Ngân hàng thương mại cũng xét tới các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của mình. Trong đó, nổi lên các nhân tố chính là ở môi trường kinh doanh. Ở đây xét tới các môi trường pháp lý, chính trị, kinh tế văn hóa và một nhân tố quan trọng đó là chính bản thân Ngân hàng. Nếu như môi trường kinh doanh có ảnh hưởng lớn đối với công tác huy động vốn thì yếu tố quyết định chính vẫn là các nhân tố thuộc về bản thân Ngân hàng. Bởi môi trường kinh doanh chỉ tác động. Gây ra khó khăn, hay tạo điều kiện thuận lợi còn việc vốn có được huy động hay không phải phụ thuộc vào chủ trương đường lối chính sách, kế hoạch của Ngân hàng.
39 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1611 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là một tổ chức tài chính trung gian "đi vay để cho vay". Do vậy mối quan tâm hàng đầu của Ngân hàng sau khi đã huy động được một lượng vốn là làm sao sử dụng nguồn vốn mà không bị rơi vào tình trạng kẹt vốn. Ngân hàng cần phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình.
* Một là, Ngân hàng tiến hành cho vay.
Cho vay là một hoạt động quan trọng bậc nhất của Ngân hàng thương mại. theo thống kê, khoảng 60 - 70% thu nhập của Ngân hàng là từ các hoạt động cho vay. Thành công hay thất bại của một Ngân hàng tuy thuộc chủ yếu vào thực hiện, kế hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của Ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả...
* Hai là tiến hành đầu tư.
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện hàng loạt những nhu cầu khác nhau. Với tư cách là chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi hỏi Ngân hàng phỉa luôn nắm baét được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ đẻ cung cấp đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, Ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có hai hình thức chủ yếu mà các Ngân hàng thương mại có thể tiến hành là:
- Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào các doanh nghiệp, các Công ty khác.
- Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
* Ba là nghiệp vụ ngân quỹ.
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu lớn lao ấy là hàng loạt các nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố ấy là tính an toàn. Nghề Ngân hàng là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình Ngân hàng không thể bỏ qua sự "an toàn". Vì vậy, ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được lợi nhuận, Ngân hàng còn phải sử dụng một phần nguồn vốn huy động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán về thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Trung Ương đề ra.
3. Nghiệp vụ khác.
Là trung gian tài chính Ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những lợi thế đó là Ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh toán cho khách hàng thông qua các hình thức như séc, thẻ thanh toán ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hoặc dựa trên việc hạch toán vào các tài khoản có liên quan đến đối tượng đó.
Cụ thể:
a. Dịch vụ thanh toán bộ: Trên cơ sở khách hàng gửi tiền và mở tài khoản giao dịch tại Ngân hàng, Ngân hàng có thể đứng ra thanh toán hộ cho khách hàng của mình về các khoản tiền mua bán, dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ khách hàng của mình bằng các hình thức trên.
b. Dịch vụ môi giới: mua, bán chứng khoán cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng khoán cho Công ty.
c. Các nghiệp vụ trung gian khác: dịch vụ ủy thác, bảo quản hộ các chứng từ có giá cho khách hàng thuê két sắt. Ngoài ra Ngân hàng còn thực hiện một số dịch vụ trung gian khác.
Tóm lại, ba nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho Ngân hàng tồn tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho Ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
Chương 2: hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng thương mại
I. Khái niệm về vốn của Ngân hàng thương mại.
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Về thực chất, nguồn vốn của Ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu để thực hiện các mục đích khác nhau (lấy lãi, nhờ thanh toán hộ...) mà gửi vào Ngân hàng. Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển.
II. Phân loại nguồn vốn của Ngân hàng thương mại.
Nơi tập trung mọi sức lực và sự sáng tạo, hình thành nên sức mạnh của một ngân hàng đó là nguồn vốn. Nguồn vốn này phản ánh nghiệp vụ của ngân hàng đó là tự có hay khai thác được. Trong tất cả các loại vốn của ngân hàng thì mỗi loạI có một tính chất và vai trò riêng, ngân hàng sẽ phảI xem xét và phân tích để sử dụng vốn đầu vào có hiệu quả, xét về kết cấu và tính chất vốn kinh doanh của ngân hàng thương mạI bao gồm: vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn khai thác. chúng ta sẽ xem xét từng loại:
* Vốn tự có(vốn chủ sở hữu)
đây là nguồn vốn hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn. Nguồn vốn này có chức năng quan trọng: chức năng bảo vệ chức năng điều chỉnh và chức năng họat động. Với ba chức năng này đã giúp ngân hàng có thể đi vào hoạt độngvà bảo đẩm an toàn cho quá trình họt động. Vốn tự có gồm:
*Vốn tự có ban đầu.
Vốn đi vay chiếm tỷ trọng nhỏ và là điều kiện pháp lý bắt buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Nó được hình thành từ ca nhân(NHTM Tư Nhân) do ngân sách nhà nước cấp (NHTM Quốc Doanh) do bán cổ phần, cổ phiếu (NHTM Cổ Phần), từ sự đóng góp giứa các bên(NHTM liên Doanh) vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động:
Trong quá trình hoạt động thì vốn tự có của ngân hàngd được bổ sung thêm do:
Nguồn từ lợi nhuận:Nguồn này mang tính chất thường xuyên và chiếm thỷ trọng lớn nhất trong vốn tự có của của ngân hàng thương mại
Nguồn được cấp thêm: nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần .. để mở rộng quy mô hoạt động hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu cầu tăng vốn của chủ do Ngân Hàng Nhà nước qui định. Nguồn vốn này cóa đặc điểm là không thường xuyên, song góp phần cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết. Vốn tự có của ngân hàng được hình thành từ nhiều nguồng nhưng điều mang một số đặc điểm chính như sau:
Là vốn không hoàn lại: Ngân hàng sử dụng vốn tự có chủ yếu để mua sắm các loại TSCĐ, công nghệ ngân hàng thanh flập các chi nhánh, hùn vốn đầu tư cổ phiếu .. nên nó chỉ giúp ngân hàng mở rộng qui mô, hoạt động kinh doanh của mình mà không hề trực tiếp mang lại lợi nhuận.
Là vốn nhỏ, tỷ lệ vốn tự có tổng nguồn vốn thường là 1/12
Nước ta hiện có 6 NHTM quốc doanh là; Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người nghèo, NHNN và PTNT là 2200 tỷ VNĐ- đây là nguồn vốn do nhà nước cấp ban đầu. Trên địa bàn thủ đô Hà Nội có 6 NHTM cổ phần trong đó ngân hàng kỹ thương, Ngân hàng thương mại cổ phần châu á thái bình dương có vốn điều lệ là 70 tỷ VNĐ NHTMCP quân đội có vốn điều lệ 100 tỷ VNĐ,NHTMCP quốc tế và NHTMCP nhà Hà Nội có vốn điều lệ : theo qui định của NHTW, hành năm ngân hàng phải trích 5% trên lợi nhuận ròng để lập quĩ này. Quỹ này được lập cho đến khi bằng 50% vốn điều lệ thực có tại thời điểm trích lập quỹ về quỹ dự trữ đặc biệt : Hàng năm ngân hàng phải trích tỷ lệ 5% trên lợi nhuận ròng vào quỹ này để bù đắp dự phòng rủi ro. Quỹ này được thành lập cho đến khi bằng 100% vốn điều lệ thực có tại thời điểm trích lập.
2.Vốn huy động:
Nếu như vốn tự có để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại thì vốn huy động chính là nhân tố thúc đẩy hoạt động khinh doanh của ngân hàng mở rộng hay thu hẹp quy mô. Trong tổng nguồn vốn của NHTM thì đây là phần vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất, có vai trò quan trọng nhất. Nó được hình thành từ các nguồn sau:
*) Từ nguồn tiền gửi:
Trong nền kinh tế luôn tồn tại những người thừa vốn và những người thiếu vốn. NHTM biết điều hoà mâu thuẫn này bằng việc sử dụng các công cụ, và các nghiệp vụ của mình huy động các nguồn vốn trong xã hội. Dưới đây là một số hình thức mà NHTM có thể sử dụng để huyđộng vốn từ nguồn tiền gửi:
-Thứ nhất, tiền gửi thanh toán (hay tiền gửi không kỳ hạn tiền gửi giao dịch)
Đây là khoản tiền đúng như tên gọi của nó là thời gian gửi tiền không xác định, khách hàng (cá nhân, tổ chức) có quyền rút tiền ra bất cứ lúc nào. Mục đích của khách hàng đối với loại tiền này là hưởng mhững tiện ích trong thanh toán khi có nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Vì vậy đây là bộ phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời không phải khoản để dành.
-Thứ hai, tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế hay tổ chức tín dụng.
Ngược với khoản tiền gửi không kỳ hạn , đây là khoản tiền gửi với thời gian xác định, Nguyên tắc tiến hànhkhoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền khi đến thời hạn. Theo quy định, ngân hàng có quyền từ chối việc rút tiền trước thời hạn của người gửi tiền. Tuy nhiên, ở một số nước, quy định này đã được nới lỏng: Các ngân hàng cho phép người gửi tiền được rút ra trước thời hạn nhưng phải báo trước cho ngân hàng một khoảng thời gian nhất định, nếu không báo trước người gửi sẽ không được hưởng lãi suất hoặc rất thấp.
-Thứ ba, tiền gửi tiết kiệm của dân cư:
Đi đôi với sự phát triển của nền kinh tế là sự gia tăng mức thu nhập của người dân. Khi mức thu nhập vượt quá chi tiêu thì lúc đó sẽ xuất hiện hiện tượng tích trữ tiền. Hình thức tiền gửi tiết kiệm là hình thức thông qua đó người dân không những vừa đảm bảo số tiền của mình không bị mất mát (xét trong điều kiện nền kinh tế không có yếu tố lạm phát)mà còn “sinh sôi nảy nở thêm”.Tiền gửi loại này có rất nhiều các hình thức cổ điển và phổ biến nhất hiện nay là loại tiền gửi tiết kiệm (savings certifficate). Ngoài ra còn có chứng chỉ tiét kiệm.
*) Từ nguồn vốn tiền vay:
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTƯ hoặc giữa các ngân hàng tm với nhau các tổchức tóin dụng khác. trong một số trường hợp khi các nhân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động thì NHTM có thể đi vay.
Vay của NHTƯ:
NHTƯ là người chovay cuối cùng trong kinh tế, là ngân hàng của các ngân hàng bất kì ngân hàng thương mại nào khi được NHTƯ cho phép thành lập đều được hưởng quyền vay tiềntại NHTƯ trong một sô trường hợp như thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay thiếu tiền đáp ứng nhu cầu thanh toán. tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay của NHTM xin vay được chia thành: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và để tái cấp vốn. Tuy nhiên do vốn vay NHTƯ là quan hệ trực tiếp giữa NHTM vứi NHTƯ nằm trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Vì vậy không phải lúc nào việc đi vay vôn của NHTƯ cũng diễn ra suôn se.
Vay các tổ chức tín dụng:
Trong trường hợp đó, MHTM có thể huy động bằng cách vay vốn của các tổ chức tín dụng khác bằng việc mời họ tham gia các hình thức cho vay đồng tài trợ cho các dự án phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh phục vụ đơì sôngs; hoặc hình thức qua trên thị trường tiền tệ.
Một nguồn vốn vay khác mà ngân hàng có thể huy động:
Là phát hành kỳ phiếu có mục đích, trái phiếu và các giấytờ có giá khác. nếu những hình thức huy động trên mang tính bị động thì hình thức này là hình thức chủ động.
Cụ thể: khi ngân hàng phát hành trái phiếu, kỳ phiếu có nghĩa là ngân hàng phát hành một phiếu nhận nợ đối với khách hàng của mình nhằm huy động vốn có mục đích, có kỳ hạn rõ ràng giữa phát hành kỳ phiếu và trái phiếu khác ở chỗ: kỳ phiếu có mục đích thường được sử dụng linh hoạt còn trái phiếu thường được phát hành với qui mô lớn đồng loạt trong cả hệ thống ngân hàng.
3)Vốn khác:
Nguồn vốn này có được là nhờ vào lợi thế hoạt động của ngân hàng thương mại. Ví dụ ,trong quá trình làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã tạo được một số nguồn vốn gọi là nguồn vốn trong thanh toán : vốn trong tài khoản mở thư tín dụng ,tài khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản do ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại. Các khoản tiền này được gọi là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi vì thực tế nó tạm thời được tính vào t ài khoản này và được nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng hay thông qua nghiệp vụ làm đại lý NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng làm đại lý cho các tổ chức tín dụng khác, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Nguyên nhân, việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ công việc nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời khoản tiền đó vào kinh doanh.
III.Các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM trong nền kinh tế thị trường:
1.Căn cứ vào công cụ huy động
Đây là hình thức huy động được các NHTM hay sử dụng nhất. Các công cụ huy động gồm:
-Huy động tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi có thể phát hành séc)
Đây là loại tiền gửi mà chủ nhân có thể rut tiền hoặc trả cho bên thứ bằng cách phát hành séc, ở các nước phát triển loại tiền gửi này phần lớn được rút thông qua điện thoại hay máy rút tiền tự động ATM. Đặc điểm quan trọng đối với người gửi là: chuyển nhượng dễ dàng mục đích giao dịch là chính, thường được mệnh danh là tiền gửi theo yêu cầu, không đem lại lãi suất cụ thể. Đối với ngân hàng chỉ cần bỏ ra một chút chi phí cho việc quản lý tài khoản hoặc trả lãi( nếu có thì cũng rất nhỏ) số dư của loại tiền này phụ thuộc vào từng thời kỳ trong năm và khả năng của ngân hàng trong dự đoán sự biến động Ngân hàng thường bảo quản loại tiền gửi trên hai loại tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai.
Tài khoản thanh toán là loại tài khoản mà chủ nhân của tài khản có toàn quyền sử dụng số tiền trong phạm vi số dư ,tiền gửi(loại tài khoản này luôn có số dư). cụ thể họ có thể rút ra, thực hiện thanh toán qua ngân hàng; với điều kiện họ phải hoàn toàn tuân thủ những qui định và hướng dẫn của ngân hàng trong quá trình thực hiện thanh toán, về phía ngân hàng phải thực hiện trích tài khoản, không được từ chố trừ trường hợp giấy tờ thanh toán không đúng yêu cầu.
Tài khoản vãng lai là tài khoản thường được sử dụng cho các tổ chức kinh tế, nó có thể có số dư bê có và bên nhận. Dư bên có phản ánh số tiền hiện có trong tài khoản của khách hàng, ngược lại số dư bên nợ phản ánh khảon tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng vay. Lãi xuất bên nợ cũng như bên nợ cũng như bên có đều do khách hàng và ngân hàng thoả thuận.
Do tiền gửi không có kỳ hạn có chi phí huy động thấp, nếu hấp dẫn được số lượng khách hàng lớn, bảo đảm luôn có một số dư ổn đinh, ngân hàng có thể dễ dàng trong việc đa dạng hoá nghiệp vụ của mình thjông qua việc mua các loại chứng khoán có tính linh hoạt cao như kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc. Vì vậy, trên thực tế các ngân hàng đã dần dần xoá bỏ sự khác biệt giữa hai tia khoản này.
Đối với Việt Nam thì loại tiền gửi này tồn tại thông qua các hình thức như sau: tài khoản tiền gửi thông qua các tổ chức kinh tế, và khoản tiền gửi của các cá nhân. Việt Nam là nước có tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt thấp, để khuyến khích việc thanh toán qua ngân hàng, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã từng áp dụng việc trả lãi cho loại tìên gửi này(0.5% đối với tài khoản tiền gửi giao dịch của các đơn vị, tổ chức kinh tế ).
Trên thế giới , ở các nước phát triển loại tiền gửi này chiếm vị trí quan trọng trong kết cấu nguồn vốn của NHTM (ở Mỹ loại này chiếm khoản 30% tiền gửi ngân hàng). Vì lẽ đó, để tạo nguồn tièn gửi trên tài khoản thanh toán, yếu tố quan trọng là việc thu hút và giữ được khách hàng. Một số knh nghiệm ở Đức: quảng cáo nân cao uy tín hoạt động, hiện đại hoá và mở roọngcung ứng các dịch vụ phạm vi hoạt động trong và ngoài nước, tạo tiền đề cho các dịch vụ khách hàng về thời gian tốc độ, giảm chi phí bằng cachs lấy lợi nhuận từ việc sử dụng vốn “tạm thời nhàn dỗi” để bù đắp cho các khoản lệ phí thanh toán phải thu của khách hàng.
Tóm lại loại tiền gửi này có đặc điểm là tính ổn định thấp( muốn sử dụng có hiệu quả nguồn này phải mở rộng qui mô vốn); chi phí huy động rẻ ( có những ngân hàng áp dụng mức lãi 0% hoặc nếu có thì cũng rất thấp) ; luôn là đối tượng phải chịu dự trữ bắt buộc điều này tạo nên một chi phí thực cao hơn chi phí danh nghĩa ; nguồn có tính thanh khoản cao.
Huy đọng tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
Nếu tiền gửi không kỳ hạn số dư tăng giảm phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng gửi tiền, thì tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn lại phụ thuộc vào lãi xuất.
Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền mà chủ nhân có quyền rút ra theo như thời hạn đã được thoả thuận với ngân hàng, mục đích của loại tiền gửi này là hưởng lãi chứ không phảo là hưởng những tiện ích trong thanh toán. đặc điểm của loạitiền gửi này là không được dùng để thanh toán; hiệu quả sử dụng nguồn này đối với ngân hàng rất cao vì nó có thời hạn rõ ràng; chi phí để huy động đối với ngân hàng là khá đát vì lãi suất huy động thường cao( thông thường lãi suất tỷ lệ thuận theo thời gian; thơi gian gửi càng dài thì lãi suất phải trả càng cao). Mỗi nước lại có cách huy động tiền gửi riêng.
Tiền gửi có kỳ hạn ở Mỹ chiếm 39% tiền gửi ngân hàng, đặc điểm là các chứnh chỉ tiền gửi được ghi rõ hạn định và giá trị thanh toán, việc rút trước thời hạn sẽ bị phạt, đôi khi mức phạt vượt quá tiền lãi được hưởng tín đến ngày rút tiền. ở Đức họ đã khắc phục việc rút vốn trước thời hạn cho khách hàng bằng cách cấp cho họ một khoản tín dụng và coi khoản tiền gửi theo kỳ hạn là khoản đảm bảo cho tín dụng đó. Lãi suất đối với khoản tín dụng có kỳ hạn có thể cố định hoặc linh hoạt tuỳ theo sự lựa chọn của khách hàng với loại tiền gửi của lãi suất linh hoạt, khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn định. Ngày nay các chứng chỉ tiền gửi ngày càng được đa dạng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu cạnh tranh trong huy động vốn của các ngân hàng. Các chứng chỉ tiên gửi có khả năng chuyển nhượng tốt thường được các công ty, các tổ chức chính quyền đầu tư với khối lượng và được giao dịch trên thị trường chứng khoán thứ cấp trước hạn định thanh toán.
Việt Nam hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi(kỳ phiếu) đã xuất hiện với các thời hạn ba tháng, sáu tháng. Tuy hình thức này mới được xuất hiện và được sử dụng vài năm trở lại đây nhưng nó đã phát huy được vai trò của mình trong việc tạo vốn cho các ngân hàng bằng chứng chỉ là tỷ trọng huy động vốn bằng cách phát hành tỷ phiếu ngân hàng cao hơn các hình thức huy động khác.
Tiền gửi tiết kiệm
Đối với NHTM tiền gửi tiết kiệm là công cụ vốn huy động từ lâu. Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi của các ngân hàng(ở Mỹ loại này chiếm khoảng 25%). Ngân hàng thường phân chia loại tiền này làm ba loại:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: khoản tiền này có đặc điểm chủ tài khoản có thể rút ra bất kỳ lúc nào mà không phải báo trước, số dư tài khoản này thường không lớn, ưu điểm hơn tiền gửi giao dịch là số dư này ít biến động, vì lẽ đó ngân hàng thường phải trả lãi suất cac hơn so với tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: nguyên tắc của loại tiền này là một khi khách đã gửi tiền vào tài khoản này họ sẽ không được rút ra(cả gốc lẫn lãi) trừ khi đã hết hạn tiền gửi. Tuy nhiên do yếu tố cạnh tranh trong việc thu hút tiền gửi một số NHTM vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn một phần tiền lãi mà khách hàng được hưởng sẽ bị khấu trừ(có thể là ngân hàng không chấp nhận trả lại cho một số tháng nào đó hoặc có thể khách hàng chỉ được hưởng mức lãi xuất tiền gửi không kỳ hạn cho khoảng thời gian khách hàng gửi tiền khách hàng
ở Việt Nam đây là loại hình khá phổ biến và quen thuộc, kỳ hạn mà các ngân hàng Việt Nam thường áp dụng là huy động tiết kiệm với kỳ hạn tư 3 tháng đến 1 năm.
Tiền gửi tiết kiệm dài hạn: Loại tiền này rất phổ biến ở một số nước công nghiệp, mục đích thu hút số tiền nhàn rỗi tạm thời trong thời hạn dài, đặc điểm chủ tài khoản có thể gửi vào với số lượng không hạn chế và mọi lúc, nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn. Đây là loại hình tiết kiệm mà ngân hàng cần tận dụng để tạo các nguồn vốn có tính ổn định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn cho mình.
Huy động qua phát hành công cụ nợ của ngân hàng trên thị trường tài chính
Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường tài chính gồm: thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Là trung gian tài chính, phải luôn đáp ứngnhu cầu về vốn, do vậy việc ngân hàng thiếu vốn là điều không thể tránh khỏi. Trong những trường hợp này, ngân hàng có thể sử dụng nghiệp vụ huy động vốn trên thị trường tài chính: phát hành các giấy tờ có giá trị như các giấy tờ vay nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Việc chuyển nhượng các giấy tờ trên từ chủ sở hữu khác phụ thuộc vào thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng . Ngân hàng có thể phát hàn kỳ phiếu và phat hành trái phiếu.
Trái phiếu là một tờ giấy có giá, xác nhận khoản nợ của khách hàng đối với người chủ ngân hàng với cam kết như thanh toán một số tiền xác định vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác định cho trước.Trái phiếu ngân hàng lại được phân ra thành nhiều loại, với các tiêu thức phân chia khác nhau
Nếu theo thời hạn:trái phiếu ngắn hạn và dài hạn
Nếu theo tính chất chuyển đổi:trái phiếu vô danh, trái phiếu ký danh
Việc phát hành trái phiếu của ngân hàng được tiến hành trong toàn hệ thống ngân hàng chủ yếu là để huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh có quy mô lớn và dài hạn. Do tính chủ động trong việc huy đọng vốn nên lãi suất trái phiếu phải hấp dẫn, cao hơn lãi suất của các công cụ nợ khác và tỷ lệ thuận với kỳ hạn của khoản nợ.
Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân cư, chủ yếu là để phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh xác đinh của ngân hàng như một dự án, một chương trinh kinh Từ. Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành theo từng đợt haycòn gọi là kỳ phiếu có mục đích, phát hành dựa trên cơ sở tình hinh nguồn vốn và nhu cầu sử dụng vốn trong thời kỳ trước mắt của ngân hàng. Loại này có ưu điểm lf vốn huy động được khá linh hoạt, có tính lỏng cao, dễ dàng chuyển đổi sang tiền hoặc các hình thức khác; mệnh giá ,loại tiền sử dụng, phương thức trả lãi đa dạng đáp ứng nhu cầu của người mua. Cũng giống như trái phiếu do tính chủ động của nó nên lãi suất của kỳ phiếu thường được ổn định và hấp dẫn( mức độ tuỳ thuộc vào mức độ cần thiết về vốn của ngân hàng ).
2.Các chính sách khuyếch trương Marketing
Giới thiệu hình ảnh của ngân hàng tới khách hàng :
Đây là một công việc rất quan trọng, ngân hàng càng quảng bá được hình ảnh, tên tuổi của mình tới càng nhiều bộ phận công chúng càng tốt.Tuy nhiên cũng cần lưu ý đó là những hình ảnh đó phải gắn với những điều kiện thực tế mà ngân hàng đang có. Có nhiều cách giới thiệu hình ảnh của ngân hàng tới khách hàng : đó có thể là qua báo chí, truyền hình, nhân dịp giới thiệu một dịch vụ mới hấp dẫn của ngân hàng, hay thông qua khách hàng khi họ đã thấy được nguồn lợi mà ngân hàng mang lại..
Không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng :
Song song với công tác khuyếch trương Marketing ngân hàng cần tiến hành đầu tư phát triển máy móc, thiết bị, trang bị nghiệp vụ, nâng cao năng lực tổ chức , quản lý, thái độ phục vụ khách hàng. Khi khách hàng đặt niềm tin vào ngân hàng tức là ngân hàng đã đem lại những lợi ích lớn nhất cho họ thì hiệu qủa hoạt động lợi nhuận thu về của ngân hàng cũng sẽ tương ứng.
3.Chi phí hoạt động:
Chi phí huy động vốn của ngân hàng chính là lãi suất phải trả cho các khoản vay mà ngân hàng trả cho khách hàng .
Lãi suất này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: rủi ro nợ, tính lỏng và tình trạng thuế. Các trái khoán có cùng hạn kỳ thanh toán, nảy sinh do ba yếu tố này được gọi là cấu trúc rủi ro của lãi suất.
Có ba lý thuyết về cấu trúc hạn kỳ, những lý thuyết này giúp giải thích các lãi suất của những trái khoán có hạn kỳ khác nhau tương quan với nhau như thế nào. Giả thuyết về dự tính coi lãi suất dài hạn như là bằng trung bình của những lãi suất ngắn hạn tương lai được trông đợi xuất hiện trong suốt thời gian tồn tại của trái khoán dài hạn đó trong khi đó lý thuyết thị trường phân cách coi việc xác định các lãi suất theo kỳ hạn thanh toán của mỗi trái khoán như là chỉ do kết quả của cung và cầu trên thị trường đó.
Hai lý thuyết trên chưa giải thích được cả hai hiện tượng thực tế là: các lãi suất của những trái khoán có kỳ hạn thanh toán khác nhau diễn biến theo nhau và các đường cong lãi suất thường dốc lên.
Lý thuyết về môi trường ưu tiên kết hợp hai đặc điểm của hai lý thuyết khác nhau nói trên và nhờ làm như vậy có thể giải thích được những hiện tượng trên. Lý thuyết này coi các lãi suất dài hạn là bằng trung bình của những lãi suất ngắn hạn tương lai được trông đợi trong suốt thời gian tồn tại của một trái khoán có kỳ hạn cộng với một mức bù hạn kỳ, mức bù này phản ánh lượng cung cầu về những trái khoán có hạn kỳ khác nhau. Lý thuyết này cho phép ta suy ra những dự tính của thị trường về diễn biến của những lãi suất hoàn vốn.
Một đường dốc lên mạnh cho biết rằng các lãi suất ngắn hạn được trông đợi tăng lên. Một đường dốc lên thoai thoải cho biết rằng các lãi suất ngắn hạn được trông đợi sẽ giữ nguyên không đổi; một đường nằm ngang cho biết lãi suất ngắn hạn trông đợi sẽ giảm nhẹ và một đường dốc xuống cho biết rằng một sự giảm quan trọng của các lãi ngắn hạn được trông đợi trong tương lai.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của NHTM :
Ngân hàng không thể tiến hành các hoạt động của mình có hiệu quả nếu không có đủ vốn hoặc huy động quá nhiều vốn mà không sử dụng hết tức là ngân hàng bị kẹt vốn. Do vậy hoạt động quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng là công tác huy động vốn hay còn gọi là tạo “đầu vào”.Đầu vào thuận lợi sẽ góp phần tạo”đầu ra “ thông thoáng. Để có được “đầu vào “ ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều các nhân tố khác nhau. Sau đây là một vài những nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của các NHTM .
1.Môi trường kinh doanh
Nền kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt động kinh tế có liên quan biện chứng tác động ràng buộc lẫn nhau. Sự biến động của một hoạt động kinh tế đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực còn lại. Hoạt động kinh doanh của các NHTM được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực kinh té khác nhau trong nền kinh tế. Do vậy, sự tác động ổn định hay bất ổn định, tăng nhanh hay chậm chạp của nền kinh tế đều tác động mạnh mẽ đến các hoạt động của ngân hàng. Rõ ràng, hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng của ngân hàng luông gắn với mội trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh bao gồm:
Thứ nhất la môi trường pháp lý
Như chúng ta đã biết, hoạt động của ngân hàng có mức độ ảnh hưởng tác động hết sưcs mạnh mẽ đối với nền kinh tế của bất kỳ nước nào. Cụ thể việ huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng đều tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của chủ thể, tốc độ chu chuyển vốn tình trạng thất nghiệp tỷ lệ lạm phát. Chính vì lẽ đó hoạt động của ngân hàng phải chịu sự quản lý chặt chẽ gắt gao hơn so vơí các doanh nhgiệp khác. Thực tế là ngân hàng phải chịu sự điều chỉnh của rất nhiều chính sách, các qui định của chính phủ, của NHTƯ đó là luật các tổ chức tín dụng, luật kinh tế luật dân sự hàng loạt hệ thống các qui định cụ thể trong tưngg thời ky về lãi suất, dự trữ, hạn mức,. Trong sự dàng buộc về luật pháp này thì các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn chắc chắn sẽ bị thay đổi và kết quả làm ảnh hưởng đến qui mô và hiệu quả của việc huy động vốn. Bởi khi chính sách của nhà nước, của NHTƯ: chính sách tiền tệ, tài chính, lãi suất,tín dụng thay đổi sx ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất lượng nguồn vốn của NHTM.
Thứ hai là môi trường chính trị
Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị không ổn định. Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động mạnh mẽ đến quan hệ vốn của ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Điều này cũng là nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của ngân hàng.
Thứ ba là môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế cũng có ảnh hưởng lớn đối với công tác huy động vốn của NHTM. Môi trường kinh tế hàm chứa tình trạng nền kinh tế, yếu tố cạnh tranh.
Tình trạng nền kinh tế phát triển hưng thịnh, thu nhập của cá nhân, tổ chức kinh tế trong xã hội cao và ổn định thì tất yếu công việc huy động vốn của ngân hàng sẽ diễn ra thuận lợi, dễ dàng hơn. Ngược lại nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái thì jhả năng khai thác nguồn vốn đưa vào nền kinh tế ắt hẳn sx bị hạn chế, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn.
Cạnh tranh là một qui luật tất yếu của nền knh tế thi trường. Cạnh tranh không phải lúc nào cũng tốt vì cạnh tranh có thể dẫn đến rẩa nhiều những hạn chế, tiêu cực. Vì vậy cạnh tranh là một thách thức với sự phát triển vưa là nhaan tố thúc đẩy sự phát triển. Để công tác huy động vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung đạt được hiệu quả, ngân hàng phải quan tâm đén vấn đề cạnh tranh. Cụ thể gân hàng phải xác định rõ trong địa bàn hoạt động của mình có bao nhiêu ngân hàng, các đối thủ khác cũng cung cấp các dịch vụ tương đương như ngân hàng, có bao nhiêu cơ hội để đầu tư kinh doanh. Trên cơ sở đó ngân hàng sẽ tính toán đưa ra loại hình dịch vụ nào có hiệu quả nhất, ấn định một mức lãi suất phù hợp không chỉ với thị trường mà còn tiết kiệm được chi phí huy động.
Thứ tư là môi trường văn hoá.
Mỗi quốc gia đều có văn hoá riêng, văn hoá chính là yếu tố tạo nên bản sắc của các dân tộc: tập quán, thói quyen tâm lý..Đối với hoạt động ngân hàng trong đó công tác huy động vốn là yếu tố chịu ảnh hưởng của môi trường văn hoá. Cụ thể ở các quốc gia phát triển người dân có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để hưởng những tiện ích trong thanh toán, hưởng lãi và trong tiềm thức của họ ngân hàng là một cái gì đó không thể thiếu được trong cuộc sống. Do vậy ngân hàng khôg mấy khó khăn trong vấn đề huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội. Ngược lại đối với các nước đang phát triển như Việt Namviệc huy động vốn của ngân hàng gặp nhiều khó khăn vì người dân Việt Nam hiện nay vẫn chưa có thói quen thanh toán không sử dụng tiền mặt( theo thống kê có đến 50% gia dịch vẫn sử dụng tòên mặt). Hơn nữa ngân hàng lại chưa tạo được lòng tin đối với người dân sau hàng loạt các sự kiện đã từng xảy ra đổi tiền năm 1985-1986 với tốc độ lạm phát chóng mặt ở mức 3 con số 600-700% làm trắng tay nhiều người gửi tiền, sự sụp đổ của hơn 7500 quĩ tín dụng nhân dân ở thành phố và hợp tác xã tín dụng ở nông thôn 1989-1990, tiếp đến là hàng loạt các vụ án liên quan đến ngành ngân hàng như dệt Nam Định, Tăng Minh Phụng .. làm cho các ngân hàng thiệt hại hàng tỷ đồng; chưa chú trọng lắm tới công tác Marketting, tiếp thị quảng cáo nên người dân còn hiểu biết rts ít về chủ trương chính sách của nhà nước, hoạt động của ngân hàng vì vậy đến nay vẫn còn tình trạng nhiều người dân có tiền nhưng không muốn gửi tiền vào ngân hàng vì không biết thủ tục, ngại mất thời gian..
2. Cá nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng.
Nếu môi trường kinh doanh có ảnh hưởng lớn với công tác huy động vốn thì yếu tố quyết định chính vẫn là các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng. Bởi vì môi trường kinh doanh chỉ tác động: gây ra khó khăn, hay tạo điều kiện thuận lợi cnf việc vốn có được hay không lại phụ thuộc vào chủ trương chính sách kế hoạch của ngân hàng. Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng quyết điịnh việc ngân hàng huy động vốn có hiệu quả thường bao gồm những yếu tố sau:
Một là chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể. Chiến lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí của mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh điểm yếu cơ hội thách thức đồng thời dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Thông qua chiến lược kinh doanh ngân hàng sẽ cso thể quyết định thu hẹp hay mở rộng việc huy động vốn về mặt qui mô, có thể thay đổi tỷ lệ các loại nguồn vốn, tăng hay giảm chi phí huy động. Với tác dụng to lớn như vậy nếu chiến lược kinh doanh được lựa chọn đúng đắn các nguồn vố được khai thác một cách tối đa thì công tác huy động vốn sẽ phát huy được hiêụ quả.
Hai là chiến lược khách hàng của ngân hàng về huy động vốn.
Như chúng ta đã biết ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật phát triển đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọ ngân hàng mà họ coi là thuận tiện hơn chứ không chỉ đơn thuần là nơi cất trữ tiền tệ và kiếm lời từ lãi suất. Thực tế này đòi hỏi các ngân hàng phải xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn trong hoạt động nói chung và trong hoạt động huy động vống nói riêng. Để làm được điều này trước tiên ngan hàng cần tìm hiểu động cơ thói quen, mong muốn của người gưit iền, thậm chí từng đối tượng khách hàng thông qua phân tích lợi ích của khách hàng. Cụ thể mục đích của doanh nghiệp là nhờ ngân hàng quản lý quĩ, ký quĩ hoặc nhờ chi trả trong thanh toán khi đó mục đích của cá nhân gửi tiền tiết kiệm là hưởng lãi. Mục đích của từng loại tiền gửi trên các tìa khảon khác nhau cũng khác nhau như: tiền gửi giao diạch để phát hành séc thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn để dành cho tiêu dung, đầu tư trong tương lai. Trên cơ sở những thông tin của khách hàng ngân hàng có thể đưa ra một hệ thống các chính sách và biện pháp để co được qui mô và chât lượng nguồn vốn mong muốn. Hệ thống các chính sách có liên quan đến huy động vốn bao gồm:
Chính sách vê giá cả, lãi xuất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng, chi phí dịch vụ hay gọi chung là chính sách giá cả các sản phẩm và dịch vụ tài chính. Ngân hàng sử dụng hệ thống lãi suất tiền gửi như là một công cụ quan trọng trong việc huy động tiền gửi, thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn Ngân hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh thực hiện những ưu đãi về giá cho những khách hàng lớn, gửi tiền thường xuyên. Mặt khác nếu hệ thống lãi suất linh hoạt sẽ giúp Ngân hàng tạo được sự phù hợp về quy mô và cơ cấu nguồn vốn.
Các chính sách liên quan đến sản phẩm và dịch vụ tiền gửi của Ngân hàng. Nhóm chính sách này nhằm đánh giá các loại sản phẩm dịch vụ cung ứng và chất lượng các dịch vụ đó: chất lượng tài khoản, kỳ hạn và các dịch vụ liên quan đến tiền gửi như rút tiền tự động, giao dịch tại nhà, rút ngắn thời gian thanh toán, những năm gần đây các Ngân hàng đã đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, đổi mới, hoàn thiện nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ phù hợp với yêu cầu thị trường, không ngừng mở rộng phát triển dịch vụ mới.
Các chính sách trong phục vụ và giao tiếp. Nhân viên Ngân hàng là chiếc gương để cho khách hàng thấy được hình ảnh của Ngân hàng. Trong điều kiện hiện nay - khó có thể duy trì sự khác biệt vể sản phẩm và giá cả, nên chất lượng dịch vụ khách hàng đã trở thành công cụ cạnh tranh vô cùng quan trọng để thu hút vốn. Thái độ phục vụ thân thiện, chu đáo, hệ thống thanh toán được bố trí một cách khoa học là những điều cần thiết để giữ vững khách hàng có thêm khách hàng. Do đó, muốn củng cố uy tín của mình trên thị trường, gắn bó với khách hàng truyền thống, thu hút, hấp dẫn thêm khách hàng mới, Ngân hàng không thể bỏ qua các chính sách trong phục vụ giao tiếp.
Ba là mạng lưới và các hình thức huy động
Mạng lưới hoạt động càng rộng và hình thức huy động càng phong phú, đa dạng thì kết quả huy động vốn sẽ càng nhiều về số lượng và chất lượng cũng được nâng lên tương ứng. Thường muốn mở rộng quy mô tăng cường phát triển nguồn vốn Ngân hàng không thể bỏ qua yếu tố mở rộng mạng lưới hoạt động. Qua hoạt động và khảo sát tình hình thực tế, các Ngân hàng có thể đưa ra kết luận: khách hàng không chỉ quan tâm đến lãi suất, dịch vụ tiện ích của Ngân hàng mà họ còn quan tâm đến tính thuận tiện của việc gửi tiền. Chẳng hạn, nếu Ngân hàng không mở rộng mạng lưới hoạt động khó có thể huy động được những nguồn vốn nhuo từ các tầng lớp dân cư vì tâm lý của người dân với một món tiền nhỏ họ rất ngại phải đi một quãng đường xa đến nơi gửi, quan điểm của họ thà để cất trữ ở nhà còn hơn, nếu Ngân hàng không nhận biết điều này thì vô hình chung họ đã bỏ ra một khoản tiền nhàn rỗi. Việc mở thêm chi nhánh là quan trọng nhưng vị trí ở đâu để có thể huy động được khoản tiền gửi đòi hỏi Ngân hàng phải có sự nghiên cứu hết sức nghiêm túc. Thông thường các chi nhánh được mở ở mặt đường quốc lộ nơi đông dân cư để thuận tiện cho người dân gửi tiền, đối với các Ngân hàng lớn thì nên mở các chi nhánh ngay tại trụ sở để phục vụ khách hàng tốt hơn và tạo mối quan hệ mật thiết với khách hàng. Ngoài ra, Ngân hàng còn không ngừng nâng cấp chi nhánh, trang thiết bị các phương tiện dịch vụ nâng cao chất lượng cán bộ ở các chi nhánh để có thể phục vụ, thu hút được nhiều tiền gửi hơn.
Bốn là trình độ công nghệ Ngân hàng
Trình độ công nghệ Ngân hàng bao gồm cơ sở vật chất phục vụ Ngân hàng, các loại hình dịch vụ Ngân hàng cung ứng, trình độ nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên Ngân hàng.
Cơ sở vật chất của Ngân hàng càng khang trang hiện đại, công nghệ tiên tiến mang lại lợi ích thiết thực cho kinh doanh, luôn tạo điều kiện thuận lợi và phục vụ cho khách hàng tốt hơn, tạo lòng tin cho khách hàng. Thực tế khách hàng sẽ tin tưởng yên tâm hơn khi tiền gửi ở một Ngân hàng có trình độ công nghệ trình độ công nghệ Ngân hàng cao. Và khi khách hàng đã thực sự yên tâm gửi tiền thì Ngân hàng dễ dàng trong việc huy động.
Năm là nâng cao uy tín của Ngân hàng
Có thể gọi đây chính là tài sản vô hình của Ngân hàng. Uy tín bao gồm uy tín của Ngân hàng trong toàn hệ thống, của các thành viên trong hội đồng quản trị, ban giám đốc. Sự nổi tiếng của Ngân hàng là tài sản quý trong công tác huy động vốn vì trong lòng thị trường Ngân hàng đã tạo một hình ảnh riêng, khi đó khách hàng sẽ tin tưởng vào Ngân hàng, giúp Ngân hàng có khả năng ổn định khối lượng vốn huy động, tiết kiệm chi phí huy động (thực tế khi Ngân hàng có tiếng tăm, họ dễ dàng thu hút vốn hơn các Ngân hàng khác ngay cả khi lãi suất tiền gửi của Ngân hàng đưa ra có thấp hơn).
Sáu là tính chất sở hữu của Ngân hàng
Yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc đến mô hình, cơ cấu tổ chức và cơ chế tài chính từ đó ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn và quản lý, sử dụng vốn.
Hoạt động của Ngân hàng thật sự phức tạp, nó chịu sự chi phối của rất nhiều các nhân tố khác: vĩ mô, vi mô, với mức độ khác nhau. Phần trình bày trên, theo tôi chỉ là những nhân tố ảnh hưởng chính đến công tác vốn của Ngân hàng.
VI. một vài chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của công tác huy động vốn ở Ngân hàng thương mại.
Hiệu quả là cái đích mà mỗi chủ thể, thành phần kinh tế khi tham gai hoạt động kinh doanh đều phải hướng tới vì hiệu quả chính là nhân tố cấu thành lợi nhuận cuối cùng. Ngân hàng muốn thu được lợi nhuận cao, tạo được vị thế, uy tín trên thị trường thì hoạt động của Ngân hàng phải có hiệu quả. Một tring những hoạt động đòi hỏi Ngân hàng phải thực hiện có hiệu quả đó là công tác huy động vốn của Ngân hàng. Như phần trước đã đề cập, huy động vốn và hoạt động cơ bản của Ngân hàng, tạo điều kiện để Ngân hàng thực hiện các hoạt động khác, mặt khác vốn được huy động từ nhiều nguồn khác nhau và Ngân hàng sử dụng số huy động này với trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi, đồng thời phải đảm bảo một tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Cho nên hiệu quả của công tác huy động vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu trong hoạt động của Ngân hàng thương mại. Chính tầm quan trọng của công tác huy động vốn nên có rất nhiều các chỉ tiêu đã được các Ngân hàng đưa vào sử dụng để đánh giá về tính hiệu quả. Sau đây là một vài chỉ tiêu mà theo tôi các Ngân hàng không thể bỏ qua trong quá trình đánh giá.
Tính ổn định của nguồn vốn.
Tính ổn định ở đây bao gồm ổn định về khối lượng, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu nguồn.
Thật vậy, công tác huy động vốn không thể có hiệu quả khi mà nguồn vốn huy động được lại không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của Ngân hàng hay không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh, cơ cấu vốn của Ngân hàng lại không có sự hợp lý giữa các nguồn vốn huy động ngắn hạn, trung và dài hạn, giữa vốn ngoại tệ và vốn nội tệ. Đối với Ngân hàng, do mỗi nguồn vốn có những điểm mạnh, điêm yếu riêng trong việc khai thác và huy động nên cơ cấu vốn biến đổi sẽ dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu đầu ra, cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Cơ cấu nguồn vốn huy động phụ thuộc không chỉ vào một phần kế hoạch của Ngân hàng mà còn chịu sự tác động của các nhân tố bên ngoài đòi hỏi Ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Khối lượng vốn huy động phản ánh quy mô vốn. Quy mô vốn lớn sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thì quy mô vốn huy động là một bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trò quan trọng hơn cả. Sau khi đã huy động được khối lượng vốn lớn thì cái mà Ngân hàng cần quan tâm lúc này là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó vì có thể lúc này quy mô vốn lớn, nhưng sẽ là khó khăn cho Ngân hàng khi đưa ra quyết định cho vay hay đầu tư nếu Ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán được xu hướng biến động của dòng tiền rút ra và dòng tiền gửi vào.
Chi phí huy động vốn.
Chi phí huy động vốn là chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả của công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại. chi phí huy động vốn bao gồm chi phí trả lãi và các chi phí có liên quan khác.
Một Ngân hàng không thê coi là thành công trong việc huy động vốn nếu để có được một khối lượng vốn lớn nó phải bỏ ra chi phí huy động vốn quá lớn. Bởi cũng giống như các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh lợi nhuận của Ngân hàng cũng được tính bằng công thức: doanh thu - chi phí. Đối với Ngân hàng lãi suất trả cho các khoản tiền vay huy động tỷ lệ cao nhất.
Lãi suất huy động.
Như chúng ta đã biết Ngân hàng là trung gian tài chính, đóng vai trò là cầu nối, dung hòa lợi ích giữa người gửi tiền và người cho vay, mà vẫn đảm bảo được lợi nhuận cho Ngân hàng. Không phải ngẫu nhiên nguồn vốn chảy vào bể chứa Ngân hàng, do Ngân hàng nhận thức vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế là lãi suất.Người gửi tiền muốn một lãi suất cao để đồng tiền của mìnhthu về được nhiều lãi, trong khi đó người vay tiền lại muốn có một lãi suất thấp để tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận. Lãi suất huy động càng cao thì càng kích thích khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng, tuy nhiên nếu lãi suất đầu vào đã cao thì sẽ tác động không tốt đến lãi suất đầu ra và tất yếu lợi nhuận của Ngân hàng cũng không tránh khỏi bị biến động. Do vậy, trong huy động vốn, mỗi Ngân hàng cũng không tránh sử dụng nhiều biện pháp khác nhau sao cho tìm kiếm được những nguồn vốn có chi phí huy động thấp nhất (đưa ra một tỷ lệ lãi suát hợp lý để huy động được và sử dụng để huy động được và sử dụng để cho vay với lãi suất cao nhất mà vẫn được thị trường chấp nhận) chi phí huy động được đánh giá qua hệ thống các chỉ tiêu lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn), lãi suất huy động của từng nguồn và đặc biệt là lãi suất cạnh tranh NEC.
Các Ngân hàng cần có một chính sách lãi suất trong đó cần chú trọng tính đa dạng hóa lãi suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động (căn cứ vào từng loại tiền, kỳ hạn, đối tượng tiền gửi). Một Ngân hàng có chính sách lãi suất đúng đắn nếu Ngân hàng tối thiểu hóa được chi phí trong huy động vốn mà vẫn hoàn thành được kế hoạch về nguồn vốn của Ngân hàng.
Không chỉ có chi phí lãi suất, trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng còn phải một số chi phí nghiệp vụ khác, tiền lương, chi phí in ấn giấy tưò nghiệp vụ... Tuy chi phí này chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh nặng cho Ngân hàng.
3. Các hiệu quả huy động vốn.
Hình thức huy động vốn là những cách thức Ngân hàng sử dụng để thu hút nguồn vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì vốn chảy vào Ngân hàng càng nhiều. Vì vậy độ đa dạng của các hình thức huy động vốn chính là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của công tác huy động vốn chính là chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của công tác huy động ở các Ngân hàng thương mại.
Sự đa dạng các công cụ huy động được thể hiện trước hết là ở số lượng các công cụ Ngân hàng sử dụng. Tùy theo đặc điểm, mục tiêu chiến lược kinh doanh, mỗi Ngân hàng đưa ra những loại công cụ huy động. Vì thực tế, số lượng các công cụ huy động càng nhiều thì Ngân hàng càng có nhiều điều kiện thu hút được vốn, tuy nhiên số lượng các công cụ vốn lại bị hạn chế bởi khả năng quản lý của Ngân hàng. Một Ngân hàng sử dụng nhiều công cụ huy động vốn không hoàn toàn đồng nghĩa với việc công tác huy động vốn của Ngân hàng đó có hiệu quả tốt, mà nó chỉ được coi là có hiệu quả khi những công cụ đó thực sự thích hợp với Ngân hàng. Cụ thể đối với các Ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng, đội ngũ cán bộ công nhân viên Ngân hàng có trình độ cao thì Ngân hàng nên đa dạng hóa các loại công cụ huy động vốn.
Sẽ là không đủ nếu các Ngân hàng chỉ đa dạng về số lượng các công cụ mà không đa dạng về kỳ hạn huy động, loại tiền sử dụng. Chẳng hạn nếu khách hàng có nhu cầu gửi tiền với kỳ hạn mà Ngân hàng lại không có kỳ hạn đó thì dù có sử dụng nhiều công cụ huy động đến đâu Ngân hàng vẫn không thu hút được nguồn vốn đó. Do vậy, để công tác huy động vốn của Ngân hàng thực sự đạt được hiệu quả cao, Ngân hàng cần phải tính toán, nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu của thị trường, trên cơ sở năng lực bản thân đưa ra các hình thức huy động đa dạng về kỳ hạn, loại tiền. Nếu những Ngân hàng có quan hẹe quốc tế rộng thì nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ phải lớn, hay nếu có chiến lược sử dụng vốn dể cho vay dài hạn thì cần tăng cường huy động vốn trung và dài hạn..
4. Khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Ngân hàng là trung gian tài chính. Vốn của Ngân hàng trong đó vốn huy động là đầu vào chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trò quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Ngân hàng không thể được coi là có hiệu quả trong công tác huy động vốn nếu nguồn vốn huy động được lại thiếu hoặc thừa so với nhu cầu hoạt động của Ngân hàng. Mặt khác tình trạng không cân đối vốn trong hoạt động của bản thân Ngân hàng cũng như giữa các chi nhánh trong hệ thống, giữa các Ngân hàng lại thường xuyên xảy ra. Do vậy, công tác huy động vốn của Ngân hàng sẽ có hiệu quả nếu Ngân hàng có khả năng linh hoạt trong việc điều chuyển vốn giải quyết tình trạng thừa thiếu vốn tạm thời này, hay có khả năng đưa ra các quyết định, sự lựa chọn đúng đắn có lợi nhất, đảm bảo sự chủ động trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Kết luận
Hoạt động của hệ thống Ngân hàng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng có ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Nghiệp vụ huy động vốn đóng vai trò then chốt, trong hệ thống nghiệp vụ của Ngân hàng. Ngân hàng thương mại cần sử dụng tốt các hình thức huy động vốn trong đó bao gồm công cụ huy động vốn, ở hình thức này cần sử dụng công cụ là huy động tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm, huy động qua phát hành công cụ nở của Ngân hàng trên thị trường tài chính. Tiếp theo là chính sách khuyếch trương Marketing và cần phải xác định được chi phí huy động (vấn đề quan trọng ở đây là cấu trúc kỳ hạn của lãi suất).
Ngân hàng thương mại cũng xét tới các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của mình. Trong đó, nổi lên các nhân tố chính là ở môi trường kinh doanh. ở đây xét tới các môi trường pháp lý, chính trị, kinh tế văn hóa và một nhân tố quan trọng đó là chính bản thân Ngân hàng. Nếu như môi trường kinh doanh có ảnh hưởng lớn đối với công tác huy động vốn thì yếu tố quyết định chính vẫn là các nhân tố thuộc về bản thân Ngân hàng. Bởi môi trường kinh doanh chỉ tác động. Gây ra khó khăn, hay tạo điều kiện thuận lợi còn việc vốn có được huy động hay không phải phụ thuộc vào chủ trương đường lối chính sách, kế hoạch của Ngân hàng.
Cuối cùng hiệu quả của công tác huy động vốn ở Ngân hàng thương mại được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu cụ thể. Tính ổn định của nguồn vốn, chi phí huy động vốn, các hình thức huy động vốn, và khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Tính ổn định của nguồn vốn ở đây bao gồm ổn định về khối lượng, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu, nguồn vốn.
Chi phí huy động vốn dù chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả của công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại. chi phí huy động vốn bao gồm chi phí trả lãi (lãi suất) và các chi phí có liên quan khác.
Hình thức huy động vốn là những cách thức Ngân hàng sử dụng để thu hút nguồn vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì vốn chảy vào Ngân hàng càng nhiều.
Danh mục tài liệu tham khảo
- Frederic S.mishkim (2001) Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính - NXB Khoa học và kỹ thuật
- TS. Phạm Thị Thu Hà - TS. Nguyễn Thị Thu Thảo 2002, Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ, NXB Thống kê - Hà Nội.
- TS. Nguyễn Hữu Tài (chủ biên) 2002, Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ - NXB Thống kê - Hà Nội.
- Pháp lệnh Ngân hàng, HTX Tín dụng và Công ty tài chính năm 1990
- Luật các tổ chức tín dụng (Luật số 02/1997/QH10)
- Một số lý luận rút ra từ nhiều bài báo trong các tạp chí Ngân hàng và Thời báo kinh tế Sài Gòn, Thời báo kinh tế Việt Nam.
Mục lục
Phần I: Lời nói đầu 1
Phần II: Nội dung 2
Chương 1: NHTM và hoạt động của NHTM trong nền KTTT 2
I. Khái quát về Ngân hàng thương mại 2
1. Thế nào là Ngân hàng thương mại 2
2. Sơ lược vè lịch sử hình thành 3
3. Vai trò, vị thế và tầm quan trọng của NHTM trong nền kinh tế 4
4. Các loại hình Ngân hàng thương mại 6
II. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại 8
1. Nghiệp vụ huy động vốn 8
2. Nghiệp vụ sử dụng vốn 9
3. Nghiệp vụ khác 10
Chương 2: Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại ..12
I. Khái niệm về vốn của Ngân hàng thương mại 12
II. Phân loại nguồn vốn của Ngân hàng thương mại 12
1. Vốn tự có (vốn chủ sở hữu) 12
2. Vốn huy động 12
3. Vốn khác 16
III. Các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM trong nền kinh tế thị trường 16
1. Căn cứ vào công cụ huy động 16
2. Chính sách khuyếch trương Marketing 21
3. Chi phí huy động 22
IV. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại 23
1. Môi trường kinh doanh 23
2. Các nhân tố thuộc về bản thân Ngân hàng 25
V. Một vài chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của công tác huy động vốn ở Ngân hàng thương mại 29
1. Tính ổn định của nguồn vốn 29
2. Chi phí huy động vốn 30
3. Các hình thức huy động vốn 31
4. Khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng 32
kết luận 33
danh mục tài liệu tham khảo 34
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33732.doc