Thứ nhất, phát triển nguồn nhân lực
Xây dựng Chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May Việt Nam:
Tổ chức việc đào tạo cán bộ phục vụ cho ngành quản lý, công nhân có tay nghề kết hợp đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn hạn, kết hợp giữa đào tạo chính quy với đào tạo tại chỗ, kết hợp giữa đào tạo trong nước với việc cử cán bộ ra nước ngoài để đào tạo, củng cố và mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành Dệt May, xây dựng Trường Đại học Dệt May và Thời trang để tạo cơ sở vật chất cho việc triển khai các lớp đào tạo.
Thứ hai các giải pháp về khoa học và công nghệ
-Nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới, các nguyên liệu mới để tạo ra các sản phẩm dệt có tính năng khác biệt, triển khai các chương trình sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, áp dụng các phần mềm trong thiết kế, quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm Dệt May;
-Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu sản xuất nguyên vật liệu để thay thế nguyên liệu nhập khẩu, đầu tư thoả đáng cho công tác nghiên cứu thiết kế mẫu sản phẩm và kiểm tra chất lượng sản phẩm; khắc phục các rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu;
- Tổ chức lại các Viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Nâng cao năng lực tư vấn, nghiên cứu triển khai, chuyển giao công nghệ, khả năng thiết kế và sáng tác mẫu của các Viện nghiên cứu.
45 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1575 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủng hoảng tài chính Châu Á.
Có điểm đáng chú ý là năm 2001 tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Dệt may thấp nhất, nguyên nhân là do trong năm này thì hàng Dệt may của việt Nam đang phải cạnh tranh với hàng Dệt may Trung Quốc,nền kinh tế của các nước nhập khẩu chính của ta lại đang suy thoái nên số lượng nhập khẩu ít hơn, mặt khác, hàng Dệt may của các nước Đông Âu, Bắc Phi, Campuchia, Bangladesh, Srilanka, xuất khẩu vào EU được miễn thuế nhập khẩu và không bị khống chế về hạn ngạch, trong khi đó Dệt may Dệt may Việt Nam không chỉ bị đánh thuế nhập khẩu bình quân 14%, mà còn bị khống chế về hạn ngạch khiến hàng hóa của ta kém cạnh tranh so với hàng hóa nước khác.
Năm 2001 cũng là năm đánh dấu sự kiện hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kì được kí kết, hàng dệt may Việt Nam có khả năng thâm nhập và tiếp cận thị trường tiềm năng, từ 2001 đến 2004 hàng năm tăng trung bình 79.33 triệu USD, tốc độ tăng trưởng bình quân là 31. 15%, đây là mức tăng trưởng rất cao Dệt may là một trong số ít mặt hàng chủ lực của nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định trong những năm qua.
Biểu đồ dưới đây cho thấy xu hướng tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Dệt may rõ nét hơn.
Biểu đồ 2.1 Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt may Việt Nam
Giai đoạn (1999-2008)
Sau sự kiện Việt Nam kí kết hiệp định thưong mại với Hoa Kì năm 2001, đã có sự thay đổi lớn về kim ngạch xuất khẩu Dệt may Việt Nam trong đó mốc son đáng nhớ nhất là năm 2002 với mức tăng trưởng kỉ lục là 38.33% đưa Dệt may lên vị trí thứ nhất trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Sau khi tăng đột biến trong 2 năm 2002 và 2003 (tăng lần lượt 38,3% và 32,1%) thì kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta trong năm 2004 và 2005 đã chững lại do xuất khẩu sang Mỹ và EU bị áp hạn ngạch.
Sang năm 2006, Việt Nam gia nhập WTO, ngành Dệt may đã có những thành tựu chưa từng có. Và 2007 nhờ xuất khẩu sang EU và Mỹ được dỡ bỏ hạn ngạch nên kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đã tăng khá trở lại.
Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu Dệt may đạt 7,8 tỉ đô la Mỹ , tăng gấp 2,2 lần so với năm 2004 , đứng đầu trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam và được xếp thứ 9 trong các nước xuất khẩu hàng may mặc thế giới.
Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam đặt ra là 9,5 tỷ USD năm 2008 và 25 tỷ USD vào năm 2020. 7 tháng đầu 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta đạt 5,094 tỷ USD, tăng 19,74% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, để đạt mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may năm 2008 thì kế hoạch xuất khẩu trong 5 tháng cuối năm, trung bình mỗi tháng, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của nước ta phải đạt tối thiểu 880 triệu USD. Đó là mức kim ngạch cao, đòi hỏi nỗ lực lớn ở bản thân các doanh nghiệp, hiệp hội Dệt may Việt Nam và cần có những chính sách hợp lý, hiệu quả từ phía Chính phủ.
2.1.2. Cơ cấu xuất khẩu Dệt may Việt Nam theo thị trường
Thị trường tiêu thụ dệt may thời gian qua đã có nhiều sự thay đổi lớn, đó là sự chuyển biến từ khu vực thị trường Đông Âu sang thị trường khu vực khác.Cho đến nay Dệt may Việt Nam đã được xuất khẩu sang hơn 100 nước, bảng số liệu dưới đây là những thị trường tiêu thụ chính của Dệt may Việt Nam. Nhìn vào bảng số liệu ta thấy thị trường tiêu thụ Dệt may Việt Nam tập trung chủ yếu ở 3 thị trường lớn đó là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản,còn những thị trường khác, tỷ trọng nhập khẩu thấp.
Bảng 2.2.Kim ngạch xuất khẩu Dệt may tới một số thị trường
(ĐV: triệu USD)
TT
Thị trường
Năm 2006
(tr USD)
So với 2005(%)
Năm 2007
(tr USD)
So với 06 (%)
1
Mỹ
3044.6
16.97
4464.8
46.65
2
EU
1243.8
37.46
1489.3
19.74
3
Nhật Bản
627.6
3.93
703.8
12.14
4
Đài Loan
181.4
-0.95
161.1
-11.18
5
Canada
97.3
20.23
135.5
39.25
6
Hàn Quốc
82.9
67.55
84.9
2.49
7
Nga
62.4
30.33
79.0
26.59
8
Mêhicô
54.5
9
Trung Quốc
29.7
265.92
43.1
45.17
10
Thổ Nhĩ Kỳ
5.7
134.99
37.8
563.80
11
Hồng Kông
31.1
148.75
36.6
17.60
12
UAE
27.4
351.44
28.5
4.15
13
Campuchia
18.5
5.64
28.5
54.15
14
Malaysia
33.7
37.78
25.3
-24.79
15
Singapore
19.1
285.40
24.2
26.40
16
Indonexia
17.4
1,036
24.8
42.40
17
Ả rập Xê út
18.1
166.95
27.2
49.91
18
Ôxtrâylia
23.7
-4.54
24.2
2.08
19
Ukraina
12.2
284.32
21.4
75.20
20
Thái Lan
10.7
367.75
16.4
53.24
21
Nam Phi
3.4
124.38
13.3
294.27
22
Thuỵ Sỹ
10.8
31.97
11.3
4.80
23
Philipine
6.4
373.29
11.2
76.14
Nguồn:Hiệp hội dệt may Việt Nam
Biểu đồ 2.2.Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu Dệt may Việt Nam sang các
thị trường năm 2007
(Đơn vị: %)
Nguồn:Bộ thương mại Việt Nam
Thị trường Hoa Kỳ
Bảng 2.2.1 Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam - Hoa kỳ giai đoạn 2000-2008
(ĐV: triệu USD)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Hoa Kỳ (1)
49.5
49.3
850
2480
2396
2602
3044.6
4464.8
5500
Toàn ngành(2)
1892
1975
2732
3609
4385
4862
5784
7780
9500
Tỷ trọng (1)/(2)%
2.62
2.50
31.11
68.71
54.02
53.52
52.18
57.39
57.89
Nguồn:Hiệp hội dệt may Việt Nam
Qua bảng số liệu cho thấy năm 2001 xuất khẩu Dệt may vào thị trường Hoa Kỳ chỉ khoảng 49.3 thì đến năm 2002 con số đã là 850 triệu USD, tăng gấp 17 lần so với kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này 2001.Chiếm 1/3 giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn ngành
Đến năm 2003 kim ngạch là 2480 triệu USD, tăng gấp khoảng 50 lần so với năm 2001, đạt được điều trên là do nỗ lực của chính phủ, của toàn ngành may, và những nhân tố khách quan khác.
Tuy nhiên đến năm 2005, xuất khẩu Dệt may vào thị trường Hoa Kỳ tăng chậm, thậm chí một số mặt hàng bị tăng trưởng âm(cat 338-339)nguyên nhân là Hoa Kỳ bỏ hạn ngạch cho các nước thành viên của WTO , trong khi Việt Nam chưa gia nhập nên không được hưởng ưu đãi này.
Đến năm 2006 khi Việt Nam gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam được cạnh tranh trong sân chơi bình đẳng hơn nên kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ tăng nhanh, năm 2006 đạt 3 tỷ USD.
Cho đến năm 2007 kim ngạch vào thị trường này là 4.4 tỷ USD và tốc độ tăng bình quân của cả giai đoạn là 28.55%, với tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ so với tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam chiếm trên 50%, chứng tỏ thị trường này có ảnh hưởng rõ nét nhất đến kim ngạch xuất khẩu cho toàn ngành và tình hình xuất khẩu hàng hóa của cả nước.
Biểu đồ 2.2.1 So sánh tổng kim ngạch xuất khẩu Dệt may sang thị trường Hoa Kỳ với ngành giai đoạn 2000-2008
(đv: triệu USD)
Số liệu năm 2008 trên chỉ là những con số dự báo, hiện nay các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trên thị trường này nguyên nhân chính là do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính khiến sức tiêu thụ trên thị trường này suy giảm.
Thị trường EU
Bảng 2.2.2 kim ngạch xuất khẩu Dệt may Việt nam vào thị trường EU giai đoạn 2000-2008
(đơn vị: triệu USD)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
EU
609
559
579
537.1
760
882.8
1245
1490
1800
Thị trường EU là thị trường truyền thống của Việt Nam, EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Và cũng là thị trường tiêu thu Dệt may Việt Nam lớn thứ 2
Số liệu thồng kê cho thấy, nếu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU chỉ đạt 537,1 triệu USD,do nền kinh tế EU chậm lại trong năm 2003. Mức tăng trưởng GDP thực tế chỉ đạt 0.8%. Đây là mức thấp hơn mức tăng 1.0% của năm 2002, mà bản thân mức 1.0% này cũng đã thấp hơn mức 1.7% của năm 2001.
Đến năm 2004 tăng lên mức 760 triệu USD, năm 2005 tiếp tục tăng lên mức 882,8 triệu USD, năm 2006 vượt qua ngưỡng 1 tỉ USD (đạt 1.245 tỷ USD), năm 2007 đạt 1.490 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2006, tăng 62,2% so với năm 2005, gấp gần 3 lần so với năm 2003.
Năm 2008, thị trường EU phấn đấu đạt 1,8 tỷ USD.Đây là nhiệm vụ nặng nề, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực cao ngay từ đầu năm. Dù tình hình có khó khăn hơn, phải cạnh quyết liệt hơn, nhưng DN Việt Nam vẫn có nhiều cơ hội giữ vững và duy trì được mức tăng trưởng, nếu tìm được hướng đi thích hợp.
Hiện nay, thị trường nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam lớn nhất trong Liên minh vẫn là Đức (46,9%); Pháp (10,8%); Hà Lan (10,3%); Anh (9,4%); Bỉ (6,1%); Tây Ban Nha (5,1%); Ý (4,4%); Đan Mạch (2%); Thụy Điển (1,9%); Áo (1,5%); Phần Lan (0,6%); Ai Len (0,4%); Luxembourg (0,3%); Hy Lạp (0,2%) và Bồ Đào Nha (0,1%).
Năm 2008, EU cũng sẽ bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc và sẽ áp dụng một hệ thống giám sát “kiểm tra kép” để theo dõi việc cấp phép xuất khẩu hàng dệt may tại Trung Quốc và việc nhập khẩu mặt hàng này vào EU. So với trước đây, rõ ràng từ năm 2008 xuất khẩu của Trung Quốc sang EU sẽ thuận lợi hơn. Và như thế, các nước xuất khẩu hàng dệt may sẽ không dễ dàng nếu muốn tăng thị phần tại EU, bởi hàng Dệt may của các nước trong đó có Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn với hàng dệt may Trung Quốc .
Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu Dệt may Việt Nam lớn thứ 3,chiếm khoảng 10% trong tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may, thị trường Nhật ban là thị trường khá khó tính, trong khi kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ và EU tăng mạnh thì tốc độ tăng trưởng kim ngạch Dệt may Việt Nam vào thj trường này lại tăng khá chậm,biểu đồ dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn xu thế đó.
Biểu đồ 2.1.3 Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt may Việt Nam
sang thị trường Nhật Bản Giai đoạn 2000-2008
(Đơn vị: triệu USD)
Kim ngạch năm 2006 tăng chỉ khoảng 4%, đạt khoảng 627 triệu USD.năm 2007, chỉ đạt 738 triệu USD chỉ tăng 12.14 %.
Hơn thế nữa, năm 2008 các nước ASEAN được xóa bỏ thuế quan xuống 0%, trong khi đó Việt Nam đang phải chịu mức thuế suất 10%, để được hạ mức thuế xuất xuống 05 bên phía Nhật Bản yêu cầu Dệt may Việt Nam phải đáp ứng tiêu chí sản xuất qua “2 công đoạn”,tức là được sản xuất từ nguyên phụ liệu trong nước, hoặc nhật hoặc các nước ASEAN, đây là thách thức lớn đặt ra cho các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam.
Các thị trường khác
Các thị trường khác như Hàn Quôc, Đài loan, camphuchia, Braxin, Nam Phi….
Chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu Dệt May Việt Nam.
Trong đó, hiện nay kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt nam là Đài loan,trong khi kim ngạch xuất khẩu sang Hoa kỳ chậm lại thì kim ngạch xuất khẩu sang EU, Đài loan lại tăng cao, việc mở rộng thị trường tiêu thụ Dệt may Việt nam là điều cần thiết giúp gia tăng xuất khẩu, hạn chế rủi ro khi chỉ tập trung vào thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.
Thị trường tiêu thụ chiếm tỷ trọng thấp nhất là Nam phi năm 2006 với tỷ trọng là 0.06%, còn năm 2007, thị trường chiếm tỷ trọng tiêu thụ dệt may nhỏ nhất của Việt Nam là Philipin. Tỷ trọng nhập khẩu Dệt may Việt Nam vào các thị trường luôn biến động, 7 tháng đầu năm 2008, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Dệt may vào các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU đều chậm do ảnh hửong của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới , đặc biệt tại Mỹ.
2.1.3. Kim ngạch xuất khẩu theo chủng loại hàng Dệt may Việt Nam
Năm 2006, các chủng loại mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh là áo jacket, quần, áo sơ mi, áo thun, áo khoác, quần short, quần áo thể thao, váy, quần áo sợi acrylic… và giảm xuất ở một vài mặt hàng như áo len, đồ lót, caravat, khăn, quần áo jacket… Xét về trị giá, mặt hàng quần là chủng loại mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng cao nhất, tăng tới 81 triệu USD so với năm 2005, đạt 205 triệu USD.
Đứng thứ hai là mặt hàng áo jacket với mức tăng 63 triệu USD. Tuy nhiên, xét theo tổng kim ngạch xuất khẩu thì áo jacket là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất, đạt 246 triệu USD.
Đứng thứ ba là áo thun, với mức chênh lệch kim ngạch xuất khẩu lên tới 50 triệu USD, tăng 81% so với năm 2005, đạt 112 triệu USD. Trong khi xuất khẩu áo sơ mi lại tăng thấp, chỉ tăng 9 triệu USD, tương đương với 8,32% so với năm 2005, đạt 117 triệu USD – là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng cao thứ ba.
Trong khi đó, xuất khẩu đồ lót và mặt hàng áo len lại giảm so với năm 2005. Bên cạnh đó, các mặt hàng như áo gió, áo ghilê, khăn, màn… cũng giảm xuất khẩu sang EU. Các mặt hàng như túi ngủ, quần áo mưa, găng tay, áo Kimono có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tăng rất cao trong năm 2006. Cùng với các mặt hàng xuất khẩu truyền thống, xuất khẩu các chủng loại mặt hàng này sẽ tiếp tục tăng mạnh trong năm 2007.
Như vậy, có thể nói các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam có thể sản xuất khá đa dạng về các loại hàng may mặc, đáp ứng tốt cho nhu cầu đa dạng trên thế giới.
Áo thun, quần dài, áo Jacket có mức tăng trưởng cao, có kim ngạch xuất khẩu trên 1tỷ. Cao nhất là áo thun 1.5 tỷ năm 2007 tăng 62.41% so với năm 2006.thứ 2 là áo Jacket, tiếp theo là quần dài.các mặt hàng này chiếm tỷ trọng lớn, 51.63 năm 2006 và 51.51 năm 2007.
Mức tăng trưởng các mặt hàng khác ngoài mặt hàng truyền thống ở trên năm 2007 tăng rất nhanh, 1808% còn năm 2006 chỉ là 1.18% .cho. Xét về tốc độ tăng trưởng kim ngạch, mặt hàng quần áo y tế là chủng loại có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong tháng 1/2008, .Các mặt hàng này không phải là các chủng loại hàng dệt may xuất khẩu lớn của nước ta.
2.1.4. Số lượng và qui mô của các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam
Theo thống kê năm 2007, toàn ngành có 2390 doanh nghiệp, tổ chức tham gia hoạt động xuất khẩu, tăng 85 doanh nghiệp so với năm 2006. Phần lớn kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp tăng mạnh so với năm 2006, do năm 2007 là năm khởi sắc của toàn ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam.
Bảng 2.1.3 Thống kê số lượng các doanh nghiệp Dệt may theo kim ngạch xuất khẩu
(Đơn vị : triệu USD)
trên 100
50-100
10-50
1-10
Dưới 1
Số lượng (doanh nghiệp)
4
15
174
638
1559
Tăng so với năm 2006
(doanh nghiệp)
2
4
50
47
Giảm 18
Như vậy, thông qua những kết quả đạt được của ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam, chúng ta có thể thấy được những triển vọng của ngành trong các ngành xuất khẩu của Việt Nam những năm gần đây. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Dệt may có thể nâng cao tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hơn thế nữa để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường thế giới không thua kém các quốc gia khác. Để làm được điều đó, đòi hỏi ở chủ yếu ở bản thân các doanh nghiệp phải nỗ lực, chúng ta không thể làm được điều đó nếu không đánh giá được đúng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện nay. Phần tiếp theo, tác giả đưa ra những đánh giá về năng lực cạnh tranh Dệt may xuất khẩu Việt Nam theo các tiêu chí đã nêu ở chương 1.
2.2. Phân tích các năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam theo các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
2.2.1. Năng suất sản xuất
2.2.1.1. Khả năng chủ động nguồn nguyên liệu
Công nghiệp phụ trợ ngành Dệt May chưa phát triển, mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong nhiều năm.
Theo nhận định của các nhà kinh tế, thì tình hình sản xuất bông của Việt Nam tụt hậu quá xa so với sự phát triển của ngành, mà bông lại là nguyên liệu chính phục vụ cho ngành Dệt.
Mỗi năm ngành Dệt phải nhập hàng trăm ngàn tấn xơ nhưng nguồn bông trong nước chỉ đáp ứng khoảng 10%, con số quá nhỏ so với nhu cầu, theo thống kê ngành Dệt phải nhập khẩu khoảng 70-80% nguyên liệu từ nước ngoài.
Đến năm 2007, Ngành vẫn phải nhập khẩu tới 90% bông, gần 100% các loại xơ sợi tổng hợp, hoá chất thuốc nhuộm, máy móc, thiết bị và phụ tùng, 70% vải và 50 đến 70% các loại phụ liệu cho may xuất khẩu như khóa kéo phải nhập tới 70%, mex dựng khoảng 60%. Đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh ngành Dệt May thấp, là bất lợi lớn trong việc nâng cao giá trị gia tăng, và sức cạnh tranh của sản phẩm Dệt may trên thị trường.
2.2.1.2. Quy mô và chất lượng nguồn nhân lực
Năm 2004 ngành Dệt may đã thu hút 1.2 triệu lao động , đến năm 2006 là 2 triệu lao động, đến 2007 giải quyết được việc làm cho hơn 2,2 triệu lao động, đã tạo nguồn công ăn việc làm lớn cho xã hội.
Thứ nhất, chất lượng lao động trong ngành Dệt may Việt Nam vẫn thấp từ trước đến nay. Tuy nguồn lao động của nước ta có lợi thế là lao động dồi dào, giá nhân công rẻ , nhưng trong điều kiện hội nhập hiện nay, giá nhân công thấp không còn là một lợi thế, mà ngành đang cần lực lượng lao động có tay nghề cao, có kỹ năng kỹ xảo.
Năm 2006, chỉ có 30.5% lao động có trình độ văn hóa phổ thông trung học trở lên, trong khi tỷ lệ này là 40.8% ở ngành công nghiệp chế biến.Với tay nghề 81.5% lao động trong ngành may không có bằng cấp hay chứng chỉ nghề nào. Hình 2.3.1.2 cho thấy tỷ lệ lao động ngành Dệt may có chứng chỉ nghề ngắn hạn là 11.8%, chứng chỉ nghề dài hạn hiện nay chỉ có 2.5%, qua tìm hiểu các doanh nghiệp may mặc(gồm 2 doanh nghiệp tư nhân và 2 công ty cổ phần nhà nước) hiện nay cho thấy 30% lao động được tuyển dụng hoàn toàn không có kỹ năng về nghề máy nên các doanh nghiệp phải đào tạo việc trong vòng 3 tháng và tối thiểu 6 tháng mới đáp ứng được yêu cầu công việc. Cho nên, các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam đang thiếu hụt lao động có trình độ kỹ thuật.
Hình 2.3.1.2 cơ cấu lao động làm công ngành Dệt may phân theo bằng cấp nghề năm 2006
Hình 2.3.1.1 cơ cấu lao động ngành Dệt may phân theo trình độ học vấn năm 2006
Thứ 2, lao động trong ngành có sự biến động lớn
Tiền công lao động Dệt may không cao so với các ngành nghề khác. Năm 2006, ở khu vực đô thị mức lương trung bình của lao động trong ngành Dệt may là 1.2 triệu đồng trong khi lao động làm công nói chung là 1.4 triệu đồng. Mặt khác, do nhu cầu lao động trong ngành lớn, xảy ra tình trạng tranh chấp lao động khá gay gắt giữa các doanh nghiệp
Thứ 3, nguồn nhân lực bị phân tán, gây khó khăn cho công tác đào tạo
Bảng 2.3.1.3 quy mô doanh nghiệp Dệt may thời kỳ 2000-2005
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng số DN Dệt may(DN)
Trong đó, tỷ lệ DN(%)
-Dưới 50 lao động
-từ 50-299 lao động
-Từ 300-999 lao động
-Từ 1000-4999 lao động
-Từ 5000 lao động trở lên
987
30.1
39.4
22.1
8.1
0.3
1254
38.8
34.8
18.6
7.7
0.2
1622
39.4
34.1
19.3
6.9
0.3
1919
40.9
32.3
19.8
6.7
0.4
2410
45.2
31.1
17.7
6.3
0.2
2791
49.9
29.1
15.4
5.3
0.3
Nguồn:tổng cục thống kê 2005,2006
Theo số liệu thống kê trên cho thấy, số doanh nghiệp có qui mô nhỏ chiếm đa số, dẫn đến nguồn nhân lực bị phân tán, số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ chiếm khoảng 70%, có số lao động dưới 300 người. Số doanh nghiệp có qui mô từ 300 đến 1000 người chỉ chiếm khoảng từ 15-20%,còn doanh nghiệp có qui mô trên 1000 người chiếm 5-8.5%,chứng tỏ nguồn lao động không tập trung, sẽ khó khăn trong việc đào tạo dạy nghề.
Mặt khác, ta thấy, số doanh nghiệp gia tăng nhanh chủ yếu là doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ. Năm 2000, số doanh nghiệp có qui mô dưới 300 lao động chiếm 69.5%, năm 2005 con số này tăng lên 79.0%, còn số doanh nghiệp có qui mô từ 1 ngàn lao động trở lên chỉ chiếm 5.6% tổng số doanh nghiệp Dệt may. Cho nên các doanh nghiệp Dệt may sẽ khó phát triển thành tập đoàn lớn và mức độ bền vững việc làm không cao.
Tất cả những thực trạng trên đe dọa đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam, bản thân các doanh nghiệp và chính phủ cần phải có những bước tính cụ thể cho những vấn đề cấp bách trên.
2.2.1.3. Trình độ công nghệ và qui mô sản xuất
Theo thống kê phần trên, các doanh nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ, các doanh nghiệp này sản xuất manh mún, thiếu tính hợp tác thậm chí còn cạnh tranh nhau, nên qui mô sản xuất của toàn ngành không có ý nghĩa đến năng lực cạnh tranh của ngành hiện tại.
Về vấn đề công nghệ trong các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu hiện nay thì còn rất nhiều bất cập, phía nội địa chỉ đáp ứng được trang thiết bị nhỏ lẻ đơn giản như: Máy trải vải, máy kiểm tra vải, hệ thống chiếu sáng, hệ thống làm mát và một số phụ tùng tủ đựng hồ sơ, ghế ngồi may …trang thiết bị công nghệ trong các doanh nghiệp chủ yếu được nhập khẩu từ các quốc gia như Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan,… lại là những đối thủ cạnh tranh lớn trong lĩnh vực xuất khẩu Dệt may, điều này đã làm cũng góp phần làm giảm lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu của ta. Các doanh nghiệp hiện nay phải nhập các phụ tùng, cơ kiện của ngành Dệt may từ 70-80%, đây là một con số lớn.Tuy nhiên vấn đề ở đây không chỉ có vậy, Theo số liệu của Vitas năm 2006, tình trạng thiết bị ngành kéo sợi sử dụng tới 59% là công nghệ cũ và kém, ngành Dệt sử dụng trung bình tới 80% công nghệ thấp và trung bình, còn ngành may là 70% cho thấy mức độ trang bị công nghệ là kém, làm giảm năng lực cạnh tranh nhất là thời trong thời đại ngày nay khoa học công nghệ được coi như là lực lượng sản xuất chủ yếu.
2.2.2. Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp
Bất kì mọi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều quan tâm đến vấn đề lọi nhuận doanh nghiệp làm sao để doanh nghiệp đạt được mức lợi nhuận cao, để nâng cao năng lực cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải ra sức tăng tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
Hiện nay các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam đã có nhiều phấn đấu trong việc nâng cao tỷ suất lợi nhuận không chỉ thể hiện ở các gương mặt lớn trong lĩnh vực Dệt may xuất khẩu như Tổng công ty Dệt may Việt Tiến, tổn công ty Dệt may Việt Nam mà còn thể hiện ở các doanh nghiệp nhỏ và ít tên tuổi trên thương trường, tiêu biểu như: năm 2008, Công ty cổ phần Dệt Việt Thắng vươn lên thành doanh nghiệp tiêu biểu nhất ngành Dệt. Với doanh số xấp xỉ 2.000 tỷ đồng và tỷ suất lợi nhuận 39,1%, công ty May Hưng Long đạt tỷ suất lợi nhuận cao nhất (120%).
Tuy nhiên, hiện nay tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam vẫn đang ở mức thấp so với các đối thủ khác như Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ,…Theo số liệu từ Vitas, tỷ suất lợi nhuận của ngành dệt may Việt Nam hiện nay đang ở mức 5-8%, do chủ yếu tập trung vào khâu gia công.
Trong khi khâu gia công là nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh ngành may mặc thấp do trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu thì thiết kế kiểu dáng diễn ra ở Mỹ và châu Âu, vải được sản xuất ở Trung Quốc, các phụ liệu đầu vào khác được sản xuất tại Ấn Độ và sản phẩm cuối cùng được thực hiện ở những nước có chi phí nhân công thấp như Việt Nam, Trung Quốc. Việt Nam chỉ tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng, khâu được đánh giá tạo ra lượng giá trị gia tăng thấp nhất, với sự tham gia của khoảng 90% doanh nghiệp Việt Nam, dưới hình thức sản xuất gia công.
Cũng trong chuỗi giá trị này, các công ty Việt Nam hiện nay chủ yếu sản xuất theo tiêu chuẩn khách hàng (OEM). Tuy nhiên, trở thành nhà cung ứng đạt chuẩn OEM vẫn đang còn nhiều vấn đề lớn mà các doanh nghiệp trong nước cần tiến bộ hơn nữa mới đạt đến trình độ hiện nay của các nước Đông Á.
Mặt khác, muốn thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu thì các doanh nghiệp cần phải sản xuất dưới dạng sản xuất thiết kế gốc (ODM) hay sản xuất nhãn hiệu gốc (OBM).
Trên thực tế, đây không phải là vấn đề mới nhưng vẫn đòi hỏi sự nghiên cứu nhiều để tạo ra sự tăng trưởng về chất cho ngành dệt may Việt Nam, thay cho tăng trưởng về lượng (gia công) kéo dài trong những năm qua.
Như vậy việc phát triển quy mô sản xuất của các doanh nghiệp trong nước theo hướng gia công sẽ chỉ đúng trong ngắn hạn nhưng sẽ không còn phù hợp, thậm chí có thể dẫn đến định hướng sai lệch cho ngành Dệt may trong tầm nhìn dài hơn.
Bởi đã đến lúc, trước sức cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu do suy giảm kinh tế toàn cầu đang diễn ra với tốc độ ngày một gay gắt hơn thì việc tự đặt mình vào vị trí đáy của chuỗi giá trị toàn cầu hẳn là một lựa chọn ẩn chứa nhiều rủi ro và thua thiệt. Đây là một vấn đề lớn cần được giải quyết để có thể nâng cao tỷ suất lợi nhuận trong khi các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam hiện nay lại chiếm tớ 90% là các doanh nghiệp gia công xuất khẩu.
2.2.3. Thị phần và khả năng mở rộng thị phần
Sản phẩm Dệt may Việt Nam có mặt trên rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có khoảng 23 quốc gia nhập khẩu lớn nhất.Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu lại tập trung vào các thị trường là Hoa Kỳ, EU, và Nhật Bản. Cho nên, tác động của các thị phần trên các thị trường này sẽ ảnh hưởng chủ yếu đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam.
Sau đây là những phân tích về những biến động của 3 thị trường trên:
- Thị trường Hoa Kỳ
Người dân Hoa Kỳ rất ưa chuộng hàng may mặc chính vì vậy mà họ tiêu dùng rất nhiều các sản phẩm may mặcChính vì vậy Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu Dệt may lý tưởng nhất thế giới.
Theo số liệu của Bộ Thương mại Hoa KỲ thì năm 2006 kim ngạch xuất khẩu Dệt may vào thị trường Hoa Kỳ đạt 3.396 tỷ USD, chiếm 3.64% thị phần nhập khẩu Dệt may của Hoa Kỳ.
Bảng 2.3.2.3.1 sự thay đổi thị phần tuyệt đối của Dệt may Việt Nam và các nước xuất khẩu Dệt may chính vào thị trường Hoa Kỳ
Quốc gia
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Trung Quốc
9,10
9,30
12,11
14,99
17,15
25,11
29,01
Mêxico
13,52
12,73
10,28
8,92
8,02
6,81
5,68
Ấn Độ
3,82
3,75
4,15
4,15
4,36
5,17
5,39
Hồng Kông
6,57
6,27
5,59
4,93
4,75
4,04
3,10
Inđônêxia
3,32
3,63
3,23
3,07
3,14
3,45
4,18
Pakistan
2,56
2,74
2,75
2,86
3,06
3,26
3,48
Việt NAm
0,069
0,07
1,32
3,21
3,26
3,23
3,604
Canada
4,67
4,50
4,43
4,03
3,7
3,19
2,77
Honduras
3,25
3,34
3,39
3.24
3,21
2,95
2,62
Bangladesh
3,08
3,14
2,76
2,5
2,48
2,75
3,21
Thái Lan
3,4
3,48
3,05
2,68
2,64
2,38
2,28
Philippin
3,19
3,20
2,82
2,63
2,33
2,15
2,24
Srilanka
2,34
2,42
2,12
1,93
1,90
1,88
1,82
Các nước khác
41,09
43,83
42,47
41,45
40,23
34,18
32,38
Tổng cộng
100
100
100
100
100
100
100
Nguồn: http:/otexa.ita.gov
Qua số liệu tính toán trên có thể thấy được thị phần các quốc gia có phần thay đổi “ngôi” thứ rõ rệt, chứng tỏ tính cạnh tranh vô cùng quyết liệt trên thị trường này. Inđônêxia, Bangladesh, Pakixtan vẫn cố gắng nắm giữ thị phần trong khi đó Canada, Hồng Kông, Mêxico, lại dần để mất thị phần vào tay Trung Quốc , Ấn Độ, Việt Nam. Theo nhận định, tốc độ tăng trưởng của Dệt may Việt Nam là hiện tượng “sau Trung Quốc”, từ vị trí không tên tuổi trên thị trường Hoa Kỳ thì đã vươn lên vị trí thứ 6. Với sự tăng trưởng cao và toàn diện trên thị trường Hoa Kỳ có thể cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể tăng cường sự hiện diện trên thị trường này.
Tuy nhiên, nếu so sánh con số 3.64% thị phần, và 29% thị phần mà Trung Quốc và 5.39% thị phần Ấn Độ chiếm giữ ,thì có thể thấy kim ngạch xuất khẩu Dệt may vào thị trường Hoa Kỳ còn quá nhỏ bé, chứng tỏ sức cạnh tranh của hàng Dệt may Việt Nam so với các đối thủ này còn thua kém nhiều. Mức tăng trưởng thị phần cao trong thời gian qua phải kể đến Ấn Độ, từ vị trí thứ 7, vượt lên các quốc gia khác để vươn lên vị trí thứ 3 sau Trung Quốc và Mêxico. Còn đối thủ Trung Quốc vẫn khẳng định “là một anh khổng lồ rất to con, lại rất xung sức” là địch thủ đáng ngại nhất của các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam
- Thị trường EU
Năm 2007, EU bãi bỏ hạn ngạch với hàng Dệt may Trung Quốc, chính vì vậy việc xuất khẩu sang EU của Trung Quốc sẽ có rất nhiều thuận lợi, các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam còn phải cạnh tranh gay gắt với các đối thủ đáng gươmg khác như: Ấn Độ, Bangladesh,Inđônêxia.
Bảng 2.3.2.3.2 so sánh kim ngạch xuất khẩu của một số nước trên thị trường EU (Đơn vị: triệu USD), (KN: kim ngạch; TP:thị phần)
Năm
Việt Nam
Trung Quốc
Ấn Độ
Bangladesh
KN
TP(%)
KN
TP(%)
KN
TP(%)
KN
TP
2003
537,1
0,6
9.980,4
12,2
2.355,9
3,0
3.101,5
3.4
2004
760
0,7
11.483,3
12,9
2.478,3
2,9
3.477,9
3.8
2005
882,8
0,7
16.855,6
18
3.232,8
3,4
3.529,6
3.8
Nguồn: Eucostat.comext
Thị phần của các doanh nghiệp Dệt may tăng nhanh trong trời gian qua, tuy nhiên thị phần trên thị trường này vẫn nhỏ hơn 1% mỗi năm. So sánh với Trung Quốc thì thị phần của Trung Quốc hơn ta khoảng 25.7 lần năm 2006. Thị phần của Bangladesh khá ổn định ở con số 3.8% năm 2005, gấp 5.4 lần của Việt Nam. Do vậy, thị phần của Dệt may xuất khẩu Việt Nam còn thua xa.
Theo kế hoạch của Bộ Công Thương Việt Nam, xuất khẩu hàng dệt trong năm 2008 là 9,5 tỷ USD, tăng 21,8% so ước thực hiện năm 2007, chứng tỏ hàng Dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này đang có khá nhiều thuận lợi.
- Thị trường Nhật Bản
Một trong những yêu cầu của Nhật Bản trong đàm phán về Hiệp định Đối tác kinh tế với Việt Nam – EPA (dự kiến kết thúc vào cuối năm nay và có hiệu lực ngay sau đó) là Hàng Dệt May Việt Nam Xuất Sang Thị Trường Nhật Bản Phải Đạt Tiêu Chí Xuất Xứ “Hai Công Đoạn” có nghĩa là hàng Dệt may xuất sang Nhật phải được sản xuất từ nguyên phụ liệu trong nước, hoặc của Nhật hoặc của các nước ASEAN.
Trên thị trường này, đứng đầu là Trung Quốc với tỷ trọng 73,6%, tiếp đến là EU 8,1%, Mỹ 2,5%, Đài Loan 1,3%, ASEAN chiếm 7,5% và Việt Nam hiện là đối tác lớn nhất của Nhật Bản trong khối ASEAN với lượng hàng dệt may xuất khẩu chiếm 34,4% trong khối.
Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam phải chịu thuế xuất 10% do chưa đáp ứng được tiêu chí xuất xứ “hai công đoạn”, trong khi các nước ASEAN được hưởng mức thuế suất 0%. Tuy nhiên, khi đáp ứng được tiêu chí này,sẽ tăng cường thị phần của các doaonh nghiệp Việt Nam trên thị trường Nhật Bản và đồng thời cũng tăng khối đoàn kết ASEAN, cùng hỗ trợ, đối pho trước sự gia tăng thị phần từ phía đối thủ Trung Quốc.
2.2.4. các tiêu chí khác
Thứ nhất, khả năng thích ứng và đổi mới doanh nghiệp Dệt may Việt Nam hiện nay còn rất nhiều vấn đề bất cập
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Ưu điểm
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường không ngừng tăng đã chứng tỏ rằng các doanh nghiệp có những lợi thế cạnh tranh nhất định so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài và đồng thời cũng thể hiện những nỗ lực lớn của các doanh nghiệp, trong các nhân tố cả về chủ quan lẫn khách quan thì có thể rút ra những ưu điểm chính mà doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam có được :
- Các doanh nghiệp có những nỗ lực trong việc nội địa hóa sản phẩm Dệt may xuất khẩu, các doanh nghiệp đã sẵn sàng để đầu tư, để có thể dần chủ động về nguồn nguyên vật liệu, phụ liệu như thực hiện “chương trình sản xuất bông vải tại Việt Nam”, “chương trình sản xuất 1 tỷ mét vải cho ngành may mặc xuất khẩu”, các doanh nghiệp trong nước tăng mạnh đầu tư vào ngành kéo sợi. Năng lực sản xuất sợi, vải và hàng may mặc tăng trưởng khoảng 20%.
- Cơ cấu mặt hàng ngày càng có nhiều phong phú đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường tiêu thụ.
- Trước sức hấp dẫn của doanh nghiệp Dệt may Việt Nam, và những chính sách ưu đãi từ phía nhà nước, đã thu hút được các nhà đầu tư FDI, cho việc phát triển công nghiệp phụ liệu, và gia tăng vốn cố định, tăng năng lực tài chính cho các doanh nghiệp.
- Nhiều doanh nghiệp đã quan tâm tới việc tạo dựng được uy tín cũng như thương hiệu trên thị trường quốc tế và cũng dần chinh phục được các thị trường nội địa như Vinatex, Ninomax, Việt Tiến, Nhà Bè, Hanosimex... điều đó đã dần nâng cao tỷ lệ giá trị gia tăng.
- Các doanh nghiệp nhờ tận dụng được lợi thế giá nhân công rẻ, dồi dào, hơn nữa lại có đặc điểm chăm chỉ, cần cù nên đây là lợi thế làm tăng khả năng cạnh tranh về giá.
- Một số doanh nghiệp chịu đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển theo hướng hiện đại hóa công nghệ (trong lĩnh vực Dệt: ngành kéo sợi có đến 22% thiết bị công nghệ ở trình độ tương đối tốt được nhập khẩu từ Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ, đặc biệt trong các doanh nghiệp FDI, trong lĩnh vực may mặc thì được đánh giá là không cách xa so với trình độ tiên tiến thế giới)
- Các doanh nghiệp quan tâm nhiều đến việc thực hiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sản phẩm, đã dần đáp ứng được những yêu cầu khắt khe từ các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản…, thể hiện qua việc kim ngạch xuất khẩu càng ngày càng tăng trong khi những đòi hỏi từ phía các thị trường này ngày càng cao.
- Đồng thời tạo dựng được thương hiệu may mặc, thông qua đáp ứng được chất lượng sản phẩm trên thị trường may mặc thế giới, đồng thời thâm nhập vào những chuỗi bán lẻ nổi tiếng trên thế giới như Costco, Wholesale, Target của Hoa Kỳ, tạo dựng được mối quan hệ làm ăn bền vững với nhiều nhà nhập khẩu.
2.3.2. Nhược điểm và nguyên nhân
Hiện nay, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam còn thể hiện rất hiều yếu kém, thể hiện qua phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp theo các tiêu chí đánh giá ở phần trên, sau đây, tác giả xin rút ra những khó khăn, và yếu kém chủ yếu mà các doanh nghiệp đang gặp phải:
- Khả năng chủ động nguồn nguyên vật liệu, phụ liệu là kém do công nghiệp phụ trợ cho ngành mới hình thành, nguồn nguyên vật liệu, phụ liệu lại được nhập khẩu chính từ các đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Ấn Độ , Hàn Quốc, cũng là nhân tố chính khiến chi phí sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam cao hơn các đối thủ làm giảm khả năng cạnh tranh về giá cả, giảm tỷ suất lợi nhuận, hiệu quả kinh doanh.
- Nguồn nhân công giá rẻ tuy nhiên tình trạng biến động lao động trong các doanh nghiệp cao, thiếu nhân công có trình độ tay nghề, và có khả năng thích ứng công nghệ mới, mặt khác chi phí nhân công lại không có nhiều khác biệt so với các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, khiến chi phí nhân công không còn là lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Vấn đề về công nghệ trang bị cho các doanh nghiệp Dệt may còn kém,không đồng đều, công nghệ cao chưa chiếm ư thế, các doanh nghiệp nhỏ dây chuyền sản xuất còn nhiều lạc hậu, thiếu đồng bộ tuy nhiên việc thay mới lại gây nhiều tốn kém, mặt khác, các doanh nghiệp vẫn phải nhập khẩu công nghệ nước ngoài đặc biệt từ những đối thủ cạnh tranh của mình, và thực tế cho thấy có rất nhiều doanh nghiệp bỏ tiền ra đổi mới công nghệ nhưng do khả năng quản lý và trình độ lao động không phù hợp đã gây ra lãng phí và không hiệu quả.
- Quy mô doanh nghiệp phần lớn là nhỏ, manh mún không có sự liên kết hợp tác, khó khăn trong việc quy hoạch chiến lược phát triển chung, như ở thị trường Hoa Kỳ các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu là độc lập, nên khó có thể thực hiện được các đơn đặt hàng lớn, chính điều này cũng dẫn đến khó khăn mở rộng thị trường và ứng phó với những bất trắc của thị trường.
- Ngoài ra, các doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào khâu gia công là khâu tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất.
- Thiếu sự thích ứng trong điều kiện biến động của thị trường, ví dụ trong năm 2008 vừa qua, thị trường nhập khẩu Dệt may lớn nhất của ngành Dệt may Việt Nam điêu đứng do khủng hoảng tài chính khiến rất nhiều doanh nghiệp đã không chống trọi được và rơi vào tình trạng phá sản hay sáp nhập
- Các doanh nghiệp không có tầm nhìn chiến lược dài hạn, các doanh nghiệp nhỏ chưa quan tâm đến việc thiết kế xây dựng thương hiệu, hoặc chưa có đủ năng lực tài chính để quảng bá thương hiệu cho nên đa số xuất khẩu sản phẩm dưới nhãn hiệu của nhà nhập khẩu nước ngoài.
Chương 3: Những giải pháp cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam
3.1. Mục tiêu và định hướng phát triển ngành Dệt may đến năm 2020
3.1.1. Mục tiêu
Dựa vào nguồn: Phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020
3.1.1.1 Mục tiêu chiến lược:
Phát triển ngành Dệt May trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới.
3.1.1.2 Mục tiêu tổng quát
Tốc độ tăng trưởng
Giai đoạn 2008-2010
Giai đoạn 2010-2015
Tăng trưởng sản xuât
16-18%
12-14%
Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm
20%
15%
Các chỉ tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển Dệt may Việt Nam năm 2015 và định hướng 2020
ChØ tiªu
§¬n vÞ tÝnh
Thùc hiÖn 2006
Môc tiªu toµn ngµnh ®Õn
2010
2015
2020
1.Doanh thu
TriÖu USD
7800
14.800
22.500
31.000
2.XuÊt khÈu
TriÖu USD
5.834
12.000
18.000
25.000
3.Sö dông lao ®éng
Ngh×n ngêi
2.150
2.500
2.750
3.000
4.Tû lÖ néi ®Þa ho¸
%
32
50
60
70
5.S¶nphÈmchÝnh
-B«ng x¬
x¬,Sîitænghîp
-Sîiv¶i c¸clo¹i
- V¶i
-s¶nphÈm may
1000 tÊn
1000 tÊn
1000 tÊn
1000 tÊn
TriÖu m
TriÖu SP
8
-
265
575
1.212
20
120
350
1.000
1.800
40
210
500
1.500
2.850
60
300
650
2.000
4.000
3.1.2. Định hướng phát triển
Trong:”chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020’’đưa ra ba định hướng lớn:
Một là định hướng phát triển sản phẩm:
- Tập trung phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngành may xuất khẩu để tận dụng cơ hội thị trường. Nâng cao tỷ lệ nội địa hóa để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc. Chú trọng công tác thiết kế thời trang, tạo ra các sản phẩm dệt may có đặc tính khác biệt cao, từng bước xây dựng thương hiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp. Đẩy nhanh việc áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng phù hợp với yêu cầu hội nhập trong ngành Dệt May. Tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt may, đáp ứng nhu cầu xuất tiêu dùng trong nước.
- Kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư sản xuất xơ sợi tổng hợp, nguyên phụ liệu, phụ tùng thay thế và các sản phẩm hỗ trợ để cung cấp các phụ tùng thay thế.
- Xây dựng Chương trình sản xuất vải phục vụ xuất khẩu. Tập đoàn Dệt May Việt Nam giữ vai trò nòng cốt thực hiện Chương trình này.
- Xây dựng Chương trình phát triển cây bông, trong đó chú trọng xây dựng các vùng trồng bông có tưới nhằm tăng năng suất và chất lượng bông xơ của Việt Nam để cung cấp cho ngành Dệt
Hai là đầu tư cho sản xuất
Đối với các doanh nghiệp Dệt may từng bước di dời các cơ sở sản xuất về các địa phương có nguồn lao động nông nghiệp và thuận lợi giao thông. Xây dựng các trung tâm thời trang, các đơn vị nghiên cứu thiết kế mẫu, các Trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu và thương mại tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn.
- Đối với các doanh nghiệp sợi, dệt, nhuộm và hoàn tất vải:Xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp chuyên ngành dệt may có cơ sở hạ tầng đủ điều kiện cung cấp điện, nước, xử lý nước thải đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường theo quy định của Nhà nước. Thực hiện di dời và xây dựng mới các cơ sở dệt nhuộm tại các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để có điều kiện xử lý nước thải và ô nhiễm môi trường.
- Xây dựng các vùng chuyên canh bông có tưới tại các địa bàn có đủ điều kiện về đất đai, thổ nhưỡng và khí hậu nhằm nâng cao sản lượng, năng suất và chất lượng bông xơ.
Ba là về bảo vệ môi trường
Xây dựng Báo cáo đánh giá tác động môi trường phù hợp với Chiến lược phát triển ngành Dệt May và các quy định pháp luật về môi trường.Tập trung xử lý triệt để các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.Triển khai xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp Dệt May có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường để di dời các cơ sở dệt may có nguy cơ gây ô nhiễm vào khu công nghiệp.
3.2. Giải pháp
3.2.1. Các giải pháp của doanh nghiệp
3.2.1.1. Giải pháp chủ động về nguyên vật liệu
Phát triển quan hệ trao đổi mua bán nguyên vật liệu giữa các doanh nghiệp Dệt và May, đây được coi là một giải pháp quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh. Các doanh nghiệp Dệt bán được sản phẩm cho các doanh nghiệp May là thâm nhập được vào thị trường may công nghiệp với nhu cầu lớn và ổn định. Nhưng bán được sản phẩm vào đây thì chất lượng sản phẩm phải cao, ổn định, mẫu mã phải phù hợp, trình độ công nghệ phải tương xứng do đó các doanh nghiệp dệt phải nâng cao khả năng của mình để đáp ứng, nhờ vậy vị thế và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt sẽ được cải thiện.
Mặt khác một khi các doanh nghiệp May có được nguồn nguyên liệu ổn định, chất lượng đảm bảo, tốc độ cung ứng nhanh, giá cả hợp lý, lại được các doanh nghiệp Dệt hậu thuẫn về mặt tài chính, hậu mãi thì vị thế sẽ được cải thiện và tính chủ động trong giao dịch đàm phán với khách hàng và lợi nhuận sẽ được gia tăng khi chuyển từ CMT sang FOB. Phát triển mối quan hệ Dệt – May cũng sẽ làm giảm áp lực cạnh tranh từ bên trong, do việc các doanh nghiệp Dệt và May sẽ trở thành bạn hàng của nhau.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tận dụng những ưu đãi của chính phủ trong việc đầu tư vào các dự án sản xuất linh kiện, nguyên vật liệu, máy móc sản xuất, chú trọng đến công tác đầu tư các giống bông có năng suất cao, chất lượng ổn định, đồng thời các doanh nghiệp cần phải chú trọng quan tâm đến lợi ích người trồng bông để đảm bảo nguồn nguyên liệu.
3.2.1.2. Giải pháp về nguồn nhân lực
- Các doanh nghiệp cần quan tâm đến lợi ích và nguyện vọng của lao động, có chính sách nhân công hợp lý, như việc đảm bảo về điều kiện làm việc, tạo mức ổn định về tiền lương, hạn chế mức độ nhàn rỗi khi công việc mang tính thời vụ, quan tâm đến đời sống, chỗ ăn ở cho lao động giúp họ an tâm làm việc, tạo thêm động lực cống hiến cho doanh nghiệp.
- Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, dạy nghề tối thiểu đạt mặt băng khu vực, mở rộng các hình thức đào tạo tại chỗ, gắn kết việc đào tạo với việc sử dụng nhằm tối thiểu chi phí đào tạo cho doanh nghiệp .
- Liên kết với các đơn vị các doanh nghiệp khác về các đầu mối đào tạo, với các trường đại học cao đẳng trong và ngoài nước nhằm đào tạo công nhân có tay nghề, có kĩ thuật,đặc biệt lao động có khả năng thiết kế mãu, lao động có kĩ năng về marketing, bán hàng…
3.2.1.3 Giải pháp về công nghệ
- Quan tâm đến việc đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm, giá cả cạnh tranh.
- Trước hết, các doanh nghiệp có thể sư dụng các máy móc thiết bị vẫn còn khả năng sản xuất.Bởi những năm tới chúng ta chưa có đủ nguồn vốn đầu tư hàng loạt các thiết bị công nghệ tiên tiến. Khi có đủ nguồn vốn cần đầu tư công nghệ mới, trước đó, phải có sự hướng dẫn đào tạo để lao động có thể thích ứng tốt nhất với trang thiết bị công nghệ mới.
- Cần phải học hỏi kinh nghiệm về công nghệ của các nước có trình độ công nghệ phát triển.
3.2.1.4 Giải pháp về thị trường
Thị trường Hoa kỳ :Các doanh nghiệp Dệt may cần hợp tác chặt chẽ với các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ, thực hiện đơn hàng có chất lượng và giá cao, nghiên cứu thị trường mục tiêu phù hợp với trình độ và năng lực của mình nhằm tránh đối đầu với các đối thủ tiềm lực mạnh
Thị trường EU: Với thị trường EU, hàng dệt may Việt Nam cạnh tranh với Trung Quốc về giá cả là rất khó bởi nước ta không có nguồn nguyên liệu tại chỗ như Trung Quốc. Do đó, để cạnh tranh với hàng Trung Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam cần đặt chất lượng và sự sáng tạo trên mỗi sản phẩm lên hàng đầu đối với sản phẩm xuất khẩu sang các nước EU.Cần nghiên cứu sự biến động khi trên thị trường này khi Trung Quốc được xóa bỏ hạn ngạch Dệt may năm 2008.
Thị trường Nhật Bản: là một thị trường khó tính về đòi hỏi chất lượng sản phẩm và quy tắc xuất sứ, các doanh nghiệp cần quan tâm đến vấn đề này. Các doanh nghiệp cần tổ chức liên kết với Nhật Bản hỗ trợ Trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu, xúc tiến các hoạt động thương mại tại Nhật nhằm giải quyết vấn đề xuất xứ “cộng gộp” theo yêu cầu phía Nhật Bản để được hưởng mức thuế xuất 0%.
Cần có sự nghiên cứu, tìm hiểu các thị trường khác nhằm đa dạng hóa thị trường, phát triển các thị trường mới tiềm năng, bên cạnh các thị trường truyền thống trên.
3.2.1.5 giải pháp liên kết doanh nghiệp
Các doanh nghiệp của chúng ta đa phần là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, để nâng cao được sức mạnh cạnh tranh, tham gia vào sự liên kết các doanh nghiệp có thể chia sẻ nguồn lực, giảm thiểu chi phí so với sản xuất kinh doanh độc lập, các doanh nghiệp cần phải liên kết để thúc đẩy công nghiệp phụ trợ Việt Nam phát triển.Liên kết với các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp nhỏ với nhau, hoặc giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp.
Để liên kết ảnh hưởng của các tổ chức hiệp hội chuyên ngành, các tổ chức phi chính phủ rất lớn, nên các doanh nghiệp cần phải mở rộng, nâng cao mối quan hệ với các hiệp hội, các tổ chức này.
3.2.1.6 các giải pháp khác
- Coi trọng các hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm: thiết kế sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã, tạo tính khác biệt và độc đáo riêng cho sản phẩm may mặc.
- Vấn đề tiêu chuẩn hóa quản lý sản xuất theo chuẩn mực quốc tế cần được coi trọng, như các tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000, quản lý môi trường và nhãn mác sinh thái(ISO 14000), quản lý trách nhiệm xã hội và vấn đề quan hệ với người lao động SA 8000, WRAP,CRS.
- Vấn đề thương hiệu doanh nghiệp: đây là chiến lược trong dài hạn, mà các doanh nghiệp cần phải quan tâm và tiến hành ngay, chú trọng công tác đăng kí, bảo hộ thương hiệu, cần xây dựng chiến lược, hay hướng đi bài bản.
3.2.2. Giải pháp của chính phủ
3.2.2.1 Cải cách thủ tụ hành chính
Cần đơn giản hóa các thủ tục nhập nguyên vật liệu , nhập mẫu hàng , nhập bản vẽ để việc thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu của các doanh nghiệp đỡ mất thời gian và it gặp trở ngại.
Tiếp tục đổi mới công tác hành chính đi đôi với việc tăng cường hợp tác, phối hợp giải quyết các vụ việc liên quan giữa các bộ ngành, các cơ quan quản lý với hiệp hôi Dệt may Việt Nam.
3.2.2.2 Giải pháp về đầu tư
Đầu tư phát triển ngành dệt may gắn liền với hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa làn sóng dịch chuyển dệt may từ các nước phát triển. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong nước tham gia đầu tư.
- Tập trung đầu tư để sản xuất vải và nguyên phụ liệu phục vụ cho may xuất khẩu. Xây dựng chương trình sản xuất vải dệt thoi để phục vụ cho sản xuất sản phẩm may xuất khẩu, xây dựng các dự án đầu tư sản xuất xơ nhân tạo, các loại sợi có chất lượng cao và có các tính năng mới phù hợp với xu thế của thị trường.
- Đẩy mạnh đầu tư cho ngành may để tăng khả năng xuất khẩu và tạo điều kiện thúc đẩy việc sản xuất vải và phụ liệu thay thế dần hàng nhập khẩu. Dịch chuyển các doanh nghiệp may từ các trung tâm đô thị lớn về các địa phương để giảm sức ép về lao động và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động tại các địa phương.
3.2.2.3 Giải pháp về cung ứng nguyên phụ liệu
- Xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn để cung ứng kịp thời nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp trong ngành;
- Thu hút đầu tư nước ngoài và huy động các nguồn vốn trong nước đầu tư sản xuất các sản phẩm hoá dầu (xơ, sợi, hoá chất, thuốc nhuộm...) phục vụ cho dệt may để chủ động về nguyên liệu, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá và giá trị gia tăng trong sản phẩm dệt may.
3.2.2.4 Giải pháp về thị trường
- Tập trung mọi khả năng và cơ hội giúp các doanh nghiệp đàm phán mở rộng thị trường dệt may trên thị trường quốc tế
- Tăng cường công tác tư vấn pháp luật thương mại quốc tế giúp các doanh nghiệp xuất khẩu vượt qua các rào cản của các nước nhập khẩu.
3.2.2.5. Các giải pháp khác
Thứ nhất, phát triển nguồn nhân lực
Xây dựng Chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May Việt Nam:
Tổ chức việc đào tạo cán bộ phục vụ cho ngành quản lý, công nhân có tay nghề kết hợp đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn hạn, kết hợp giữa đào tạo chính quy với đào tạo tại chỗ, kết hợp giữa đào tạo trong nước với việc cử cán bộ ra nước ngoài để đào tạo, củng cố và mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành Dệt May, xây dựng Trường Đại học Dệt May và Thời trang để tạo cơ sở vật chất cho việc triển khai các lớp đào tạo.
Thứ hai các giải pháp về khoa học và công nghệ
-Nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới, các nguyên liệu mới để tạo ra các sản phẩm dệt có tính năng khác biệt, triển khai các chương trình sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, áp dụng các phần mềm trong thiết kế, quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm Dệt May;
-Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu sản xuất nguyên vật liệu để thay thế nguyên liệu nhập khẩu, đầu tư thoả đáng cho công tác nghiên cứu thiết kế mẫu sản phẩm và kiểm tra chất lượng sản phẩm; khắc phục các rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu;
- Tổ chức lại các Viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Nâng cao năng lực tư vấn, nghiên cứu triển khai, chuyển giao công nghệ, khả năng thiết kế và sáng tác mẫu của các Viện nghiên cứu.
Thứ 3 Các giải pháp về tài chính
- Khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước góp vốn tham gia đầu tư. Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán để tạo kênh huy động vốn (thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu và trái phiếu quốc tế);
- Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách cho hoạt động nghiên cứu, đào tạo và vốn đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực cho các Viện nghiên cứu và các cơ sở đào tạo cho ngành Dệt May.
- Hỗ trợ kinh phí xử lí môi trường cho các doanh nghiệp Dệt.
Kết luận
Qua việc đánh giá và phân tích , chúng ta đã hiểu thế nào là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, vai trò tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Qua phân tích, ta có thể thấy được một bức tranh khá tổng quát về thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam. Từ những kết quả đã đạt được qua các giai đoạn bằng các con số tăng trưởng, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng qua các năm gần đây, có thể khẳng định nỗ lực rất lớn của mỗi doanh nghiệp nói riêng, và toàn ngành nói chung. Tuy nhiên, nhưng nếu so với các đối thủ như Trung Quốc, hay Ấn Độ thì con số đó quá nhỏ, và qua đánh giá cũng cho thấy, các doanh nghiệp hiện nay đang gặp phải rất nhiều các vấn đề làm hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên đấu trường quốc tế.
Những phân tích đánh giá về thực trạng năng lực của các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam, là cơ sở để các đưa ra những giải pháp cần thiết để khắc phục khó khăn, nâng cao năng lực cạnh tranh để các doanh nghiệp Dệt may xuất khẩu Việt Nam có thể tồn tại và phát triển bền vững trong điều kiện mà sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, khốc liệt như hiện nay.
Tuy đã cố gắng, nhưng do trình độ còn nhiều hạn hẹp, nên Đề án của em không tránh khỏi thiếu sót, chính vì vậy, em rất mong sự đóng góp của Cô Nguyễn Thu Thủy để Đề án của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô!
Tài liệu tham khảo
Dệt may Việt Nam cơ hội và thách thức”, 2003, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Giáo trình “Quản trị chiến lược”, 2005, Nhà xuất bản thống kê
“Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin”, 1998, Nhà xuất bản thống kê
“Nghiên cứu kinh tế số 358” - Tháng 3/2008, trang 30-47
“Nghiên cứư kinh tế số 359” -Tháng 4/2008, trang 51-64
“LĐ & XH số 339” - tháng 7/2008, trang 32-33
“Thương mại số 24/2008 – trang 9-10
“Từ điển thuật ngữ kinh tế học”, 2001, NXB từ điển bách khoa hà nội
TS. Nguyễn Hữu Thắng “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay”, 2008, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Website
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22661.doc