Quản lý và sử dụng tài sản cố định là một vấn đề rất rộng lớn và có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua bài viết trên, tôi đã phân tích và đưa ra một số ý kiến đối với vấn đề “ khấu hao tài sản cố định trong doanh nghiệp” nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình quản lý và sử dụng tài sản cố định.
Vì bài viết chỉ nghiên cứu về phần lý luận, không nghiên cứu, liên hệ với thực tế và với sự hiểu biết hạn chế của mình, bài viết này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự hướng dẫn và chỉ bảo của thầy cô và các bạn.
23 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số vấn đề về khấu hao tài sản cố định trong doanh nghiệp hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời Mở đầu
Tài sản cố định là bộ phận cơ bản tạo nên cơ sở vật chất kĩ thuật của nền kinh tế quốc dân, đồng thời cũng là bộ phận quan trọng của vốn kinh doanh. Tài sản cố định là vốn sống còn đối với sự tồn tại của bất cứ doanh nghiệp nào. Nó không những sản xuất, trình độ trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật và ứng dụng khoa học tiến bộ vào sản xuất mà còn phản ánh được bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản cố định, xét về mặt tồn tại nó là điều kiện cần có để doanh nghiệp được thành lập, xét về mặt phát triển thì nó là điều kiện cần thiết để tiết kiệm sức lao động và nâng cao năng suất lao động. Do vậy, tài sản cố định giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra hàng hóa và dịch vụ. Mặt khác, vai trò của tài sản cố định không chỉ dừng lại ở việc đánh gía mức độ sử dụng tài sản cố định mà nó đòi hỏi xem xét đến cả tính hiệu quả của quản lý và mức độ sử dụng tài sản cố định. Khấu hao tài sản cố định là một trong các nội dung chính trong việc quản lý và sử dụng tài sản cố định. Việc trích và lập quỹ khấu hao tài sản cố định như thế nào đều có ảnh hưởng lớn đến quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề khấu hao tài sản cố định trong doanh nghiệp, tôi xin nghiên cứu đề án “ Một số vấn đề về khấu hao tài sản cố định trong doanh nghiệp hiện nay “ để từ đó rút ra được những kiến thức cơ bản phục vụ cho quá trình học tập của mình.
Phần i:khái quát chung về tài sản cố định
trong doanh nghiệp
I -khái niệm, đặc điểm và vai trò tài sản cố định:
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có 3 yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Tài sản cố định là tư liệu lao động, là một trong 3 yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, tuy nhiên không phải tất cả các tư liệu lao động của doanh nghiệp đều là tài sản cố định mà một tư liệu lao động muốn trở thành tài sản cố định phải thỏa mãn 2 yếu tố về thời gian và giá trị đầu tư.
1. Khái niệm về tài sản cố định:
Xét về hình thái vật chất, tài sản cố định ở doanh nghiệp gồm có tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Theo quyết định số 166/ 1999/QĐ - BTC ngày 30/12/1999 của bộ trưởng bộ tài chính.
Tiêu chuẩn và nhận biết tài sản cố định:
a. Tiêu chuẩn và nhận biết tài sản cố định hữu hình:
Mọi tư liệu lao động là từng tài sản hữu hình có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hai hệ thống không thể hoạt động được, nếu thoả mãn đồng thời hai tiêu chuẩn dưới đây thì được coi là tài sản cố định.
- Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên.
- Có giá trị từ 5.000.000 đ (năm triệu đồng) trở lên.
Trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau, trong đó một bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ phận nào đó mà cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính của nó mà do yêu cầu quản lý, sử dụng tài sản cố định đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận tài sản thì mỗi bộ phận tài sản đó được coi là một tài sản cố định hữu hình độc lập ( ví dụ ghế ngồi, khung và động cơ... trong một máy bay).
Đối với vườn cây lâu năm thì từng mảnh vườn cây được coi là một tài sản cố định hữu hình.
b.Tiêu chuẩn và nhận biết tài sản cố định vô hình:
Mọi chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra thoả mãn đồng thời cả hai điều kiện quy định tại khoản 1 điều này, mà không hình thành tài sản cố định hữu hình thì được coi là tài sản cố định vô hình. Nếu khoản chi phí này không đồng thời thoả mãn cả hai tiêu chuẩn nêu trên thì được hạch toán trực tiếp hoặc được phân bố dần vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
Có thể khẳng định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung, tài sản cố định là cơ sở vật chất có ý nghĩa và vai trò quan trọng, là cơ sở để doanh nghiệp tồn tại và phát triển trên thị trường.
Qua những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra định nghĩa về tài sản cố định trong Doanh nghiệp như sau:
"Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu, mà đặc thù của chúng là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch sang chu kỳ sản xuất tiếp theo."
2. Đặc điểm của tài sản cố định:
Trong quá trình sản xuất, mặc dù tài sản cố định bị hao mòn, xong chúng vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu. Chỉ khi nào chúng bị hao mòn, hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về mặt kinh tế thì khi đó mới cần được thay thế, đổi mới. Cụ thể:
Về mặt hiện vật: Tài sản cố định tham gia hoàn toàn và nhiều lần trong sản xuất, nhưng giá trị sử dụng giảm dần cho đến khi hư hỏng hoàn toàn loại ra khỏi sản xuất.
Về mặt giá trị: Tài sản cố định được biểu hiện dưới hai hình thái:
- Một bộ phận giá trị tồn tại dưới hình thái ban đầu gắn với hiện vật tài sản cố định.
- Một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm mà tài sản cố định sản xuất ra và bộ phận này sẽ chuyển hoá thành tiền khi bán được sản phẩm.
Bộ phận thứ nhất ngày càng giảm, bộ phận thứ hai ngày càng tăng cho đến khi bằng gía trị ban đầu của tài sản cố định thì kết thúc quá trình vận động. Như vậy khi tham gia vào quá trình sản xuất, nhìn chung tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật nhưng tính năng công suất bị giảm dần, tức là nó bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó cũng bị giảm đi. Bộ phận giá trị hao mòn đó đã chuyển vào giá trị sản phẩm mà nó sản xuất ra và được gọi là khấu hao. Một tư liệu lao động chỉ được coi là tài sản cố định khi nó là sản phẩm của lao động. Do đó, tài sản cố định không chỉ có giá trị sử dụng mà còn có vai trò quan trọng trong doanh nghiệp. Nói cách khác, tài sản cố định phải là một hàng hoá như mọi hàng hoá thông thường khác.Thông qua mua bán trao đổi, nó có thể được chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng từ chủ thể này sang chủ thể khác trên thị trường tư liệu sản xuất.
3. vai trò của tài sản cố định.
Vai trò của TSCĐ và tốc độ tăng tài sản cố định trong sự nghiệp phát triển kinh tế quyết định yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng cao của công tác quản lý và sử dụng tài sản cố định. Việc tổ chức tốt công tác hạch toán để thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình tăng giảm TSCĐ về số lượng và giá trị, tình hình sử dụng và hao mòn TSCĐ có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác quản lý và sử dụng đầy đủ hợp lý công suất của TSCĐ, góp phần phát triển sản xuất, thu hồi vốn đầu tư nhanh để tái sản xuất, trang bị thêm và đổi mới không ngừng TSCĐ.
II. Phân loại và đánh giá tài sản cố định:
1. Phân loại tài sản cố định:
Tài sản cố định có nhiều loại, nhiều thứ có đặc điểm và yêu cầu quản lý khác nhau. Để việc tính khấu hao tài sản cố định được thực hiện một cách chính xác thì sự phân loại tài sản cố định là cần thiết. Nhờ vào việc phân loại chúng ta sẽ biết được chất lượng, cơ cấu của từng tài sản cố định hiện có trong doanh nghiệp để từ đó có thể đưa ra các phương pháp quản lý tốt: như đưa ra tỷ lệ khấu hao, giá trị năm sử dụng... để thay đổi, cập nhật công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, khuyến khích tiêu thụ sản xuất.
Căn cứ vào tính chất của tài sản cố định trong doanh nghiệp, doanh nghiệp tiến hành phân loại tài sản cố định theo các chỉ tiêu sau:
* Phân loại tài sản cố định theo hình thái biểu hiện:
- Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất ( từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định) có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, thiết bị, bao gồm:
Loại 1: Nhà cửa, vật kiến trúc: là tài sản cố định của doanh nghiệp được hình thành sản quá trình thi công xây dựng như trụ sở làm việc, nhà kho, hàng rào, tháp nước, sân bãi, các công trình trang trí nhà cửa, đường sá, cầu cống, đường sắt, cầu tầu, cầu cảng...
Loại 2: Máy móc, thiết bị: là toàn bộ các máy móc, thiết bị dùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây chuyền công nghệ, những máy móc đơn lẻ.
Loại 3: Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải gồm phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường cống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống thông tin, hệ thống điện, đường ống nước băng tải...
Loại 4: Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính phục vụ quản
lý, thiết bị điện tử, thiết bị dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút ẩm, chống mối mọt...
Loại 5: Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc cho sản phẩm. Là các vườn cây lâu năm như vườn cà phê, vườn chè, vườn cao su… súc vật làm việc cho sản phẩm.
Loại 6: Các loại tài sản cố định khác: là toàn bộ các tài sản cố định khác chưa liệt kê vào năm loại trên như tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật.
- Tài sản cố định vô hình: là những tài sản cố định không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như: chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí về đất sử dụng, chi phí về băng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả.
Phương pháp phân loại tài sản cố định theo hình thái vật chất sẽ giúp cho người quản lý có một nhãn quang tổng thể về cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp. Đây là một căn cứ quan trọng để xây dựng các quyết định đầu tư hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế. Mặt khác, nhà quản lý có thể dùng phương pháp phân loại này để đề ra biện pháp quản lý tài sản, quản lý tài sản, quản lý vốn, tính khấu hao chính xác và hợp lý.
* Phân loại tài sản cố định theo quyền sở hữu:
Theo cách này, tài sản cố định cũng chia thành 2 loại:
Tài sản cố định tự có : là những tài sản được xây dựng, mua sắm hoặc chế tạo bằng nguồn vốn ngân sách cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn liên doanh, các của quý của doanh nghiệp và các tài sản cố định được biếu tặng.
Tài sản cố định thuê ngoài: Do yêu cầu sử dụng mà doanh nghiệp cần tài sản cố định tuy chưa đủ khả năng tài chính hoặc không cần thiết phải mua. Trong trường hợp này, doanh nghiệp sẽ đi thuê tài sản dưới hai hình thức:
+ Tài sản cố định thuê tài chính.
+ Tài sản cố định thuê hoạt động
Cách phân loại này cho ta biết cơ cấu tài sản cố định của doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng tài khoản cấp I và cấp II một cách hợp lý. Cho dù là tài sản cố định tự có hay thuê tài chính thì đều phải tính trích khấu hao.
* Phân loại tài sản cố định theo nguồn hình thành tài sản cố định:
Theo cách phân loại này có thể chia ra:
- Tài sản cố định được mua sắm đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước cấp,
- Tài sản cố định được mua sắm đầu tư bằngnguồn vốn tự bổ sung,
- Tài sản cố định được mua sắm đầu tư bằng nguồn vốn liên doanh,
-Tài sản cố định được mua sắm đầu tư bằng nguồn vốn vay.
Cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng giúp chúng ta quyết định sử dụng nguồn vốn khấu hao hợp lý.
* Phân loại tài sản cố định theo công dụng và tình hình sử dụng:
Theo cách phân loại này, tài sản cố định được phân thành các loại sau:
- Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh: là tài sản cố định đang thực tế sử dụng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Những tài sản cố định này bắt buộc phải trích khấu hao tính vào chi phí sản xuất kinh doanh.
-Tài sản cố định hành chính sự nghiệp: Là tài sản cố địnhcủa các đơn vị hành chính sự nghiệp ( như đoàn thể quần chúng, tổ chức y tế...)
- Tài sản cố định phúc lợi: Là những tài sản cố định của các đơn vị dùng cho nhu cầu phúc lợi công cộng: như nhà văn hoá, nhà trẻ, câu lạc bộ...
- Tài sản cố định chờ xử lý: Bao gồm những tài sản cố định không cần dùng, chưa cần dùng vì thừa so với nhu cầu sử dụng hoặc vì không thích hợp với sự đổi mới quy trình công nghệ, bị hư hỏng, chờ thanh lý, tài sản cố định tranh chấp chờ giải quyết. Những tài sản cố định này cần xử lý nhanh chóng để thu hồi vốn sử dụng cho việc đầu tư đổi mới tài sản cố định.
Dựa vào cách phân loại này, để có thể biết được tình hình sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp để có thể đưa ra các mức khấu hao hợp lý, để thay đổi tài sản cố định cho phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của các tiến bộ khoa học kỹ thuật.
2. Đánh giá tài sản cố định:
a. Việc theo dõi, quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định phải tuân theo nguyên tắc đánh giá theo nguyên giá. Đánh giá tài sản cố định là bước khởi đầu quan trọng và cần thiết để tính và trích khấu hao chính xác, bảo đảm hoàn lại đầy đủ vốn đầu tư và phân tích được hiệu quả sử dụng vốn.
Theo thông lệ kế toán Việt Nam; nguyên giá tài sản cố định theo quy định cụ thể của từng loại tài sản cố định:
+ Nguyên giá tài sản cố định hữu hình.
+ Nguyên giá tài sản cố định loại đầu tư xây dựng.
+ Nguyên giá tài sản cố định loại được cấp,được chuyển đến.
+ Nguyên giá tài sản cố định loại được cho, được biếu, được tặng, nhận vốn góp liên doanh, nhận lại vốn góp do phát hiện thừa.
+ Nguyên giá tài sản cố định loại mua sắm
b. Xác định giá trị hao mòn của tài sản cố định:
- Hao mòn tài sản cố định: là sự giảm dần giá trị và giá trị sử dụng của tài sản cố định do tham gia vào hoạt động kinh doanh, do bào mòn của tự nhiên, do tiến bộ của khoa học kỹ thuật... trong quá trình hoạt động của tài sản cố định.
- Khấu hao tài sản cố định: là việc tính toán và phân bổ có hệ thống nguyến giá của tài sản cố định vào chi phí kinh doanh qua thời gian sử dụng của tài sản cố định.
- Số khấu hao luỹ kế của tài sản cố định: là tổng cộng số khấu hao đã trích vào chi phí kinh doanh qua các thời kỳ kinh doanh của tài sản cố định tính đến thời điểm xác định.
Giá trị hao mòn phản ánh nguồn vốn đầu tư coi đã thu hồi được ở tài sản cố định ở một thời điểm nhất định.
Giá trị hao mòn tài sản cố định là khoản chi phí được trích định kỳ ( hàng tháng, hàng quí ) vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ để hình thành một nguồn vốn nhằm tái đầu tư lại tài sản cố định do quá trình sử dụng nó bị hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình.
Khi xác định được nguyên giá và giá trị hao mòn của tài sản cố định, kế toán sẽ xác định được giá trị còn lại của tài sản cố định.
- Giá trị còn lại của tài sản cố định: là số vốn đầu tư hiện còn trong tài sản ở một thời điểm nhất định. Giá trị còn lại phản ánh trên cơ sở kế toán được xác định bằng hiệu số giữa nguyên giá tài sản cố định và số khấu hao luỹ kế tài sản cố định tính tới thời điểm xác định, nó là căn cứ để lập kế hoạch tăng cường đổi mới tài sản.
Iii. chuẩn mực kế toán quốc tế về tài sản cố định
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế 16 (IAS 16 ), Tài sản được sử dụng trong quá trình sản xuất, cung cấp hàng hoá dịch vụ, hoặc cho các mục đích hành chính và có thời gian sử dụng nhiều hơn một kì kế toán được gọi là tài sản cố định.
IV. Đặc điểm kế toán tài sản cố định ở một số nước.
Chế độ kế toán hiện hành của từng quốc gia thường quy định cụ thể tiêu chuẩn về giá trị của tài sản cố định tuỳ theo điều kiện kinh tế, yêu cầu quản lý và trình độ quản lý kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.
Phần II: khấu hao tài sản cố định
và kế toán khấu hao tài sản cố định.
I. hao mòn và khấu hao tài sản cố định.
Vai trò của tài sản cố định là cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời, theo quan điểm kinh tế chính trị, một tài sản cố định chỉ được mua khi nó thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng tức là tài sản cố định đó có giá trị sử dụng hay có một lượng hữu dụng. Nhưng do đặc điểm của tài sản cố định là tham gia vào chu kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nên tài sản cố định sẽ cung cấp một lượng giá trị sử dụng cho hoạt động của doanh nghiệp trong suốt thời gian sử dụng dự kiến của nó. Từ đó có thể nói rằng: khi mua tài sản cố định để sử dụng thì ta cùng đồng nghĩa với việc kinh doanh đã mua một lượng giá trị sử dụng của tài sản cố định đó để cung cấp cho doanh nghiệp trong một thời gian dài ở tương lai. Hoặc nói cách khác doanh nghiệp đã ứng trước một số chi phí thời điểm mua tài sản cố định để hy vọng nhận được một khối lượng dịch vụ trong tương lai khi sử dụng tài sản cố định này. Với kết luận này, giá trị của tài sản cố định được mua là một khoản chi phí ứng trước thì cần phải tính toán phân bổ chi phí tài sản cố định để thu hồi được chi phí đầu tư ban đầu. Quá trình phân bổ chi phí này được gọi là khấu hao tài sản cố định.
Khấu hao tài sản cố định còn là hình thức thu hồi vốn cố định ở tài sản cố định tương ứng với giá trị đã bị hao mòn trong kinh doanh nhằm tạo nguồn vốn tái đầu tư tài sản cố định. Phần giá trị hao mòn của tài sản cố định được chuyển dịch vào gía trị sản phẩm mới sản xuất ra, tính vào chi phí kinh doanh , theo tỷ lệ khấu hao nhất định đối với từng loại tài sản khác nhau và được thu hồi dưới hình thức tiền khấu hao. Tiền khấu hao là một bộ phận cấu thành chi phí sản xuất, nó được trích ra từ khấu hao khoản thu nhập bán hàng của xí nghiệp. Số tiền khấu hao này được tích lại hình thành quỹ khấu hao, nhằm mục đích tái sản xuất tài sản cố định.
Như ta đã biết có hai hình thức tái sản xuất tài sản cố định : là tái sản xuất toàn phần tài sản cố định và tái sản xuất từng phần.Phần quỹ khấu hao là nguồn vốn quan trọng để xí nghiệp có thể tự đầu tư xây dựng cơ bản, trang bị lại kỹ thuật cho sản xuất, trả chi phí thay thế tài sản cố định đã bị hao mòn, nó giúp cho xí nghiệp thực hiện được trách nhiệm bảo toàn vốn.
* Bảo toàn vốn
Hiểu đơn giản là vốn không bị tụt hậu trong quá trình sản xuất. Việc bảo toàn vốn thông qua cơ chế khấu hao, vì vậy việc tính khấu hao của doanh nghiệp không những phải tính đủ giá trị hao mòn tài sản cố định mà còn phải tính toán đủ để bồi hoàn hao mòn về hiện vật, có nghĩa là đủ để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định. Hơn thế, ở giác độ phát triển vốn cho xí nghiệp, tiền trích khấu hao phải đáp ứng yêu cầu tái sản xuất mở rộng giúp xí nghiệp có khả năng dùng vốn khấu hao để mua công nghệ tiên tiến nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy trích khấu hao không chỉ tính đến hao mòn hữu hình mà còn tính đến cả hao mòn vô hình nữa.
II. Các phương pháp tính khấu hao tscđ:
Việc tính khấu hao có thể được tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau, việc lựa chọn phương pháp khấu hao nào là tuỳ thuộc vào quy định của nhà nước về chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Phương pháp khấu hao được lựa chọn phải đảm bảo thu hồi vốn nhanh, đầy đủ và phù hợp với khả năng trang trải chi phí của doanh nghiệp .
Có nhiều phương pháp tính khấu hao tài sản cố định được áp dụng rộng rãi, phổ biến trên toàn thế giới, đặc biệt là nước có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu chỉ áp dụng một phương pháp khấu hao là phương pháp khấu hao bình quân ( còn gọi là khấu hao đều hay khấu hao đường thẳng). Phương pháp này bắt buộc với các doanh nghiệp nhà nước theo quyết định 166/1999/ QĐ - BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng tài chính.
Sau đây là nội dung phương pháp khấu hao bình quân và các phương pháp phổ biến khác.
1. Phương pháp khấu hao đường thẳng.
* Tài sản cố định trong doanh nghiệp được trích khấu hao theo phương pháp khấu hao đường thẳng, nội dung như sau:
Căn cứ các quy định trong chế độ này, doanh nghiệp xác định thời gian sử dụng của tài sản cố định .
Xác định mức tính khấu hao trung bình hàng năm cho tài sản cố định theo công thức sau đây:
Mức tính khấu hao Nguyên giá của tài sản cố định
Trung bình hàng năm =
Của tài sản cố định Thời gian sử dụng
Nếu doanh nghiệp trích khấu hao cho từng tháng thì lấy số khấu hao phải trích cả năm chia cho 12 tháng.
* Trường hợp thời gian sử dụng hay nguyên giá tài sản cố định thay đổi, doanh nghiệp phải xác định lại mức trích khấu hao trung bình của tài sản cố định bằng cách lấy giá trị còn lại trên sổ kế toán chia ( : ) cho thời gian sử dụng xác định lại hoặc thời gian sử dụng còn lại ( được xác định là chênh lệch giữa thời gian sử dụng đã đăng ký trừ (-) thời gian đã sử dụng ) của tài sản cố định .
* Mức trích khấu hao cho năm cuối cùng của thời gian sử dụng tài sản cố định là hiệu số giữa nguyên gía tài sản cố định và số khấu hao luỹ kế đã thực hiện của tài sản cố định đó.
Phương pháp này cố định mức khấu hao theo thời gian nên có tác dụng thúc đây doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, tăng số lượng sản phẩm làm ra để hạ giá thành, tăng lợi nhuận. Đồng thời số tiền khấu hao được phân bố đều đặn vào giá thành sản phẩm hàng năm trong suốt quá trình sử dụng tài sản cố định nên nó đảm bảo cho doanh nghiệp có mức giá thành và lợi nhuận ổn định. Song nhược điểm của phương pháp này là thu hồi vốn chậm không theo kịp mức hao mòn thực tế, nhất là hao mòn vô hình ( do tiến bộ khoa học kỹ thuật ) nên doanh nghiệp không có điều kiện để đầu tư, trang bị tài sản cố định mới.
2. Phương pháp tính khấu hao theo sản lượng.
Mục đích của việc kế toán chi phí khấu hao là tính nốt phần chi phí hợp lý của tài sản cố định cho mộtkỳ kế toán sử dụng tài sản cố định đó. Phương pháp trung bình tính một phần như nhau cho các kỳ kế toán. Nếu tài sản cố định được sử dụng hầu như một lượng như nhau trong mỗi kỳ kế toán thì phương pháp này phân bổ rất công bằng tổng chi phí khấu hao. Nhưng trong một số ngành kinh doanh , việc sử dụng tài sản cố định thay đổi rất nhiều từ kỳ kế toán này sang kỳ kế toán khác. Thí dụ, một công ty xây dựngcó thể sử dụng một máy móc thiết bị xây dựng chuyên dùng trong tháng này rồi sau đó không sử dụng nó trong rất nhiều tháng. Đối với các loại tài sản cố định như vậy, vì việc sử dụng dao động từ kỳ này sang kỳ khác nên phương pháp khấu hao theo sản lượng cung cấp một cách tính hợp lý hơn. Khi phương pháp sản lượng được sử dụng để tính khâú hao tài sản cố định , chi phí của tài sản cố định sau khi trừ đi giá trị tận dụng ước tính được đem chia cho sản lượng ước tính sẽ được sản xuất ra trong suốt thời gian hữu dụng.
Mức khấu hao Sản lượng ´ Mức khấu hao bình quân
Phải trích trong tháng = trong tháng trên một đơn vị sản lượng
Trong đó:
Mức khấu hao Tổng khấu hao phải trích trong thời gian sử dụng
Bình quân trên =
Một đơn vị sản Sản lượng tính theo công suất thực tế
Phẩm
Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, xu hướng các doanh nghiệp là thu hồi vốn nhanh vừa tránh được hao mòn vô hình là sự lạc hậu của kỹ thuật, vừa có nguồn vốn để đầu tư công nghệ mới. Cho nên các doanh nghiệp thường áp dụng phương pháp khấu hao nhanh.
3. Phương pháp khấu hao nhanh:
* Phương pháp khấu hao theo giá trị còn lại:
Phương pháp này còn gọi là phương pháp khấu hao kép trên giá trị còn lại.
Công thức tính như sau:
Mức khấu hao 2 ´ giá trị còn lại
Trích hàng năm Số năm khấu hao
Về ưu điểm là phương pháp này hơn hẳn 2 phương pháp trên, phương pháp này giúp cho doanh nghiệp có thể thu hồi vốn nhanh và do đó có khả năng phòng ngừa được hiện tượng mất giá do hao mòn vô hình. Nhưng nó có nhược điểm là tỷ lệ khấu hao theo phương pháp khấu hao bình quân và số trích khấu hao luỹ kế hàng năm cuối cùng sẽ không đủ bù đắp giá trị ban đầu của tài sản cố định .
* Phương pháp khấu hao theo tổng số các năm:
Theo phương pháp tổng số các năm, các số năm của thời gian hữu dụng của tài sản cố định được cộng lại với nhau. Tổng của chúng trở thành mẫu số của dãy các tỷ số, được dùng để phân bổ tổng mức khấu hao cho các năm trong thời gian hữu dụng của tài sản cố định
Mức khấu hao M (n + 1 – i ) 2M (n+ 1 –i )
Trích ở năm thứ i m [(n+ i): 2] n (n+ 1)
Trong đó:
M: tổng số khấu hao phải trích trong suốt thời gian sử dụng
M = ( Ngân quỹ – giá trị thu hồi )
n: số năm sử dụng của tài sản cố định
i: Năm sử dụng thứ i ( i = 1, n )
Phương pháp khấu hao này có những ưu nhược điểm của phương pháp khấu hao nhanh song nó hơn phương pháp khấu hao theo giá trị còn lại là số khấu hao được trích luỹ kế đến năm cuối cùng sẽ đảm bảo bù đắp đủ giá trị ban đầu của tài sản cố định .
* ảnh hưởng của khấu hao nhanh với thuế lợi tức: khấu hao nhanh làm cho chi phí khấu hao của một tài sản trong những nămđầu sử dụng tài sản với chi phí khấu hao của một tài sản trong những năm đầu sử dụng tài sản với chi phí khấu hao cao hơn và do vậy lợi tức chịu thuế cũng giảm, kết quả là số tiền thuế lợi tức trong những năm đầu sử dụng tài sản là ít hơn so với các phương pháp khấu hao thông thường và vì thế nếu luật thuế lợi tức cho phép các công ty sử dụng phương pháp khấu hao nhanh sẽ có lợi. Mặc dù vào những năm cuối sử dụng tài sản cho chi phí khấu hao thấp hơn ( nhưng tổng chi phí khâú hao trong toàn bộ tồn tại của tài sản là bằng nhau giữa các phương pháp), lợi tức lại tăng tương ứng, nhưng công ty phải nộp thuế lợi tức tăng trong những năm sau của tài sản, điều đó theo khái niệm thời gian của tiền tệ thì công ty sẽ có lợi hơn.
4. Đối với tài sản cố định đã khấu hao hết:
Theo thông lệ quốc tế một tài sản đã khấu hao hết là một tài sản mà chúng ta đã đạt được đến thời gian hữu ích dự tính từ đó trở về sau sẽ không có một khoản khấu hao nào được ghi chép cho tài sản đó nữa. Bởi lẽ tổng số chi phí khấu hao chỉ cao nhất là bằng tổng trị giá phải khấu hao, tức là bằng giá thành của tài sản trừ đi giá trị phế thải ước tính. Một tài sản đã khấu hao hết có nghĩa tổng số khấu hao luỹ kế đã bằng với giá trị phải khấu hao. Do vậy, không cần phải có bút toán khấu hao nữa. Tuy vậy, vì tài sản vẫn tồn tại và sử dụng, nên nó được lên bảng cân đối tài sản như bình thường. Lúc đó khấu hao luỹ kế có thể bằng nguyên gía tài sản cố định nếu không tính đến giá trị phế thải.
III. Chuẩn mực kế toán quốc tế về khấu hao tscđ.
Để đảm bảo lợi ích hợp pháp, đáp ứng yêu cầu chính đáng của doanh nghiệp , Bộ trưởng bộ tài chính đã ký quyết định số 166/1999/QĐ - BTC ngày 30/12/1999 ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định áp dụng cho mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Chế độ này được xây dựng theo hướng tăng cường công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định , khuyến khích các doanh nghiệp tính đúng, trích đủ số hao mòn tài sản cố định vào chi phí kinh doanh để có điều kiện thay thế, đổi mới máy móc thiết bị theo hướng áp dụng công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại phù hợp với yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp và đòi hỏi của nền kinh tế.
IV. đặc điểm khấu hao tài sản cố định ở một số nước.
Trong quá trình sử dụng TSCĐ bị hao mòn dần về giá trị và hiện vật, phần giá trị hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm làm ra dưới hình thức trích khấu hao.
ở một số nước, ví dụ như Pháp TSCĐ (gọi là bất động sản) là những tài sản có giá trị và có thời gian hữu ích lâu dài. Những tài sản này được xây dựng, mua sắm để làm công cụ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không phải là đối tượng khai thác ngắn hạn.
Bất động sản được phân loại theo 2 hình thái biểu hiện:
+BĐS hữu hình
+ BĐS vô hình.
Phương pháp tính khấu hao BĐS có 2 loại:
+ Phương pháp khấu hao cố định(phương pháp khấu hao đều): là phương pháp căn cứ vào số năm sử dụng BĐS để tiến hành chia đều giá trị BĐS cho số năm sử dụng.
+ Phương pháp khấu hao giảm dần (phương pháp khấu hao lùi).
V. Kế toán khấu hao tài sản cố định theo chế độ
hiện hành:
1. Tài khoản sử dụng:
Tài khoản 214. Hao mòn tài sản cố định
Tài khoản 009 . Nguồn vốn khấu hao cơ bản
2. Trình tự hạch toán:
- Định kỳ tính trích khấu hao tài sản cố định vào chi phí sản xuất kinh doanh, đồng thời phải tính hao mòn tài sản cố định , kế toán ghi:
Nợ TK 627 ( 6274): chi phí khấu hao tài sản cố định
Nợ TK 641 (6414): chi phí khấu hao tài sản cố định
Nợ TK 642 ( 6424): chi phí khấu hao tài sản cố định
Nợ TK 811 chi phí hoạt động tài chính
Có TK 214 Hao mòn tài sản cố định
Đồng thời ghi bên nợ tài khoản 009.
+ Trường hợp phải nộp vốn khấu hao cho đơn vị cấp trên hoặc điều chuyển cho đơn vị khác:
+ Trường hợp được hoàn trả lại, khi nộp vốn khấu hao ghi:
Nợ TK 136 (1368): Phải thu nội bộkhác
Có TK 111,112: TM, TGNH
Đồng thời ghi có tài khoản 009
Khi nhận lại số vốn khấu hao hoàn trả, ghi bút toán ngược lại.
+ Trường hợp không được hoàn trả.
Nợ TK 411: NVKD
Có TK 111, 112, 338 (3388)
Đồng thời ghi có tài khoản 009
+ Trường hợp cho các đơn vị khác vay vốn khấu hao ghi:
Nợ TK 128: Đầu tư ngắn hạn khác
Nợ TK 228: Đầu tư dài hạn khác
Có TK 111,112: TM, TGNH
- Tài sản cố định đã sử dụng nhận được do điều chuyển trong nội bộ:
Nợ TK 211: Tài sản cố định hữu hình
Có TK 411: Nguồn vốn kinh doanh
Có TK 214: Hao mòn tài sản cố định
- Tài sản cố định đánh giálại theo quyết định của nhà nước:
+Trường hợp đánh giá tăng nguyên giá tài sản cố định ghi:
Nợ TK 211: Tài sản cố định hữu hình
Có TK 412: Chênh lệch đánh giá lại tài sản
Có TK 214: Hao mòn tài sản cố định
+ Trường hợp điều chỉnh tăng giá trị hao mòn:
Nợ TK 412: Chất lượng đánh giá lại tài sản
Có TK 214: Hao mòn tài sản cố định
+ Trường hợp điều chỉnh giảm giá trị hao mòn:
Nợ TK 214: Hao mòn tài sản cố định
Có TK 412: Chất lượng đánh giá lại tài sản.
+ Trường hợp đánh giá giảm nguyên giá tài sản cố định
Nợ TK 412: Chất lượng đánh giá lạitài sản
Nợ TK 214: Hao mòn tài sản cố định
Có TK 211: Tài sản cố định hữu hình
- Trường hợp chưa khấu hao hết mà tài sản cố định phải nhượng bán, thanh lý phần giá trị còn lại chưa thu hồi phải được tính vào chi phí bất thường
Nợ TK 214: Hao mòn tài sản cố định
Nợ TK 821: Chi phí bất thường
Có TK 211,213: Tài sản cố định hữu hình, vô hình.
- Trường hợp trả lạivốn góp liên doanh.
Nợ TK 411: Nguồn vốn kinh doanh Nợ TK 214: Hao mòn tài sản cố định
Có TK 211: Tài sản cố định hữu hình
- Khi sử dụng nguồn vốn khấu hao tài sản cố định để đầu tư xây dựng cơ bản và mua sắm tài sản cố định ghi:
Nợ TK 211, 213: Tài sản cố định hữu hình, vô hình
Có TK 111, 112, 331, 241
Đồng thời ghi có tài khoản 009- Nguồn vốn khấu hao cơ bản
Phần III:
nhận xét và kiến nghị về khấu hao và
kế toán khấu hao tài sản cố định trong
doanh nghiệp.
Ngày 30/12/1999, Bộ trưởng Bộ Tài Chính có quyết định số 166/1999/QĐ - BTC ban hành chế độ quản lý sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định . Quyết định mới này ra đời có nhiều thay đổi so với quyết định số 1062 TC/QĐ/CSTS ban hành vào ngày 14/11/1996. Những thay đổi này đã giúp cho doanh nghiệp thuận lợihơn trong việc quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Nhà nước đã giao cho giám đốc doanh nghiệp quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm trong việc quản lý sử dụng tài sản cố định như: chủ động trong việc mua sắm, xây dựng tài sản cố định, đổi mới công nghệ chủ động quyết định trong việc cho thuê, nhượng bán, thanh lý tài sản cố định... với điều kiện sử dụng có hiệu quả tài sản, thu hồi vốn đã đầu tư. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp chủ động lựa chọn, đăng ký trích mức khấu hao trong quy định trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh với cơ quan quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, để doanh nghiệp tính toán phương án đầu tư, phương án kinh doanh, đồng thời khuyến khích thu hồi vốn nhanh để tái đầu tư, đổi mới công nghệ.
Doanh nghiệp có nhiều công ăn việc làm, giá trị sản lượng cao có quyền chủ động ký trích khấu hao ở mức cao trong khung đã quy định để nhanh chóng đổi mới công nghệ, đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất. Hoặc do khoa học kỹ thuật tiến bộ nhanh hơn, các tài sản cố định của doanh nghiệp đã trở nên lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu sản xuất, làm cho năng suất lao động thấp, doanh nghiệp cần phải trích khấu hao ở mức cao để thay đổi tài sản cố định .
Doanh nghiệp có công ăn việc làm ít, giá trị sản lượng thấp thì có thể đăng ký trích khấu hao ở mức thấp trong khung đã quy định phù hợp với việc huy động và sử dụng tài sản cố định .
Và trong quy chế mới này đã không quy định là “ doanh nghiệp không được phép đổi thời gian sử dụng tài sản cố định đã xác định và đăng ký với cơ quan tài chính trực tiếp quản lý theo các quy định trên đây ít nhất là trong 3 năm liền kể từ ngày tài sản cố định được cơ quan tài chính xác nhận thời gian sử dụng “. Đây là một sự thay đổi rất có ích đối với các doanh nghiệp . Bởi vì nếu vẫn để quy định trên thì sẽ gây phiền hà cho các doanh nghiệp vì 3 năm mới phải đăng ký một lần. Mà có thể trong 3 năm đó, sẽ có rất nhiều biến động có thể ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . Và do đó, để đảm bảo hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì doanh nghiệp thì doanh nghiệp cần phải thay đổi thời gian sử dụng tài sản cố định ,doanh nghiệp có thể tăng lên hay giảm đi thời gian sử dụng của tài sản cố định để phù hợp với yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Chẳng hạn như từ năm 1996 đến nay, đã xẩy ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, đầu tư nước ngoài giảm, đầu tư trong nước cũng hạn chế, việc làm của các nhà máy bị giảm sút một cách đáng kể, có nhà máy phải đóng cửa. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp cần phải thay đổi mức khấu hao đã đăng ký. Nhưng theo quyết định cũ thì việc đăng ký lại mức khấu hao phức tạp rất nhiều, tốn nhiều thời gian. Với quy chế mới này ra đời đã tránh cho doanh nghiệp những khó khăn trong việc đăng ký thời gian sử dụng tài sản cố định.
Cùng với việc thay đổi một số điều lệ, quy chế mới này đã chi tiết hơn, cụ thể hơn trong chế độ và quản lý tài sản cố định. Các doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn trong việc xác định hình thức áp dụng chế độ đối với doanh nghiệp của mình. Ngoài ra, chế độ mới còn thay đổi khung khấu hao đối với một số tài sản cố định. Tuy sự thay đổi là phù hợp hơn nhưng vẫn còn điều chưa hợp lý là( khung khấu hao rộng). Có loại tài sản cố định từ 4 năm đến 25 năm, do đó mức tối thiểu và tối đa chênh lệch chi phí rất lớn. Do đó sẽ gây khó khăn đối với những doanh nghiệp có tỉ trọng chi phí khấu hao lớn trong tổng chi phí.
Và một trong những vấn đề quan trọng trong việc quản lý sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định là phương pháp khấu hao tài sản cố định. Tất cả các doanh nghiệp đều phải trích khấu hao tài sản cố định theo quyết định số 166/1999/QĐ- BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng bộ tài chính là phương pháp khấu hao đường thẳng( hay còn gọi là phương pháp khấu hao bình quân, phương pháp khấu hao trực tuyến). Việc quy định phương pháp khấu hao duy nhất còn có những điều chưa thực sự hợp lý vì:
Thứ nhất: tài sản cố định trong doanh nghiệp có nhiều loại, nhiều nhóm khác nhau; công dụng của tài sản cũng như cách thức phát huy tác dụng của tài sản trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có sự khác nhau. Mức độ suy giảm về giá trị và gía trị sử dụng của tài sản cũng có sự khác nhau; lợi ích thu được từ việc sử dụng tài sản có sự khác nhau.
Thứ hai: Việc khấu hao tài sản cố định là sự phân bố có hệ thống các chi phí doanh nghiệp đã đầu tư để có được tài sản vào chi phí sản xuất kinh doanh trong quá trình sử dụng tài sản và đảm bảo phù hợp với lợi ích thu được từ tài sản đó trong quá trinh sử dụng.
Thứ ba: Xuất phát từ nguyên tắc phù hợp của kế toán với nội dung cơ bản là thu thập phải phù hợp với chi phí đã chi ra trong kỳ kế toán, mà chi phí khấu hao là một khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tư: vì khấu hao là một yếu tố chi phí có liên quan đến thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu quy định các doanh nghiệp phải khấu hao theo phương pháp đường thẳng để đảm bảo số liệu được tính thuế được đúng đắn khi thực hiện như vậy đã có sự đồng nhất giữa kế toán doanh nghiệp và kế toán thuế, trong khi hệthống kế toán doanh nghiệp không đồng nhất với kế toán tính thuế.
Từ những lý do chưa hợp lý trên, em xin có một vài kiến nghị:
1. Đối với vấn đề trích khấu hao tài sản cố định:
Đối với vấn đề nhà nước quy định các doanh nghiệp trích khấu hao đúng mức đã đăng ký là không nên ép buộc. Vì sẽ dẫn đến tình trạng phản ánh không đúng thực tế huy động tài sản cố định của doanh nghiệp và tình trạng doanh nghiệp bị lỗ do khấu hao. Việc trích khấu hao không chỉ phụ thuộc vào bản thân tài sản cố định mà còn phụ thụôc vào nhiều yếu tố bên ngoài như: tình hình tăng trưởng kinh tế xã hội, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tiến bộ của khoa học kỹ thuật... Chính vì vậy, mức trích khấu hao của doanh nghiệp có thể là đúng, là hợp lý trong thời điểm này, nhưng lại là sai, là bất hợp lý trong thời điểm khác.
Mức trích khấu hao trong khung quy định chỉ nên là chỉ tiêu hướng dẫn, còn trong quá trình hoạt động kinh doanh, nếu doanh nghiệp đạt giá trị sản lượng cao hơn( hoặc thấp hơn) kế hoạch thì doanh nghiệp có thể trích mức khấu hao theo tỉ lệ tương ứng.
Những chính sách đó sẽ giúp cho các doanh nghiệp tự chủ trong việc sản xuất kinh doanh chủ động trong việc thiết lập và sử dụng nguồn vốn khấu hao trên cơ sở và kế hoạch, phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời cũng giúp cho đơn giản, giảm bớt thủ tục trong khâu quản lý trích khấu hao.
Mỗi một doanh nghiệp sử dụng tài sản cố định với nhiều cách, nhiều phương thức khác nhau. Nhưng mục đích chung của các doanh nghiệp đều là thu được lợiích kinh tế trong quá trình sử dụng. Vì vậy, nhà nước nên cho các doanh nghiệp được phép lựa chọn phương pháp khấu hao cho phù hợp với công dụng, cách thức sử dụng tài sản cố định. Trong chế độ quản lý và sử dụng, trích khấu hao tài sản cố định, nhà nước ta ban hành là các doanh nghiệp chỉ được trích khấu hao theo một phương pháp duy nhất là phương pháp khấu hao đường thẳng ( phương pháp khấu hao bình quân). Điều này gây ra nhiều khó khăn trong việc trích khấu hao tài sản cố định của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Nhà nước có thể đưa ra các phương pháp khấu hao khác nhau đối với mỗi loại tài sản khác nhau:
- Như đối với loại tài sản cố định : nhà cửa, vật kiến trúc, các tài sản cố định vô hình... áp dụng phương pháp khấu hao đường thẳng.
- Đối với máy móc thiết bị, phương tiện vận tải thường gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh, tính năng công suất bị giảm dần trong quá trình sử dụng, cho phép áp dụng phương pháp khấu hao theo sản lượng hoặc khấu hao giảm dần.
- Đối với các thiết bị, dụng cụ quản lý thường chịu tác động của hao mòn vô hình nhiều, có thể áp dụng phương pháp khấu hao giảm dần.
- Đối với các doanh nghiệp có tài sản cố định hạch toán theo hợp đồng thuê dài hạn, phương pháp khấu hao cũng được áp dụng như các tài sản cố định cùng loại thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, hoặc phù hợp với điều kiện cách thức sử dụng tài sản để thu lợi.
- Đối với tài sản tạm ngừng sử dụng tại doanh nghiệp như ngừng vì lý do thời vụ, cho thuê hoạt động, tài sản cầm cố... trong thời gian ngừng sử dụng vẫn phải trích khấu hao nhưng áp dụng phương pháp khấu hao đường thẳng.
2. Đối với vấn đề phương pháp trích khấu hao tài sản cố định:
Phương pháp trích khấu hao đường thẳng là phương pháp đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng. Tuy nhiên nó không phải là phương pháp tối ưu để trích khấu hao cho mọi tài sản. Chính vì vậy, Bộ tài chính có thể tham khảo hệ thống kế toán Mỹ, kế toán Pháp để từ đó để lựa chọn ra những phương pháp trích khấu hao tài sản cố định như phương pháp khấu hao theo sản lượng, phương pháp khấu hao nhanh... Để phù hợp hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Mục đích của việc kế toán chi phí khấu hao là tính một phần chi phí hợplý của tài sản cố định cho mỗi kỳ kế toán sử dụng tài sản cố định đó. Phương pháp bình quân tính một phần như nhau cho các kỳ kế toán. Nếu tài sản cố định được sử dụng hầu như một lượng như nhau trong mỗi kỳ phương pháp kế toán thì phương pháp này phần bổ rất công bằng. Nhưng trong thực tế một số ngành kinh doanh, việc sử dụng tài sản cố định thay đổi rất nhiều từ kỳ kế toán này sang kỳ kế toán khác. Ví dụ: 1 công ty xây dựng có thể sử dụng một máy móc thiết bị xây cất chuyên dùng trong tháng này rồi sau đó không sử dụng nó trong nhiều tháng. Đối với loại tài sản cố định như vậy, vì việc sử dụng dao động từ kỳ này sang kỳ khác nên phương pháp khấu hao theo sản lượng cung cấp một cách tính phù hợp hơn. Đây chính là ưu điểm của phương pháp khấu hao theo sản lượng hợp lý hơn phương pháp khấu hao đường thẳng.
Còn đối với phương pháp khấu hao nhanh thì có rất nhiều loại: phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần, phương pháp khấu hao theo tổng số khấu hao các năm, khấu hao nhanh theo tỷ lệ thời gian... lợi ích mà phương pháp khấu hao nhanh mang lại là được hoàn trả tiền thuế thu nhập từ những năm đầu của tài sản cố định đến những năm cuối của tài sản cố định đó. Theo phương pháp khấu hao nhanh, các mức khấu hao sớm trong những năm đầu. Điều này dẫn đến những khoản thu nhập nhỏ và do đó, thuế thu nhập cũng nhỏ trong các năm. Tuy nhiên, tiền thuế chỉ hoãn được chứ không tránh được. Các mức khấu hao lớn hơn trong các năm đầu được bù lại bằng các mức khấu hao nhỏ hơn trong các năm cuối, và như vậy các khoản thu nhập, và thuế thu nhập sẽ được báo cáo và phải trả trong năm cuối của thời gian sử dụng của tài sản cố định.
Mỗi phương pháp khấu hao đều có ưu nhược điểm của nó và nó chỉ phù hợp với từng loại tài sản cố định khác nhau. Cho nên, nhà nước ta cần đưa thêm một số phương pháp tính khấu hao vào trong chế độ để các doanh nghiệp có nhiều thuận lợi hơn trong việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao tài sản cố định của doanh nghiệp mình.
3. Đối với vấn đề dời một tài sản cố định :
Là một vấn đề chưa được đề cập trong chế độ kế toán mới của việt nam. Đó là vấn đề “thay đổi đời 1 tài sản đang khấu hao”. Đây là một thiếu sót của kế toán việt nam dựa theo các chuẩn mực của kế toán quốc tế. Một doanh nghiệp phải ước tính đời hữu ích của 1 tài sản cố định để tính khấu hao. Việc dự đoán này thường là phần khó nhất cho kế toán khấu hao. Sau một thời gian tài sản cố định được đaư vào sử dụng, doanh nghiệp có thể nhận ra rằng việc ước tính đời cùa tài sản cố định trước đây là chưa hợp lý, doanh nghiệp có thể thay đổi tỷ lệ khấu hao để tính lại cho quãng thời gian còn lại mà không điều chỉnh những gì đã ghi trong quá khứ (năm trước). Các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận yêu cầu doanh nghiệp phải báo cáo bản chất, lý do và ảnh hưởng của việc thay đổi này đến kết quả lãi lỗ, trong phần ghi chú của báo cáo tài chính. Việc điều chỉnh đời hữu ích của tài sản có thể dài thêm hoặc ngắn bớt đi.
4. Đối với vấn đề quỹ khấu hao tài sản cố định:
Một vấn đề cũng phải xem xét, đó là việc quản lý quỹ khấu hao cơ bản tài sản cố định . Quỹ khấu hao cơ bản của xí nghiệp là nguồn vốn cơ bản và quan trọng để xí nghiệp có thể đầu tư giản đơn và mở rông tài sản cố định . Trước đây, nhà nước quy định là toàn bộ khấu hao cơ bản được đầu tư mua sắm bằng vốn ngân hàng nhà nước phải nộp hết vào ngân sách nhà nước, do nhà nước quản lý và sử dụng. Điều này gây ra rất nhiều khó khăn đối với doanh nghiệp. Vì khi doanh nghiệp có nhu cầu tái sản xuất tài sản cố định thì doanh nghiệp phải lập kế hoạch xin ngân sách cấp phát, tức là lại quay về dạng bao cấp mà chúng ta đã và đang xoá bỏ. Như vậy, thực tế doanh nghiệp có phát sinh nhu cầu thay thế đổi mới nhưng lại không chủ động được về nguồn. Nhưng theo chế độ mới, thì nhà nước đã nhượng lại quyền sử dụng nguồn vốn khấu hao cơ bản. Đây là một sự thay đổi hợp lý, giúp cho doanh nghiệp chủ động trong việc tái đầu tư, đổi mới công nghệ, là phù hợp với nguyên tắc hạch toán của nền kinh tế thị trường. Tiền khấu hao cơ bản vừa sử dụng đúng mục đích, vừa kịp thời khắc phục được sự tác động của lạm phát. Hơn nữa để thắng trong cạnh tranh, doanh nghiệp biết rõ nhất là nên đầu tư vào loại tài sản nào để không sợ bị lạc hậu về mặt kỹ thuật. Tuy nhiên, một số tài sản cố định đặc thù như: Nhà máy điện, cầu cảng... Nhà nước cần có quy định riêng. Các ngành này, giá trị tài sản này rất lớn, thời gian sử dụng dài. Trước mắt doanh nghiệp chưa có nhu cầu sử dụng nguồn vốn khấu hao cơ bản để lại dẫn đến tình trạng sử dụng vào việc khác hoặc tổng công ty điều cho các doanh nghiệp khác. Khi có nhu cầu xây dựng lại nhà máy, cầu cảng... doanh nghiệp sẽ không đủ vốn để thực hiện. Chính vì vậy, bên cạnh việc giao toàn quyền sử dụng nguồn vốn khấu hao cho doanh nghiệp, nhà nước nên có một số biên pháp, chính sách nhất định để nguồn vốn khấu hao trong doanh nghiệp được sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
kết luận
Quản lý và sử dụng tài sản cố định là một vấn đề rất rộng lớn và có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua bài viết trên, tôi đã phân tích và đưa ra một số ý kiến đối với vấn đề “ khấu hao tài sản cố định trong doanh nghiệp” nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình quản lý và sử dụng tài sản cố định.
Vì bài viết chỉ nghiên cứu về phần lý luận, không nghiên cứu, liên hệ với thực tế và với sự hiểu biết hạn chế của mình, bài viết này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự hướng dẫn và chỉ bảo của thầy cô và các bạn.
MụC LụC
Trang
Lời mở đầu
1
Phần i: khái quát chung về TSCĐ trong doanh nghiệp
2
I.
Khái niêm, đặc điểm và vai trò TSCĐ
2
1. Khái niệm về TSCĐ
2
2. Đặc điểm của TSCĐ
3
3.Vai trò của TSCĐ
4
II.
Phân loại và đánh giá TSCĐ
4
1. Phân loại TSCĐ
4
2. Đánh giá TSCĐ
7
III.
Chuẩn mực kế toán Quốc tế về TSCĐ
8
IV.
Đặc điểm kế toán TSCĐ một số nước
8
Phần II: khấu hao TSCĐ và kế toán khấu hao TSCĐ
9
I.
Hao mòn và khấu hao TSCĐ
9
II.
Các phương pháp khấu hao TSCĐ
10
III.
Chuẩn mực kế toán Quốc tế về khấu hao TSCĐ
13
IV.
Đặc điểm khấu hao TSCĐ ở một số nước
13
V.
Kế toán khấu hao TSCĐ theo chế độ hiện hành
14
Phần III: Nhận xét và kiến nghị về khấu hao TSCĐ và kế toán khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp.
16
Một vài ý kiến
kết luận
22
Tài liệu tham khảo
I. Sách:
1. Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính.
NXB TC - 2000
2. Kế toán chi phí
NXB Thống kê - 1994
3. Kế toán tài chính
NXB Thống kê - 1994
4. Nguyên lý kế toán Mỹ
NXB Thống kê - 1994
II. Tạp chí:
1. Tạp chí kế toán số 18/1999
2. Tạp chí kế toán số 23/2000.
3. Tạp chí "Tài chính doanh nghiệp" thánh 6/1999.
4. Tạp chí "Tài chính doanh nghiệp" tháng 11/1999
III. Văn bản pháp quy về chế độ trích, quản lý và sử dụng khấu hao tài sản cố định trong doanh nghiệp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35264.doc