trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ.
Với Việt Nam mục tiêu của chính sách tiền tệ là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát. Việc vân dụng chính sách này vào thực tế như thế nào để đạt được mục tiêu luôn là một vấn đề đặt ra cho các nhà hoạch định.
Chúng ta có thể sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt. ở đó chúng ta nên dùng nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết lượng tiền cung ứng hay là chính sách chiết khấu hay là dự trữ bắt buộc hay quản lý lãi suất … Các bạn có thể đặt mình như những nhà hoạch định chính sách và lựa chọn một phương án khả thi với quan điểm của riêng các bạn, phù hợp với mục tiêu mà chính sách tiền tệ ưu tiên ( kìm chế lạm phát, việc làm, hay thúc đẩy tăng trưởng … ), và những tồn tại ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách cần phải giải quyết thế nào. Có lẽ, việc thực thi chính sách tiền tệ để đạt được tất cả các mục tiêu cùng một lúc là điêu không thể. Vận dụng công cụ, mô hình , chính sách tiền tệ luôn có vị trí xung lực ấn nút với nền kinh tế quốc dân mỗi nước. Vì vậy, chúng ta phải nhanh chóng khắc phục những tồn tại và vận hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt để đạt được mục tiêu mà nó đề ra và mục tiêu chung của nền kinh tế.
Tài liệu tham khảo
1. Tạp chí Ngân hàng các số 7, 9, 14, 16, 17, 18 năm 1999; số 1+2 năm 2000.
2. Tạp chí tài chính số 9, 10, 11 năm 1999.
3. Tạp chí thị trờng tài chính tiền tệ số 10, 11 năm 1999; số 1 năm 2000.
4. Tạp chí thị trờng lao động số 1 năm 2000.
5. Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ.
6. Hệ thống công cụ chính sách tiền tệ Quốc gia trong nền kinh tế thị trờng - Nguyễn Võ Ngoạn
7. F.Mishkin Tiền tệ - Ngân hàng & Thị trường tài chính 1992.
8. N.Gregory Mankiw - Nguyên lý kinh tế học.
9. Lê Văn Tư - Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng 1999.
10. Sử dụng công cụ tài chính tiền tệ để huy động vốn cho đầu phát triển - Nguyễn Đình Tài – 1998.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35633.doc