-Vấn đề lạm phát: cần kiểm soát lạm phát nhưng phải từ từ, dần dần từng bước một,vừa chống lạm phát vừa chống khủng hoảng.Nói cách khác chống lạm phát nhưng vẫn phải bảo vệ bằng được tính thanh khoản của NHTM.Bên cạnh đó cần lưu ý mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá, giữa điều chỉnh giá xăng dầu với lạm phát.cần phải được đánh giá thận trọng trước khi tiến hành và thực thi chính sách của Nhà nước.
-Vấn đề tỷ giá: NHNN cần có những biện pháp kịp thời để tránh tối đa khả năng xảy ra khủng hoảng tiền tệ.Nên áp dụng tỷ giá linh hoạt hơn
-Nhất quán trong mục tiêu của chính sách tiền tệ: NHNN nên nhất quán trong mục tiêu của chính sách tiền tệ là tăng trưởng hay chống lạm phát.
Tóm lại NHNN cần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô tức là đảm bảo cho người dân có việc làm, thu nhập ổn định,tăng cường tích lũy tiết kiệm nhờ đó khả năng hút vốn của ngân hàng thương mại được nâng cao.Đồng thời cùng với việc kiềm chế lạm phát ổn định tiền tệ, cũng cần giữ vững tốc độ tăng trưởng đều đặn kiểm soát tốt mọi tín hiệu của thị trường, giúp nền kinh tế ổn định, giá trị nội tệ được giữ vững.
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1866 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nâng cao hiệu quả quản lý thanh khoản trong các ngân hàng thương mại (NHTM) của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rút tiền gửi
+Phát hành GTCG đến hạn
+Hoàn trả nợ vay
-Cầu thanh khoản phát sinh ngoại bảng
+Thanh toán chi phí hoạt động, nộp thuế
+Thanh toán cổ tức
●Các nhân tố ảnh hưởng tới nhu cầu thanh khoản bao gồm
Thứ nhất, nhóm nhân tố tạo nên sự hoảng loạn trong khách hàng gửi tiền như bất ổn chính trị, tham nhũng..
Thứ hai, nhóm nhân tố liên quan đến thu nhập và chi tiêu của khách hàng như tính thời vụ trong sản xuất và tiêu dùng, mức thu nhập và hệ số tiết kiệm, mật độ dân số và doanh nghiệp..
Thứ ba, nhóm nhân tố cạnh tranh trên địa bàn giữa các trung gian tài chính như chính sách lãi suất huy động, chính sách tín dụng..của mỗi tổ chức.
Thứ tư, nhóm nhân tố tạo nên sức mạnh và uy tín của bản thân ngân hàng như cán bộ, công nghệ, thị phần, uy tín…
●Cách thức mà NH áp dụng để quản lý cầu thanh khoản:
-Phân tích nhu cầu thanh khoản trong quá khứ
-Đo mối liên hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng và nhu cầu thanh khoản để xác định tần suất và độ lớn trong nhu cầu thanh khoản.
-Phân tích và định lượng nhu cầu thanh khoản đối với từng loại tiền gửi, từng nhóm khách hàng, từng thời kì trong năm.
Sau khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh khoản, nhà quản lý sẽ xác định được chiến lược quản lý thanh khoản bằng cách thiết lập chính sách những điều kiện để ổn định nhu cầu thanh khoản và biện pháp đáp ứng nhu cầu này khi cần thiết, trên cơ sở đó vừa đảm bảo an toàn thanh khoản vừa tối đa hóa thu nhập.
1.2.2.2.Xác định cung thanh khoản
Cung thanh khoản phát sinh bên tài sản bao gồm:
+Ngân quỹ
+Khách hàng hoàn trả tín dụng
+Tài khoản hoãn từ việc đầu tư vào chứng khoán đến hạn
+Thu nhập từ bán tài sản
Cung thanh khoản phát sinh bên nguồn vốn bao gồm
+Tiền gửi mới của KH
+Đi vay trên thị trường tiền tệ
+Phát hành GTCG
-Quản lý cung thanh khoản từ phía tài sản-chiến lược dự trữ:
Bao gồm các công việc
+Duy trì ngân quỹ với quy mô và cấu trúc thích hợp: Ngân hàng thường đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng bằng ngân quỹ:Tiền mặt trong két, tiền gửi tại NHNN và các TCTD khác
+Phân tích tính thanh khoản của tài sản thông qua khả năng chuyển tài sản thành ngân quỹ
+Lựa chọn danh mục tài sản phù hợp với điều kiện cụ thể của NH nhằm đảm bảo thanh khoản thông qua các tỷ lệ thanh khoản thích hợp hoặc thông qua dự đoán nhu cầu thanh khoản sắp tới.
-Quản lý cung thanh khoản từ phía nguồn vốn-chiến lược huy động:
Bao gồm các công việc:
+Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thời gian và chi phí huy động
+Lựa chọn cung thanh khoản từ phía bên nguồn thông qua việc phân tích thời gian và chi phí để mở rộng nguồn
+Nghiên cứu các công cụ nợ mới nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí
+So sánh chi phí nắm giữ tài sản thanh khoản và huy động mới
1.2.2.3.Quản lý kết hợp
Chiến lược quản lý thanh khoản kết hợp đã trở nên phổ biến, dựa trên duy trì thanh khoản của cả tài sản và nguồn vốn.Nhìn chung ngân hàng lớn, gần trung tâm tiền tệ có xu hướng dựa chính vào thanh khoản của bên nguồn, còn các ngân hàng nhỏ, xa trung tâm tiền tệ có xu hướng duy trì thanh khỏan dựa vào tài sản thanh khoản.
Hơn nữa, do những rủi ro cố hữu của việc dựa quá nhiều vào vay thanh khoản và mức chi phí đáng kể của việc dự trữ thanh khoản, hầu hết ngân hàng đã thực hiện một sự thỏa hiệp trong chính sách quản lý thanh khỏan, sử dụng cả quản lý thanh khoản tài sản và quản lý thanh khoản nợ.Theo chiến lược quản lý kết hợp, một phần nhu cầu thanh khoản dự tính sẽ được đáp ứng bằng việc dự trữ tài sản thanh khoản(chủ yếu là chứng khoán và các tiền gửi tại các NH khác) trong khi phần còn lại của nhu cầu thanh khoản sẽ được giải quyết bằng những hợp đồng hạn mức tín dụng từ các ngân hàng đại lý hoặc từ những người cho vay khác.Những yêu cầu tiền mặt bất thường sẽ được giải quyết chủ yếu bằng việc vay vốn.Ngân hàng cần lập kế hoạch cho các nhu cầu vốn dài hạn và cho các nguồn vốn dùng để đáp ứng yêu cầu này dưới hình thức vay ngắn hạn, dài hạn và chứng khoán những tài sản sẽ được chuyển thành tiền khi yêu cầu thanh khoản xuất hiện.
1.2.3.Các chỉ số đánh giá khả năng thanh khoản
(1)Tỷ lệ Tín dụng/Tiền gửi
(2)Tỷ lệ Tiền vay/Tổng tài sản:
Cả hai tỷ lệ này cao đều hàm ý ngân hàng đã dựa chủ yếu vào nguồn vốn ngắn hạn hơn là nguồn vốn dài hạn để tài trợ tín dụng.Điều này tiềm ẩn rủi ro thanh khoản trong tương lai của ngân hàng nếu như hiện tại ngân hàng đã đi vay hết khả năng của mình trên thị trường tiền tệ.
(3)Tỷ lệ Cam kết tín dụng/Tổng tài sản
Tỷ lệ này cao phản ánh nhu cầu thanh khoản cũng phải cao để đáp ứng nhu cầu rút tiền bất cứ lúc nào của người vay.Như vậy ngân hàng nào có tỷ lệ này cao sẽ phải đối mặt với rủi ro thanh khoản cao.
(4)Chỉ số trạng thái tiền mặt=
(Tiền mặt+Tiền gửi đến hạn tại các TCTD khác)/∑TS có
Chỉ tiêu này càng lớn hàm ý NH càng có khả năng xử lý các nhu cầu tiền mặt tức thời.
(5)Chỉ tiêu chứng khoán thanh khoản=Chứng khoán chính phủ/∑TS có
Chỉ tiêu này càng lớn thì NH được xem là càng thanh khoản
(6)Chỉ tiêu năng lực sử dụng vốn sinh lời
=(Dư nợ tín dụng+Dư nợ cho thuê tài chính)/∑TS có
Vì tín dụng và cho thuê tài chính được xem là những tài sản ít thanh khoản nhất, do đó chỉ tiêu này càng lớn NH càng bộc lộ là kém thanh khoản.
(7)Chỉ tiêu tiền nóng=Tiền nóng bên TS có/ Tiền nóng bên TS nợ
Tiền nóng là những tài sản nhạy cảm với lãi suất, thường bao gồm tiền mặt, tiền gửi không kì hạn, Chứng khoán chính phủ ngắn hạn và các tài sản khác có thể chuyển hóa thành tiền trong ngắn hạn.Nếu chỉ tiêu tiền nóng càng cao thì NH được xem là càng thanh khoản.
(8)Chỉ tiêu tiền gửi thường xuyên=Tiền gửi thường xuyên/Tổng tài sản
Chỉ tiêu này càng lớn NH được xem là càng thanh khoản
(9)Chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi=Tiền gửi không kì hạn/Tiền gửi có kì hạn
Chỉ tiêu này càng thấp thì nhu cầu thanh khoản của NH càng thấp
1.3.Các lý thuyết khác nhau về vấn đề thanh khoản trong các NHTM
1.3.1.Lý thuyết cho vay thương mại
Hình thành dựa trên việc nghiên cứu thanh khoản của các NH từ đầu thế kỉ19 trở về trước.Khi đó thị trường tài chính còn chưa phát triển cao, cho vay được coi là tài sản lớn nhất trong ngân hàng nên một ngân hàng muốn duy trì tính thanh khoản của tài sản thì phải dựa vào việc nắm giữ ngân quỹ (chủ yếu là tiền mặt) và các khoản cho vay của nó phải là các khoản cho vay thương mại.Lý thuyết này chứng minh rằng, trong điều kiện các nguồn của ngân hàng phần lớn là ngắn hạn thì cho vay thương mại, tức tài trợ ngắn hạn cho tài sản lưu động của doanh nghiệp sẽ đảm bảo sự phù hợp về kì hạn của tài sản và nguồn vốn của ngân hàng tạo cho NH khả năng nhận được nguồn trả nợ trong ngắn hạn do hàng hóa được bán, vì vậy sẽ là phương pháp tốt nhất đảm bảo thanh khoản.
Lý thuyết cho vay thương mại bên cạnh việc phân tích tính thanh khoản của các khoản cho vay thương mại đã không chú ý tới tính chất thanh khoản của nguồn vốn của ngân hàng và tính thanh khoản của các khoản cho vay phi thương mại, từ đó đã cho rằng các khoản cho vay phi thương mại là không đảm bảo tính thanh khoản và không thích hợp với ngân hàng thương mại.Nhưng thực tế lại ngược lại vì có rất nhiều khoản tiền gửi không bị rút ra khi đến hạn mà tiếp tục kì hạn mới. Những nguồn tiền như vậy có thể sử dụng cho vay trung và dài hạn.
Lý thuyết cho vay thương mại đã ảnh hưởng tới chính sách của NHTW đối với NHTM như là qui định về tỷ lệ nguồn ngắn hạn thường cao hơn nguồn trung và dài hạn, quy định về tỷ lệ nguồn ngắn hạn được chuyển sang cho vay trung và dài hạn…
1.3.2.Lý thuyết về khả năng chuyển đổi của tài sản
Dựa trên việc phân tích số lượng các ngân hàng Anh và Mỹ phá sản trong khủng hoảng 29-33, các tác giả của lý thuyết này cho rằng, số lượng các ngân hàng Anh (chủ yếu cho vay thương mại) bị phá sản cũng chẳng kém gì các ngân hàng Mỹ (mở rộng cho vay đối với bất động sản và người tiêu dùng).Như vậy, cho vay thương mại cũng không đảm bảo an toàn thanh khoản cho NHTM khi khủng hoảng xảy ra.Lý thuyết này chứng minh rằng vấn đề chính để đảm bảo an toàn thanh khoản là khả năng tạo ra thu nhập của ngân hàng(tăng khả năng tích lũy) và khả năng chuyển đổi của tài sản.Với sự phát triển của thị trường chứng khoán, thị trường tài sản, nhiều tài sản của ngân hàng có khả năng chuyển đổi cao đảm bảo ngân hàng có khoản thu cần thiết khi phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản.Do vậy, các ngân hàng hoàn toàn có thể thực hiện các khoản cho vay phi thương mại mà vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản của NH.
1.3.3.Lý thuyết về lợi tức dự tính
Lý thuyết này cho rằng các khoản thu từ tài sản không chỉ xảy ra khi tài sản đến hạn mà còn có được vào nhiều thời điểm trong suốt thời hạn của tài sản.Chẳng hạn nếu NH cho vay trung và dài hạn, song thực hiện thu nợ theo nhiều kì hạn nợ thì thu dự tính sẽ làm tăng tính thanh khoản của tài sản.
Lý thuyết này đặt nền tảng quan trọng trong việc nghiên cứu kì hạn của tài sản và nguồn vốn, coi đó là nội dung chính để quản lý thanh khoản của tài sản.Xây dựng kế hoạch thu nợ, thu lãi..căn cứ vào lợi tức dự tính của tài sản là một biện pháp đảm bảo tính thanh khoản của tài sản.
1.3.4.Lý thuyết về quản lý nợ
Lý thuyết này hình thành từ giữa những năm 60 của thế kỉ 20 gắn liền với việc hình thành công cụ huy động mới là chứng chỉ tiền gửi(CD) và thị trường CD.CD cho phép các ngân hàng lớn ở các trung tâm tiền tệ có thể huy động trong thời gian ngắn một lượng vốn lớn với chi phí rẻ hơn phát hành trái phiếu trung, dài hạn.
Cùng với việc phát triển thị trường liên ngân hàng cho phép các ngân hàng có thể vay lẫn nhau với quy mô lớn, chi phí giao dịch thấp.Môi trường hoạt động này làm tăng khả năng vay nợ của các NHTM.Và theo tác giả một ngân hàng có khả năng vay nợ cao(thời gian nhanh, quy mô lớn, chi phí thấp)thì có khả năng thanh khoản cao.
Tóm lại, các nhà quản lý ngân hàng có thể duy trì danh mục tài sản nghiêng về tính sinh lời hơn là tính thanh khoản và sử dụng việc huy động mới như là phương pháp chính để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Chương II: Thực trạng quản lý thanh khoản trong các NHTM của Việt Nam hiện nay
2.1.Giới thiệu chung về hệ thống các NHTM của Việt Nam
Hệ thống NHTM của Việt Nam có sự khác biệt trong hai giai đoạn:
●Ngân hàng trong cơ chế kế hoạch hóa:
Tổ chức tín dụng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Nhà tín dụng thành lập năm 1991.Đây là tiền thân của NHNN Việt Nam.NHNN Việt Nam với hệ thống các chi nhánh tỉnh, huyện đã từng là tổ chức tín dụng lớn nhất và duy nhất trong hàng chục năm.Với chức năng huy động tiền gửi của các doanh nghiệp, các cơ quan đoàn thể, các tổ chức kinh tế và dân cư để cho vay.NHNN vừa là cơ quan quản lý tiền tệ tín dụng vừa là tổ chức kinh doanh không vì mục tiêu lợi nhuận.
Ngân hàng nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, kiến thiết đất nước.Sau 1975, cùng với khó khăn của các nước XHCN, viện trợ cho Việt Nam giảm sút.Việt Nam phải đối đầu với hàng loạt các thách thức lớn:Giải quyết nạn đói sau chiến tranh,các vấn đề xã hội cấp bách, các công trình, nhà máy bị tàn phá, thiếu ngoại tệ mạnh để nhập khẩu hàng thiết bị và hàng tiêu dùng thiết yếu…Các chính sách bao cấp trong kinh tế đã đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng trì trệ không lối thoát.Trong lúc đó, NHNN phải in tiền để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của các doanh nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp.Lượng tiền cung ứng gia tăng trong điều kiện các sản lượng không tăng kịp đã đẩy lạm phát lên cao trong những năm 80.Lạm phát gia tăng làm xói mòn tiết kiệm, khuyến khích tích trữ và đầu cơ, dẫn đến gia tăng mạnh nhu cầu vay vốn từ ngân hàng.Lãi suất thực âm, tỷ giá bị bóp méo, tiền lương không đủ trang trải các chi phí tối thiểu…Vòng xoáy này gây sức ép ngân hàng phải in tiền nhiều hơn và ngân hàng đã không bảo toàn nhiều vốn, không tính toán được hiệu quả kinh tế, bị kéo vào vòng xoáy của siêu lạm phát.
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung với tình trạng độc quyền của NHNN và một số ngân hàng chuyên doanh thuộc sở hữu nhà nước góp phần duy trì tình trạng trì trệ trong các ngân hàng, làm giảm vai trò là trung gian tài chính hoạt động vì mục tiêu hiệu quả kinh tế.
Thời gian này chưa có hoạt động của các ngân hàng thương mại mà chủ yếu là NHNN điều tiết nền kinh tế chính vì vậy hiệu quả kinh tế thấp, các vấn đề về thanh khoản, tín dụng hay rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá có xảy ra cũng được hạn chế bằng các công cụ điều hành hết sức chủ quan của Nhà nước.Điều này kìm hãm sự phát triển kinh tế trong suốt thời kì bao cấp.
●Ngân hàng trong chuyển đổi cơ chế kinh tế (1990)
Hệ thống Ngân hàng Việt Nam thay đổi một cách đáng kể trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước.Mô hình tổ chức có sự thay đổi đáng kể đó là tách biệt chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, tín dụng với chức năng kinh doanh tiền tệ, đa dạng hóa các loại hình Ngân hàng, từng bước xóa bỏ độc quyền, chuyển sang cạnh tranh có sự quản lý của Nhà nước.Kể từ đầu những năm 90 hệ thống NHTM đã không ngừng phát triển về loại hình và nghiệp vụ góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước.
Nước ta đã thành lập được 4 Ngân hàng thương mại Quốc doanh:Ngân hàng Ngoại Thương, Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng Nông Nghiệp, Ngân hàng Đầu tư.Đến đầu năm 1990, cả nước đã có tới 15 NHTM cổ phần và các HTX tín dụng do các cấp chính quyền thành lập ở cả thành thị lẫn nông thôn.Trong môi trường chưa ổn định, các TCTD này đều còn non nớt và đều gặp vấn đề về thanh khoản, tình trạng mất khả năng chi trả của nhiều TCTD đã làm mất lòng tin của dân chúng.Đến quý I/1990 với 791 tỷ đồng đã cho vay thì 510 tỷ đồng quá hạn và đến quý III năm 1990 hầu hết các tổ chức tín dụng đều lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả.
Tháng 5/1990 2 Pháp lệnh Ngân hàng đã ra đời đó là Pháp lệnh NHNN, Pháp lệnh ngân hàng HTX Tín dụng và Công ty tài chính đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng, khẳng định hệ thống Ngân hàng là hệ thống 2 cấp bao gồm NHNN và các NHTM, HTX Tín dụng, Công ty tài chính…Tuy nhiên càng về nửa sau của những năm 90 hai pháp lệnh này bắt đầu bộc lộ những hạn chế.Trước tình hình đó, Quốc hội đã thông qua Luật về Ngân hàng Nhà nước và luật về các tổ chức tín dụng.Luật các tổ chức tín dụng đã tạo môi trường pháp lý mới cho sự phát triển của các Ngân hàng.
Tháng 10/2007 Việt Nam đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO.Tính đến thời điểm hiện tại, sau hơn một năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hệ thống NH Việt Nam đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức nhưng đã đạt mức tăng trưởng ngoạn mục xứng đáng là ngàng “xương sống” trong nền kinh tế quốc dân thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.Tính đến 1/12/2007 hệ thống TCTD Việt Nam gồm 5NHTM Nhà nước,35 NHTM Cổ phần, 9công ty tài chính, 11 Công ty cho thuê tài chính, 1Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương và 940 Quỹ tín dụng cơ sở.Ngoài ra còn 1 NH chính sách xã hội, 1Ngân hàng phát triển và Tổ chức bảo hiểm tiền gửi ngân hàng.Các ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài bao gồm: 5 NH liên doanh, 35 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 44 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.Các ngân hàng thương mại ngày càng phát triển mạng lưới và chi nhánh rộng khắp với hệ thống trang thiết bị hiện đại.
Bên cạnh sự phát triển vượt bậc về số lượng các ngân hàng, các mạng lưới và chi nhánh rộng khắp thì nhìn nhận một cách khách quan thì các NHTM của Việt Nam có quy mô còn rất nhỏ và trình độ phát triển chưa cao so với các ngân hàng của các nước phát triển, có trên 90% thị phần hoạt động ngân hàng do 16/86 NHTM lớn nhất Việt Nam và 02 ngân hàng chính sách nắm giữ, trong đó riêng các NHTMQD chiếm trên 70% thị phần.Thời gian qua dưới ảnh hưởng của lạm phát, NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ và thị trường kinh doanh trở nên khó khăn cùng với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu thì những yếu kém của ngành ngân hàng bắt đầu bộc lộ ngày càng rõ nét.Một trong những yếu kém dễ nhận thấy nhất là khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động trước những thay đổi của môi trường kinh doanh.Thời gian qua đặc biệt giai đoạn cuối năm 2007 và nửa đầu năm 2008 có thể thấy vấn đề “nóng” trong nền kinh tế là tình trạng khó khăn thanh khoản trong hệ thống NHTM của Việt Nam.Tình trạng này đã ảnh hưởng tới bản thân hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Chính vì vậy chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá một các khách quan thực trạng hệ thống ngân hàng và sự vận hành còn nhiều mặt hạn chế của nó để tìm ra giải pháp và định hướng cho hệ thống NHTM Việt Nam có đổi mới và cải tiến góp phần hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
2.2.Thực trạng thanh khoản trong các NHTM của Việt Nam những năm gần đây
2.2.1.Cầu thanh khoản:Tình trạng khan hiếm tiền đồng và cuộc chạy đua lãi suất
Năm 2006 được coi là năm thành công của năm thành công của hệ thống ngân hàng bởi chính những kết quả đầy ấn tượng trong hoạt động kinh doanh của NHTM.Không chỉ khối NHTM cổ phần kinh doanh đạt hiệu quả cao mà lợi nhuận của khối NHTM nhà nước cũng rất khả quan.Nếu phân tích sâu có thể thấy, mặc dù tín dụng được kiểm soát ở mức thấp, thị phần thu hẹp bớt nhưng hiệu quả kinh doanh của khối NHTMNhà nước lại cao hơn trước, dự phòng rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên, trên một số phương diện, khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trong nước còn yếu. Song, các ngân hàng trong nước vẫn có những lợi thế cạnh tranh nhất định, như có mạng lưới đủ rộng để tiếp cận dân cư, mở rộng thị phần, tạo lập được đông đảo những khách hàng truyền thống với những tập quán, thói quen mà các ngân hàng nước ngoài không dễ gì thay đổi được. Hơn nữa đến nay các ngân hàng trong nước cũng đã tiếp cận được không ít kinh nghiệm, kỹ năng và công nghệ để có thể bắt chước làm và có mặt còn làm tốt hơn ngân hàng nước ngoài. Đồng thời với nỗ lực cơ cấu lại toàn diện các NHTM nhà nước, NHTM cổ phần đã tạo được sự cải thiện về chất so với trước, cả về mặt tài chính, công nghệ, trình độ quản trị, điều hành.
Với những thành tựu trên nhìn chung vấn đề thanh khoản của các ngân hàng thương mại của nước ta có thể nói là tốt.
Tình hình thanh khoản năm 2007vẫn được duy trì tốt cho đến tháng 10.Tuy nhiên những ngày cuối tháng 11/2007 liên tục có thông tin về tình hình thiếu tiền đồng của một số ngân hàng.Đây là một diễn biến khá bất thường, vì đến cuối tháng 10, tỷ lệ cho vay bằng VND/tổng vốn huy động VND của các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội mới chỉ là 45.7% và của TP Hồ Chí Minh là 75.3%(hai địa bàn này chiếm gần 60% tổng dư nợ cho vay toàn hệ thống).Một lý do quan trọng là trong vòng một tuần các tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước đã di chuyển vốn khoảng 7200 tỷ đồng, làm cho các ngân hàng thương mại bị thiếu vốn khả dụng, đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng cao.
Kết quả tất yếu là các NHTM đồng loạt mở một cuộc chạy đua lãi suất tiền gửi nhằm huy động tiền gửi từ dân cư đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Cho đến 30/1/2008, Ngân hàng Nhà nước đã phải “bơm thêm” 12000 tỷ đồng vào lưu thông nhằm giúp cho các NHTM có thể vượt qua khó khăn trong vấn đề thanh khoản.Nhưng chỉ một ngày sau, NHNN lại tiếp tục” bơm thêm” 15000 tỷ đồng vào lưu thông với thời hạn thu về là 14 ngày.
Thời điểm cuối năm âm lịch, người dân rút tiền sắm tết khá lớn, thêm vào đó trước tết âm lịch các NHTM đã tăng cường cho vay đáng kể. Trong khi đó vào thời điểm sau tết âm lịch thì trong khi các dòng tiền tín dụng chưa kịp quay về, nhu cầu về tiền đồng trong ngân hàng thương mại chưa có dấu hiệu bớt căng thẳng, NHNN lại ra thông báo (ngày 13/2 )sẽ phát hành tín phiếu bắt buộc tổng trị giá 20.3 ngàn tỷ đồng vào ngày 17/3.
Cùng thời gian này, NHNN ra thông báo nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên thêm 1% cho tất cả các loại tiền gửi.
Có thể thấy rằng thời điểm cuối năm 2007 đầu năm 2008 dấu hiệu lạm phát bắt đầu gia tăng.Và để đối phó với tình trạng này, NHNN cùng một lúc sử dụng nhiều biện pháp kiềm chế lạm phát nhằm mục đích thắt chặt tiền tệ một cách dồn dập.NHNN đã khiến cho hàng loạt các ngân hàng thương mại gặp khó khăn phía cầu thanh khoản.
Và vì vậy các ngân hàng không còn cách nào hơn giải pháp hút tiền đồng từ trong nhân dân, từ đây lại nảy sinh một cuộc chạy đua lãi suất tiền gửi lần thứ hai giữa các ngân hàng thương mại.Trong cuộc chạy đua lãi suất này, một số ngân hàng đã đẩy lãi suất tiền gửi lên đến 14.4% năm(Seabank). 14.2%năm (Techcombank)…Các ngân hàng liên tục điều chỉnh lãi suất tiền gửi, thậm chí có ngân hàng thay đổi lãi suất đến 3lần trong một tuần.
Như vậy khoảng thời gian tính từ cuối 2007 cho đến nửa đầu 2008 tuy không dài song các ngân hàng thương mại Việt Nam đã gặp không ít khó khăn trong vấn đề về cầu thanh khoản.Tình trạng chung là thiếu tiền đồng và phải huy động tiền gửi trong dân cư với lãi suất cao trong cuộc chạy đua lãi suất.Điều đó cho thấy vấn đề quản lý thanh khoản trong các NHTM của Việt Nam vẫn chưa được coi trọng một cách thường xuyên, liên tục và đầy đủ mà chỉ đến khi nền kinh tế “có vấn đề” như lạm phát hay các chính sách của Nhà nước thì các NHTM bắt đầu mới tìm biện pháp đối phó.Sự bị động trong quản lý đã khiến các NHTM luôn phải đương đầu với rủi ro bất cứ lúc nào.
Tính cho đến cuối năm2008, nhìn chung lạm phát đã bị đẩy lùi, nền kinh tế nói chung đã qua giai đoạn nguy hiểm nhưng không tránh khỏi những khó khăn trong thời gian tới.Chính vì vậy các ngân hàng thương mại cần lưu ý chủ động trong quản lý và vấn đề quản lý cầu thanh khoản càng không thể xem nhẹ.
2.2.2.Cung thanh khoản: Vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao
Bắt nguồn từ tình trạng thiếu tiền đồng trong các NHTM khiến các NHTM gặp khó khăn thanh khoản ngày một nghiêm trọng. Các NH thường vay mượn lẫn nhau dưới 2 hình thức: nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác và vay các TCTD khác. Tuy nhiên để tránh phải làm những thủ tục chặt chẽ của một hợp đồng vay vốn, các ngân hàng thường dùng hình thức tiền gửi.Tuy nhanh gọn nhưng hình thức này chứa đựng nhiều rủi ro, đặc biệt trong những thời điểm trong hệ thống có dấu hiệu mất khả năng thanh khoản.
Bằng việc thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát cộng với việc quản lý thanh khoản của một số ngân hàng lớn có vấn đề khiến cho thị trường liên ngân hàng ngày một “nóng” lên.Ban đầu lãi suất mới chỉ tăng lên tới 11% rồi 12.6% rồi 13% và 14% qua các phiên nghiên cứu của thị trường mở.Tuy nhiên lãi suất trên thị trường liên NH vẫn chưa dừng lại ở đó khi nó lập nên một kỷ lục mới chưa từng có trong lịch sử là 17%/năm(21/11/2007).Mặc dù liên tục chào vay với lãi suất cao nhưng các ngân hàng còn dư vốn khả dụng vẫn không cung cấp đủ số tiền cần vay khiến lãi suất tiếp tục được đẩy lên và chính thức vượt ngưỡng 20% vào ngày 30/1/2008.
Tuy nhiên vấn đề thanh khoản vẫn chưa hề hạ nhiệt, lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng vọt lên 25-26%, khiến cho nhiều tổng giám đốc ngân hàng còn thốt lên”Làm gì có chuyện đó”.Tiếp tục sang 31/1/2008 lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tiếp tục nóng hơn, đã có ngân hàng phải vay với lãi suất 27%/năm và giám đốc phụ trách nguồn vốn của một ngân hàng cổ phần lớn còn cho biết nếu lãi suất tăng lên 30% thì cũng phải vay vì đã đến hạn cuối cùng để đảm bảo dự trữ bắt buộc rồi.Các NHTM cổ phần nhỏ phải chạy đôn chạy đáo để đảm bảo thanh toán cho khách hàng rồi đảm bảo dự trữ bắt buộc cho kì mới.Có ngân hàng thậm chí còn có khả năng không đảm bảo được tỷ lệ dự trữ bắt buộc nên cố vay bằng được để đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng trước rồi dự trữ bắt buộc tính sau.”Nước cuối cùng là chịu phạt của NHNNVN mà thôi.
Các NHTM gặp khó khăn trong vấn đề cung thanh khoản tiến hành dùng hình thức nhận tiền gửi từ các TCTD.Hình thức này chứa đựng nhiều rủi ro như đợt tháng2/2008 xảy ra tình trạng NH A không đòi được NH B vì B không đòi được NH C, C không trả được nợ vì người vay của C là NH D đang thiếu vốn khả dụng để đáp ứng lập tức nhu cầu thanh toán của khách hàng.. tình trạng cứ diến ra như vậy và cứ thế khiến cung thanh khoản của các NHTM gặp phải khó khăn và đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng ngày một “nóng” hơn.Có lúc các NHTM đã buộc phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất 40%/năm.Các ngân hàng cùng lôi nhau vào “vòng xoáy” đua tăng lãi suất gây nên những hậu quả nặng nề ảnh hưởng tới nền kinh tế trong một khoảng thời gian.
Chỉ trong một thời gian ngắn nhưng những biến động trên thị trường liên ngân hàng đã khiến cho các nhà quản lý cần phải nhìn nhận và đánh giá lại những yếu kém trong công tác quản lý mà đáng nói ở đây là vấn để quản lý cung thanh khoản.Tại sao lại xảy ra tình trạng như vậy?Nếu như các ngân hàng biết cân đối nguồn vốn và dự báo được tình trạng cuối năm thường xảy ra khan hiếm tiền đồng thì phải chăng có thể tránh khỏi nguy cơ phải huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng với mức lãi suất cao chưa từng thấy trong lịch sử như vậy không.Thực trạng trên thị trường liên ngân hàng đã cho chúng ta một bài học lớn trong vấn đề quản lý thanh khoản.
Nửa cuối 2008 dưới ảnh hưởng của lạm phát và cuộc khủng hoảng tài chính song ngành NH trong khó khăn vẫn giữ được an toàn hệ thống đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh.Vấn đề thanh khoản đã được xem trọng hơn so với thời gian trước vì vậy nhìn chung các ngân hàng đã quản lý thanh khoản tốt hơn so với thời kì trước.
2.2.3.Tình trạng thanh khoản
Trong giai đoạn nửa đầu năm 2008 có thể tổng kết rằng các NHTM Việt Nam thiếu hụt thanh khoản rất lớn.Bởi đối với nguồn huy động từ nền kinh tế(tính trên cơ sở tiền gửi dân cư và tổ chức kinh tế) thường chỉ chiếm khoảng 80% tổng vốn huy động, trong khi đó cho vay nền kinh tế thường chỉ chiếm từ 60-72% hoạt động sử dụng vốn.Đối với sử dụng vốn các ngân hàng để tồn quỹ tiền mặt, cho vay các TCTD khác, duy trì số dư tiền gửi tại NHNN, mua trái phiếu chính phủ, tín phiếu NHNN và đầu tư vào các GTCG khác.Với cơ sở trên chúng ta có thể ước tính sự thiếu hụt thanh khoản trong những trung tuần tháng6/2008 như sau:
Bảng 1:Tình hình huy động nguồn và sử dụng nguồn của NHTM Việt Nam
STT
Khối ngân hàng
Huy động từ nền kinh tế
Cho vay nền kinh tế
31/12/2007
6/6/2008
31/12/2007
9/6/2008
1
Khối NHTMNN
707.03
605*
578.29
560*
2
Khối NHTMCP
346.62
412*
286.2
350*
3
Khối NHLD và nước ngoài
88.12
90*
66.42
82*
Nguồn số liệu:Theo thống kê của NHNN
(*)Theo ước tính
Bảng 2:Ước tính chênh lệch nguồn và sử dụng nguồn của NHTM Việt Nam
TT
Khối ngân hàng
Chênh lệch nguồn và sử dụng nguồn
1
Khối NHTMNN
-100
2
Khối NHTMCP
-63
3
Khối NH LD và nước ngoài
-9
4
Tổng cộng
-172
2.3.Đánh giá thực trạng công tác quản lý thanh khoản trong các NHTM ở Việt Nam
2.3.1.Thành tựu trong việc quản lý thanh khoản trong các NHTM
●Đảm bảo tính thanh khoản của nền kinh tế:
Sau đợt căng thẳng đầu năm 2008 nhờ những can thiệp bằng chính sách đúng đắn và hiệu quả của NHNN, tình hình thanh khoản trong thời điểm hiện nay tương đối tốt, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đã giảm, không còn ở mức cao như đầu năm 2008.
Tính đến thời điểm cuối 2008 có thể nói các ngân hàng thương mại của Việt Nam đã chống đỡ tốt trước tình hình lạm phát và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.Lãi suất huy động và cho vay được hạ xuống đảm bảo cho các doanh nghiệp, cá nhân có thể vay vốn với lãi suất thấp để có thể kinh doanh, vấn đề thanh khoản được các ngân hàng coi trọng và xử lý hiệu quả. Các ngân hàng thoát ra khỏi tình trạng thiếu hụt thanh khoản so với nửa đầu năm 2008.
Hiện nay, tình hình thanh khoản của hệ thống Ngân hàng đã được cải thiện hơn so với đầu năm do tình hình lạm phát đang có chiều hướng chậm lại, NHNN đã có các chính sách can thiệp kịp thời để hỗ trợ cho các Ngân hàng gặp khó khăn. Tuy nhiên, do tình hình lạm phát trong nền kinh tế vẫn còn căng thẳng nên chưa thể nói đến khả năng nới lỏng chính sách tiền tệ thắt chặt tính thanh khoản của hệ thống ngân hàn vẫn luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý.
●Cùng với việc tính thanh khoản trong các ngân hàng được ổn định hơn thì các doanh nghiệp được vay vốn với chi phí hợp lý.Tình hình chung ở nửa cuối năm 2008 là các ngân hàng rục rịch hạ lãi suất cho vay.BIDV là ngân hàng đầu tiên công bố giảm lãi suất cho vay.BIDV cho hay lãi suất áp dụng đối với khách hàng của BIDV giảm chung 0.2% cho toàn bộ khách hàng của ngân hàng.
Riêng các doanh nghiệp trong các ngành hàng được ưu tiên về vốn sẽ được giảm lãi suất 0.6% cho vay ngắn hạn. Các doanh nghiệp này gồm các công ty thực hiện các dự án trọng điểm của Chính phủ, các ngành xăng dầu, xi măng, điện, sắt thép, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng thiết yếu như dược phẩm, lương thực, thực phẩm, nước sạch, vận tải.
Khi vấn đề thanh khoản đã ổn định hơn, các ngân hàng rục rịch hạ lãi suất cho vay là chia sẻ khó khăn của doanh nghiệp và khuyến khích các ngành hàng trong ưu tiên phát triển, các ngành tạo ra cân đối vĩ mô lớn cũng như tăng trưởng của nền kinh tế.
Khi tính thanh khoản của các ngân hàng đã ổn định thì nhu cầu thu hút tiền gửi tiết kiệm bằng mọi cách của ngân hàng cũng sẽ giảm. Nhờ vậy lãi suất đầu ra cũng sẽ bớt căng thẳng.Tính đến giữa tháng6/2008 vừa qua, NHNN đã thông báo số dư tiền gửi của các ngân hàng tại NHNN tiếp tục tăng và ở mức tương đối cao.
●Đảm bảo an toàn cho hệ thống: Ngành ngân hàng đã nỗ lực tham mưu và làm nòng cốt không chỉ điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt, linh hoạt mà còn đảm bảo tính thanh khoản của nền kinh tế góp phần thiết thực kiềm chế thành công lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì tăng trưởng của đất nước. Trong bối cảnh khó khăn nhưng các NHTM tiếp tục đảm bảo an toàn hệ thống, tích cực đổi mới ứng dụng công nghệ hiện đại, tăng cường nguồn vốn, bổ sung hoàn thiện thể chế chính sách, cán bộ ngân hàng ngày càng trưởng thành hơn trong năm 2008.
2.3.2.Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1.Hạn chế
●Sự bùng nổ thành lập hàng loạt các ngân hàng mới gây tâm lý lo ngại về năng lực quản lý của các ngân hàng trong đó có vấn đề về thanh khoản làm ảnh hưởng tới niềm tin của nhân dân
Chỉ tính từ nửa cuối năm 2006, NHNN liên tục nhận được hồ sơ xin thành lập mới ngân hàng với con số thống kê hết tháng 11/2007 là 20 bộ.Con số này tiếp tục tăng mạnh trong nửa đầu năm 2008 và sau đó giảm dần do chính sách siết chặt quản lý của chính phủ.Tốc độ phát triển của con số các ngân hàng mới cũng đồng nghĩa với việc đem lại những xáo trộn trong ngành ngân hàng và sự nảy sinh những lo ngại về năng lực quản lý và cạnh tranh của các ngân hàng mới.Và nếu như cứ thành lập ngân hàng trong khi trình độ của đội ngũ cán bộ và khả năng quản lý còn yếu như hiện tại thì hệ thống ngân hàng không những không đem lại hiệu quả cho nền kinh tế mà còn là gánh nặng cho nền kinh tế.
●Vấn đề thanh khoản trong các NHTM gặp phải khó khăn lớn chưa từng thấy trong lịch sử ngành ngân hàng
Tình trạng khan hiếm tiền đồng và chạy đua lãi suất trong các ngân hàng thương mại cùng với việc phải vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao chưa từng thấy trong lịch sử ngành ngân hàng của Việt Nam(mức lãi suất 40%) để đáp ứng nhu cầu chi trả khiến các ngân hàng phải “kiệt quệ”.Vấn đề này đã ảnh hưởng không nhỏ tới tổn thất cho các NHTM nói riêng mà còn ảnh hưởng lớn tới toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế nói chung.
●Công nghệ lỗi thời: mặc dù gần đây các ngân hàng trong nước đã đẩy mạnh việc hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng, tuy nhiên hiệu quả của những đầu tư không đồng đều.Đặc biệt trong công tác quản lý thanh khoản chưa có công nghệ tiên tiến để xây dựng hệ thống cảnh báo sớm giúp cho ngân hàng tránh khỏi nguy cơ rủi ro trong đó có rủi ro thanh khoản, một trong những rủi ro nguy hiểm nhất có thể khiến ngân hàng phá sản bất cứ lúc nào.
2.3.2.2.Nguyên nhân
●Sự bùng nổ thành lập các ngân hàng mới là do tâm lý đón đầu cơ hội khi Việt Nam gia nhập WTO hay có thể là do sự cởi mở của Nhà nước sau một thời gian dài quản lý chặt chẽ.
●Tình trạng khó khăn về thanh khoản trong thời gian qua của Việt Nam có thể do
-Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất do tăng trưởng tín dụng “quá nóng”Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại năm 2007 là 53.89%.Sự tăng trưởng tín dụng “quá nóng” của các ngân hàng thương mại đi kèm với cơ cấu đầu tư không hợp lý tập trung lớn vào đầu tư bất động sản chạy theo lợi nhuận sẽ phát sinh rủi ro cao khi thị trường đóng băng, tạo ra sự mất cân đối về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ do ngân hàng đã sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn.Chính điều này đã tạo ra rủi ro thanh khoản cao đối với ngân hàng thương mại.
Thứ hai,công tác dự báo và phân tích thị trường của các NHTM Việt Nam còn nhiều hạn chế.Các NHTM có tư tưởng ỷ lại quá nhiều vào cơ chế nhà nước, trong khi các ngân hàng nước ngoài ngoài việc chấp hành nghiêm túc các tỷ lệ an toàn còn thường xuyên nghiên cứu, dự báo sát các diễn biến của thị trường nên đã dự phòng vốn thanh khoản và điều chỉnh kịp thời không bị tác động trước những tác động của thị trường.
Thứ ba, tính liên kết hệ thống giữa các ngân hàng thương mại để đảm bảo an toàn thanh toán còn yếu, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền “làm giá, tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn đến làm giảm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.
Thứ tư, vấn đề quản trị thanh khoản tại các ngân hàng thương mại chưa tốt.Do sự yếu kém từ quản trị tài sản nợ, có của các NHTM và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu hiệu…Ngân hàng Nhà nước cũng khó nắm bất chắc chắn tình hình thanh khoản cũng như sự thay đổi lớn trong tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh qui định của mình.
-Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, xuất phát từ phía khách hàng, đây được đánh giá là nhóm nguyên nhân khiến các NH khó có thể dùng các công cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả thanh khoản của các ngân hàng.
Trong điều kiện thông tin bất cân xứng lại chưa minh bạch, một số khách hàng (kể cả pháp nhân) đã rút tiền ra khỏi ngân hàng này và chuyển sang ngân hàng khác, dân cư rút tiền để mua vàng, mua đôla Mỹ để tích trữ… đã làm tăng tính bất ổn của thị trường nội và ngoại tệ,gây khó khăn cho chính sách khach hàng đã và đang sử dụng dịch vụ gửi và vay tiền tại ngân hàng..
Thứ hai là nguyên nhân từ phía môi trường kinh doanh:từ vấn đề lạm phát cho đến chính sách tiền tệ của NHNN trong giai đoạn cuối 2007 nửa đầu 2008.Với chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát và hàng loạt các công cụ khác như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay phát hành tín phiếu.Các chính sách thắt chặt tiền tệ cùng với những nhân tố khách quan đã đẩy các NHTM rơi vào tình trạng khó khăn thanh khoản chưa từng thấy.
●Tình trạng công nghệ nước ta còn thấp là do nước ta vẫn đang trong giai đoạn phát triển.Do đó việc có những sản phẩm công nghệ cao ngay là vô cùng khó khăn cần phải học hỏi dần dần từng bước một.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thanh khoản trong các NHTM của Việt Nam
3.1.Định hướng phát triển của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới
Năm 2009 dự báo tình hình kinh tế sẽ khó khăn hơn 2008, do đó nhiệm vụ đặt ra cho 2009 đối với hệ thống NHTM của Việt Nam là rất nặng nề, khó khăn, thách thức là hết sức gay gắt nhưng thời cơ, thuận lợi và tiềm năng phát triển của nước ta là rất lớn và rất cơ bản.Định hướng phát triển trọng tâm rơi vào 4 vấn đề chính:
Một là, vai trò của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ có ý nghĩa quyết định.Ngành ngân hàng phải tham mưu đưa ra một chính sách thích hợp để chống suy giảm kinh tế, kích thích đầu tư; dự báo, phân tích, đánh giá, nắm chắc tình hình để chủ động điều hành, tham mưu thực hiện được các mục tiêu đề ra.Huy động tổng hợp sức mạnh của toàn ngành để thực hiện có hiệu quả, đoàn kết, chung sức, chung lòng vì mục tiêu chung.
Hai là, điều hành lãi suất, tỷ giá linh hoạt, hiệu quả, góp phần giữ ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống: đảm bảo khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng, nhưng đồng thời đáp ứng đủ vốn cho nền kinh tế.Giải bài toán lãi suất hiện nay là rất quan trọng.
Ba là, lành mạnh hơn nữa hệ thống ngân hàng, cả về năng lực tài chính, nâng cao chất lượng tín dụng, đổi mới và hiện đại hóa công nghê, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị điều hành…Đặc biệt vấn đề nợ xấu sẽ có chiều hướng tăng lên trong thời gian tới, cần có sự quan tâm đúng mức không thể chủ quan
Bốn là, hoàn thiện hệ thống thể chế về tiền tệ và ngân hàng, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, đảm bảo hoạt động của hệ thống ngân hàng an toàn, hiệu quả, linh hoạt hơn, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, tăng cường năng lực quản lý nhà nước của NHNN và đáp ứng yêu cầu đổi mới hoạt động ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế.Trước mắt, tập trung hoàn thành việc xây dựng và trình Quốc hội 2 Dự án Luật ngân hàng Nhà nước và Luật Các Tổ Chức tín dụng.Đồng thời, tăng cường công tác cải cách hành chính, chống tham nhũng tiêu cực.Làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền để tạo sự đồng thuận và giúp công chúng hiểu rõ hơn về hoạt động ngân hàng.
3.2.Giải pháp
3.2.1.Cần vận dụng linh hoạt các học thuyết trong quản lý thanh khoản
Các lý thuyết về thanh khoản trình bày mối quan hệ biện chứng giữa quản lý cung cầu thanh khoản và môi trường hoạt động của ngân hàng.Chính vì vậy việc nắm vững các học thuyết để có thể vận dụng một cách linh hoạt trong quản lý thanh khoản là vô cùng cần thiết.
3.2.2.Xây dựng chiến lược quản lý tài sản nợ và tài sản có góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thanh khoản
Rút kinh nghiệm đợt khó khăn thanh khoản vừa qua, nhiều ý kiến cho rằng các ngân hàng cần thiết lập ngay chiến lược quản trị thanh khoản thông qua việc hoạch định và dự đoán những thay đổi về lưu lượng tiền gửi và cho vay, cũng như những thay đổi về lợi nhuận.
3.2.3.Nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh
Đây là biện pháp được đánh giá khá căn bản để có thể quản lý thanh khoản trong cả công tác phòng ngừa và xử lý các khó khăn về thanh khoản. Trong hoạt động ngân hàng, chất lượng nguồn nhân lực và công nghệ đóng vai trò rất quan trọng. Đây cũng chính là hai yếu tố trong số 4 yếu tố sống còn liên quan đến sự tồn tại phát triển và cạnh tranh hội nhập của bất cứ một ngân hàng thương mại nào, đó là Quy mô tổng tài sản, hiện đại hóa, nguồn nhân lực và quản trị chiến lược theo chuẩn mực quốc tế.
3.2.3.1.Nâng cao trình độ cho cán bộ quản trị và nhân viên ngân hàng
Bất cứ một tổ chức tài chính hay doanh nghiệp nào muốn kinh doanh thành công thì không thể xem nhẹ vấn đề con người.Chính vì vậy việc đào tạo đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn là một việc làm cần thiết và luôn phải được đặt lên hàng đầu.
3.2.3.2.Phát triển các sản phẩm công nghệ trong ngân hàng
Các NHTM cần phải xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển CNTT ngân hàng, lựa chọn giải pháp kỹ thuật ứng dụng phù hợp với xu thế toàn cầu, tuân thủ giải pháp mở, có khả năng mở rộng trong những năm tiếp theo.Đồng thời xây dựng được phần mềm ứng dụng hợp lý, phù hợp với điều kiện Việt Nam để tin học hóa các nghiệp vụ một cách đồng bộ, từng bước tự động hóa theo chuẩn mực quốc tế.Trên cơ sở đó, xây dựng hệ thống kĩ thuật tiên tiến, thực hiện chuyển giao công nghệ có hiệu quả để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, kịp thời ban hành hệ thống pháp lý đồng bộ với quá trình ứng dụng.
Như vậy có thể thấy vấn đề con người trong việc quản trị và mức độ hiện đại hóa công nghệ là đều là những nhân tố hết sức quan trọng. Nếu quản lý rủi ro góp phần ngăn chặn những đổ vỡ đột ngột thì khả năng quản trị và mức độ hiện đại hóa công nghệ sẽ có ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh. Do các ngân hàng Mỹ chưa có sự hiện diện mạnh mẽ tại Việt Nam, do vậy sẽ không có một khoảng trống đáng kể nào tại thị trường hiện nay xảy ra do sự đổ vỡ của các Ngân hàng lớn của Mỹ.Điều đó có nghĩa là sẽ không có những xáo trộn lớn với việc một số ngân hàng chớp thời cơ để giành giật thị trường. Tuy nhiên, nếu các ngân hàng trong nước không nâng cao được khả năng quản trị và hiện đại hóa công nghệ thì những ưu thế có được do được bảo hộ sẽ dần mất đi.Và sẽ càng khó khăn hơn cho các ngân hàng trong nước khi các ngân hàng nước ngoài đã bắt đầu được chính phủ ta cấp phép mở chi nhánh tại Việt Nam, nếu như những hạn chế này không được cải thiện.Bên cạnh đó,nâng cao chất lượng dịch vụ là yếu tố quan trọng đối với bất cứ một lĩnh vực kinh doanh nào, và ngành ngân hàng không phải ngoại lệ.
3.2.4.Tăng cường quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ
Các ngân hàng cần tăng cường quản trị rủi ro đặc biệt là rủi ro hoạt động, tránh tối đa những dấu hiệu, hiện tượng liên quan đến loại rủi ro này.Đây sẽ luôn là loại rủi ro có tính nhạy cảm cao và tác động liên thông trực tiếp đến rủi ro thanh khoản.Cụ thể các ngân hàng cần xây dựng mô hình quản lý rủi ro hoạt động toàn diện trên cả 4 vấn đề: quy trình, con người, hệ thống và các sự kiện bên ngoài. Mô hình này nên tổ chức theo 3 cấp từ Hội đồng quản lý rủi ro hoạt động, Ủy ban quản lý rủi ro hoạt động đến bộ phận quản lý rủi ro hoạt động.Trong đó bộ phận quản lý rủi ro hoạt động sẽ bao gồm 3 bộ phận:quá trình tự đánh giá của các bộ phận nghiệp vụ, bộ phận quản lý rủi ro hoạt động chuyên trách, bộ phận kiểm toán nội bộ.Mô hình trên được mô phỏng theo mô hình của tập đoàn ING(Internationale Nerderlanden Groep)và đã được triển khai rất thành công.Mô hình này cùng với các công cụ như Báo cáo định kỳ về chỉ số rủi ro chính theo ngày/tuần/tháng.Báo cáo theo tín hiệu đèn giao thông dựa trên các giới hạn rủi ro định trước..sẽ giúp phát hiện sớm các rủi ro hoạt động để từ đó có các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro hoạt động.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp và cá nhân. Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro lớn, có thể dẫn đến việc người gửi tiền ở ngân hàng hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở ngân hàng, làm cho không chỉ ngân hàng gặp rủi ro mà cả hệ thống ngân hàng gặp khó khăn, nền kinh tế xã hội mất ổn định.Bởi vậy, tiếp tục bổ sung điều chỉnh chính sách, xây dựng, hoàn thiện các quy trình quản trị rủi ro, hoàn thiện tổ chức và hoạt động kiểm tra,kiểm soát nội bộ ở các NHTM là các vấn đề cần phải được quan tâm, chú trọng tạo niềm tin cho khách hàng, công chúng trong bối cảnh hiện nay.Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng phân tích khách hàng, xếp hạng tín dụng, hệ thống phê duyệt và kiểm soát tín dụng. Vận dụng một cách có hiệu quả các mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng đã được áp dụng trên thế giới tạoc công cụ đắc lực trong việc ra quyết định đúng đắn
Tiếp tục cải tiến các mô hình quản trị rủi ro thị trường( hệ thống theo dõi và kiểm soát thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro ngoại hối) theo hướng tiên tiến và hiện đại.Hình thành cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc phân tích, quản trị rủi ro ứng dụng công nghệ, sử dụng các phương pháp đo lường rủi ro hiện đại đảm bảo đưa ra những quyết sách điều hành phòng ngừa và hạn chế rủi ro thích hợp, nhanh nhạy, chi phí thấp và hiệu quả cao.
Đi liền với quản trị rủi ro là hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ. Hệ thống này của ngân hàng cần đảm bảo mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả.Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ không chỉ dừng lại ở công tác hậu kiểm dưới hình thức tổ chức từng đợt kiểm tra, phát hiện những sai phạm đã phát sinh mà cần nâng cao khả năng phát hiện, ngăn ngừa và quản trị rủi ro. Ngoài ra, cần nâng cao vai trò của bộ phận kiểm soát nội bộ, thực hiện đánh giá độc lập về hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ, đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ ở NHTM.
3.2.5.Liên kết thống nhất giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
Các ngân hàng cũng nên có những chiến lược ngược lại nhằm khai thác trên những cơ hội mua lại/sáp nhập các ngân hàng với nhau. Đây cũng chính là một trong những giải pháp có thể đem lại niềm tin và cân bằng về thanh khoản hoặc cũng là cơ hội tăng những giao dịch cho vay liên ngân hàng với lợi nhuận khá và ít rủi ro hơn thay vì lại đi cho vay tín dụng.Mặc dù vấn đề mua lại/sát nhập còn khá lạ lẫm và mới mẻ đối với các ngân hàng, doanh nghiệp ở Việt Nam song ở trên thế giới vấn đề này khá phổ biến và GS.TS Trần Đình Thiên-Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng “trong khủng hoảng hoàn toàn có thể có khái niệm kinh doanh khủng hoảng, mọi ngân hàng đều có thể đi tìm các cơ hội trong khủng hoảng như vậy nguy cơ khủng hoảng sẽ được đẩy xa rất nhiều.
3.3.Kiến nghị
3.3.1.Đối với Ngân hàng nhà nước
3.3.1.1.Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
-Vấn đề lạm phát: cần kiểm soát lạm phát nhưng phải từ từ, dần dần từng bước một,vừa chống lạm phát vừa chống khủng hoảng.Nói cách khác chống lạm phát nhưng vẫn phải bảo vệ bằng được tính thanh khoản của NHTM.Bên cạnh đó cần lưu ý mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá, giữa điều chỉnh giá xăng dầu với lạm phát..cần phải được đánh giá thận trọng trước khi tiến hành và thực thi chính sách của Nhà nước.
-Vấn đề tỷ giá: NHNN cần có những biện pháp kịp thời để tránh tối đa khả năng xảy ra khủng hoảng tiền tệ.Nên áp dụng tỷ giá linh hoạt hơn
-Nhất quán trong mục tiêu của chính sách tiền tệ: NHNN nên nhất quán trong mục tiêu của chính sách tiền tệ là tăng trưởng hay chống lạm phát.
Tóm lại NHNN cần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô tức là đảm bảo cho người dân có việc làm, thu nhập ổn định,tăng cường tích lũy tiết kiệm nhờ đó khả năng hút vốn của ngân hàng thương mại được nâng cao.Đồng thời cùng với việc kiềm chế lạm phát ổn định tiền tệ, cũng cần giữ vững tốc độ tăng trưởng đều đặn kiểm soát tốt mọi tín hiệu của thị trường, giúp nền kinh tế ổn định, giá trị nội tệ được giữ vững.
3.3.1.2.Hoàn thiện hành lang pháp lý
Cần phải xây dựng hệ thống hành lang pháp lý và đưa hệ thống luật pháp ngân hàng của Việt Nam phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và WTO.
Đề nghị chính phủ phát hành một bản công bố chính thức thông báo công nhận và tuân theo các thông lệ quốc tế ICC.
3.3.1.3.Tăng cường thanh tra giám sát tổ chức tín dụng và xây dựng hế thống cảnh báo sớm
Cần nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo sớm mà hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa hề có. NHNN cần xây dựng chính sách kiểm soát và ràng buộc NHTM trong môi trường kinh doanh theo mục tiêu an toàn đảm bảo điều hành yếu tố vĩ mô nhằm phát triển tính an toàn.Ngoài ra NHNN cần có kế hoạch dự phòng tài chính của mình để kịp thời ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ lan truyền toàn hệ thống.
Cần có những quy định về hướng dẫn trợ giúp cần thiết cho NH trong quản lý thanh khoản, phát huy vai trò thanh tra của NHNN đồng thời hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy thanh tra ngân hàng.
3.3.1.4.Đẩy mạnh hoạt động của thị trường phái sinh
Thị trường phái sinh là một trong những biện pháp để hạn chế rủi ro rất tốt cho các thành viên tham gia trên thị trường tài chính.Chính vì vậy chính phủ và NHNN cần đẩy mạnh và quan tâm hơn nữa hoạt động của thị trường này giúp cho thị trường tài chính của Việt Nam ngày một hoàn thiện có thể chống đỡ với những rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh, vừa đảm bảo an toàn cho người tham gia và toàn hệ thống.
3.3.2.Đối với NHTM
3.3.2.1.Giải quyết mối quan hệ giữa nguồn và sử dụng nguồn
Các NHTM cần nâng cao khả năng dự trữ cung thanh khoản đặc biệt trong trường hợp nền kinh tế lạm phát cao, người dân nhạy cảm với tin đồn và tiềm ẩn nguy cơ xảy ra cuộc khủng hoảng tiền tệ.Vì vậy các ngân hàng nên xây dựng tham khảo các mô hình cung cầu thanh khoản nhằm đảm bảo chủ động trước những biến động của thị trường.Những mô hình này thường sử dụng kĩ thuật thống kê khác nhau cùng với sự đánh giá và kinh nghiệm của người quản lý để xây dựng những dự báo về cho vay hoặc tiền gửi.
3.3.2.2.Cần đẩy mạnh liên kết phát triển
Cần phải tăng cường tính liên kết và hợp tác giữa các ngân hàng với nhau để:
Thứ nhất, có thể khai thác lợi thế cạnh tranh của nhau, cùng phát triển sản phẩm dịch vụ, thu hút khách hàng, tiết kiệm giảm chi phí, tăng hiệu quả hoạt động.
Thứ hai, có thể hỗ trợ lẫn nhau trong vấn đề thanh khoản khi thị trường có biến động bất lợi.
Sự hợp tác giữa các NHTM không chỉ góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế đất nước mà còn vì chính lợi ích và sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp trong đó có các NHTM.
KẾT LUẬN
Như vậy nhìn lại chặng đường của Việt Nam trong thời gian qua có thể thấy rằng sau một thời gian dài liên tục đạt được nhịp độ tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định thì bắt đầu từ cuối năm 2007 và những tháng đầu năm 2008, nền kinh tế nước ta đã xảy ra nhiều biến động, nước ta rơi vào tình trạng lạm phát cao.Và để ngặn chặn tình trạng này khôi phục nền kinh tế là hàng loạt các biện pháp thắt chặt chính sách tiền tệ của chính phủ khiến các NHTM rơi vào tình trạng khó khăn về thanh khoản chưa từng thấy.Thêm vào đó là cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng lớn trên thế giới đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động của các NHTM nói riêng.Và vì vậy một trong những vấn đề “nóng bỏng” được tất cả các thành viên trong nền kinh tế từ NHNN cho tới các NHTM đặc biệt quan tâm đó là vấn đề thanh khoản trong các ngân hàng thương mại.
Rủi ro thanh khoản được xem là loại rủi ro thường nhật song cũng là loại rủi ro nguy hiểm nhất đe dọa sự tồn tại không những của mỗi NHTM mà còn ảnh hưởng tới sự an toàn của toàn hệ thống.Chính vì vậy quản lý thanh khoản trong các NHTM là một vấn đề không thể xem nhẹ.
Trên đây là những nghiên cứu của em về vấn đề lý thuyết chung và thực trạng về vấn đề quản lý thanh khoản trong các NHTM Việt Nam những năm gần đây cùng với một số kiến nghị và giải pháp đưa ra nhằm góp phần hoàn thiện nâng cao hiệu quả quản lý thanh khoản trong các NHTM nói riêng và hiệu quả quản lý kinh tế nói chung.Trong tương lai hệ thống NHTM của Việt Nam chắc chắn sẽ phải đương đầu với rất nhiều thách thức to lớn.Vì vậy chúng ta cần phải thực hiện những giải pháp toàn diện nâng cao hiệu quả quản lý trong các NHTM đưa Việt Nam tăng trưởng, phát triển ổn định góp phần hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Cuối cùng một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy đã hướng dẫn tận tình và đóng góp những ý kiến quý báu giúp em hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu của mình!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22163.doc