Đề án Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản

Với các doanh nghiệp công nghiệp trong ngành chế biến thuỷ sản là ngành được coi là then chốt trong cơ cấu kinh tế công nghiệp Việt Nam tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng vì sự tồn tại và phát triển trong tương lai thì việc tiếp tục nâng cao khả năng cạnh tranh là rất cần thiết. Dựa vào những kiến thức thu được qua các môn học đã được học trong trường cũng như sự hiểu biết thêm ngoài xã hội; đề tài "nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản" đã trình bày cơ bản nhất những vấn đề lí luận về cạnh tranh cũng như tình hình cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong thời gian tới. Việc áp dụng đồng bộ các giải pháp hy vọng sẽ giúp các doanh nghiệp ngày càng tạo ra lợi thế cạnh tranh so với đối thủ cạnh tranh. Đó là cơ sở vững chắc cho sự vươn lên phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến hàng thuỷ sản của Việt Nam.

doc36 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 847 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp nào. ẩn ý đằng sau ở đây chính là nguyên lý trao đổi tự nguyện: nếu quan hệ giữa các bên là tự nguyện, thì giao dịch trao đổi sẽ diễn ra khi họ tin rằng họ đều có lợi. Và một hệ quả quan trọng của mô hình cạnh tranh hoàn hảo là có rất ít lý do hợp lý cho sự can thiệp của nhà nước. (Song nếu coi Adam Smith loại bỏ hẳn vai trò của nhà nước là không đúng. Ông thừa nhận một số ngoại lệ cho nhà nước như việc cung cấp hàng hoá công cộng: đướng xá, quốc phòng....Ngăn ngừa tích tụ độc quyền và tạo thể chế cho quyền sở hữu tư nhân, an toàn cá nhân và các hợp đồng giao dịch để thị trường vận hành được “trôi chảy”). Đồng thời, lập luận lý giải cho sự sự can thiệp của nhà nước cũng không kém rõ ràng. Trước hết đó là sự thất bại của thị trường đối với việc đạt hiệu quả Pareto. Bốn nguyên nhân chủ yếu thường được dẫn ra ở đây là : Cấu trúc và hành vi thị trường không đảm bảo cạnh tranh hoàn hảo (chẳng hạn do độc quyền, rào cản nhập cuộc, các hành vi hạn chế cạnh tranh ); Thông tin không thích hợp và đầy đủ (tính bất đối xứng của thông tin cho các bên tham gia thị trường hoặc sự méo mó thông tin làm cho giá cả không ở mức phản ánh đúng các giao dịch tối ưu); Sự cần thiết phải có hàng hoá công cộng (tức là hàng hoá mà khi có người tiêu dùng, người khác vẫn có thể tiêu dùng, và không thể hoặc với phí tổn cực ký cao để có thể loại trừ ai đó không được tiêu dùng), mà thị trường tư nhân không muốn cung cấp; - Tác động ngoại ứng không được phản ánh qua giao dịch thị trường. Nếu thiếu sự điều tiết, các hoạt động thị trường có thể có tác động ngoại ứng tiêu cực sẽ bùng phát quá đáng, còn các hoạt động có tác động ngoại ứng tích cực sẽ bị giảm thiểu ít nhiều. Thứ nữa là sự thất bại của nhà nước về thể chế, chính sách điều tiết và khu vực kinh tế nhà nước vốn làm sai lệch việc phân bố các nguồn lực và làm giảm hiệu quả kinh tế. Kết quả là nhà nước buộc phải “tái can thiệp”, chủ yếu thông qua việc giải điều tiết, minh bạch hoá chính sách và có khi phải thực thi những cải cách kinh tế sâu rộng. Ngoài mục tiêu hiệu quả, các nhà nước còn phải duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong khi việc đảm bảo hiệu quả kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô có mối liên hệ thuận khá rõ, như tăng trưởng xét về dài hạn, thì giữa hiệu quả và công bằng xã hội thường có sự đánh đổi và mâu thuẫn. Vấn đề là do tính phức tạp và sự khác biệt nhất định trong lý giải công bằng xã hội. Quan niệm này phụ thuộc nhiều vào tư tưởng chính thống, các tiêu chí về giá trị, phúc lợi xã hội, văn hóa, đạo đức và cả cách nhìn nhận của các tầng lớp, nhóm xã hội khác nhau. Lý thuyết kinh tế cũng khẵng định rằng không thể có một cơ chế lựa chọn xã hội hoàn toàn thoả đáng; do vậy vấn đề là so sánh kết cục có thể của các cơ chế có phần không hoàn hảo. Hơn nữa, ngay khi mục tiêu công bằng đã được thừa nhận (như hạn chế chênh lệch giàu – nghèo quá đáng) thì phạm vi, liều lượng của các biện pháp hỗ trợ đưa ra (như thuế thu nhập) vẫn có thể hạn chế, làm méo những kích thích lợi ích – một điểm mấu chốt đảm bảo hiệu quả trong kinh tế thị trường. Và về dài hạn, nếu không co tăng trưởng bền vững, tức không có việc năng cao vững chắc mức thu nhập bình quân tính theo đầu người, thì khó có thể nói đến việc thực hiện công bằng xã hội toàn diện và tốt đẹp. Chính vì vậy, trong khi đánh giá cao ý nghĩa quan trọng của sự công bằng xã hội, các nhà kinh tế học thường quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây không nên hiểu là phản ứng tự nhiên của các nhà kinh tế trước tính phức hợp của vấn đề công bằng xã hội, mà thực sự có những lý do khá hợp lý cho sự lựa chọn đó. Một là, hiệu quả Pareto chỉ có thể đạt được khi các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả (chi phí ít nhất, lợi nhuận cao nhất với một mức sản lượng đặt ra). Do đưa đến những ý tưởng mới, công nghệ mới, sản phẩm mới, hình thức tổ chức, dịch vụ và tiếp thị mới nên cạnh tranh đảm bảo tính năng động của doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Đây chính là điều kiện cần cho sự tăng trưởng bền vững và từ đó nhà nước có thể thực hiện tốt hơn vai trò đảm bảo công bằng xã hội của mình nhất là xét về dài hạn. Hai là, dẫu công bằng xã hội và tính hiệu quả kinh tế có mâu thuẫn, thường vẫn có cách cải thiện chính sách để nâng cao hiệu quả kinh tế mà ít ra không làm giảm mức độ công bằng xã hội vốn có, nếu không nói là cải thiện được cả hai mục tiêu. Trên thực tế các cải thiện tốt thường được suy tính dựa trên những kích thích thị trường. Lưu ý rằng đây là điều rất quan trọng kể cả khi xây dựng các chính sách liên quan đến kinh tế, giáo dục, các chương trình trợ cấp thất nghiệp, cung cấp nhà ở và phúc lợi xã hội. Ba là, các bài học về sự phát triển trên thế giới cũng cho thấy tham vọng quá cao vào các vấn đề công bằng xã hội bất chấp hiệu quả kinh tế đều phải trả giá đắt không chỉ cho quá khứ mà còn cho cả những khó khăn cải cách sau này. 2. Khả năng cạnh tranh và các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp : 2.1 Quan niệm về khả năng cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp : Cho đến nay, đã có nhiều tác giả đưa ra các cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp, một nền công nghiệp cũng như của một quốc gia. Có thể nêu ra đây một số thí dụ : Fafchamps cho rằng khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản xuất của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao hơn. - Randall lại cho rằng, khả năng cạnh tranh là khả năng dành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định. - Dunning lập luận rằng khả năng cạnh tranh là khă năng cung sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó. - Một quan niệm khác cho rằng khả năng cạnh tranh là trình độ của công nghiệp có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường, đồng thời duy trì được mức thu nhập thực tế của mình. Có thể thấy rằng, các quan niệm nêu trên xuất phát từ các góc độ khác nhau nhưng đều có liên quan đến hai khía cạnh : chiếm lĩnh thị trường và có lợi nhuận. Vì vậy khả năng cạnh tranh có thể hiểu là năng lực nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, do đó khi thị phần tăng lên cho thấy khả năng cạnh tranh được nâng cao. Quan niệm này có thể áp dụng đối với từng doanh nghiệp, một nền công nghiệp cũng như đối với một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới hay khu vực. 2.2 Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp : Thực chất của việc nâng cao nâng cao khả năng cạnh tranh là tạo ra ngày càng nhiều hơn các ưu thế về tất cả các mặt: giá cả, giá trị sử dụng của sản phẩm, uy tín, tiêu thụ. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một tất yếu khách quan, các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường thì phải chấp nhận cạnh tranh, tuân theo các quy luật cạnh tranh. Các điều kiện cạnh tranh ngày càng khó khăn hơn buộc các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu giảm chi phí để giảm giá thành, giá bán sản phẩm, hoàn thiện giá trị sử dụng của sản phẩm, tổ chức tốt hệ thống tiêu thụ để tồn tại và phát triển trong cạnh tranh thị trường Trong ngày nay, do tiến bộ của khoa học kỹ thuật nên nhu cầu của con người ngày được nâng cao, để đáp ứng kịp thời các nhu cầu, các doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư nghiên cứu thị trường, tìm hiểu các nhu cầu để đi đến đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu đó. ở nước ta trong thời kì bao cấp do được bao cấp, từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ đều được thực hiện theo chỉ tiêu của nhà nước đề ra do đó khả năng cạnh tranh hầu như không có. Hiện nay khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước để doanh nghiệp có thể tồn tại được trước các đối thủ cạnh tranh trong nước cũng như nước ngoài buộc các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng phải nâng cao khả năng cạnh tranh là điều tất yếu cần thiết cho sự tồn tại của doanh nghiệp vừa tăng tính cạnh tranh thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 2.3 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Quy mô tiêu thụ là kết quả tổng hợp đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm lĩnh được được coi là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá chất lượng cạnh tranh của doanh nghiệp. Qua chỉ tiêu này có thể đánh giá được thành tích của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh hoặc so sánh thắng lợi giữa các đối thủ cạnh tranh của nhau. Có một số chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp như : a, Thị phần của doanh nghiệp / toàn bộ thị phần Đây là chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi xem xét chỉ tiêu này người ta thường xem xét các thị phần sau: Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường: Đó là tỉ lệ phần trăm giữa doanh số của công ty so với doanh số của toàn thị trường. Thị phần của doanh nghiệp so với phần khúc mà nó phục vụ : là tỉ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp với doanh số của toàn phần khúc. Thị phần tương đối: là tỉ lệ so sánh về doanh số của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của doanh nghiệp trong thị trường như thế nào. Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này mà doanh nghiệp biết mình đang ở vị trí nào, và cần vạch ra chiến lược hành động như thế nào. Ưu điểm: Chỉ tiêu này đơn giản, dễ tính. Nhược điểm: Khó đảm bảo tính chính xác do khó thu thập được doanh số chính xác của các doanh nghiệp. b, Tỉ suất lợi nhuận : Chỉ tiêu này được tính = (giá bán – giá thành) / giá bán. Đây là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh tiềm năng cạnh tranh của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ấy. Nếu chỉ tiêu này thấp chứng tỏ thị trường cạnh tranh rất gay gắt và doanh nghiệp cũng phải chịu sự cạnh tranh gay gắt đó và do vậy một phần nào chứng tỏ nó cùng có khả năng cạnh tranh không kém gì các đối thủ cạnh tranh của mình. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao thì điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đang kinh doanh thuận lợi. c, Tỉ lệ chi phí maketing / tổng doanh thu: Thông qua chỉ tiêu này mà doanh nghiệp thấy được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ chi phí cho quảng cáo quá cao nhưng không đem lại hiệu quả. Điều này buộc doanh nghiệp phải xem xét lại cơ cấu chi tiêu của mình. Có thể thay vì quảng cáo doanh nghiệp tích cực đầu tư chiều sâu để tăng lợi ích lâu dài. 2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp : 2.4.1 Các yếu tố về môi trường vĩ mô : a, Các yếu tố về mặt kinh tế : Các yếu tố này bao gồm : Tốc độ tăng trưởng GDP, tỉ lệ lãi suất, tỉ giá hối đoái Đây là các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế vĩ mô của nhà nước, nó có tác động làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp như : - Nếu tốc độ tăng trưởng GDP mà cao điều đó có nghĩa là thu nhập của người dân được nâng cao, sức mua tăng lên và doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này mà tăng khả năng cung ứng của mình lên (Số lượng, chất lượng, mẫu mã) sẽ có thể thu được một khoản lợi nhuận lớn. - Tỉ lệ lãi suất mà thấp điều này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. - Tỉ giá hối đoái : Nếu tỉ giá hối đoái mà cao điều này có nghĩa là giá trị của đồng Việt Nam tăng lên điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước vì giá cả hàng hoá tăng lên dẫn tới xuất khẩu giảm. Ngược lại, nếu tỉ giá hối đoái mà thấp dẫn tới giá cả hàng hoá trong nước rẻ hơn làm cho xuất khẩu tăng lên sẽ có lợi hơn so với đối thủ cạnh tranh kinh doanh hàng hoá do nước khác sản xuất. b, Các yếu tố về chính trị, luật pháp: Các yếu tố này bao gồm các qui định về chống độc quyền, các luật thuế xuất nhập khẩu Yếu tố chính trị ổn định, luật pháp rõ ràng có tính chất quyết định đến khả năng tiến hành đầu tư dài hạn cũng như ngắn hạn, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh có hiệu quả. c, Các yếu tố về văn hoá xã hội : Tất cả các quan điểm sống, phong cách sống, tính tích cực tiêu dùng, tỉ lệ tăng dân số, tỉ lệ sinh đẻ đều là các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu của thị trường và do đó ảnh hưởng đến điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những khu vực khác nhau mà ở đó thị hiếu tiêu dùng và nhu cầu khác nhau đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách sản phẩm và chính sách tiêu thụ khác nhau. d, Các yếu tố về khoa học công nghệ : Sự phát triển về khoa học công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh, tác động đến hai yếu tố cơ bản tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường đó là chất lượng và giá cả, tiến bộ khoa học công nghệ làm giảm chi phí cá biệt của doanh nghiệp qua đó tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm nói riêng và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. e, Các nhân tố tự nhiên: Các yếu tố tự nhiên như vị trí địa lí, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên Đây là những yếu tố đem lại lợi thế so sánh trước tiên của các doanh nghiệp trong nước, điều kiện vị trí địa lý thuận lợi sẽ giảm được chi phí vận chuyển hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp đồng thời có điều kiện khuếch trương được sản phẩm hàng hoá của mình với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Tài nguyên thiên nhiên phong phú tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cung ứng nguyên vật liệu tốt, đây là điều kiện tiên quyết ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngược lại, điều kiện tự nhiên không thuận lợi sẽ tạo khó khăn ban đầu cho doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của nó sẽ bị thuyên giảm. 2.4.2 Nhóm nhân tố thuộc môi trường ngành: a, Các đối thủ tiềm năng : Việc gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới trực tiếp làm giảm tính chất qui mô cạnh tranh do tăng năng lực sản xuất và khối lượng trong ngành. Sự xuất hiện của các đối thủ mới có khả năng gây ra những cú sốc mạnh cho các doanh nghiệp hiện tại vì thông thường những người đi sau thường có nhiều căn cứ cho việc ra quyết định hơn và những chiêu bài của họ thường có tính bất ngờ. Để chống lại các đối thủ tiềm ẩn, các doanh nghiệp thường thực hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng, bổ xung các đặc điểm mới cho sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm cho sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt hoặc nổi bật trên thị trường, hoặc phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ. b, Với sức ép của người cung ứng ; Với vai trò của người cung ứng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, quyền lực của nhà cung ứng được khẳng định thông qua sức ép về giá nguyên vật liệu. Nếu trên thị trường có nhiều nhà cung ứng thì doanh nghiệp có thể được lựa chọn nhà cung ứng , điều này tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường nguyên vật liệu , nó có tác dụng làm giảm chi phí đầu vào cho các nhà sản xuất. Nếu trên thị trường chỉ có duy nhất một nhà cung ứng sẽ tạo ra độc quyền tronng cung ứng nguyên vật liệu điều này làm giảm khả năng cạnh tranh bằng giá của doanh nghiệp Nếu nhà cung ứng đồng thời là một đơn vị sản xuất kinh doanh trong cùng một tổ chức với nhà sản xuất thì tính liên kết nội bộ được phát huy tạo cho các nhà sản xuất có điều kiện cạnh tranh bằng giá Để giảm bớt ảnh hưởng xấu từ phía nhà cung ứng các doanh nghiệp cần có mối quan hệ tốt với họ, hoặc mua của nhiều người trong đó chọn ra nhà cung cấp chính , đồng thời tích cực nghiên cứu tìm nguyên vật liệu thay thế, dự trữ nguyên vật liệu hợp lí . c. Sức ép của người mua người mua luôn có xu hướng tối đa hoá lợi nhuận của mình với chi phí thấp nhất do đó họ luôn luôn bằng mọi cách ép doanh nghiệp giảm giá hàng hoá xuống, mặc cả để có chất lượng tốt hơn và được phục vụ nhiều hơn đồng thời còn làm các đối thủ cạnh tranh chống lại nhau Để chống lại những điều này thì việc lựa chọn các nhóm khách hàng của doanh nghiệp phải được xem xét như là một quyết định tối quan trọng d. Sự xuất hiện của sản phẩm thay thế Sự ra đời của sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng đồng thời sự ra đời của sản phẩm thay thế đã làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm bị thay thế, mặc dù dù vấp phải sự chống trả quyết liệt của sản phẩm bị thay thế nhưmg do sản phẩm thay thế được sản xuất ra trên dây truyền sản xuất tiên tiến hơn nhờ áp dụng các thành quả của khoa học kỹ thuật, do đó sản phẩm thay thế sẽ dần dần chiếm lĩnh được thị trường của sản phẩm bị thay thế nếu doanh nghiệp không tiến hành đầu tư nghiên cứu đổi mới khoa học công nghệ để hướng tới sản xuất các sản phẩm mới hay hướng khách hàng tìm kiếm độ thỏa dụng mới. e. Sức ép của đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành Trong một ngành nào đó mà tồn tại một hoặc một số doanh nghiệp thống lĩnh thì cường độ cạnh tranh ít hơn và doanh nghiệp thống lĩnh đóng vai trò chỉ đạo giá. Trong trường hợp này nếu doanh nghiệp không đóng vai trò thống lĩnh thì khả năng cạnh tranh cực kém Nhưng trong một ngành mà nó chỉ có một số doanh nghiệp nhưng quy mô và thế lực tương đương nhau thì có thể nói mức độ cạnh tranh ở đây sẽ diễn ra rất gay gắt, các doanh nghiệp phải coi trọng các lợi thế so sánh của mình để biến thành lợi thế cạnh tranh. Doanh nghiệp nào có lợi thế cạnh tranh hơn thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đó lớn hơn 2.4.3 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp : a. Nguồn nhân lực : Ban giám đốc doanh nghiệp: là bộ phận quản lí cao cấp nhất của doanh nghiệp, là những người vạch ra chiến lược trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Các thành viên của ban giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu những thành viên này có trình độ và kinh nghiệm thì không những vạch ra chiến lược kinh doanh đúng đắn đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn tạo ra uy tín, lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và đây là yếu tố quan trọng làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp - Đội ngũ cán bộ quản lí ở cấp doanh nghiệp: là những người quản lí chủ chốt có kinh nghiệm công tác, phong cách quản lí, khả năng ra quyết định, khả năng xây dựng êkip quản lí và hiểu biết sâu rộng lĩnh vực kinh doanh sẽ là một lợi thế quan trọng cho doanh nghiệp, người quản lí làm việc trực tiếp với nhân viên cấp dưới, chuyên viên vì vậy trình độ hiểu biết sẽ giúp nảy sinh ý tưởng mới, sáng tạo phù hợp với sự phát triển và trưởng thành của doanh nghiệp Các cán bộ quản lí ở cấp phân xưởng, đốc công và công nhân: trình độ tay nghề của người công nhân và lòng năng say nhiệt tình làm việc của họ là yếu tố tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì khi tay nghề cao lại kết hợp với lòng nhiệt tình hăng say lao động thì nhất định năng suất lao động sẽ tăng trong khi chất lượng sản phẩm được bảo đảm. Đây là tiền đề để doanh nghiệp có thể tham gia đứng vững trong cạnh tranh Muốn đảm bảo được điều này các doanh nghiệp phải tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ người lao động của mình, giáo dục lòng nhiệt tình hăng say và tinh thần tập thể trong lao động b. Nguồn nhân lực vật chất và tài chính - Khả năng tài chính của doanh nghiệp: quyết định tới việc thực hiện hay không thực hiện bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị, bảo đảm nâng cao chất lượng, hạ giá thành. Nhằn duy trì nâng sức cạnh tranh, củng cố vị trí của mình trên thị trường - Máy móc thiết bị và công nghệ Tình trạng máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của mỗi doanh nghiệp và tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, đến giá thành và giá bán sản phẩm. Có thể khẳng định rằng một doanh nghiệp với một hệ thống máy móc thiết bị và công nghệ tiên tiến cộng với khả năng quản lí tốt sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, khả năng cạnh tranh cao. Ngược lại không có một doanh nghiệp nào có thể nói là có khả năng cạnh tranh cao khi trong tay họ là cả một hệ thống máy móc thiết bị cũ kỹ với công nghệ sản xuất lạc hậu - Hệ thống mạng lưới phân phối của doanh nghiệp Mạng lưới phân phối của doanh nghiệp được tổ chức và quản lí, điều hành một cách hợp lí thì nó sẽ là phương tiện có hiệu quả để tiếp cận khách hàng. Doanh nghiệp thu hút khách hàng bằng cách phục vụ (hình thức mua bán, thanh toán , vận chuyển) hợp lí nhất. 3. Những nội dung và yêu cầu chủ yếu của hoạt động trong các doanh nghiệp công nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh : 3.1 Để nâng cao khả năng cạnh tranh doanh nghiệp công nghiệp phải giải quyết các vấn đề sau : Vấn đề đầu tiên và cơ bản nhất đối với doanh nghiệp là tìm mọi giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không đơn thuần chỉ là hiệu quả kinh tế mang lại. Cần phải xét tới cả khía cạnh tiếp cận thị trường và thực tiễn hoạt động kinh doanh quốc tế trong các lĩnh vực quy trình công nghệ, khả năng quản lí, các chính sách đào tạo, nghiên cứu và mở rộng thị trường. Vấn đề thứ hai liên quan đến việc lựa chọn chiế lược kinh doanh của doanh nghiệp. xu huớng hiện nay của Việt Nam là cạnh tranh dựa trên mức lương thấp và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chuyển sang nền kinh tế cạnh tranh và mức sống cao thì phải chuyển từ lợi thế so sánh sang lợi thế cạnh tranh dựa trên năng lực đổi mới của các doanh nghiệp. Sức mạnh vầ ưu thế cạnh tranh hiện đang thuộc về các nước phát triển. Chính vì vậy chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp cần có tầm nhìn dài, đón đầu được xu hướng thay đổi của nhu cầu thị trường khu vực và thế giới. Trên cơ sở đó thực hiện đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, nghiên cứu thiết kế sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu. Cần đầu tư thoả đáng có hiệu quả cho công tác nghiên cứu và triển khai coi đây là khâu then chốt . Xây dựng và áp dụng hệ thống quản lí chất lượng sản phẩm và dịch vụ ,làm công cụ hữu hiệu làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp . Việc đạt được chứng chỉ ISO là giấy thông hành cần thiết để các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập tham gia vào thị trường thế giới và khu vực. Để các sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam được tôn vinh và tự hào mang nhãn mác “Made in Vietnam”, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tạo dựng và duy trì được nề nếp quản lí kỹ thuật, huấn luyện và nâng cao kỹ năng, tác phong, kỷ cương cong nghiệp cho lực lượng công nhân và kỹ thuật viên. Chất lượng phải được tạo ra và đảm bả trong suốt quá trình sản xuất, với sự đóng góp của nhiều yếu tố có liên quan chứ không thể chỉ có kiểm tra mà có. 3.2 Những vấn đề đặt ra của doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam : - Chống độc quyền, tăng sức cạnh tranh Trong 4 năm qua, 17 tổng công ty 91 và 74 tổng công ty 90đã được thành lập và hoạt động theo mô hình tổng công ty nhà nước. Gần 1000 doanh nghiệp trong số hơn 1100 doanh nghiệp trực thuộc các tổng công ty nhà nước làm ăn có lãi . Tuy nhiên so với mục tiêu thành lập các tổng công ty nhà nước là thúc đẩy và tích tụ, tập trung vốn, công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh và làm nòng cốt trong việc công nghiệp hoá và hiện đại hoá thì mô hình và hoạt động của tổng công ty 90-91 còn không ít mặt yếu kém, nhất là hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Phát biểu tại hội nghị sơ kết mô hình tổ chức và hoạt động của các tổng công ty nhà nước (từ 1-2/3/99), thủ tướng Phan Văn Khải yêu cầu các tổng công ty nhà nước chấm dứt ngay tình trạng làm ăn thua lỗ, vay nợ tràn lan chờ khoanh giãn để rồi nhà nước phải đứng ra bù lỗ. Thủ tướng đặc biệt đề cập đến tình trạng độc quyền của các tổng công ty nhà nước, từ độc quyền dẫn đến cửa quyền như ở các tct Điện lực, Bưu chính viễn thông.Thủ tướng cho rằng : ”Nếu độc quyền thì những người làm ăn giỏi sẽ không ngóc đầu lên được. Cần phải chống độc quyền để làm ăn có hiệu quả cao nhất, tạo điều kiện cho hàng hoá và dịch vụ có sức cạnh tranh tốt nhất “ - Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong quá trình hội nhập ASEAN Các ngành công nghiệp của ta nhìn chung còn non yếu thiết bị và công nghệ sản xuất lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao nên khó cạnh tranh, lao động của ta tuy rồi dào nhưng kỹ năng, tác phong công nghiệp còn nhiều hạn chế. Toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế đang là thế phát triển tất yếu do sự phát triển của lực lượng sản xuất và cuộc cách mạng thông tin. Chúng ta không thể đứng ngoài tiến trình này được vì như vậy sẽ khó khăn hơn. Phải chấp nhận tiến trình ấy, nhưng phải đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đi đôi với việc thiết kế lộ trình bảo hộ hợp lý, từng bước chấp nhận cạnh tranh. ở đây nguồn lực vật chất là rất quan trọng, nhưng yếu tố con người lại có vai trò quyết định. Con người hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách, con người sản xuất và kinh doanh. Phát huy nhân tố con người là chủ trương có tính chiến lược của Đảng và nhà nước ta. - Tăng cường vai trò của dịch vụ, nhất là dịch vụ trí tuệ Trước đây do quan niệm GDP chủ yếu là GDP sản xuất, nên với một nước công nghiệp hoá thì giá trị công nghiệp chiếm 50 – 55%, sau đó là nông nghiệp (cỡ 25 – 30%), rồi mới đến dịch vụ (cỡ 15 – 20%). Đến nay, quan niệm này đã thay đổi nhiều, vai trò của dịch vụ đã được nhấn mạnh, Đến năm 2000, cơ cấu các ngành kinh tế của nước ta sẽ là: công nghiệp và xây dựng 33 – 34%, nông lâm ngư nghiệp 20 – 22%, dịch vụ 44 – 45%. Tuy nhiên, nhiều nơi, nhiều lúc vẫn chỉ thấy nói đến việc nâng tỉ trọng công nghiệp, thậm chí đến 45 – 46%, trong khi điều đó có thể đạt được. Hơn nữa, trong dịch vụ, vai trò dịch vụ trí tuệ như tư vấn, cung cấp thông tin, tình báo kinh tế, mua bán li xăng, paten, chuyển giao công nghệ, đào tạo chuyên gia sẽ ngày càng tăng. Hiện nay, những vấn đề này ở nước ta chưa được coi trọng đúng mức và các doanh nghiệp chưa quen sử dụng các dịch vụ trí tuệ. - Coi trọng hiệu quả sử dụng tài sản của các doanh nghiệp Coi trọng hiệu quả sử dụng tài sản có thể coilà một chỉ tiêu tổng hợp quan trọng, bao gồm các chỉ tiêu đánh giá như : Năng suất lao động bình quân (tính theo doanh thu, tính theo giá trị tổng sản lượng). Tài sản bình quân / 1 lao động Tỉ trọng hàng tồn kho / Tổng TSLD Tỉ lệ xuất, nhập siêu (+,-) / Tổng kim ngạch NK Cơ cấu tài sản (TSLD / Tổng tài sản) Nộp ngân sách bình quân / 1 lao động Hiệu quả sử dụng tổng tài sản Giá trị tổng sản lượng Doanh thu / 1 đồng tổng tài sản Lãi ròng / tổng tài sản Lợi nhuận (lãi ròng + thuế) / tổng tài sản - Vấn đề hạn chế chiếm dụng vốn : Khi tài sản dự trữ của doanh nghiệp thiếu hoặc thừa nguồn bù đắp thì có thể dẫn đến hiện tượng đi chiếm dụng vốn hoặc bị chiếm dụng vốn. Thực tế, trường hợp tài sản dự trữ thừa nguồn bù đắp, thông thường dẫn đến hiện tượng đi chiếm dụng vốn tức là sử dụng một phần các nguồn vốn lao động khác (ngoài các nguồn vốn có trong dự kiến ) để bù đắp cho dự trữ. Nhưng đồng thời cũng có thể xảy ra trường hợp doanh nghiệp sử dụng một phần nguồn vốn lao động lẽ ra dùng để bù đắp cho tài sản dự trữ để bù đắp cho các loại tài sản khác như tài sản thanh toán, tức là bị chiếm dụng và ngược lại, nghĩa là xảy ra hai hiện tượng song song: trong khi doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn thì đồng thời cũng bị chiếm dụng vốn. Nếu phần vốn đi chiếm dụng lớn hơn phần vốn bị chiếm dụng thì doanh nghiệp có thêm nguồn vốn để đưa vào sản xuất kinh doanh, làm tăng thêm yếu tố dự trữ (dự rữ sản xuất, dự trữ thành phẩm ). Tuy nhiên nếu phần vốn đi chiếm dụng quá lớn thì mức độ an toàn sẽ thấp, dẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả, khi đó doanh nghiệp cần xem xét chỉ tiêu Ht = Ht à 0 có thể kết luận rằng doanh nghiệp không có khả năng thanh toán, nếu tình trạng đó kéo dài doanh nghiệp có khả năng bị phá sản Ht ³ 1 có thể kết luận rằng doanh nghiệp đảm bảo thùa khả năng thanh toán, chứng tỏ tình trạng tìa chính của doanh nghiệp là tích cực Ngược lại, nếu phần vốn đi chiếm dụng bé hơn phần vốn bị chiếm dụng thì doanh nghiệp sẽ thiếu nguồn vốn để đưa vào sản xuất kinh doanh, tốc độ quay vòng của vốn chậm. - áp dụng các biện pháp tăng cầu nội địa Thứ nhất, tăng đầu tư xây dựng, đặc biệt là tăng đầu tư phát triển. Đây là một kênh chiếm 1/3 GDP cho nên tốc độ tăng của chúng có tác dụng kích thích cầu nói chung và kích thích tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, tăng thu nhập để tăng sức mua của dân cư. Sức mua của nông dân có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nông dân chiếm tới 80% dân số cả nước. Sức mua của họ tăng do tăng sản lượng, tăng giá nông sản có điều tiết và tăng tiêu thụ hàng hoá và các ngành nghề dịch vụ, đồng thời do giảm thiểu các khoản đóng góp về thuế và lệ phí sao cho bình đẳng với thành thị hay với các ngành nghề khác. Sức mua của cán bộ công nhân viên hiện nay cũng rất thấp do tốc độ tăng giá mấy năm nay, từ sau cải tiến chế độ tiền lương. Thứ ba là quản lý tiền tệ của nhà nước để vừa kích thích tiêu dùng, vừa tăng trưởng kinh tế khắc phục tình trạng giảm phát hoặc lạm phát. Một trong những nội dung quan trọng để tăng cầu nội địa là tăng đầu tư phát triển nông thôn. Theo tính toán của các nhà khoa học, đên công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong giai đoạn 1996 – 2000, Việt Nam cần phải có lượng vốn đầu tư khoảng 45 tỉ USD trong đó khu vực nông thôn cần khoảng 12,7 tỉ USD. Riêng năm 1998 ngành nông nghiệp cần tới 6800 tỉ đồng. Trong khi đó, nguồn vốn ngân sách chỉ giải quyết được 12 –15% và nguồn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm khoảng 6% tổng vốn đầu tư. Nguồn lực quan trọng đang nằm trong từng hộ nhân dân và đang cần các chính sách và biện pháp đồng bộ của nhà nước, nhằm khuyến khích huy động vốn đầu tư và mở rộng khai thác cũng như quản lý nguồn vốn này. Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, nhưng vốn đầu tư cho nông nghiệp chưa tương xứng với tỉ trọng số lao động đang làm việc à tỉ trọng đóng góp cho GDP, chẳng hạn tỉ trọng trong GDP là 27 – 28% nhưng tỉ trọng đàu tư chỉ có 8 – 9%. - ưu đãi thuế quan đối với sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam. Một sản phẩm có thể được mang thương hiệu Việt Nam bằng nhiều con đường. Việc chế tạo sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam liên quan nhiều đến nội lực. Muốn phát huy nội lực thì điều kiện là phải có nội lực đã. Một số lĩnh vực công nghiệp trong thời gian bao cấp thì nội lực rất tốt song khi chuyển sang cơ chế thị trường thì không còn đủ đáp ứng nữa, kể cả con người, vì không đủ cả chất lượng và số lượng cần thiết để có đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Tuy vậy, có những khu vực, nội lực trong thời bao cấp không phát huyđược thì khi vào cơ chế thị trường lại rất có sức mạnh cạnh tranh . - Vấn đề quản lí nguồn vốn từ nước ngoài Mỗi ngày trên thế giới có hơn 2 tỷ USD lưu chuyển giữa các nước, nhưng trên thực tế chỉ một phần rất nhỏ trong số đó được dành cho việc thanh toán các giao dịch hàng hoá và dịch vụ. Và cũng chỉ một phần rất nhỏ được dành cho đầu tư trực tiếp vào các nước phát triển. Khi dòng vốn này đổi chiều nó sẽ gây tác động khủng khiếp đối với các nền kinh tế mới nổi lên. Nhu cầu cấp bách hiện nay là phải đảm bảo luồng vốn toàn cầu càn và đủ cho thương mại mà không phá hoại các nền kinh tế. Cộng đồng quốc tế và trước hết là mỗi nước phải giải quyết vấn đề luồng vốn ngắn hạn có thể đe doạ tới các chế tài của thị trường. Chúng ta cần có quan điểm rõ ràng hơn đối với các nhà đấu tư, với việc ổn định nguồn vốn, chứ không chỉ để bảo vệ tính tự do của thị trường. II. Thực trạng khả năng cạnh tranh và những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản : 1. Đặc điểm của ngành công nghiệp chế biến thuỷ hải sản : Về đặc điểm kinh tế kỹ thuật, ngành thuỷ sản có những đặc thù cần phải chú ý trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh cho từng doanh nghiệp như sau : - Việc đảm bảo an toàn vệ sinh của sản phẩm thuỷ sản là yêu cầu cao nhất - Nhiều qui trình công nghệ sinh học chịu sự chi phối khá lớn của các tác động tự nhiên, nhất là trong khâu khai thác và chế biến thuỷ sản - Nguyên liệu thuỷ sản là động vật tươi sống nên rất dễ bị hư hỏng, xuống cấp về chất lượng nên khâu nguyên liệu có vị trí quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản - Vốn đầu tư vào ngành thuỷ sản lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, tạo ra tỉ suất lợi nhuận khá cao so với nhiều ngành kinh tế khác - Các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu rất đa dạng và khác biệt nhau về nhiều mặt nhưng giai đoạn công nghệ chính của quá trình chế biến đều có những đặc điểm chung rất cơ bản. Đặc điểm này tạo thuận lợi cho việc tổ chức sản xuất 2. Thực trạng khả năng cạnh tranh và hoạt động nâng cao cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản : Hiện nay, Việt Nam đã và đang trở thành một trong những nước đánh bắt, nuôi trồng và xuất khẩu thuỷ sản đáng kể trên thế giới. Vào năm 1995, Việt Nam là 1 trong 20 nước đánh bắt thuỷ sản lớn trên thế giới với 1,2% sản lượng thuỷ sản của thế giới và đứng thứ 29 trên thế giới về xuất khẩu với 1% giá trị xuất khẩu thuỷ sản của thế giới. So với các nước Đông Nam á thì Việt Nam đứng hàng thứ 4 sau Thái Lan, Indonesia, Singapore, vào đầu những năm 90 sản lượng thuỷ sản của Việt Nam là 1 triệu tấn đến năm 1995 sản lượng thuỷ sản là 1,57 triệu tấn. Kim ngạch xuất khẩu của năm 1996 là 670 triệu USD đến năm 1997 là 776 triệu USD. Theo báo cáo của hải quan, năm 1998 mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam đã có mặt trên 34 nước trên thế giới với tổng kim ngạch 856,6 triệu USD, trong đó: 13 nước Châu Âu (kim ngạch xuất khẩu là 77,9 triệu USD; 13 nước Châu á kim ngạch xuất khẩu với thị trường Nhật chiếm cao nhất đạt 347,1 triệu USD; Châu Mỹ hai nước với kim ngạch xuất khẩu là 81,6 triệu USD. Bức tranh chung về các doanh nghiệp công nghiệp ngành chế biến thuỷ hải sản Việt Nam là năng lực cạnh tranh rất thấp, ngay cả trên thị trường trong nước cũng như khu vực và quốc tế điều này thể hiện trên nhiều mặt - Thứ nhất, vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản trên thị trường quốc tế và khu vực chưa được khẳng định. Hiện nay nước ta đã hình thành một ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu trong cả nước. Tính đến đầu năm 1998 đã có 186 nhà máy chế biến, có khả năng sản xuất khoảng 200 nghìn tấn sản phẩm xuất khẩu / 1 năm. Tuy nhiên, mới có một số ít các doanh nghiệp chủ động nâng cấp cơ sở hạ tầng đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm, chuyển sang sản xuất các mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao, áp dụng chương trình quản lí chất lượng HACCP, chủ động hơn trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu mà các doanh nghiệp đạt đươc mới chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ so với nhu cầu thị trường rộng lớn mà các doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản Việt Nam đã có mặt. Một tình trạng đáng buồn mà các doanh nghiệp cần quan tâm giải quyết là vấn đề tái chế sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam do các doanh nghiệp nước ngoài như các doanh nghiệp của Singapore, Hồng Kông, Malaixia... đã làm giảm khả năng cạnh tranh và mất dần thị phần của mình. - Nhiều doanh nghiệp hoàn toàn thụ động trong việc tiếp cận thị trường và định hướng khách hàng. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục sản xuất các sản phẩm với giá trị gia tăng thấp trong khi như cầu thị trường thế giới đã có sự chuyển đổi, từ đó hiệu quả hoạt động thấp. Cho đến nay Nhật Bản vẫn tiếp tục là thị trường lớn nhất về các sản phẩm cá trên thế giới, năm 1994 nhập 3,3 triệu tấn, giá trị gần 17 tỉ USD. Sau chỉ có 2% lượng nhập khẩu này là từ Việt Nam, có thể nói đây là thị trường rộng mở và có ý nghĩa để Việt Nam có thể tham gia cạnh tranh thành công với các nhà cung ứng khác. Mặc dù hàng thuỷ sản Việt Nam đã sang EU và Mỹ nhưng hiện nay vẫn còn khiêm tốn so với nhu cầu rất lớn của hai thị trường này. Đầu năm 1999 giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ chỉ chiếm tỉ trọng 17 - 18 % ( những mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chỉ lực của Việt Nam ở thị trường Mỹ là cá basa, tôm, đùi ếch. Trong năm 1998, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang EU chiếm tỉ trọng hơn 20% trong tổng kim ngạch, nhưng năm 1999 vẫn dưới 20%. Vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản Việt Nam là cần phải tiếp tục phải cải tiến chất lượng, da dạng hoá danh mục sản phẩm để đáp ứng được các thị trường hiện có và tích cực tiếp thị hàng hoá của mình để mở rộng sang các thị trường mới. - Chuyển sang cơ chế thị trường từ nền kinh tế bao cấp nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tuy nhiên nhiều cán bộ quản lí cũng như công nhân viên chưa tù bỏ nếp nghĩ trước đây nên nhiều doanh nghiệp vẫn coi Chính phủ như một tác nhân quan trọng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và nỗ lực tìm kiếm càng nhiều ưu tiên, giấy phép, hạn ngạch, trợ cấp, bảo hộ càng tốt. Có thể nói xu hướng đòi tái bao cấp vẫn xuất hiện. - Trình độ trang thiết bị, máy móc lạc hậu, công nghệ chậm được đổi mới đang là cản trở đối với quá trình hội nhập. Ngoài các doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư, thực tế mà nói, những gì phần đông các doanh nghiệp trong nước đã và đang có vẫn chưa thể gọi là công nghệ hiện đại, đủ để đáp ứng những yêu cầu gắt gao của các thị trường khó tính được. Mà minh chứng cụ thể là hiện nay công tác xúc tiến thị trường, mở rộng đầu ra cho hàng thuỷ sản Việt Nam ở các thị trường Bắc Mỹ, EU vẫn đang gặp không ít khó khăn... Đó là chưa kể đến vấn đề công nghệ chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu chưa thực sự đồng bộ và hiện đại còn dẫn đến hàng loạt hệ quả khác như việc đội giá thành sản phẩm, không phát huy hết hiệu quả nguyên liệu... Hiện nay ngành kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đang ráo riết tìm mọi biện pháp để mở rộng thị trường quốc tế theo cả hai nghĩa khối lượng và giá trị. Trong đó việc đáp ứng các đòi hỏi chất lượng quốc tế theo tiêu chuẩn GMP, SSOP, HACCP đang rất bức bách, chính vì vậy, vấn đề đầu tư nâng cấp công nghệ của các doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản không thể chần chừ được nữa. Đành rằng nhiều doanh nghiệp đã tiến hành đổi mới công nghệ chế biến thuỷ sản tại chỗ nhưng nhìn chung vẫn còn tự phát, riêng lẻ, thiếu sự đồng bộ phối hợp mang tính chiến lược tổng thể của toàn ngành - Môi trường kinh doanh chưa thể hiện tính gay gắt của nhân tố cạnh tranh chưa thúc đẩy các doanh nghiệp chuẩn bị theo lộ trình hội nhập AFTA và WTO, nguy cơ bị động là rất rõ. Các doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản hiện nay vẫn đang được sự bảo trợ và ưu đãi của nhà nước. Điều này làm cho ngay cả những doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả nhất trong ngành cũng khó có khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp cùng loại trong khu vực và trên thế giới. Việc quản lí nhập khẩu chưa được chặt chẽ, tình trạng hàng lậu tràn lan gây ảnh hưởng đến tiêu thụ hàng thuỷ sản trong nước. Đấu thầu hạn ngạch xuất khẩu chưa được mở rộng và áp dụng triệt để. Các thông tin về thị trường, xúc tiến xuất khẩu còn rất hạn chế. Với những tình trạng trên nếu các doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản Việt Nam không tích cực chuẩn bị tốt các điều kiện để hội nhập và cạnh tranh quốc tế, nếu nhà nước không mạnh dạn đổi mới chính sách, cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp vươn lên thì các doanh nghiệp của ngành chế biến thủy hải sản của Việt Nam sẽ mất dần thị trường trên thế giới cũng như khu vực là điều không thể tránh khỏi và thậm chí sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam khó có thể cạnh tranh với các sản phẩm của nước khác tại chính thị trường Việt Nam khi mà nước ta chính thức là thành viên của AFTA và WTO. 3. Những tồn tại và giải pháp mà các doanh nghiệp đã và đang nghiên cứu : 3.1. Những tồn tại chủ yếu của các doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản : - Thứ nhất : Do nhận thức lí luận và thực tiễn về vai trò của công tác kế hoạch hoá và quản lí chiến lược trong cơ chế thị trường của doanh nghiệp chưa được nhất quán. Hơn nữa việc xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh còn đang là công việc khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp. Điều này làm hạn chế việc sử dụng những phương pháp, công cụ xây dựng chiến lược kinh doanh mang tính khoa học và làm cho quá trình xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp chưa tuân theo một qui trình hợp lí. - Thứ hai, việc phân tích môi trường kinh doanh làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược là một công việc cần thiết, nó quyết định đến chất lượng xây dựng chiến lược của một doanh nghiệp, nhưng việc thu thập và tổ chức xử lí thông tin về môi trường kinh doanh chưa được thực hiện một cách thường xuyên, có hệ thống và nhanh nhậy làm cho việc đánh giá phân tích môi trường kinh doanh còn ở trạng thái tĩnh, tính dự báo thấp, kết quả dự báo không xác thực, không toàn diện, dẫn đến căn cứ của kế hoạch thiếu tính khoa học và ảnh hưởng lớn đến quá trình xây dựng cũng như nội dung của chiến lược. - Thứ ba, căn cứ để xây dựng phương hướng mục tiêu của các doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản chỉ dựa trên một số nhận định tổng quát về tình hình kinh tế thế giới và trong nước. Việc phân tích các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh của doanh nghiệp và đánh giá những tác động của chúng đến hoạt độngkinh doanh của doanh nghiệp chưa được chú trọng đúng mức . -Thứ tư, đội ngũ cán bộ công nhân viên quản lí của doanh nghiệp tuy có trình độ nghiệp vụ khá cao nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường trong tư duy và phong cách làm việc, làm hạn chế đến công tác quản lí chiến lược của doanh nghiệp. 3.2 Những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản : - Nuôi trồng thuỷ sản có tính chất quyết định đến việc tăng sản lượng, phương hướng lâu dài là phỉa sản xuất thâm canh, Việc tăng sản lượng thuỷ sản của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng vào thời gian đầu của thế kỷ 21 sẽ chủ yếu hy vọng vào tăng sản lượng thuỷ sản nuôi trồng, còn khả năng đánh bắt cá tự nhiên là rất hạn chế, nhất là nguồn hải sản đánh bắt ven bờ vì nguồn tài nguyên ở đây đã được khai thác quá công suất cùng với vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và chi phí đánh bắt đã tăng cao hơn mức có thể chấp nhận được. Bởi vậy doanh nghiệp cần hỗ trợ dịch vụ cung ứng vốn, giống, cơ sở vật chất kỹ thuật nuôi trồng, tiêu thụ sản phẩm ...cho nhân dân là yếu tố có tính quyết định để tăng nhanh chất lượng và chất lượng thuỷ sản - Xây dựng cơ cấu mặt hàng thuỷ sản hợp lí và đạt hiệu quả kinh tế cao; xây dựng cơ cấu đầu tư nhằm phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương và vùng lãnh thổ. Theo dự báo của các nhà kinh tế thế giới, trong thời kì 1996-2005, giá trị buôn bán thuỷ sản thế giới vẫn tiếp tục tăng ở mức 20-25%/năm. Quan hệ cung cầu thuỷ sản sẽ có xu hướng ngày càng tăng cao. Tuy vậy để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản cần chú ý phát triển các loại thuỷ sản có giá trị và chất lượng cao, nhu cầu của thị trường thế giới đang tăng lên. Ngoài hải sản (tôm, cá, nhuyễn thể chân đầu và chân bụng, thực phẩm phối chế, đồ hộp thuỷ sản), chú ý phát triển các loại thuỷ sản khác như : cua, ghẹ, rong biển, hải sâm và cầu gai, ếch nuôi, cá sấu, baba, trai ngọc, actemia... - Chương trình đánh bắt hải sản xa bờ có ý nghĩa to lớn về kinh tế để thực hiện tốt chương trình này cần phải huy động tối đa các nguồn vốn trong nước, vốn ODA và các nguồn vốn khác để phát triển các đội tầu lớn có khả năng ra khơi dài ngày, đánh bắt xa bờ, có phương tiệ chế biến tại chỗ. Nghiên cứu đóng mới (trước mắt có thể nhập khẩu) một số tầu lớn có đầy đủ các dịch vụ về nước đá nước ngọt, dầu mỡ, đông lạnh, chế biến... để làm đầu mối dịch vụ cho các tầu nhỏ vệ tinh. Xây dựng các cơ sở dịch vụ ở tuyến đảo để làm tiêu điểm trung chuyển giữa bờ và ngoài khơi. Tổ chức ngư dân, các xí nghiệp đánh bắt cá thành từng cụm ra khơi đánh bắt để hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh và đảm bảo an ninh. Xây dựng và phát triển hệ thống cảng cá, chợ cá phù hợp với từng sản lượng thuỷ sản của từng địa phương. - Xây dựng cơ cấu thị trường theo hướng đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá bạn hàng, giảm dần tỷ trọng các thị trường trung gian, tăng nhanh tỷ trọng các thị trường tiêu thụ trực tiếp, có nhu thuỷ sản lớn. Một mặt, duy trì, củng cố các thị trường truyền thống; mặt khác, tích cực tìm các giải pháp để xuất khẩu sang các thị trường tiêu thụ trực tiếp, có nhu cầu thuỷ sản lớn như EU, Mỹ. Những năm vừa qua thị trường xuất khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản Việt Nam là Nhật Bản, Đài loan, Singapo, Thái lan, EU, Mỹ, Trung Quốc, Hong kông....Điều đáng chú ý là một số thị trường xuất khẩu là bạn hàng trung gian;chẳng hạn 1997, trên 30% lượng thuỷ sản Việt Nam được tiêu thụ tại thị trường Mỹ nhưng không phải do Việt Nam xuất đi mà được tái từ các nhà máy của Nhật bản, Đài loan, Singapo, Thái lan ...Năm 1997, tỷ trọng thị trường EU chiếm 10%, thị trường Mỹ chiếm 8% kim ngạch xuất kẩu thuỷ sản là còn quá thấp. Đây là hai thị trường tiêu thụ trực tiếp, nhu cầu rất lớn; bởi vậy ngành thuỷ sản Việt Nam có thể đề ra mục tiêu đến năm 2005 mỗi thị trường này chiếm khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. Để thực hiện tốt các mục tiêu trên doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ nhu cầu tiêu dùng của từng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm; tích cực tham gia các hội chợ triển lãm, mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài, tiếp cận với các siêu thị để giới thiệu thuỷ sản Việt Nam, nhất là háng hoá đã chế biến sau. Mặt khác cần nâng cao năng lực hoạt động của hội nuôi trông thuỷ sản Việt Nam, hội ngề cá Việt Nam, hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, để tập hợp các nhà sản xuất và kinh doanh thuỷ sản, tạo cho họ cơ hội giúp đỡ lẫn nhau về công nghệ, vốn kinh doanh, thông tin kinh tế thương mại, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh... nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của ngành thuỷ sản Việt Nam. Kết luận Cơ chế thị trường với các quy luật khắc nghiệt của nó, trong đó có quy luật cạnh tranh đã thực sự là môi trường tôi luyện cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nó có chức năng đào thải những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và nuôi dưỡng doanh nghiệp làm ăn phát đạt . Tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị trường là kết quả phấn đấu không ngừng của doanh nghiệp. Nhờ biết tận dụng có hiệu quả các nguồn lực sẵn có của mình,đoòng thời nhờ vào sự quản lí tài tình của cán bộ quản lí đã đề ra được các chiến lược kinh doanh đúng đắn nhờ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp công nghiệp trong ngành chế biến thuỷ sản là ngành được coi là then chốt trong cơ cấu kinh tế công nghiệp Việt Nam tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng vì sự tồn tại và phát triển trong tương lai thì việc tiếp tục nâng cao khả năng cạnh tranh là rất cần thiết. Dựa vào những kiến thức thu được qua các môn học đã được học trong trường cũng như sự hiểu biết thêm ngoài xã hội; đề tài "nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản" đã trình bày cơ bản nhất những vấn đề lí luận về cạnh tranh cũng như tình hình cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong thời gian tới. Việc áp dụng đồng bộ các giải pháp hy vọng sẽ giúp các doanh nghiệp ngày càng tạo ra lợi thế cạnh tranh so với đối thủ cạnh tranh. Đó là cơ sở vững chắc cho sự vươn lên phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến hàng thuỷ sản của Việt Nam. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo th.s- Trương Đức Lực đã tạo điều kiện tốt cho em hoàn thành tốt đề tài này. Mục lục Trang Mở đầu 1 I. Cơ sở lí luậnvề cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 3 1.Cạnh tranh, hiệu quả kinh tế và sự can thiệp của nhà nước 3 1.1. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 3 1.1.1.Khái niệm về cạnh tranh 3 1.1.2.Vai trò của cạnh tranh 4 1.1.3.Các loại cạnh tranh 4 1.2.Hiệu quả kinh tế và sự can thiệp của nhà nước 6 2.Khả năng cạnh tranh và các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 9 2.1.Quan niệm về khả năng cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh 9 2.2. Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 9 2.3.Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 10 2.4.Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 11 2.4.1.Các yếu tố về môi trường vĩ mô 11 2.4.2.Nhóm yếu tố thuộc môi trường ngành 12 2.4.3. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp 3. Những nội dung và yêu cầu chủ yếu của hoạt động trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh 15 3.1. Để nâng cao khả năng cạnh tranh doanh nghiệp cần phải giải quyết các vấn đề sau 15 3.2. Những yêu cầu chủ yếu của doanh nghiệp Việt Nam 16 II.Thực trạng khả năng cạnh tranh và những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản 20 1. Đặc điểm của ngành công nghiệp chế biến thuỷ hải sản 20 2. Thực trạng khả năng cạnh tranh và hoạt động nâng cao cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản 20 3. Những tồn tại và giải pháp mà các doanh nghiệp đã và đang nghiên cứu 22 3.1. Những tồn tại chủ yếu của các doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản 22 3.2. Những giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản 23 Kết luận 25 Danh mục tài liệu tham khảo 1. Sách: Tổng quan về cạnh tranh Nhà xuất bản hành chính quốc gia HN-1999 2. Từ Thanh Thuỷ : Thực trạng và định hướng phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam Thương nghiệp thị trường Việt Nam số 5-1999 3.Bùi Văn Hạnh : Để nâng cao khả năng cạnh tranh hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam kinh tế và dự báo số 4-2000 4. Pts.Hoàng thịnh lâm : Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam Kinh tế và dự báo số 3-2000 5. Võ Chí Thành : Cạnh tranh và chính sách cạnh tranh: Bản chất, nội dung và trường hợp Việt Nam Nghiên cứu kinh tế số 263 Tháng4-2000 6. Trần Văn Kinh Trần Mai Hương : Nâng cao sức cạnh tranh: King nghiệm nước ngoài và những vấn đề đối với doanh nghiệp Việt Nam 7. Lâm Minh Châu : Một vài suy nghĩ về xây dựng chiến lược kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản miền trung Công nghiệp 7-1999 8. Ngô Thị Hoài Lam : Một số ý kiến về vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam Công nghiệp 9-2000

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV197.doc
Tài liệu liên quan