Đề án Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay

Tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, nhưng nhìn chung việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta vẫn còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng. Để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta cần phải thực hiện có hiệu quả các biện pháp nêu trên. Các giải pháp đó phải đặt trong mối quan hệ mật thiết với nhau để thúc đẩy nhanh phát triển nền kinh tế ở đất nước ta.

doc15 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1836 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Nền kinh tế nhiều thành phần là một trong những chính sách quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta. Thực tiễn sau 20 năm thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần , đất nước ta đã dạt được những thành tựu to lớn : từ một nước nhập khẩu gạo nay trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới , kinh tế tăng trưởng nhanh , cơ sở vật chất – kĩ thuật được tăng cường , đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện về cả vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta vẫn còn có những hạn chế : tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng , tăng trưởng những năm qua chủ yếu dựa vào các nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng , chất lượng thấp . Xuất phát từ những vấn đề trên tôi quyết định chọn đề án : “nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay”. Đề tài này sẽ nghiên cứu , đánh giá khách quan thực trạng nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay , tìm ra nguyên nhân và đưa ra những giải pháp để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. I. Lý LUậN CHUNG Về NềN KINH Tế NHIềU THàNH PHầN . 1. Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế , kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp tác và cạnh tranh. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay thì việc tồn tại , phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan vì: lực lượng sản xuất ở Việt Nam phát triển trình độ thấp và không đồng đều . Vì vậy phải có nhiều hình thức tổ chức kinh tế (nhiều thành phần kinh tế ) để phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Xã hội cũ để lại không ít các thành phần kinh tế và chưa thể cải biến nhanh được. Hơn nữa , sau nhiều năm cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới đã xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới: thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản nhà nước… Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới tồn tại khách quan có quan hệ với nhau, cấu thành cơ cấu kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xây dựng và phát triển kinh tế hành hoá có sự quản lí vĩ mô của nhà nước, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sơ vật chất cho chủ nghiã xã hội… vốn là những nhiệm vụ trọng yếu của thời kì quá độ ở nước ta. Song trong điều kiện ngân sách nhà nước rất hạn hẹp, thu nhập quốc dân còn thấp, nếu chỉ trông chờ vào nhà nước thì việc thực hiện các nhiệm vụ nói trên sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Giải phóng mọi năng lực bị kìm hãm từ trước đến nay; khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng về vốn, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý… tức là sử dụng sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế là đòi hỏi khách quan của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nước ta có lực lượng lao động dồi dào (gần 40 triệu lao động), cần cù thông minh. Song số người chưa có việc làm còn nhiều, vừa lãng phí sức lao động, vừa gây ra những khó khăn lớn về kinh tế – xã hội. Trong khi, khả năng thu hút lao động của khu vực kinh tế nhà nước không nhiều thì việc khai thác, tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế khác là một trong những giải pháp quan trọng để tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. 2. Vai trò của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuất, sẽ phù hợp với thực trạng thấp kém và không đồng đều của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Sự phù hợp này, đến lượt nó, lại có tác dụng tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở nước ta. Nền kinh tế nhiều thành phần thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế - xã hội . Cho phép sử dụng và khai thác có hiệu quả sức mạnh của các thành phần kinh tế trong nước như: vốn, lao động, tài nguyên, kinh nghiệm tổ chức quản lý… Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước, nó như những “cầu nối”, trạm “trung gian” cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạo tiền đề khắc phục tình trạng độc quyền, tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất. Sự phân tích trên cho thấy, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có vai trò to lớn trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cơ cấu đó vừa phù hợp với trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất ở nước ta, vừa phù hợp với lý luận của Lênin về đặc điểm kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định rằng: “chính sách kinh tế nhiều thành phần có chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế đảm bảo cho mọi người được làm ăn theo pháp luật”. 3. Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay. Căn cứ vào nguyên lý chung và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định: nền kinh tế trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có sáu thành phần: -kinh tế nhà nước : là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước). Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. -kinh tế tập thể : là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất trên cơ sở những người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên tắc tập trung, bình đẳng cùng có lợi. Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế; không giới hạn quy mô và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có qui định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. -kinh tế cá thể, tiểu chủ : Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình . Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế tư hưu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình. -kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. -kinh tế tư bản nhà nước: là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh. -kinh tế có vốn đầu tư nước ngoàI: bao gồm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài (một thành viên hoặc nhiều thành viên) có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân ở nước ta. II. THựC TRạNG Và GIảI PHáP TồN TạI, PHáT TRIểN CáC THàNH PHầN KINH Tế ở NƯớc ta hiện nay. 1. Thực trạng tồn tại, phát triển các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay. a. Những thành tựu . *Kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản nhà nước: Chúng ta đã xác định ngày càng rõ hơn nội dung vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Thể hiện ở việc tạo môi trường, tạo điều kịên thúc đẩy và là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế; không nhất thiết phải có tỷ trọng lớn trong mọi ngành, lĩnh vực kinh tế. Để nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, Đảng đã quan tâm lãnh đạo đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghệp nhà nước. Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 tạo khung khổ pháp lý có tác dụng giải phóng lực lượng sản xuất, phục vụ cho việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xoá bỏ bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh, giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đã tập trung chỉ đạo sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Qua sắp xếp, đổi mới và cổ phần hoá, số doanh nghiệp nhà nước giảm đi (năm 1900 là 12.084 đến tháng 6 năm 2005 còn 2.980 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước), ngoài ra còn có 670 công ty cổ phần do nhà nước chi phối trên 51% vốn Điều lệ. Nhưng, nhờ đổi mới vậy mà các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Năm 2005 đóng góp 39% GDP, 50% tổng ngân sách nhà nước. Các công ty liên doanh mọc lên ngày càng nhiều, hoạt động hiệu quả và đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của đất nước . *Kinh tế tập thể: Kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã, đã được đổi mới từng bước theo luật hợp tác xã và các chính sách của Đảng và Nhà nước. Các hợp tác xã đã chứng tỏ được rõ hơn vai trò, vị trí đối với kinh tế hộ trong sản xuất hàng hoá, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp; đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước của khu vực hợp tác xã giảm nhanh, nhưng bắt đầu có chiều hướng phục hồi. Từ 1988 – 1994 cả nước đã có 2.958 hợp tác xã nông nghiệp (hơn 17% tổng số hợp tác xã) và 33.804 tập đoàn sản xuất nông nghiệp giải thể (bằng 93% tổng số tập đoàn), có tỉnh không còn hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Có trên 42.000 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, vận tải, xây dựng, dịch vụ tín dụng cũ không còn hoạt động. Số lượng hợp tác xã tuy giảm nhiều so với trước (mặc dù hàng năm đã xuất hiện nhiều hợp tác xã mới), nhưng nhờ đổi mới cơ chế quản lý trong hợp tác xã, nên đã bảo đảm được nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã tốt hơn, chất lượng và hiệu quả hoạt động khá hơn,mang lại hiệu quả cao hơn trước. Năm 2005, kinh tế tập thể đóng góp 8% GDP. *Kinh tế tư bản tư nhân: Từ khi có luật doanh nghiệp năm 2000, kinh tế tư bản tư nhân đã phát huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân. Năm 2005 cả nước có gần 108.300 doanh nghiệp mới đăng ký, đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký lên khoảng 150.000 tăng gần gấp 2 lần so với 9 năm trước đây (1991 – 1999); Tổng số vốn đăng ký đạt hơn 302.250 tỷ đồng (tương đương 18 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ). Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của kinh tế tư bản tư nhân là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Năm 2004, số lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp tư nhân đã gần bằng tổng số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, giải quyết khoảng 1,6 đến 2 triệu việc làm. Riêng số doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 96% tổng số doanh nghiệp ngoài nhà nước) đã thu hút 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25 – 26% lực lượng lao động cả nước. *Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển nhanh chóng trong nông, lâm, ngư nghiệp và thương mại, dịch vụ. Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể phi nông nghịêp đã sử dụng khoảng 16% lực lượng lao động xã hội (khoảng hơn 6 triệu người). Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 37,7% GDP của cả nước. *Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Thành phần kinh tế này cũng có bước phát triển quan trọng.Từ 1991 – 2000 giá trị sản xuất tăng bình quân 22% một năm. Trong 5 năm (1996 – 2000) vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện khoảng 10 tỷ USD, chiếm 23% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, trên 22% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% GDP chung của cả nước. Tính đến tháng 6 – 2004, có 4.575 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép và còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt trên 43 tỷ USD. Năm 2005 khu vực này đóng góp 15,5% GDP (năm 2000 đóng góp 12,7% GDP), trên 7,5% tổng thu ngân sách, trên 17,1% tổng vốn đầu tư xã hội, trên 23% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí), đạt trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp; thu hút hơn nửa triệu lao động. Hoạt động kinh doanh trong 10 tháng đầu năm 2005, doanh thu đạt 18,9 tỷ USD tăng 35,4% so với cùng kỳ. b. Những hạn chế và nguyên nhân. *Hạn chế: Về nhận thức: chưa hình thành được một khung lý luận vững chắc về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên nhiều khi chưa tôn trọng đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của kinh tế thị trường trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của nền kinh tế. Chưa xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là về tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhận thức chưa rõ về vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa các nhân tố cấu thành chủ yếu của nền kinh tế thị trường: nhà nước, thị trường và doanh nghiệp, nên chưa phát huy tốt tác dụng của các nhân tố đó. Về thực tiễn: tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng; chất lượng tăng trưởng còn thấp; các cân đối vĩ mô của nhà nước còn thiếu vững chắc; đời sống nhân dân ở nhiều vùng còn rất khó khăn. Tăng trưởng những năm qua chủ yếu dựa vào các nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng, với những ngành, những sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp, vật tư cao; chưa đi mạnh vào chất lượng, còn phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư công và bảo hộ, bao cấp dưới nhiều hình thức của nhà nước, làm giảm tính cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của các công ty nhà nước tuy có tiến bộ, nhưng vẫn còn thấp xa so với yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh tế nhà nước chưa làm thật tốt vai trò chủ đạo; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Kinh tế tập thể phát triển chậm và còn nhỏ bé. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có tính tự phát, manh mún, hạn chế về kỹ thuật. Kinh tế tư nhân chưa phát triển mạnh đúng với tiềm năng. Hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân bước đầu có sự phát triển, nhưng phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu tư vào sản xuất còn ít và chủ yếu quy mô vừa và nhỏ. Đây là thành phần kinh tế có tính tự phát rất cao. Đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả… là những hiện tượng thường xuất hiện ở thành phần kinh tế này.Kinh tế có vốn đàu tư nước ngoài gặp nhiều khó khăn về môi trường đầu tư và một số vướng mắc về cơ chế, chính sách… Trình độ công nghệ thông tin nhìn chung còn lạc hậu hai, ba thập kỉ so với các nước trong khu vực. Tỷ lệ công nghệ hiện đại ứng dụng vào trong các lĩnh vực còn thấp, sử dụng công nghệ trung bình còn phổ biến (đặc biệt trong kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước). Đầu tư còn phân tán, thất thoát, lãng phí; nhiều dự án kém hiệu quả. Vai trò quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ ràng; phương pháp quản lý còn nặng nề về can thiệp hành chính, thiếu căn cứ thị trường, thiếu dự báo tin cậy, thiếu chủ động và chưa có chiến lược để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Nguồn nhân lực dồi dào nhưng chất lựơng , ý thức làm việc, trách nhiệm với công ty, trình độ chuyên môn còn thấp nên đã làm giảm sút đáng kể lượng đầu tư từ nước ngoài. Việc sử dụng nhân lực cũng chưa phát huy được hết tiềm năng của người lao động. Tỷ lệ lao động được đào tạo còn thấp, nhiều người làm trái ngành nghề được đào tạo. Tỷ lệ thu hút lao động trong các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm. Đội ngũ quản lý hợp tác xã về cơ bản vẫn hạn chế về trình độ, kinh nghiệm, kiến thức tổ chức, quản lý và nghiệp vụ kinh doanh, nhất là cán bộ chủ chốt. Theo thống kê năm 2002, gần 90% chủ nhiệm hợp tác xã chưa qua đào tạo và 52% chưa qua lớp bồi dưỡng về kiến thức quản lý hợp tác xã. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hình thành đồng bộ. Hệ thống thị trường còn bất cập (thị trường lao động còn sơ khai, thị trường tài chính mới đang từng bước được xác lập, thị trường khoa học - công nghệ chưa thực sự ra đời…). Hệ thống pháp luật trên lĩnh vực kinh tế còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ và thiếu ổn định, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, còn thiếu nhiều văn bản dưới luật.Trong liên doanh với nước ngoài, mức vốn đóng góp của nước ta nói chung còn rất thấp, thường không quá 1/3 và chủ yếu là giá trị đất đai, điều này rất dễ dẫn đến nguy cơ đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. *Nguyên nhân: Những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém trên có nhiều nguyên nhân: Sự chống phá của các thế lực thù địch, tình trạng thoái trào của chủ nghĩa xã hội và những biến động phức tạp về chính trị, kinh tế… trên thế giới cũng như một số nước đã có tác động không thuận lợi đến quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Sự chưa ngang tầm trong sự lãnh đạo của Đảng cả về năng lực, phẩm chất và trí tuệ: đội ngũ cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước thiếu và yếu cả về phẩm chất chính trị, trình độ trí tuệ, năng lực chuyên môn; một số thiếu gương mẫu về đạo đức lối sống; Một số chính sách, nghị quyết đưa ra chưa rõ ràng mà lại không có văn bản hướng dẫn cụ thể dẫn đến hiểu thiếu chính xác và làm không đúng tạo kẽ hở cho cán bộ tha hoá, những doanh nghiệp làm ăn bất chính lợi dụng. Trong thời gian dài chúng ta thực hiện mô hình hợp tác kiểu cũ, phát triển ồ ạt cả về số lượng, quy mô, nó làm cho quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 2. Giải pháp tồn tại, phát triển các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay: Kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, tức là trụ cột mở đường, tạo điều kiện và hướng các thành phần kinh tế khác tồn tại, phát triển nhằm xây dựng nền kinh tế theo mục tiêu đã định. Các doanh nghiệp nhà nước, bộ phận quan trọng nhất của kinh tế, giữ những vị trí then chốt; phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật. Để làm được như vậy phải hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo những hướng: -Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và lao động của các doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước. -Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm 100%. -Giao, bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà nhà nước không cần nắm giữ. -Sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên. Về mặt quản lý kinh tế, nhà nước phải phân biệt quyền chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với các doanh nghiệp kinh doanh dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là nhà nước và công ty cổ phần có vốn nhà nước, giao cho hội đồng quản trị doanh nghiệp quyền đại diện trực tiếp chủ sở hữu gắn với quyền tự chủ trong kinh doanh. Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng xoá bỏ triệt để bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường; tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của nhà nước với doanh nghiệp. Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên. Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực, vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tế, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển của sản xuất. ở khu vực nông nghiệp và nông thôn, phát triển kinh tế tập thể phải trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ, trang trại phát triển gắn với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; không ngừng nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển kinh tế tập thể trong điều kiện nước ta rất cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và sự hỗ trợ của nhà nước. Bởi vậy phải “tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và có chính sách khuyến khích, ưu đãi, giúp đỡ kinh tế hợp tác phát triển có hiệu quả. Thực hiện tốt luật hợp tác xã”. Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành, nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do đó, việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể, tiểu chủ cần được khuyến khích. Hiện nay, ở nước ta, thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, đang là một bộ phận đông đảo và có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng, lâu dài. Đối với nước ta, cần phát triển mạnh mẽ thành phần kinh tế này để vừa góp phần tạo ra của cải vật chất cho xã hội, vừa giải quyết việc làm cho người lao động – một vấn đề bức bách hiện nay của đời sống kinh tế – xã hội. Đảng ta chỉ rõ: cần giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ, giải quyết khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. “Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn”. Phát triển các loại hình thông tin với quy mô phù hợp trên từng địa bàn. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, thành phần kinh tế tư bản tư nhân có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là thành phần kinh tế rất năng động, nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước. Chính sách của Đảng và nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, đáp ứng các nhu cầu của dân cư. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ; xoá bỏ định kiến và tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng, về khoa học – công nghệ, về đào tạo cán bộ… cho thành phần kinh tế này. Tuy nhiên đây là thành phần kinh tế có tính tự phát rất cao. Đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả… là những hiện tượng thường xuất hiện ở thành phần kinh tế này. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường quản lý đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX có đoạn viết: “khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phiếu cho người lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước, xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp với người lao động”, “tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài”. Kết luận Phát triển kinh tế nhiều thành phần là nội dung chủ yếu quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay. Mặc dù các thành phần kinh tế khác nhau nhưng mỗi thành phần đều là bộ phận của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng, nhưng mọi thành phần kinh tế đều chịu sự chi phối của hệ thống các quy luật kinh tế, đặc biệt là các quy luật của nền kinh tế thị trường. Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác, từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá đều đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế và cần có sự quản lý của nhà nước nhằm đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh, đem lại thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, nhưng nhìn chung việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta vẫn còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng. Để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta cần phải thực hiện có hiệu quả các biện pháp nêu trên. Các giải pháp đó phải đặt trong mối quan hệ mật thiết với nhau để thúc đẩy nhanh phát triển nền kinh tế ở đất nước ta. TàI liệu tham khảo 1. Bộ giáo dục và đào tạo, giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội – 2005. 2. PGS, TS. Nguyễn Trọng Phúc, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thòi kỳ đổi mới, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội – 2001. 3. Tạp chí thông tin và dự báo kinh tế xã hội, số 02(2) – 11.2005. 4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35795.doc
Tài liệu liên quan