Toàn bộ đề án đã một phần làm rõ được bản chất của nguồn gốc của lợi nhuận cũng như vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường và sự vận dụng vào Việt Nam. Chúng ta thấy rằng việc theo đuổi lợi nhuận là một điều tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế vì nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên thực chất của quá trình nẩy sinh sự tiêu cực trong văn hoá, xã hội, lối sống của người dân trong cơ chế mới. Cũng như sự gia tăng về vấn đề ô nhiễm môi trường. Những vấn đề trên đặt ra một yêu cầu là tất cả chúng ta cần phải cố gắng đưa nền kinh tế phát triển xã hội lành mạnh văn minh. Đặc biệt là những nhà kinh tế tương lai, chúng ta không thể đứng nhìn những mâu thuẫn trong quá trình chuyển đổi mà chúng ta hãy nỗ lực hơn nữa trong học tập và lao động để có thể góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước.
34 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 720 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nguồn gốc lợi nhuận và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch. Mác cho rằng trong giai đoạn đầu phát triển của CNTB khi kinh tế còn thấp thì việc tăng giá trị thặng dư tuyệt đối bằng cachs kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian cần thiết không thay đổi là biện pháp duy nhất. Nhưng phương pháp này còn hạn chế về thời gian, về thể chất và tinh thần cho người công nhân. Sự bóc lột này khiến cho xảy ra nhiều cuôc bãi công, đình công, đấu tranh của các nghiệp đoàn. Mặt khác đến giai đoạn phát triển cao có thể cho năng suất lao động phát triển cao nhất để tăng giá trị thặng dư và trình độ bóc lột. Nhà tư bản sản xuất ngày càng thu được nhiều giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài thời gian lao động thặng dư, trong điều kiện đó ngày lao động sẽ là không đổi. Phương pháp này không có giới hạn.
Bên cạnh đó, ngày nay cac nhà tư bản cũng tìm cách cải tạo kỹ thuật, đưa kỹ thuật mới vào nâng cao tay nghề của công nhân, tạo điều kiện về tinh thần để nâng cao năng suất lao động cá biệt hơn năng suất lao động xã hội. Phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài giá trị thặng dư thông thường do thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động cần thiết gọi là giá trị thặng dư siêu bền hay giá trị thặng dư siêu ngạch.
Lợi nhuận.
Bản chất của lợi nhuận.
Ta thấy giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghia luôn có một khoảng chênh lệch nên sau khi bán hang hoá các nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra mà còn thu được một số tiền lời ngang bằng. Số tiền này được gọi là lợi nhuận. Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hóa lợi nhuận. Nếu gọi lợi nhuận là P thì ta có công thức:
Giá trị = C + V + m = K + m
Thì bây giờ giá trị = K + P
(Chi phí sản xuất + lợi nhuận)
Qua phương trình trên ta có thể thấy nguồn gốc của lợi nhuận là kết quả bóc lột lao động của công nhân làm thuê. Đồng thời quá trình sản xuất TBCN đã xoá nhoà sự khác nhau giữa C và V nên việc lợi nhuận sinh ra trong quá trình sản xuất nhờ bộ phận của V được thay thế bằng sức lao động thì bây giờ lại là con đẻ của quá trình ứng trước. Do K luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế nên các nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất là đã có lợi nhuận. Nếu nhà tư bản bán hàng bằng giá trị của nó thì M = P trong trường hợp còn lại thì M > P ( hoặc M < P ) chính sự không nhất quán này đã che dấu sự bóc lột của TBCN, che dấu nguồn gốc thực sự của lợi nhuận.
Cách tư bản tạo ra lợi nhuận
Tư bản tạo ra lợi nhuận từ chi phsi sản xuất TBCN. Để gạo ra giá trị hàng hoá, tất yếu phải chi phí một lao động bao gồm lao động hiện tại (lao động tạo ra giá trị mới) và lao động quá khứ.
Chi phí thực tế để tạo ra hàng hoá là C + V + M. Nhưng các nhà tư bản không quan tâm đến điều đó, họ chỉ ứng ra tư bản để sản xuất hàng hoá nên các nhà tư bản chỉ xem hao phí bao nhiêu tư bản chứ không tính đến hết bao nhiêu lao động xã hội. Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất TBCN, ký hiệu là K (K= C + V ).
Vậy chi phí sản xuất TBCN là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hoá. Khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản TBCN thì công thức giá trị hàng hoá = C + V + M sẽ chuyển thành K + M.
Giữa giá trị và chi phí sản xuất TBCN có sự khác nhau về lượng và chất.
Về mặt lượng: chi phí sản xuất TBCN luôn nhỏ hơn chi phí thực tế hay giá trị hàng hoá C + V < C + V + M.
Về mặt chất: chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đầy đủ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó còn chi phí TBCN chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư bản.
Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận.
Giá trị thặng dư và lợi nhuận có chung nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê. Nhưng mặt chất chúng rất khác nhau.
Giá trị thặng dư phản ánh nguồn gốc sinh ra từ V, còn lợi nhuận được xem như toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra. Do đó, nguồn gốc thực sự của lợi nhuận bị che dấu. Để thấy rõ được điều đó chúng ta phân tích những nguyên nhân sau.
Một là, sự hình thành chi phí sản xuất TBCN đã xoá nhoà sự khác nhau giữa C và V nên việc lợi nhuận sinh ra trong quá trình sản xuất như bộ phận V được thay thế bằng sức lao động, bây giờ lại trở thành con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước.
Hai là, do chi phí sản xuất TBCN luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất tư bản là đã có lợi nhuận.
2.3. Tỷ suất lợi nhuận.
Bên cạnh khái niệm lợi nhuận, các nhà tư bản còn quan tâm đến khái niệm tỷ suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận (P’) là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.
Ta có :
M
P’= x 100%
C + V
M
V M’
= x 100 % =
C + 1 C + 1
V V
Như vậy giữa tỷ suất lợi nhuận P’ và tỷ suất giá trị thặng dư m’ có sự quan hệ với nhau.
Về chất, phạm trù tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột của các nhà tư bản với công nhân làm thuê. Còn phạm trù tỷ suất lợi nhuận không phản ánh trình độ bóc lột mà nó phản ánh hiệu quả của việc đầu tư tư bản.
Về lượng, theo công thức :
m’
P’ =
C + 1
V
Thấy C + 1
V
Tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp phụ thuộc vào các nhân tố khách quan như tỷ suất giá trị thặng dư, sự tiết kiệm tư bản bất biến, cấu tạo hữu cơ của tư bản, tốc độ chu chuyển của tư bản.
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Trong cuộc đấu tranh giành chỗ đầu tư có lợi nhất các nhà tư bản cạnh tranh với nhau kịch liệt. Họ thu được nhiều lợi nhuận nhất. Trong khi theo đuổi lợi nhuận cao, tư bản chuyển từ ngành này sang ngành khác, kết quả là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và tiến hành phân phối lao động và tư bản sản xuất giữa các ngành sản xuất TBCN. Ta xét ví dụ sau:
VD : Giả sử, trong xã hội có 3 ngành : da, dệt và cơ khí, với số tư bản bằng nhau. Với các dữ liệu cho trong bản sau và với tỷ suất giá trị thặng dư của cả 3 ngành đều là 100%.
Ngành
C + V =100
m
P’(%)
Giá cả
sản xuất
Giá trị
hàng hóa
Chênh lệch
cột 5 & 6
1
2
3
4
5
6
7
8
Da
70+30
30
30
120
130
20
-10
Dệt
80+20
20
20
120
120
20
0
Cơ khí
90+10
10
10
120
110
20
+10
Tổng
360
360
Nếu hàng hoá bán ra đúng giá trị của nó thì tỷ suất lợi nhuận ở 3 ngành lần lượt là 30%, 20%, 10%. Như vậy với kết quả như vậy ngành Da sẽ có lợi nhất và ngành thiệt thòi nhất là ngành cơ khí. Khi đó các nhà tư bản cơ khí sẽ đi tìm nơi khác để đầu tư và tất nhiên ngành Da sẽ thích hợp nhất và họ sẽ chuyển một tư bản ở ngành cơ khí sang ngành da. Kết qủa là số lượng sản phẩm ở ngành Da tăng lên và buộc ngành Da phải giảm giá thành sản phẩm xuống; trái lại ở ngành cơ khí số lượng hàng hoá sẽ ít đi và sự thay đổi tương quan giữa cung và cầu sẽ giúp cho các xí nghiệp nâng cao được giá của họ và tỷ suất lợi nhuận cũng tăng lên.
Và tình trạng này sẽ tiếp diễn đến khi tỷ suất lợi nhuận của 3 ngành xấp xỉ bằng nhau. Điều đó xảy ra khi giá bán của 3 ngành đều bán theo giá 120 đơn vị. Lúc đó lợi nhuận bình quân của mỗi ngành sẽ là 20 đơn vị.
Việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và việc biến giá trị thành giá cả sản xuất càng che dấu quan hệ bóc lột, che dấu nguồn gốc làm giàu thực sự của bọn tư bản. Thực ra sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân có nghĩa là phân bố lại giá trị thặng dư giữa các nhà tư bản của các ngành khác nhau. Nhà tư bản thuộc ngành có cấu tạo hữu cơ cao, chiếm đoạt được một phần giá trị thặng dư do các ngành có cấu tạo hữu cơ thấp sáng tạo ra. Bởi vậy công nhân không những bị nhà tư bản thuê mình bóc lột mà còn bị toàn bộ giai cấp các nhà tư bản bóc lột. Toàn bộ giai cấp các nhà tư bản đều quan tâm đến việc nâng cao mức độ bóc lột công nhân, vì điều đó làm tăng tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận.
3.1. Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận.
Các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng : lợi nhuận là lượng dôi ra ngoài doanh thu so với chi phí. Trong đó doanh thu của mỗi hãng là số tiền mà nó kiếm được qua việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ trong một giai đoạn nhất định, ví dụ : một năm. Chi phí của hãng là những phí tổn phải chịu khi sản xuất ra hàng hoá hoặc dịch vụ trong thời kỳ đó.
Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để cung cấp hàng hoá cho thị trường, các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Họ mong muốn chi phí cho các đầu vào thấp nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi ra không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trển thị trường.
Ngày nay để thu được nhiều lợi nhuận, nhà tư bản sẽ không đầu tư nhiều vốn để thuê lao động mà đầu tư vào máy móc thiết bị hiện đại, tự động khi mà lợi nhuận thu được phải tương xứng với lợi nhuận bình quân xã hội, mặc dù giá trị được tao ra trong đó có giá trị thặng dư nhỏ hơn nhiều so với giá trị hàng hoá. Vì vậy lợi nhuận nhà tư bản thu được trong điều kiện tiến bộ kỹ thuật, tự động hoá là do chuyển hoá giá trị thặng dư được tạo ra trong xã hội dưới hình thức giá trị thặng dư siêu ngạch được san đi bù lại giữa các nhà tư bản.
Việc áp dụng rộng rãi máy móc hiện đại, tự động trong điều kiện ngày nay đã khiến không ít người đặt ra câu hỏi rằng : “Phải chăng trong các dây chuyền sản xuất tự động không còn bóc lột thặng dư và chính máy móc sáng tạo ra lợi nhuận ?”.
3.2. Lý luận về máy móc tạo ra lợi nhuận.
Trước hết ta cần khẳng định rằng máy móc và hệ thống máy móc dù có tinh vi hiện đại đến đâu cũng chỉ là sản phẩm sáng tạo của con người. Và con người không bao giờ chế tạo được một cỗ máy lý tưởng, một động cơ vĩnh cửu. Trong dây chuyền sản xuất tự động, giá trị thặng dư được tạo ra không chỉ là sản phẩm của lao động quá khứ mà vẫn cần tới lao động hiện tại. Mác viết rằng “lao động biểu hiện không phải chủ yếu với tư cách là một loại lao động trong đó con người ngày càng đứng sang bên cạnh với chức năng giám sát, điều khiển, sáng tạo mà máy móc không làm nổi”.
Lợi nhuận siêu ngạch mà các nhà tư bản thu được khi áp dụng máy móc hiện đại so với các nhà tư bản khác chẳng qua là sự phân phối lại giá trị thặng dư sẵn có trên phạm vi toàn xã hội. Do áp dụng máy móc hiện đại nên ở đây năng suất lao động cao hơn thì giá thành sản phẩm sẽ thấp hơn. Song trên thị trường giá bán hàng hóa cùng loại vẫn theo giá trị thị trường nên khi đó các nhà tư bản sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Thực tế, trên quy mô thị trường thế giới, các nhà tư bản phát triển sản xuất bằng máy móc hiện đại và đem bán hàng hóa tại các nước đang và chậm phát triển và thu được những khoản lợi nhuận kếch xù. Lợi nhuận siêu ngạch mà một nhà tư bản thu được là do phần lợi nhuận của các nhà tư bản khác mất đi. Nếu mọi cơ sở sản xuất đều trang bị máy móc hiện đại hơn và thu được lợi nhuận siêu ngạch thì lập tức dẫn đến sự cạnh tranh để rồi sớm hay muộn sẽ làm triệt tiêu lợi thế cá biệt, triệt tiêu lợi nhuận siêu ngạch.
Tóm lại nguồn gốc của lợi nhuận cũng như lợi nhuận siêu ngạch là từ giá trị thặng dư muốn lao động không công do công nhân sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt, đúng như Mác đã nhận định và chứng minh.
Các hình thức của lợi nhuận.
Như ta đã biết giá trị thặng dư lợi nhuận không hoàn toàn đồng nhất nhưng chúng đều có chung nguồn gốc từ lao động thặng dư. Giá trị thặng dư là phần giá trị mà nhà tư bản bóc lột không công của người công nhân, còn lợi nhuận là số tiền thu được sau khi bán sản phẩm trên thị trường so với số tiền bỏ vào sản xuất. Có thể nói, chính giá trị thặng dư biểu hiện sự bóc lột sản xuất, chứng minh công htức mâu thuẫn cuả tư bản một cách chính xác và khoa học. Trước Mác các nhà kinh tế học đã hình dung ra giá trị thặng dư nhưng họ chưa có đủ lý luận để diễn đạt mà chỉ biểu hiện quan điểm của mình trong vấn đề thu nhập , tiền lương. Chỉ đến Mác, ông mới chứng minh xây dựng lý thuyết giá trị thặng dư là phát minh vĩ đại của Mác, mà như Lênin nói đó là “hòn đá tảng” trong học thuyết kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu rằng Mác không phải là người phát minh ra giá trị thặng dư, càng không phải là người làm ra nó, chính ngươi tìm ra giá trị thặng dư là nhà tư bản và người lao động thặng dư là người công nhân. Giá trị thặng dư rất rõ ràng nhưng nó được che dấu bởi lợi nhuận và nó tồn tại ở các hình thức sau:
4.1. Lợi nhuận công nghiệp.
Về bản chất là phần giá trị do công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm khôn gvà phoần giá trị này bán trên thị trường thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí sản xuất. Ngày lao động của công nhân được chia làm 2 phần : một phần làm ra giá trị tương đương với số tiền lương của anh ta và làm ra giá trị thặng dư. Vì thèm muốn lợi nhuận nên nhà tư bản công nghiệp luôn tìm cách tăng phần thời gian lao động thặng dư như tăng giờ làm, tăng năng suất lao động ( giảm thời gian lao động tất yếu ). Thời gian lao động thặng dư càng nhiều thì càng thuộc về nhà tư bản và sẽ thu được lợi nhuận càng cao. Như vậy, lợi nhuận công nghiệp là hình thái gần nhất dễ thấy nhất với giá trị thặng dư và lợi nhuận công nghiệp là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất.
4.2. Lợi nhuận thương nghiệp.
Trong lưu thông, trao đổi không tao ra giá trị nhưng nhà tư bản thương nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá được bán đi nhanh hơn. Tư bản thương nghiệp thực hiện khâu tiêu thụ cho tư bản công nghiệp. Vì thế họ phải thu được một phần lợi nhuận mà nhà tư bản công nghiệp chiếm được. Về thực chất, lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. Sở dĩ nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần giá trị thặng dư trong lúc họ khao khát, thèm muốn nó là bởi vì : nhà tư bản thương nghiệp rất am hiểu thị trường, khách hàng, do đó, giúp cho hàng hóa bán đi nhanh hơn, tốc độ chu chuyển tư bản nhanh hơn nên nhà tư bản công nghiệp rảnh tay để sản xuất. Do có vai trò như vậy, nhà tư bản công nghiệp phải nhường một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp chính là sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá. Điều đó, không có ý nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp bán giá cao hơn giá trị mà là họ mua hàng hoá thấp hơn giá trị và giá bán đúng bằng giá trị.
4.3. Lợi tức cho vay.
Nhà tư bản muốn hoạt động nhưng bản thân họ không đủ vốn hoặc không có vốn nên họ phải đi vay để có làm vốn đem vào sản xuất. Một số nhà tư bản có tiền nhưng chưa đến chu kỳ sử dụng hoặc chưa sử dụng nên họ cho vay và nhận được một khoản tiền ứng với số tiền cho vay từ tay nhà tư bản đi vay, gọi là lợi tức.
Lợi tức cho vay là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay ứng với số tiền họ đã vay. Lợi tức cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như sự cấp thiết, hoàn cảnh lịch sử, sự thoả thuận giữa các tư bản, đối với tư bản thì tiền không thể để chết trong các két sắt mà nó đẻ ra liên tục.
Lợi nhuận ngân hàng.
Ngân hàng là cơ quan kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Tuy nhiên tư bản ngân hàng khác tư bản cho vay ở chỗ tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động ngoài nguồn vốn nhàn rỗi còn các chứng khoánNgân hàng tham gia vào sản xuất với tư bản và cả hai bên chi phí liên quan đến chia nhau lợi nhuận. Lợi nhuận ngân hàng là phần lợi nhuận thu được ứng với số tiền mà ngân hàng chung vốn với nhà tư bản tham gia sản xuất. Ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhà sản xuất. Một đất nước có phát triển thì hệ thống ngân hàng phải phát triển bởi vì vai trò của ngân hàng trong cơ chế thị trường là yếu tố đặc biệt quan trọng.
Địa tô.
Tư bản không chỉ hình thành và thống trị trong lĩnh vực công nghiệp mà còn mở rộng cả trong nông nghiệp. Địa chủ có nhiều ruộng đất còn nhà tư bản cần ruộng để kinh doanh. Nhà tư bản kinh doanh ruộng đất phải thu thêm một phần giá trị dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và nhà tư bản phải trả cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô TBCN. Như vậy địa tô TBCN là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
II- Vai trò của lợi nhuận
Vai trò của lợi nhuận trong việc phát triển kinh tế
Lợi nhuận đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Nó ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội trong quá trình phát triển kinh tế. ở nền kinh tế thị trường, cái mà nhà sản xuất kinh doanh quan tâm trước hết là lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh được thể hiện chủ yếu ở lợi nhuận nhiều hay ít. Lợi nhuận là nhân tố chênh lệch giữa doanh thu bán hàng với chi phí sản xuất. Để đạt được lợi nhuận tất yếu các nhà sản xuất kinh doanh phải cạnh tranh mạnh mẽ với nhau, tìm mọi cách giảm chi phí để thu lợi nhuận cao nhất. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi phối mọi hoạt động của người sản xuất kinh doanh.
1.1. Lợi nhuận là nhân tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất
Doanh nghiệp cũng như các nhà kinh tế phải cố gắng hết sức để đạt được lợi nhuận tối đa. Họ phải làm gì? phải lựa chọn cái nào? sản xuất ra sao?, ... Đó là một vấn đề rất khó trả lời một cách cụ thể nhưng chắc chắn rằng nếu sản xuất không có lãi doanh nghiệp sẽ bị loại khỏi thị trường. Trên thương trường, các doanh nghiệp luôn luôn phải tiến lên nếu dừng lại đồng nghĩa với nguy cơ phá sản đang tiến đến. Vì vậy, các ông chủ phải làm mọi cách để doanh nghiệp ngày càng mở rộng, phải làm cho lợi nhuận đẻ ra lợi nhuận thì mới có điều kiện phát triển trong môi trường gay go. Quyết định lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm ra phương pháp sản xuất tối ưu nhất, giảm tối thiểu mức chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động để giảm giá thành sản phẩm, giành thắng lợi trong cạnh tranh, thu được nhiều lợi nhuận.
Trước đây, họ có thể tạo ra lợi nhuận bằng cách kéo dài ngày lao động của công nhân nhưng phương pháp đó gặp sự phản đối của giai cấp công nhân vì vậy họ chuyển sang phương pháp bóc lột mới một cách tinh vi hơn. Nhà tư bản áp dụng kĩ thuật mới vào và bắt buộc người công nhân phải tăng năng suất lao động của mình lên. Nhưng chính mục đích áp dụng kĩ thuật mới đã làm cho các nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào vấn đề nghiên cứu khoa học. Những phát minh lần lượt được ra đời đặc biệt là trong thế kỉ 19 và thế kỉ 20. Nó đã đưa lực lượng sản xuất phát triển một cách nhanh chóng. Yếu tố này đã giúp cho nhà tư bản không chỉ thu được lợi nhuận đơn thuần mà còn thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Người công nhân chính là người trực tiếp sử dụng, vận hành các công nghệ mới vì vậy để quá trình sử dụng được tiếp diễn với hiệu quả cao thì người công nhân phải bắt buộc nâng cao trình độ, tay nghề nếu không họ sẽ bị đào thải bởi quy luật phát triển. Còn về mặt nhà tư bản, họ cũng hiểu rằng để đạt được hiệu quả cao phải tận dụng được hết các chức năng của công nghệ tiên tiến do đó họ phải có một đội ngũ công nhân lành nghề với trình độ kĩ thuật cao. Vì vậy quá trình đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ lao động của nhà tư bản và yêu cầu cấp thiết phải nâng cao trình độ của mình của người công nhân đã diễn ra. Qua đó trình độ của người lao động từng bước được nâng cao và ngày nay nâng cao trình độ trở thành yêu cầu tất yếu của các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển.
Do vậy, khoa học và công nghệ tiên tiến được ứng dụng ngày càng nhiều chính là nhân tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
1.2. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau tức là khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng phải phát triển và ngược lại.
Do tác động của lợi nhuận, do sự phân chia lợi nhuận dưới nhiều hình thức khác nhau một cách hết sức chặt chẽ giữa các bên tham gia vào quá trình phân chia đã làm cho chế độ sở hữu ngày càng được củng cố và phát triển. Quan hệ sở hữu từng bước được thắt chặt hơn, rõ ràng hơn giữa nhà tư bản và người lao động nói riêng, giữa các cá nhân trong xã hội nói chung.
Bên cạnh đó mục đích lợi nhuận luôn đặt các nhà kinh tế, các tổ chức kinh tế trước yêu cầu "hiệu quả". Làm thế nào mà chi phí thấp nhất mà lợi nhuận thu về là lớn nhất. điều đó đòi hỏi tính chuyên môn hoá cao và sự sắp xếp lại các tổ chức quản lí. Hạn chế bớt một bộ phận quản lí cồng kềnh còn giúp cho nhà kinh tế giảm bớt được một phần chi phí đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận.
Xuất phát từ mục đích ổn định và phát triển để có kế hoạch phân bổ nguồn lao động hợp lí, cân đối trong nền kinh tế. Do đó sẽ khai thác tốt nguồn tài nguyên, kết hợp chặt chẽ và thích đáng lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân người lao động. Tất cả những vấn đề đặt ra trên đều xuất phát từ lợi nhuận và chính nó đã thúc đẩy quá trình phân phối theo lao động diễn ra mạnh mẽ trên nguyên tắc "làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế thì ngoài phân phối theo lao động còn có sự phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội.
Ngoài ra, lợi nhuận còn làm chuyển đổi từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá và từ nền kinh tế hàng hoá sang nền kinh tế thị trường. Theo quá trình phát triển của lịch sử, nền kinh tế đã trải qua rất nhiều hình thức khác nhau, từ hình thức lạc hậu đến hình thức tiên tiến, hiện đại; đi từ kinh tế tự nhiên đến kinh tế hàng hoá sang kinh tế thị trường. Quá trình này phát triển song song với mục đích thu được lợi nhuận ngày càng cao, nhằm đảm bảo nhu cầu tốt hơn về cuộc sống.
Bắt đầu từ nền kinh tế tự nhiên, đây là nền kinh tế tự cung tự cấp sản phẩm sản xuất ra để thoả mãn tiêu dùng của con người. nhưng nhu cầu của con người thì luôn phát triển và quá trình phát triển luôn hướng tới những gì phù hợp hơn. Họ không chỉ muốn những cái họ làm ra mà còn muốn có những cái khác mà người khác có, họ không chỉ muốn các sản phẩm vừa đủ mà còn muốn có dư để dự trữ, điều đó dẫn đến quá trình trao đổi sản phẩm đơn thuần diễn ra. Kinh tế hàng hoá xuất hiện.
Với nền sản xuất hàng hoá, sản phẩm sản xuất ra để bán trên thị trường, mọi người được tự do buôn bán trên thị trường. Thị trường ngày càng được mở rộng. Cơ sở của sự ra đời và tồn tại của nền sản xuất hàng hoá là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này với người sản xuất khác do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.
Khi kinh tế hàng hoá phát triển làm cho quá trình mua bán sản phẩm diễn ra mạnh mẽ, còn các nhà kinh tế thì luôn tìm kiếm và năng động hơn trong hoạt động sản xuất. Bên cạnh đó phân phối lưu thông lợi nhuận đã làm cho họ cố gắng đạt được bằng nhiều hình thức khác nhau. Lúc này nhà kinh tế sẽ có nhiều hình thức khác nhau để đi đến mức lợi nhuận cao. Sự cản trở ở một khâu nào đó trong quá trình hoạt động sẽ làm gián đoạn các bước tiếp theo và lúc này thời cơ sẽ không còn nữa. Chính điều này đã làm nảy sinh ra một yêu cầu là cần phải tách ra khỏi sự quản lí vĩ mô của Nhà nước. Với sự phát triển phong phú của thị trường thì Nhà nước không thể có những chính sách đúng đắn trong tầm vi mô. Nhưng nhà nước phải quản lí ở tầm vĩ mô vì cũng do lợi nhuận mà các nhà kinh tế có thể bất chấp các thủ đoạn dẫn đến sự mất an toàn cho các nhà kinh doanh và sự bất ổn đinh chính trị xã hội. Nền kinh tế thị trường như trên sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển ngày càng mạnh mẽ.
1.3- Vai trò của lợi nhuận đối với các mặt khác của đời sống xã hội
a- Lợi nhuận phân bổ các nguồn lực của xã hội vào đúng nơi, đúng lúc.
Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu thị trường và xã hội để đạt lợi nhuận tối đa, đạt hiệu quả kinh tế và xã hội cao nhất. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp luôn bị thị trường thẩm phán về lợi nhuận. Nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi thì một phần lợi nhuận thu được sẽ đi vào tích luỹ để doanh nghiệp tiếp tục tái sản xuất mở rộng. Lợi nhuận doanh nghiệp thu được trên thị trường sẽ trả lời câu hỏi: có nên tiếp tục sản xuất hay không? sản xuất cái gì? đổi mới cái gì?... Không còn nữa và sẽ không còn một doanh nghiệp kinh doanh vẫn tiếp tục sản xuất khi mặt hàng đó không thu được lợi nhuận. Như vậy, lợi nhuận sẽ điều hướng các yếu tố sản xuất nhằm phân bổ sản xuất hàng ngàn mặt hàng khác nhau cho phù hợp với nhu cầu. Không một bộ máy thứ hai nào, dù tài giỏi đến đâu có thể giải quyết tốt đẹp vấn đề này. Cơ chế giá cả và lợi nhuận tự do sẽ tối đa hoá sản xuất và làm giảm tình hình khan hiếm nhanh chóng hơn bất cứ một cơ chế nào.
b- Lợi nhuận tạo sự cân bằng trong phân phối kết quả lao động
Phaan phối theo lao động và phân phối theo tài sản vốn đều là tất yếu khách quan trong giai đoạn hiện nay vì các hình thức đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển cao và tạo lập sự công bằng giữa mọi thành viên trong xã hội. Nhưng ngoài những người có sức đang làm việc và được trả công theo lao động, những người có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất để được nhận lợi tức và lợi nhuận, trong xã hội còn có những người vì lẽ này lẽ khác không thể tham gia lao động, đựơc trả công của xã hội. Mặt khác ngay mức sống của cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế cũng không phải chỉ dựa vào tiền công cá nhân, mà còn dựa một phần vào các quỹ phúc lợi của Nhà nước, của các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác. áp dụng hình thức phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội không phải phân phối theo nhu cầu như trong giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản mà Mac đã dự đoán. Đây là một hình thức phân phối phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội
c- Lợi nhuận góp phần nâng cao mức sống cho nhân dân.
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà sản xuất kinh doanh ngoài phần thu nhập là tiền lương, còn khoản thu nhập khác, đó là lợi nhuận và phần này ngày càng tăng lên, chiếm ưu thế trong tổng thu nhập. Tổng thu nhập là mỗi người lao động nói chung, mỗi nhà sản xuất kinh doanh nói riêng có được vừa phản ánh kết quả lao động của mỗi người, vừa phản ánh kết quả lao động của tập thể với tư cách là một chỉnh thể. Để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế cần phải phát huy tối đa sức sáng tạo của các nhà sản xuất kinh doanh giỏi và thạo với cơ chế thị trường. Muốn vậy, cần không ngừng nâng cao thu nhập (trong đó có lợi nhuận) của họ.
Thực tế cho thấy đời sống của người công nhân ở các nước tư bản phát triển đã được cải thiện nhiều hơn thời Mac sống. ở những nước này, lực lượng sản xuất rất được quan tâm, thúc đẩy góp phần tăng năng suất lao động xã hội. Do đó, giá cả tư liệu sinh hoạt giảm xuống. Với đồng lương cố định, người công nhân có thể mua được nhiều vật phẩm tiêu dùng hơn, do đó đời sống của họ được cải thiện hơn. Ngoài ra do khối lượng thặng dư thu được quá lớn, với tốc độ nhanh để tránh sự phản ứng của người lao động và quần chúng nhân dân, và để che đậy sự bóc lột tàn bạo ấy, các nhà tư bản cũng phải bỏ ra một phần giá trị thặng dư thu được để lo cho đời sống dân sinh xã hội.
Như vậy, lợi nhuận góp phần nâng cao mức sống cho người dân phải hăng say lao động, nâng cao hiệu quả công việc hơn nữa hay nói cách khác đây chính là điều kiện để tái sản xuất ra sức lao động trong điều kiện nền sản xuất hiện đại.
1.4- Lợi nhuận tạo điều kiện để tái sản xuất mở rộng xã hội
Vì mục đích lợi nhuận các nhà tư bản không ngừng phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra sản phẩm ngày càng nhiều. Đồng thời, phân công lao động ngày càng sâu, mối liên hệ giữa các xí nghiệp, các ngành kinh tế càng chặt chẽ thì thị trường càng phát triển, các nhà tư bản phải mua bán với nhau nhiều hơn. Bên cạnh đó, tầng lớp nhân dân cũng cần nhiều tư liệu tiêu dùng hơn. Do đó, hàng hoá sản xuất ra có thể tiêu thụ được, lợi nhuận vì vậy cũng thu được nhiều hơn. Và một phần lợi nhuận đó được các nhà tư bản mang vào tích luỹ để tái sản xuất mở rộng nhằm lần sau thu được lợi nhuận nhiều hơn lần trước. Do đó, lợi nhuận tạo điều kiện để mở rộng sản xuất là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Như vậy, lợi nhuận kích thích các chủ thể kinh tế, kích thích họ tìm tòi, cải tiến phương thức sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất. Đồng thời nền kinh tế thị trường phát triển cũng huy động được nguồn lực của xã hội và phát triển kinh tế để thu được nhiều lợi nhuận. Do vậy, có thể nói lợi nhuận chính là động lực của nền kinh tế thị trường.
1.5- Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế phát triển
Lợi nhuận là lí do làm phát sinh và phát triển nền kinh tế thị trường. Nó thúc đẩy quá trình mở rộng, trao đổi hàng hoá và khoa học kĩ thuật giữa các quốc gia. Lợi nhuận cũng tạo điều kiện mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước. Qua đó làm thay đổi mạnh mẽ trình độ công nghệ trong nước, cơ cấu ngành và sản phẩm, mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh liên kết. Đây là cơ sở để tăng cường tính độc lập và phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi giữa các quốc gia.
Vai trò của lợi nhuận đối với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam
2.1- Thời kỳ trước năm 1986
Đây là cả một thời kỳ Nhà nước chưa đưa các doanh nghiệp hoạt động trong mối quan hệ trực tiếp với thị trường. Mọi hoạt động của các đơn vị kinh doanh đều dựa vào Nhà nước: kinh phí Nhà nước cấp, sản xuất kinh doanh bị lỗ được Nhà nước bù; sản xuất, tiêu thụ sản phẩm được Nhà nước đảm nhiệm. Lợi nhuận chưa được coi là động lực chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, trong nền kinh tế luôn xảy ra tình trạng “lãi giả lỗ thật, lỗ giả lãi thật”. Như vậy Nhà nước chưa nắm được nguồn vốn của các doanh nghiệp và từ đó buông lỏng trong khâu quản lý nó. Mặt khác do việc chưa đánh giá và xác định lợi nhuận một cách có căn cứ nên các đơn vị luôn tìm mọi thủ đoạn, mọi cách để được hưởng cao nhất, còn Nhà nước bị thiệt nhiều hơn.
Trong thời gian này, do quá nhấn mạnh phát triển kinh tế quốc dân và phát triển nó một cách tràn lan, không có sự phân biệt rõ ràng giữa các ngành, các doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp có điều kiện khả năng làm ăn tốt, có khả năng thu được lợi nhuận cao với các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thậm chí luôn thua lỗ. Với cơ chế quản lý phân phối “lỗ Nhà nước bù, lãi Nhà nước thu”, chúng ta đã chưa coi lợi nhuận với tư cách là hình thức thu nhập đối với người sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đó, cơ chế hình thành và phân phối lợi nhuận không được tiến hành trên cơ sở những căn cứ khoa học và khách quan, điều đó đã gây ra sự bất bình đẳng lớn giữa các đơn vị sản xuất kinh doanh, làm mất đi động lực thúc đẩy đòn bẩy lợi nhuận, tạo ra một tư tưởng ỷ lại ngày càng lớn vào Nhà nước, làm mất đi tính chủ động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
2.2- Thời kỳ năm 1986 đến nay
Từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển quan trọng trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách kinh tế nhằm từng bước tạo lập môi trường kinh doanh và buộc mọi doanh nghiệp phải hoạt động trong mối quan hệ trực tiếp với thị trường, phải chuyển sang hạch toán kinh doanh thực sự. Để thực hiện điều đó, Nhà nước đã thực hiện việc xoá bỏ cơ chế “lỗ Nhà nước bù, lãi Nhà nước thu” nhằm mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, xoá bỏ mọi ách tắc trở ngại trong sản xuất và lưu thông, từng bước tạo ra thị trường thống nhất, hoàn chỉnh trong cả nước, xoá bỏ bao cấp qua giá, thực hiện chính sách một giá trong kinh doanh vật tư, hàng hoá và đưa dần nhiều mức giá trong nước lên sát với giá của thị trường thế giới, điều chỉnh lãi suất một cách hợp lý theo từng thời kỳ, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh trong môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng với nhau trước pháp luật. Các phương hướng chính sách và biện pháp trên về cơ bản là đúng đắn và có tác dụng tích cực.
Tuy nhiên do đa số các doanh nghiệp không chuyển kịp và thích nghi với cơ chế thị trường, nên Nhà nước thực hiện được xoá bỏ bao cấp qua vốn, tín dụng, giá và thị trường đầu ra,... thì phần lớn các doanh nghiệp bị đình đốn, thu hẹp sản xuất, tạm thời ngừng sản xuất toàn bộ hay bộ phận. Mặc dù đã có sự sắp xếp bố trí lại doanh nghiệp, nhưng số các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ còn nhiều, đặc biệt là các doanh nghiệp địa phương. Điều này buộc Nhà nước phải hỗ trợ, tạo điều kiện cùng doanh nghiệp khắc phục tình trạng đình đốn suy thoái ngừng trệ trong sản xuất kinh doanh. Để làm điều đó Nhà nước đã áp dụng một số giải pháp tình thế sau:
+ Tập trung chỉ đạo thanh toán tình trạng nợ dây chuyền và chiếm dụng vốn lẫn nhau của các đơn vị kinh tế Nhà nước.
+ Cho doanh nghiệp vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi và hoàn thu hồi vốn các khoản vay trước.
+ Trợ giá cho một số ngành công nghiệp nặng.
+ Phát hành thêm tiền để mua lương thực dự trữ, mua sản phẩm ứ đọng và tiếp tục cấp phát vốn xây dựng cơ bản cho các doanh nghiệp nhằm tạo ra sức mua, tăng cầu.
+ Tính toán lại mức thu quốc doanh; tạm hoãn giảm hoặc miễn thu quốc doanh đối với các doanh nghiệp đang thực sự gặp khó khăn đình đốn hoặc ngưng trệ.
Chi hàng trăm tỷ đồng để hỗ trợ cho doanh nghiệp nhằm sắp lại lực lượng lao động cho các đơn vị kinh tế Nhà nước.
Chuyển sang cơ chế thị trường, Nhà nước quy định và cho phép các doanh nghiệp tính lợi nhuận (trong thực tế gọi là lãi) theo cấu thành giá thành và lợi nhuận do vậy, các doanh nghiệp có xu hướng không muốn để lợi nhuận ở bảng tính toán, trái lại họ tìm mọi cách biến tướng nó để phải nộp ít nhất và được hưởng nhiều nhất. Trường hợp nếu thiếu tiền trả lương cho cán bộ, công nhân viên, thì họ sẵn sàng giảm khoản lợi nhuận và do đó giảm phần nộp cho Nhà nước để tăng nguồn thu cho doanh nghiệp.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh xuất hiện và góp phần làm sôi động nền kinh tế cả nước. Nhìn bề ngoài hầu hết các doanh nghiệp hoạt động rất hiệu quả và thu nhập của những người làm công ăn lương ở đây rất cao thậm chí cao gấp nhiều lần so với thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước. Có được kết quả như vậy không thể không thừa nhận rằng hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất hiệu quả, góp phần không nhỏ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, do Nhà nước chưa quản lý được mức thu nhập của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên chưa có căn cứ chính xác để tính thuế. Tình trạng trốn lậu thuế, buôn bán lậu qua biên giới và trong nước làm hàng giả, núp dưới bóng doanh nghiệp quốc doanh để trốn thuế,... khá phổ biến đối với doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân.
Như vậy, ở nước ta đòn bẩy kinh tế của lợi nhuận chưa được phát huy đúng với thế mạnh của nó. Sở dĩ như vậy là vì cơ chế hình thành lợi nhuận không hợp lý. Đồng thời cơ chế phân phối lợi nhuận chưa đủ tạo ra động lực kích thích các doanh nghiệp phát triển sản xuất, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tất yếu phải đổi mới cơ chế hình thành và phân phối lợi nhuận ở nước ta. Việc đổi mới đòi hỏi phải được tiến hành đồng bộ với việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý nói chung.
III- các giải pháp cho vấn đề lợi nhuận nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
1- Những biện pháp để thu được lợi nhuận và hậu quả do việc theo đuổi lợi nhuận gây ra
Những biện pháp để thu được lợi nhuận
Trên đây ta đã thấy được tầm quan trọng của lợi nhuận, vậy làm thế nào để thu được lợi nhuận. Một doanh nghiệp muốn thu được lợi nhuận phải giải quyết được ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai?
+ Sản xuất cái gì tức là quyết định cái gì đòi hỏi phải làm và nên sản xuất hàng hoá dịch vụ gì với số lượng bao nhiêu, bao giờ sản xuất. Trên cơ sở nhu cầu của thị trường các Chính phủ và các nhà kinh doanh tính toán khả năng sản xuất của nền kinh tế, của doanh nghiệp và các chi phí sản xuất tương ứng để lựa chọn và quyết định cung ứng cái gì để đạt được lợi nhuận, đạt được thu nhập quốc dân. Chính giá cả thị trường là bàn tay vô hình để điều chỉnh quan hệ cung cầu và giúp chúng ta lựa chọn, quyết định.
+ Sản xuất như thế nào nghĩa là do ai và những tài nguyên nào với hình thức công nghệ nào, phương pháp sản xuất nào. Sau khi đã lựa chọn được cần sản xuất cái gì, các Chính phủ, các nhà kinh doanh phải xem xét việc làm thế nào để chi phí ít nhất, cạnh tranh thắng lợi trên thị trường để thu được lợi nhuận cao nhất. Động cơ lợi nhuận đã khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm, lựa chọn các đầu vào để sản xuất ra đầu ra nhanh nhất, sản xuất được nhiều nhất, chất lượng cao với chi phí thấp nhất.
+ Sản xuất cho ai tức là đòi hỏi phải xác định rõ ai sẽ là đối tượng để sản xuất, đối tượng sản xuất nào mà tiêu thụ được hàng hoá sản xuất ra để từ đó đạt đến lợi nhuận. Tiếng gọi của lợi nhuận cao sẽ làm cho các nhà kinh tế có mặt khắp mọi nhu cầu chứ không phải làm một mặt hàng nhất định.
Ba vấn đề đó phải được giải quyết trong mọi xã hội dù là một nước XHCN hay là một nước công nghiệp TBCN, một công xã, một bộ tộc, một địa phương, một ngành hay một doanh nghiệp.
Tổ chức tiêu thụ hàng hoá dịch vụ cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận cao hay thấp. Một nhà kinh tế là một ông chủ phải xem xét nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới để cân nhắc hàng hoá của mình. Đó là nhu cầu có khả năng thanh toán và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp, nhu cầu đó càng lớn thì tạo ra lợi nhuận càng cao. Cung và cầu trên thị trường luôn biến đổi đòi hỏi người sản xuất phải xử lý kịp thời và điều chỉnh đúng đắn. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì trước khi bán giá cao thì phải xem xét đến quy mô doanh nghiệp, số lượng hàng hoá trên thị trường, phán đoán, ... Nếu cung lớn hơn cầu thì nên ngừng ngay sản xuất và quyết định có nên chuyển sang ngành khác hay không.
Bên cạnh đó tài lãnh đạo và phán đoán của doanh nghiệp sẽ định hướng cho các kế hoạch, phương án sản xuất nhằm thu được lợi nhuận. Điều này phụ thuộc từ từng cá nhân lãnh đạo nhưng vai trò của họ cực kỳ quan trọng trong việc một doanh nghiệp nên lựa chọn sản xuất cái gì để thu được lợi nhuận cũng như sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp sau khi đã thu được một khoản lợi nhuận nhất định đều tìm cách để tăng khoản lợi nhuận đó lên. Vậy làm thế nào để tăng lợi nhuận? Đây là câu hỏi đặt ra đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Trong nền kinh tế thị trường, để tăng lợi nhuận thì có một số nguyên tắc chung sau:
- Phải luôn luôn nắm vững thị hiếu khách hàng, tâm lý người mua. Ngành tiếp thị cho thấy rằng khách hàng luôn ưa chuộng những sản phẩm có tính chất lượng - hình thức giá rẻ. Bởi thế muốn thắng trên cạnh tranh cần phải thoả mãn ba yếu tố đó trong sản phẩm. Đầu tư vào khoa học kỹ thuật là cách tốt nhất để làm được điều đó.
Các doanh nghiệp, các nhà kinh tế phải tránh tình trạng tồn kho, ứ đọng, các nhà quản lý phải tính toán sao cho vừa phải phù hợp để khỏi tiền “chết” trong hàng hoá. Phải giải được bài toán “đầu vào - đầu ra” từ đó cung ra thị trường số lượng hàng hoá hợp lý nhằm luôn luôn tạo ra cung cầu. Vấn đề là họ phải hiểu, nắm bắt được tương đối cầu của khách hàng và thời thế.
Ngành Marketing đóng vai trò quan trọng trong việc bán sản phẩm, nhất là những khi mà doanh nghiệp chưa có uy tín, chưa phổ biến. Tuy nhiên quảng cáo phải có sức thuyết phục, phải có phần hợp lý tránh tình trạng quảng cáo hiện thực. Ngày nay, khách hàng là những người hết sức nhạy cảm, có nhiều thông tin chính xác cho nên chất lượng mới là yếu tố quan trọng để được chữ “tín”. Bởi thế Marketing phải luôn luôn đi sát thực tế sản phẩm.
Một điều nữa - hết sức quan trọng - đó là tài cá nhân của người lãnh đạo, các chủ doanh nghiệp phải biết tính toán nên đầu tư vào đâu, số lượng bao nhiêu, làm như thế nào để khi bán sản phẩm họ thu được lợi nhuận cao nhất. Những điều đó ảnh hưởng lớn đến việc lợi nhuận của doanh nghiệp có tăng lên hay không?
Một điều quan trọng khác là nên đầu tư như thế nào? đầu tư vào đâu? đầu tư bằng cách nào? Câu trả lời là muốn tăng lợi nhuận thì chỉ có cách hiệu quả nhất là đầu tư vào khoa học kỹ thuật để giảm chi phí sản xuất và đồng thời tăng được chất lượng sản phẩm. Sở dĩ Nhật Bản có hiện tượng nhảy vọt thần kỳ như vậy là một phần họ đầu tư thậm chí là mua chất xám nhằm tăng trình độ khoa học trong sản phẩm nên họ đã thắng trên thị trường cạnh tranh.
b- Những hậu quả do viêc theo đuổi lợi nhuận gây ra
Bên cạnh những ưu điểm của mình: thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tạo ra sự cân đối giữa các ngành sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, phương thức sản xuất ngày càng hiện đại hơn, lợi nhuận cũng không tránh khỏi những mặt tiêu cực của nó.
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì cấu tạo hữu cơ của tư bản càng nâng cao. Mỗi xí nghiệp trong khi dùng máy móc thay thế công nhân, đều muốn giảm bớt chi phí sản xuất, mở rộng đường tiêu thụ hàng hoá, và thu lợi nhuận siêu ngạch. Nhưng khi mà những thành tựu kỹ thuật của một số xí nghiệp đã lan rộng ra, thì cấu tạo hữu cơ của tư bản trong phần lớn các xí nghiệp được nâng cao lên, do đó mà tỷ suất lợi nhuận chung giảm xuống. Đây là kết quả mà không một nhà tư bản nào mong muốn cả. Do vậy họ tìm cách để kìm hãm sự giúp sức của tỷ suất lợi nhuận và vì vậy dẫn đến hậu quả giai cấp công nhân bị áp bức bóc lột nặng nề.
Việc áp dụng máy móc để tăng lợi nhuận làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, gây ra một áp lực lớn đối với thị trường lao động. Điều đó khiến một số chủ xí nghiệp giảm tiền lương xuống và định mức tiền lương thấp hơn giá trị của sức lao động rất nhiều. Vì vậy, trong khi các nhà tư bản ngày càng giàu có thì đời sống của người công nhân ngày càng bần cùng. Điều đó càng làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư bản và giai cấp vô sản càng sâu sắc.
Đứng trong tầm vĩ mô của một đất nước lợi nhuận làm mai một dần các ngành nghề cổ truyền, làm lung lay các truyền thống văn hoá có từ lâu đời. Điều đó dẫn đến tình trạng thất nghiệp, lạm phát ngày càng gia tăng ảnh hưởng đến an ninh chính trị quốc gia.
Trong nền sản xuất hiện đại việc chạy theo lợi nhuận kéo theo việc áp dụng nhiều máy móc, kỹ thuật hiện đại làm cho môi trường xung quanh trở lên ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác đến cạn kiệt, gây nên nhiều bệnh tật cho con người. Sự ô nhiễm môi trường đang là một vấn đề nhức nhối cấp thiết của mọi quốc gia.Hiện nay, các nhà tư sản đổ xô vào các nước đang phát triển để chia sẻ hết gánh nặng này. Họ xuất sang các nước này những phương tiện kỹ thuật lạc hậu, gây ô nhiễm, tận dụng tài nguyên và nguồn nhân lực phong phú của các nước này. Nhân dân ở các nước đang phát triển do vậy bị bóc lột triệt để. Điều đó làm cho mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và đang phát triển ngày càng thêm sâu sắc.
Để thu được lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp đã liên kết với nhau, dẫn đến tình trạng độc quyền. Các tổ chức độc quyền lợi dụng ưu thế của mình để quy định giá cả, thu được lợi nhuận cao hơn. Do vậy, đã phá vỡ thế cạnh tranh hoàn hảo, gây lên tình trạng mất hiệu quả của kinh tế.
Bên cạnh đó, cũng vì lợi nhuận mà làm nảy sinh các hành vi tiêu cực khác của xã hội như nạn buôn lậu, làm hàng giả, tệ nạn tham nhũng cũng ngày càng phát triển trong tất cả các cấp, các ngành. Tỉ lệ lạm phát ngày càng cao. Các tệ nạn xã hội khác như mại dâm, ma tuý, bạo lực cũng ngày càng gia tăng...
Tóm lại, lợi nhuận bên cạnh vai trò to lớn của mình còn có những nhược điểm nhất định. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ định những tác dụng to lớn mà lợi nhuận đã đem lại cho nền kinh tế của chúng ta nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung. Do vậy để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực do lợi nhuận gây ra phải cần đến vai trò của Nhà nước.
2- Các giải pháp cho vấn đề lợi nhuận đối với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, là toàn bộ quá trình sản xuất đến tiêu dùng gắn liền với thị trường. Lợi nhuận là một mục đích của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường ở nước ta cũng nhằm mục đích lợi nhuận nhưng không theo đuổi lợi nhuận một cách đơn thuần. Xuất phát từ đặc điểm của nước ta là nước xã hội chủ nghĩa nên việc theo đuổi lợi nhuận phải đảm bảo hai nhiệm vụ:
- Baỏ đảm hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh nghĩa là sản xuất phải có lãi.
- Kết hợp giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội.
Xét cho đến cùng kinh tế thị trường cũng như các hình thức tổ chức kinh tế khác đều nhằm mục đích sản xuất đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu củ con người, tức sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Điều đó thể hiện bởi lợi nhuận thu về cao. Kinh tế thị trường tạo ra các thị trường là nơi gặp gỡ giữa người bán và người mua để xác định 3 yếu tố của sản xuất, qua đó nâng cao tính năng động của nền kinh tế.
Cái gì cũng có mặt trái của nó và nền kinh tế thị trường cũng vậy, nó có thể có những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Vậy muốn đất nước đi lên giàu mạnh, bền vững thì việc đầu tiên là phải tăng năng suất lao động trong quá trình sản xuất. Điều đó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và như vậy quan hệ sản xuất cũng phát triển theo.
Cải tiến xã hội cũng làm cho lực lượng sản xuất phát triển cả về mặt chất và mặt lượng. Khi đó trình độ của người lao động được nâng cao, các doanh nghiệp cũng sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận. Bên cạnh đó, việc giáo dục, nâng cao ý thức của mọi người dân sẽ làm cho những vấn đề về môi trường, về văn hoá được quan tâm hơn, đặc biệt là ý thức về cội nguồn, về truyền thống dân tộc.
Trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay, để có thể phát triển được thì các doanh nghiệp phải mở rộng sản xuất, phải xây dựng các xí nghiệp lớn, muốn vậy phải hợp rất nhiều tư bản cá nhân lại thành những công ty cổ phần. Đó là những xí nghiệp mà vốn của nó do những người tham gia gọi là cổ đông góp vào.
Cổ đông là người mua cổ phiếu, căn cứ vào số tiền ghi trên cổ phiếu, cổ đông sẽ được lĩnh một phần thu nhập của xí nghiệp gọi là lợi tức cổ phần.
Cổ phiếu được mua bán trên thị trường gọi là thị giá cổ phiếu. Công ty cổ phần ngoài phát hành cổ phiếu còn phát hành trái khoán, người mua trái khoán được nhận lợi tức cố định nhưng không được dự đại hội cổ đông.
Nước ta đang trên con đường đổi mới, nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước đòi hỏi ngày càng nhiều vốn do vậy cần phải huy động nguồn vốn đầu tư của nước ngoài và tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, chỉ có như vậy thì nền kinh tế nước ta mới phát triển được.
Việt Nam ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống kinh tế xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như những hiện tượng xã hội khác. Vì vậy sự tác động của nhà nước - một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội. Thiếu sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để cho nền kinh tế thị trường tự do hoạt động, thì việc điều hành nền kinh tế nước ta sẽ không thể có hiệu quả.
Sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế hàng hoá ở nước ta được thực hiện bằng luật pháp và các công cụ chính sách vĩ mô khác. Nhà nước sử dụng những công cụ đó để quản lý các hoạt động kinh tế làm cho nền kinh tế trong sạch vững mạnh, khắc phục được tình trạng phân hoá bất bình đẳng, bảo vệ được tài nguyên môi trường của đất nước. Nhưng sự vận động của nền kinh tế thị trường ở nước ta là sự vận động được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường -“bàn tay vô hình”, và sự quản lý của nhà nước - “bàn tay hữu hình”.
Nhà nước phải đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Muốn vậy, Nhà nước cần tạo ra hành lang luật pháp đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, nghiêm trị những kẻ trốn lậu thuế, kinh doanh hàng cấm, làm hàng giả. Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con người và cả bản thân Chính phủ cũng phải tuân theo.
Nhà nước phải đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp có thể vì mục đích tối đa lợi nhuận của mình mà lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu. Nhà nước cần buộc các doanh nghiệp phải trả tiền cho những thiệt hại do ô nhiễm mà doanh nghiệp ấy gây ra.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức độc quyền có thể tăng thậm chí giảm số lượng hàng hoá mà chỉ tăng giá để tăng lợi nhuận. Một nền kinh tế bị thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nhưng cạnh tranh làm hạn chế khả năng đạt lợi nhuận nên các doanh nghiệp cố gắng giảm bớt cạnh tranh. Vì vậy, Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ cạnh tranh, chống độc quyền, đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động thị trường.
Việc chạy theo lợi nhuận, việc phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức và nhân cách. Do vậy Nhà nước cần phân phối lại thu nhập cho công bằng, bảo vệ các thành viên của xã hội, chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp. Điều đó được thực hiện thông qua các chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội, và phúc lợi xã hội.
Kết luận
Toàn bộ đề án đã một phần làm rõ được bản chất của nguồn gốc của lợi nhuận cũng như vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường và sự vận dụng vào Việt Nam. Chúng ta thấy rằng việc theo đuổi lợi nhuận là một điều tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế vì nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên thực chất của quá trình nẩy sinh sự tiêu cực trong văn hoá, xã hội, lối sống của người dân trong cơ chế mới. Cũng như sự gia tăng về vấn đề ô nhiễm môi trường. Những vấn đề trên đặt ra một yêu cầu là tất cả chúng ta cần phải cố gắng đưa nền kinh tế phát triển xã hội lành mạnh văn minh. Đặc biệt là những nhà kinh tế tương lai, chúng ta không thể đứng nhìn những mâu thuẫn trong quá trình chuyển đổi mà chúng ta hãy nỗ lực hơn nữa trong học tập và lao động để có thể góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước.
Bài viết của em được sự giúp đỡ của PGS. TS Vũ Văn Hân. Một lần nữa em thực sự cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo đã cung cấp phần lớn kiến thức và phương pháp luận để hoàn thành bài viết này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV068.doc