Trong các vấn đề xã hội , việc làm cho người lao động đang là vấn đề bức xúc để toàn tthể xã hội hết sức quan tâm .Đặc biệt đối với cácc nước đang phát triển , nhu cầu về việc làm đã tạo ra sức ép lớn đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế .Để tạo việc làm cho người lao động đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực không chỉ của Nhà nước ,người sử dụng lao động mà còn cần đến sự tham gia của chính bản than người lao động. Trong đó vai trò Nhà nước là quan trọng nhất .Các văn kiện của Đảng và các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã đề cập thường xuyên vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động .Trong bối cảnh hiện nay ,việc nghiên cứu đề tài “Nhiệm vụ và giải pháp giải quyết việc làm trong Kế hoạch năm năm 2001-2005 ở Việt nam “sẽ có ý nghĩa thiét thực , góp một tiéng nói chung để giải việc làm cho người lao động .
Đề tài đi xem xét cơ sở lý luận lao động và việc làm ,tức tìm hiểu các khái niệm ,vai trò , mối quan hệ của kế hoạch việc làm .Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng thực hiện Kế hoạch giải quyết vịêc làm ở nước ta trong giai đoạn 1996-2000 và đưa ra các giải pháp cơ bản thúc đẩy quá trình giải quyết việc làm trong giai đoạn 2001-2005. Các giải pháp đi sâu vào hai khu vực nông thôn và thành thị ,trong đó giải quyết việc làm trong khu vực nông thôn là vô cùng quan trọng .Vì giải quýet vịêc làm ở khu vực nông thôn sẽ giảm sự di chuyển lao động ra thành thị và sức ép giải quyết việc làm trong khu vực này `.ngoài ra các nhóm giải pháp chính sách việc làm cũng quan trọng không kém .
Hi vọng với sự quản lý điều tiết của Nhà nước và sự cố gắng của các doanh nghiệp cũng như người lao động .Trong giai đoạn 2001-2005 , kế hoạch giải quyết việc làm sẽ dạt dược các mục tiêu đề ra ,qua đó cùng các kế hoạch khác thúc đẩy phát triển kinh tế.
36 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 812 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nhiệm vụ và giải pháp giải quyết việc làm trong kế hoạch năm năm 2001-2005 ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5998
29917091
526121
449524
7,14
1,56
2. Lực lượng LĐ theo ngành
- Nông-lâm-ngư nghiệp
- Công nghiệp và xây dựng
- Dịch vụ
23431138
3697762
6849124
22669907
4743707
8791820
1045945
1135431
1,8
4,25
5
Nguồn: Tổng hợp số liệu thống kê 1996 – 2000
Trong số người có việc làm nói trên , số việc làm mới tạo ra hàng năm tăng nhanh , từ 863000 người mỗi năm trong thời kỳ 1991-1995 lên 1,2 triệu người trong giai đoạn 1996-2000. Tốc độ tăng trưởng việc làm bình quân 2,7%
+ Cùng với sự tăng số việc làm có xu hướng chuyển dịch thích hợp . Cơ cấu viẹc làm theo ngành trong giai đoạn 1996-2000 có thay đổi đáng kể .Nếu tổng số việc làm là 100% thì nhóm ngành nông –lâm –ngư nghiệp là 69%, xây dựng – công nghiệp là 10,9% và dịch vụ là 20,1% trong năm 1996. Đến năm 2000 các cơ cấu lần lượt là 63,3%,13%,và 23,9% .Như vậy cơ cấu lao động có viẹc làm thường xuyên chia theo nhóm ngành năm 2000 có sự chuyển biến rõ rệt so năm 1996 và kế hoạch trước theo hướng :giảm cả số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong các nhóm ngành nông nghiệp ,tăng cả số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành công nghiệp và xây dựng .Năm 1996 có 23601918 người làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp (chiếm 69% so với tổng số lao đôngj cả nước ) ,đến năm 2000 giảm xuống còn 22669907 người (chiếm 63,1%) .Trong khi đó, lao động làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng tăng nhanh từ 3566513 người năm 1996 lên 4743705 người năm 2000 , với tỷ lệ tăng từ 10,55% lên 13,5%; lao động làm việc trong ngành dịch vụ cũng tăng nhanh cả số lượng và tỷ lệ từ 6643564 người lên 8791950 người và từ 19,5% lên 24,29%
Theo thành phần kinh tế :Trong giai đoạn này mỗi năm khu vực nhà nước tạo thêm 160000 lao động , khu vực ngoài nhà nước tăng 510000 việc làm và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 56000 việc làm .Xét về số tương đối , lao động ttrong khu vực Nhà nước do cải cách hành chính và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã giảm từ 14,7%(năm 1991)còn 9%(năm 2000)
Bảng 2: lực lượng lao động theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Người
Các khu vực
Năm 1996
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Khu vực Nhà nước
29722617
3094235
3532968
3605709
3643809
Khu vực ngoài nhà nước
31005407
31127687
3108339
31883750
32343273
Khu vưc vốn ĐTNN
-
130304
184201
190099
21835190
Nguồn: Niên giám Thống kê 2001
Qua số liệu trên cho thấy việc làm khu vực Nhà nước vẫn là một quá trình phức tạp diễn ra trong vài năm tới .Cùng với sự dổi mới của nền kinh tế , lao động và việc làm ở nước ta đang trong quá trình phân bố lại giữa các thành phần kinh tế .Vì thế ranh giới lao động và việc làm trong các thành phần kinh tế trở nên khó phân biệt . Đặc biệt thành phần kinh tế tập thể và cá thể đang diễn ra sự chuyển biến đáng kể không chỉ ở lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ mà cả trong nông nghiệp.
Chất lượng lao động từng bước nâng cao , tỷ lệ lao động được đào tạo tăng liên tục từ 10%(năm 1996) lên 20%(năm 2000) trong đó được đào tạo nghề khoảng 13,3%
+ Các chương trình mục tiêu Quốc gia giải quyết việc làm được triển khai có kết quả
Quỹ Quốc giải quyết việc làm hình thành từ năm 1992 , đến năm 2000 có khoảng 200 tỷ đồng hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm cho người lao động thất nghiệp , thiếu việc làm và đối tượng yếu thế .Từ 1996-2000 , Quỹ đã giải quyết việc làm cho 1,8 triệu người ,trong đó 80 vạn người có việc làm mới và 1 triệu người có thêm việc làm. Hoạt động dịch vụ giới thiệu việc làm trong giai đoạn 1992-2000 tư vấn gần 2 triệu lượt người ,dạy nghề gắn với việc làm và bổ túc nghề cho 70 vạn người , giới thiệu việc làm và cung ứng lao động cho 87 vạn người.
+ Xuất khẩu lao động tăng nhanh qua các năm:
Trong giai đoạn 1996-2000 ,tình hình khủng hoảng tài chính – tiền tệ trong khu vực đã ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế của đất nước . Nhưng xuất khẩu lao động của nước ta tăng lên đáng kể qua các năm .Trong năm1996 số lượng người đưa đi lao động ở nước ngoài là 112660 người , năm 1997 18472 người , năm 1998 là 12240 người. Năm 1999 là 21090 người ,năm 2000 là 31240 người .Như vậy tính đến năm 2000 , số lao động của nước ta làm việc ở nước ngoài là 33vạn người , tại 40 quốc gia và 30 vùng lãnh thổ.
Xuất khẩu lao động dược coi là hướng chiến lược để giải quyết việc làm ở nước ta. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần có các chính sách thúc đẩy xuất khẩu lao động
Trên đây là các thành tựu đã đạt được của Kế hoạch việc làm trong thời kỳ 1996-2000 .Các thành tựu đó tuy chưa đáp ứng đủ nhu cầu việc làm của người lao động , cũng như nhiệm vụ giải quyết việc làm ,song nó thể hiện vai trò điều tiết đúng đắn của Đảng ,Nhà nước trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động .
2. Các hạn chế và nguyên nhân
2.1 Các hạn chế:
Trong thời kỳ (1996-2000) giảI quyết việc làm dạt đựơc một số thành tựu đáng kể, song bên cạnh đó còn tồn tại nhiều hạn chế.
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị còn cao và có xu hướng tăng dần: theo kết quả điều tra của Bộ Lao Động –Thương Binh Xã Hội thì tỷ lệ này năm 1996 là 5,88%, năm 1997 là 6,01% ,1998 là 6,85%,năm 1999 tỷ lệ này đã tăng vọt lên 7,4% .Cho đến năm 2000 nhờ những chính sách tạo việc làm của nhà nư ớc tỷ lệ này đã giảm xuống còn 6,44% ,ở khu vực thành thị và các thành phố lớn tỷ lệ đó còn cao hơn :Nam Định là 9,29%(năm 1999) Hà Nội là 10,31% HảI Phòng là 8,11%...
Bảng 3: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở thành thị Đơn vị : %
Năm
Tỷ lệ
Nơi cao nhất Hà Nội
1996
1998
1999
2000
5.88
6.85
7.4
6.44
7.71
9.79
10.31
7.95
Nguồn: Niên giám thống kê 2001
Qua số liệu trên nhận thấy xu hướng thất nghiệp đang tăng lên ,do đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước có các chính sách tập trung giải quyết việc làm ở khu vực này .ở khu vực nông thôn ,tỷ lệ lao độngthiếu việc làm còn ở mức khá cao.
Bảng 4: Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của hoạt động kinh tế thường xuyên ở khu vực nông thôn:
Đơn vị tính :%
Năm
Tỷ lệ
Vùng cao nhất
1996
1998
1999
2000
72.11
71,13
73,49
73,86
ĐB,Tây bắc(79,01)
Tây nguyên (77,23)
Tây nguyên(78,65)
Tây nguyên (76,74)
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2001
Khu vực nông thôn là địa bàn tập trung chủ yếu lao động của nước ta ,trong giai đoạn (1996-2000) nhà nước đã có những giảI pháp nhằm nâng cao tỷ lệ lao động của khu vực này song năm 2000 tỷ lệ này là 73,86% cao hơn 72,11% (1996) ,thêm vào đó lực lượng lao động bổ sung từ các nguồn như: Bộ đội xuất ngũ,cán bộ công chức về hưu, thanh niên đến tuổi lao động ,học sinh-sinh viên tốt nghiệp nhưng không có việc làm.
Do đó đã xảy ra tình trạng di chuyển lao động nông thôn ra thành thị ,khu công nghiệp lớn .qua thời gian dàI đã làm tăng thêm tình trạng thất nghiệp ở thành thị.
Đội ngũ lao động chất lượng chưa cao và phân bố lượng lao động qua đào tạo còn bất cập:
Bảng 5: Lực lượng lao động theo trình độ học vấn
Đơn vị tính: người
Trình độ
1996
1997
1998
1999
2000
Không biết chữ
Chưa tốt nghiệp cấpI
Chưa tốt nghiệp cấp I
Chưa tốt nghiệp cấpII
Chưa tốt nghiệp cấpIII
2011220
7292030
9747172
11288235
4848604
1799002
7106976
9964730
11528438
5189314
1477659
6700221
10666808
11781621
5953287
1547277
6789979
10932174
12066987
6447499
1533826
6373065
11317132
12755073
6663993
Nguồn: Số liệu thống kê lao động –viêc làm 1999-2000
Bảng 6: Tỷ lệ lực lượng lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT)
Đơn vị tính:%
Trình độ CMKT
Năm 1996
Năm 2000
Lao động không có CMKT
Lao động có CMKT
Công nhân kỹ thuật
Sơ cấp
TNCN
Cao đẳng, đại học và trên ĐH
87,69
12,31
4,38
1,77
3,84
2,31
70
16,44
5,34
1,69
4,84
3,89
Nguồn: Niên giám thống kê 1996-2000
Sự phân bố lực lượng qua đào tạo từ sơ cấp ,học nghề trở lên cũng như từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên ,chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị ,đặc biệt là các khu vực đô thị trọng điểm.Lực lượng lao động ở nông thôn chiếm 77,44% trong tổng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp trở lên chỉ có 46,26% trong tổng số lao động qua đào tạo của cả nước.
Cấu trúc đào tạo của lực lượng lao động vốn dã bất hợp ly lại còn bất hợp lý hơn. Năm 1996 cấu trúc đào tạo là 1-1,7-2,4 (Tương ứng với một lao động có trình độ cao đẳng ,Đai học trở lên thì có 1,7 lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và 2,4 lao động sơ cấp,học nghề ,công nhân học nghề.Năm 2000 cấu trúc này là 1-1,2-1,7 Do vậy trong những năm tới đi đôi với tiép tục tăng nhanh cả về số lượng và tỷ lệ laođộng đã qua đào tạo ,ưu tiên phát triển đội ngũ laođộng có kỹ thuật ,kỹ năng dạy nghề ,với phương châm giải quyết việc làm tại chỗ và xuất khẩu lao động.
Chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra còn chậm:
+ Chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ :
Quá trình tăng trưởng và phát triển king tế đồng thời là qúa trình diễn ra sự tích tự, chuyên môn hóa sản xuất và chuyên môn hóa lao động .Trong đó quá trình CNH-HĐH đất nước ,các vùng chuyên môn sản xuất nông nghiệp ,các đô thị mới sẽ xuất hiện dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu lao động giữa các vùng.
Trong những năm qua trên phạm vi cả nước đã có nhiều tiến bộ trong phân bổ lại làđộng giữa vùng lãnh thổ,theo chiều hướng tích cực.ở các vùng kém phát triển ,khó khăn ,dân cư thưa thớt thiếu lao động nhưng lại có tài nguyên thiên nhiên phong phú ,có chiều hướng tăng lên tỷ trọng lao động Tây Nguyên từ 4,08% (1990) lên 4,19%( 1995) và 5,36%(1999).
Tuy nhiên tình trạng tập trung dân cư lao động ở các đô thị như ĐBSH.Và một số vùng ven biển, trong khi đó một số khu vực miền núi đất hoang hóa một độ dân cư thấp.
Bảng 7: Chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ
Đơn vi: nghìn người
Các vùng
1990
1995
1998
LLLĐ
(%)
LLLĐ
(%)
LLLĐ
(%)
Miền núi phía Bắc
3987,9
12,03
4591,5
13,7
4515,3
13,67
Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
4355,2
13,44
4825,2
14,4
5033,7
13,9
Kinh tế trọng điểm Miền Trung
1705,9
5,14
1842,8
5,5
2027,5
5,66
Tây Nguyên
1201,6
3,62
1444,2
4,31
1512,9
4,2
Đông Nam Bộ
3056,8
9,2
3092,6
9,26
3158,9
8,78
đồng Bằng Sông Cửu Long
6111,1
19,52
7342
21,93
7833,4
21,78
Nguồn: Điều tra lao động – việc làm 1990, 1995, 1998
+ Chuyển dịch cơ cấu ngành và theo thành phần kinh tế:
Những năm qua tỷ trọng nông nghiệp giảm, tỷ trọng công nghiệp và dich vụ trong tổng sản lượng hầu như không ổi. Năm 1993, Nông nghiệp chiếm 71%, Công nghiệp 11,3%, dịch vụ 17,2% đến năm 1996 tỷ trọng đó là 69,8%; 10,55%; 19,65% và năm 2000 là 63,1%; 13%; 23,9%. Điều đó khẳng định có sự chuyển biến cơ cấu nhưng còn quá chậm, trong ngành nông nghiệp từ 1996 đến 2000 mới giảm được 2,7%; còn công nghiệp và dịch vụ tăng song còn quá nhỏ bé. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng lao động nông nghiệp của giai đoạn 1996-2000 là 1,8%, công nghiệp là 4,2% và dịch vụ 5%. Như vậy, cứ 2,5% tăng trưởng sản lượng trong nông nghiệp thì có 1% việc làm tăng thêm. Có thể nói khu vực nông nghiệp là khu vực tạo việc làm nhiều nhất, sau đó đến khu vực dịch vụ và cuối cùng là khu vực công nghiệp.
Thực tế cho thấy, khu vực nông nghiệp gặp khó khăn trong tạo việc làm là điều dễ hiểu, bởi thu nhập của lao động nông thôn thấp hơn nhiều so với các khu vực khác và khoảng cách này sẽ ngày một gia tăng. Mặt khác, tốc độ gia tăng việc làm trong nông nghiệp sẽ giảm, do vậy, khu vực thôn nói chung và khu vực nông nghiệp nói riêng có thể thu hút được bao nhiêu lao động trong tương lai là một vấn đề rất quan trọng cần được xem xét.
Trong giai đoạn 1996 – 2000 thành phần kinh tế nhà nước có xu hớng tăng nhẹ, còn thành phần kinh tế ngoài quốc doanh lại giảm từ 91,5 %(năm 1996) còn 89,3 % năm 2000 - Đây là hướng chuyển dịch không phù hợp. Trong lộ trình sắp xếp lai các doanh nghiệp nhà nước sẽ làm cho việc gia tăng việc làm ở khu vực này không còn giữ được tốc độ tăng như trong những năm qua.
Khu vực vốn đàu tư nước ngoài kể cả dich vụ lẫn công nghiệp tăng mạnh về giá trị lẫn tốc độ thu hút lao động. Đây là khu vực có tiềm năng lớn về giải quyết việc làm. Đòi hỏi Nhà nước cần có chính sách phù hợp kích thích sự phát triển của khu vực này.
2.2 Nguyên nhân chủ yếu của tình hình việc làm:
- Nước ta là nước chậm phát triển, có xuất phát điểm quá thấp, nền kinh tế còn bị mất cân đối nghiêm trọng và chưa ổn định; thiếu những tiên đề và điều kiện vật chất cần thiết để thay đổi nhanh chóng toàn bộ cơ cấu kinh tế cho phù hợp với nền kinh tees thị trường, đặc biệt là hạ tầng cơ sở, vốn và công nghệ thích hợp; việc tăng dân số chưa được kiềm chế và kiểm soát chặt chẽ, nên tỷ lệ tăng dân số và lao động vẫn ở mức cao; quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển còn hạn hẹp. Do đó là nguyên nhân bao trùm và cơ bản nhất hạn chế đến khả năng phát triển việc làm và chưa khuyến khích được người có vốn (cả trong và ngoài nước) bỏ ra đầu tư phát triển sản xuất, tạo mở việc làm.
-Trong cơ chế cũ chúng ta đã xây dựng một hệ thống chính sách khuyến khích người lao động tìm việc làm trong khu vực nhà nước là chủ yếu và bao cấp rất nặng nề. Nhà nước bố trí công ăn việc làm đến tận người lao động, điều đó đã kìm hãm tìm năng lao động, triệt tiêu động lực của hộ trong phát triển việc làm và tự chịu trách nhiệm về đời sống của chính bản thân mình. Nay chuyển sang nền kinh tế thị trường đã mở ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động toàn xã hội, song Nhà nước chưa có chính sách đồng bộ tạo ra những tiền đè, điều kiện và môi trường đảm bảo giải phóng triệt để tìm năng lao động (trước hết là chính sách vĩ mô như thuế, đất đai, tín dụng, thị trường); chưa có chính sách cụ thể khuyến khích các lĩnh vực, ngành nghề và hình thức thu hút được nhiều lao động theo yêu càu của thị trường lao đông; chưa có hệ thống đào tạo, đào tạo lại và phổ cập nghề phù hợp với cơ chế thị trường.
-Về tổ chức, chưa có một hệ thống sự nghiệp giải quyết việc làm đặc biệt là các văn phòng dịch vụ việc làm, các trung tâm xúc tiến việc làm, trung tâm áp dụng tiến bộ khoa học và chuyển giao công nghệ sử dụng nhiều lao động); Chương trình quốc gia về việc làm cũng chưa được tập trung chỉ đạo, còn rất phân tán, quĩ quốc gia về việc làm còn nhỏ bé và chưa được đầu tư đúng mức.
phần iii.
nhiệm vụ và giải pháp cơ bản giải quyết việc làm trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005
I. Quan điểm của Đảng trong kế hoạch về giải quyết việc làm
Từ chỗ quan điểm giải quyết việc làm là trách nhiệm của Nhà nước và chỉ làm việc trong hai thành phần kinh tế cơ bản: Quốc doanh và hợp tác xã mới được coi là có việc làm trong thời ký kế hoạch hoá tập trung thì nay quan điểm mới của Đảng và Nhà nước ta có nhận thức hoàn toàn mới. Cùng với Nhà nước, mỗi công dân, mỗi gia đình, mỗi tổ chức đều có thể và được phép tạo mở việc làm, được làm việc trong các thành phần kinh tế (Nhà nước, tập thể, tư bản nhà nước, tư nhân, cá thể), bao hàm mọi hình thức tổ chức kinh doanh, từ các doanh nghiệp lớn đến các loại quy mô vừa và nhỏ, kinh tế hộ gia đình, các hoạt động trong khu vực kinh tế phi kết cấu.
Nhà nước có định hướng rõ chính sách phát triển nguồn nhân lực: Sự phát triển nhanh và bền vững phải bao trùm mọi mặt về đời sống xã hội trong đó kinh tế là trung tâm, tăng trưởng kinh tế phải gắn với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, giữ gìn và cải thiện môi trường, giữ vững ổn định xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh. Phát triển xã hội công bằng vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ hội tương đối đồng đều cho sự phát triển của mọi người trước hết là nâng cao dân trí giải quyết việc làm là yếu tố cơ bản để bảo đảm công bằng xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một trọng điểm trong thập kỷ tới, phát triển nền nông nghiệp hàng hoá khai thác phát triển lợi thế về điều kiện sinh thái phù hợp với nhu cầu thị trường; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tăng quỹ sử dụng thời gian lao động và nâng cao chất lượng cuộc sống ở nông thôn. Phát huy trí tuệ con người thông qua phát triển giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, đuổi kịp trình độ tiên tiến của các nước trong khu vực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự nghiệp đổi mới hội nhập.
II. Các mục tiêu và phương hướng giải quyết việc làm:
Về mục tiêu kế hoạch phát triển việc làm:
Mỗi năm tạo thêm 1,3 - 1,4 triệu chỗ việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống 5% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005.
Để đạt được mục tiêu trên, tỏng năm năm cần phấn đấu đạt được các chỉ tiêu sau:
Tập trung phát triển kinh tế, xã hội, duy trì tỷ lệ tăng GDP hàng năm không dưới 7% để tạo ra 5,0 - 5, 5 triệu chỗ làm việc mới.
Chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động nông nghiệp xuống 55%, công nghiệp và xây dựng 21%, dịch vụ 27% vào năm 2005.
Đào tạo và đào tạo lại nghề cho 5 -5,5 triệu người, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo trong lực lượng lao động lên 30% vào năm 2005.
Trong đó các hoạt động hỗ trợ trực tiếp của chương trình việc làm sẽ tổ chức dạy nghề và bổ túc nghề gắn với việc làm cho 1 triệu người; cho vay vốn hỗ trợ giải quyết việc làm cho 1,5 - 1,6 triệu người; Đổi mới cơ chế hoạt động , nâng cao năng lực và hiện đại hoá các Trung tâm dịch vụ việc làm ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và hệ thống cơ sở vệ tinh để cung cấp các dịch vụ tư vấn, giới thiệu và chắp nối việc làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm, người muốn chuyển việc đã đăng ký tại trung tâm với người sử dụng lao động.
Về phương hướng giải quyết việc làm:
+ Khu vực thành thị:
1. Phương hướng rất quan trọng là phải gắn với chương trình phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn, nhất là ở các địa bàn có điều kiện lập các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, phát triển các tập đoàn sản xuất mạnh của cả nước ở các vùng hoặc trên phạm vi cả nước, các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo việc làm có giá trị kinh tế cao và giá trị lao động cũng cao, phù hợp với tính chất đặc thù của lao động ở thành thị. Theo hướng này, phải đặc biệt quan tâm đến đào tạo và hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động thành thị ở trình độ cao, thông qua việc phát triển các trung tâm huấn luyện cao cấp ở một số địa bàn trọng điểm.
2. Một hướng quan trọng khác là phải phát triển các lĩnh vực, ngành nghề có khả năng thu hút được nhiều lao động và phù hợp với đặc điểm của lao động ở thành thị. Trong đó, phát triển khu vực phi kết cấu, các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ là hướng cần được đặc biệt quan taam. Đồng thời phải coi gia công xuất khẩu là một quốc sách; lợi dụng tối đa ưu thế của nước ta là lao động rẻ, đễ tiếp thu kỹ thuật và công nghệ mới, lại có nguồn nguyên liệu trong nước, tại chỗ dồi dào. Vì vậy, hướng phát triển giai công xuất khẩu là phải đa dạng hoá mặt hàng, trước hết là các mặt hàng có công nghệ sử dụng được nhiều lao động như may mặc, da giày, gốm sứ, lắp ráp điện tử, xe gắn máy... và mở rộng thị trường, nhất là thị trường ở các nước phát triển và đang phát triển, trong đó coi trọng thị trường khu vực châu á- Thái bình dương.
3. Phát triển các cơ sở dịch vụ công cộng và sự nghiệp nhà ở trong các thành phố, thị xã sẽ tạo ra rất nhiều việc làm cho thanh niên thành thị, đặc biệt là ở một số thành phố lớn (như Hà nội, TP Hồ Chí Minh, Đã Nẵng, Hải Phòng...), các khu công nghiệp tập trung (kể cả khu chế xuất). Khai thác tiềm năng kinh tế vùng ven thành phố, thị xã, trong mối quan hệ và liên kết kinh tế giữ nội - ngoại thành là hướng quan trọng tạo việc làm cho lao động ở thành thị.
+ Đối với khu vực nông thôn:
1.Đa dạng hoá ngành nghề, thực hiện người nào giỏi việc gì làm việc ấy, trên cơ sở giao đất ổn định lâu dài cho các hộ gia đình, đồng thời bằng cơ chế, chính sách và luật pháp, tập trung dần ruộng đất, tạo điều kiện cho các hộ gia đình có khả năng sản xuất, kinh doanh nông sản hàng hoá. Đa dạng hoá việc làm và đa dạng hoá thu nhập phải trở thành hình thức phổ biến trong nông thôn, đặc biệt là phát triển mạnh mẽ việc làm phi nông nghiệp, xí nghiệp nhỏ ở nông thôn.
2.Khuyến khích phát triển các hình thức hợp tác tự nguyện ở quy mô trên hộ gia đình (hợp tác liên gia đình, nhóm hộ, hợp tác xã kiểu mới), đồng thời có chính sách và cơ chế khuyến khích những người có vốn và kỹ thuật mở rộng hình thức sản xuất kinh doanh theo kiểu nông trại.
3. Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề phi nông nghiệp, sử dụng nhiều lao động ở nông thôn, nhưng cần ít vốn và hướng vào xuất khẩu, như xí nghiệp nhỏ ở nông thôn và công nghiệp gia đình; khôi phục và phát triển các nghề truyền thống có giá trị kinh tế cao, các làng nghề gắn liền với việc đô thị hoá nông thôn, hình thành các thị trấn, thị tứ (đặc biệt là trên các trục đường giao thông).
4. Giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn phải hướng vào những vùng có khả năng thu hút được nhiêù lao động. Từ nay đến năm 2005, phải khai thác thêm và sử dụng có hiệu quả 5 triệu ha đất trống, đồi trọc, diệc tích hoang hoá, thông qua các chương trình dự án phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, khai thác cdác vùng Đông Nam bộ, Tây nguyên... các dự án lấn biển, khai thác kinh tế biển và các đảo.
III. Các giải pháp cơ bản thực hiện kế hoạch giải quyết việc làm thời kỳ 2001 -2005
1. Tăng trưởng kinh tế đồng đều đi đôi với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
ở nước ta hiện nay, giải quyết việc làm cho người lao động, ở thành thị và nông thôn đan là vấn đề bức xúc cảu toàn xã hội. Để giải quyết vấn đề này phải chú trọngTTKT với chuyển cơ cấu kinh tế.
a. Khu vực nông thôn
Khu vực nông thôn là khu vực chiếm gần 80% lực lượng lao động cả nước. Trong kế hoạch 1996 -2000; vấn đề giải quyết việc làm đã đạt được kết quả tích cực, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu việc làm ngày càng tăng ở nông thôn. Giải quyết tình trạng thiếu việc làm cần tập trung.
Thứ 1. Thực hiện khai thác tiềm năng của khu vực nông thôn gắn lao động với đất đai và tài nguyên.
Nhìn vào các kênh từ bên ngoài có thể tiếp nhân, giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn hâu như đang trong tình trạng khó khăn và đang ứ thừa. Đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước, năm 1998có tới 35% số doanh nghiệp làm ăn không có lãi, 40% số doanh nghiệp sản xuất đình đốn làm ăn thua lỗ, công nhân không đủ việc làm, khu vực vốn đầu tư nước ngoài cũng chẳng sáng sủa hơn. Do đó, giải pháp để giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn và số lao động trẻ thất nghiệp, là tìm cách tháo gỡ, khai thác mọi tiềm năng sẵn có và chủ yếu là dựa vào thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ngay trên địa bàn nông thôn.
Thực hiện khai hoang phục hoá, xây dựng các công trình thuỷ lợi xen canh gối vụ, tăng vụ để mở rộng quy mô đất canh tác. Trong thực tế xu hướng tăng thêm diện tích bằng khai hoang, phục hoá, tăng vụ... để tạo thêm việc làm không phải là không có giới hạn, bởi vậy cùng với việc phát triển nông nghiệp theo chiều rộng nên phát triển nông nghiệp theo chiều rộng nên phát triển nông nghiệp theo chiều sâu theo hướng thâm canh, tăng vụ, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Mặt khác, cùng với phát triển sản xuất nông nghiệp thì cần tiến hành phát triển các ngành dịch vụ và sản xuất phi nông nghiệp.
Khu vực nông thôn là khu vực có tiềm năng kinh tế biển do đó chính sách phát triển sản xuất và tạo việc làm cho lao động ven biển bằng cả nghề đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản gắn với chế biến, dịch vụ thuỷ sản. Để ngành cá phát triển tạo việc làm cho người lao động ,đòi hỏi nhà nước có chính sách khuyến khích thiết hợp.
Một giải pháp có tính chiến lược giải quyết lao động nông thôn gắn với tài nguyên là thực hiện chương trình 5 triệu ha rừng. Trước hết là phải giải quyết tốt các vấn đề nổi cộm hiện nay - trong đó trọng tâm là quỹ đất có chính sách đưa dân đến vùng kinh tế mới. Một số vấn đề phải giải quyết khác là nguồn vốn, giống cây trồng, thị trường tiêu thụ lâm sản... Vấn đề đặt ra hiện nay là phải tạo lập được sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành với địa phương để thống nhất quan điểm, chính sách cũng như trách nhiệm trong quá trình chỉ đạo dự án trồng 5 triệu ha rừng theo quy định của Chính phủ.
Thứ hai. Phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại ở nông thôn.
Về lao động và việc làm ở các trang trại và kinh tế hộ chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình là chính. Khác với khu vực phi trang trại ở các khu vực này, người nông dân có việc làm quanh năm, đặc biệt là ở các trang trại dạng hỗn hợp trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ kết hợp. ở đây, người lao động không có khái niệm mùa vụ, họ có việc làm quanh năm và ít có hiện tượng dư thừa lao động. Đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ trong tất cả các lĩnh vực, ngành mà kinh tế hộ có thể tham gia đã được xác định là rất quan trọng. Nó đã góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm cho lao động nông thôn, sử dụng có hiệu quả lao động nhàn rỗi và só lao động dôi dư từ khu vực doanh nghiệp nhà nước khi tiến hành sắp xếp lại.
Để khuyến khích phát triển kinh tế trang trại và để loại hình kinh tế này thực sự đóng vai trò quan trọng trong giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Trong kế hoạch 2001 - 2005 cần tập trung:
+ Có chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế hộ nông dân sản xuất hàng hoá tập trung theo đặc thù sản xuất của từng vùng, đó là các chính sách về đất đai,thuế, tín dụng, khoa học công nghệ và cụ thể là. Hoàn thiện giao đất, khoán rừng cho hộ nông dân, cấp quyền sử dụng đất cho các hộ để họ an tâm đầu tư lâu dài, trị chủ sản xuất kinh doanh lên phần đất của mình. ,không khống chế số lượng đất, rừng khoán, đặc biệt là các vùng đất trống đồi trọc.
Chính sách vay vốn ưu đãi để đầu tư phát triển kinh tế hộ và trang trại như cho chủ trang trại vay với lãi suất ưu đãi, thời gian vay theo chu kỳ sinh trưởng phát triển của cây trồng và vật nuôi. Thực hiện trợ giá , giống, vật tư, phân bón... phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, giảm thuế cho các vùng, những loại cây con mà ta đang khuyến khích phát triển.
Tổ chức tư vấn về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, giúp đõ các chủ trang trại có kiến thức về cây hồng và vật nuôi. Hiện trạng hiện nay của nông dân nước ta, trình độ lạc hậu hiểu biết về khoa học công nghệ kém, cách thức phòng trừ sâu bệnh, chăm sóc cây trồng vật nuôi rất hạn chế. Do vậy, tổ chức tư vấn về kỹ thuật cho nông dân cần tiến hành thường xuyên và gắn với thực tế từng địa phương có hình thức tư vấn phù hợp. Tổ chức tuyên truyền rộng rãi các hình thức, mô hình trang trại điển hình thực hiện thí điểm và nhân rộng các mô hình đó.
+ Giúp đỡ các trang trại tổ chức thu mua, chế biến và bao tiêu sản phẩm, khai thác thị trường mới. Do đặc tính của sản phẩm nông nghiệp là sản phẩm do số lượng nhiều, sản phẩm dễ hư thối. Nhà nước phải giúp đỡ tìm kiếm thị trường và tiêu thụ sản phẩm tránh lãng phí gây thiệt hại cho người sản xuất.
+ Quy hoạch vùng, quy hoạch cây con chủ yếu phù hợp với vùng sinh thái và thị trường tiêu thụ.
Nước ta với dân số chủ yếu làm nghề nông, cư trú rải rác trên tất cả các địa hình. Mỗi vùng có một lợi thế riêng, do đó giải quyết việc làm ở nông thôn chú ý quy hoạch và phát triển trang trại cho phù hợp.
ở vùng đồi núi cần tập trung phát triển các trang trại trồng trọt và chăn nuôi đại gia súc với quy mô lớn về diện tích.
ở vùng ven biển: Ngoài vùng biển dài còn có mặt nước mặn và lợ có khả năng phát triển các ngư trại nuôi trồng thuỷ sản và các hộ đánh bắt hải sản.
ở vùng đồng bằng với trên 7 triệu hộ ở nông thôn, trong đó có trên 6 triệu hộ làm nghề nông có thể phát triển kinh tế nông trại về trồng trọt, chăn nuôi công nghiệp quy mô nhỏ về diện tích nhưng lớn về giá trị sản phẩm và thu dụng nhiều lao động trực tiếp tham gia.
Ngoài ra phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại cần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là hệ thống đường giao thông, điện thuỷ lợi, chợ... Nếu giải quyết tốt và đồng bộ những vấn đề nêu trên, tin tưởng rằng thời gian không xa kinh tế trang trại sẽ trở thành một trong các loại hình kinh tế quan trọng góp phần vào tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, tạo tiền đề cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nước ta.
Thứ 3. Khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống và nghề mới ở nôi thôn :
Ngành nghề truyền thống đã có từ lâu đời và đó có thể gọi là một thế mạnh của nước ta như nghề kim hoàn, thêu ren, dệt lụa, khảm trai - chế biến nông sản... Ngành nghề truyền thống hiện đang giải quyết việc làm cho một lượng lớn lao động. Tuy nhiên, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các cơ sản xuất và làng nghề cũng gặp không ít khó khăn nhất là về tiêu thụ sản phẩm, công nghệ lạc hậu, ít vốn... vì thế Nhà nước cần có một số chính sách hỗ trợ để khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, mở mang các nghề mới.
Một là: tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất và ở các làng nghề truyền thống như cho vay vốn ưu đãi , miễn giảm thuế, hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện cho thuê mặt bằng đề hình thành các khu làng nghề sản xuất tập trung.
Hai là: Tổ chức lại các cơ sở làm nghề truyền thống trên cơ sở lấy hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chú đồng thời phát triển mạnh mẽ hình thức, giữa các gia đình tiến tới thành lập những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hình thức tổ chức kinh doanh phổ biến trong các làng nghề ở nông thôn hiện nay là hộ gia đình chiếm khoảng 95%. Hộ kinh tế gia đình có ưu điểm tận dụng các loại lao động vào sản xuất, huy động được vốn nhàn rỗi trong dân, tạo động lực phát triển.
Xu hướng phát triển các làng nghề hiên nay là đi vào sản xuất hàng hoá nên cần phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ từ quá trình tích tụ, tập trung hay lập mới các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ba là: Quy hoạch phát triển các làng nghề gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vùng tỉnh và ngành
Nhà nước cần quy hoạch và có chính sách khuyến khích phát triển và theo quy hoạch của các ngành nghề cần ưu tiên, ví dụ các ngành mà tỉnh có lợi thế so sánh, các ngành thủ công mỹ nghệ. Hiện nay các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn làng nghề tồn tại dưới hình thức hộ, đó vừa là nơi ở, vừa là nơi sản xuất nên nhà xưởng quá hẹp, môi trường ô nhiễm không có khả năng mở rộng sản xuất, kết cấu hạ tầng không đảm bảo. Hướng tiến tới trong quá trình phát triển làng nghề là phải tách khu vực sản xuất khỏi khu vực nhà ở và phải đảm bảo kết cấu hạ tầng, đảm bảo nhà xưởng cho sản xuất - kinh doanh. Phát triển các khu vực công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn là giải pháp tích cực để thực hiện được các vấn đề trên.
Bốn là: Tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm của làng nghề ở nông thôn. Cần chú ý thực hiện đồng bộ các giải pháp như khai thác các thị trường ngách, phát triển quan hệ gia công cho các doanh nghiệp lớn ở thành thị tích cực thực hiện các biện pháp đảm bảo và nâng cao chất lược sản phẩm, cải tiến mẫu mã, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong các làng nghề
Nhà nước cần có cơ chế đảm bảo và hỗ trợ vốn cho đổi mới công nghệ ở các làng nghề. Coi trọng công tác tư vấn, đào tạo, áp dụng mô hình chuyển giao công nghệ, có chính sách khuyến khích nghiên cứu sản xuất và sử dụng máy móc thiết bị cho làng nghề. Phát triển các trung tâm đảm nhận thiết kế mẫu mã, đào tạo lao động cho các làng nghề.
b. Khu vực thành thị.
So với khu vực nông thôn, tình hình vịêc làm ở thành thị mang tính gay gắt, nóng bỏng hơn, bởi vì số người thất nghiệp (trong cả nước đại bộ phận tập trung ở thành thị). Số người này không được giải quyết việc làm kịp thời sẽ ảnh hưởng nặng nề đến đời sống của họ, hơn thế nữa từ thất nghiệp dễ nảy sinh tiêu cực cho đời sống xã hội... Vì vậy, ở đây cần phải có những biện pháp giải quyết việc làm có hiệu quả nhanh, có thể đáp ứng yêu cầu cấp bách về việc làm.
Thứ nhất: Tập trung đầu tư khu công nghệ cao, các trung tâm dịch vụ văn hoá, du lịch.
Giải pháp này chủ yếu gắn với kế hoạch đầu tư của nhà nước và các dự án của ngoài. Tại các địa bàn có điều kiện lập các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, vào các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, đầu tư theo chiều sâu và đồng bộ hoá. Các khu kinh tế này tạo ra các cơ sở kinh tế then chốt của nền kinh tế quốc dân, tiếp nhận lao động có trình độ tay nghề cao, đồng thời tạo ra các tầng sử dụng lao động kế tiếp, với bội só việc làm lớn.
Tập trung đầu tư khu công nghệ cao các trung tâm dịch vụ văn hoá du lịch là giải pháp rất quan trọng để giải quyết vấn đề việc làm ở thành thị trong thời gian tới. Vốn đâu tư đa số là của nước ngoài, do đó ta sẽ học hỏi kinh nghiệm quản lý, khoa học kỹ thuật, tác phong làm việc... Hơn nữa các dịch vụ văn hoá dịch vụ không chỉ tạo công ăn việc làm mà còn là nơi giao lưu văn hoá, giải trí của người dân. Trước vai trò to lớn của chúng trong quá trình giải quyết việc làm cũng như phát triển, cần thực hiện.
- Xây dựng và triển khai các chính sách phát triển hạ tầng xã hội với khu vực xây dựng khu công nghiệp và khu chế xuất gắn với phát triển đô thị công nghiệp. Trong quá trình phát triển khu công nghiệp , khu chế xuất phải quan tâm đến. Phát triển cơ sở hạ tầng trước hết là khu dân cư, nhà ở và các dịch vụ công cộng, không chỉ cải tạo lại hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội đã có mà cả xây dựng mới để đáp ứng nhu cầu lâu dài.
- Phân bố khu công nghiệp , khu chế xuất hợp lý và đa dạng hoá các mô hình khu công nghiệp để phát huy vai trò công nghiệp hoá - hiện đại hoá vào khu công nghiệp trong phục vụ nông nghiệp nông thôn: Khuyến khích phát triển các khu công nghiệp nhỏ của cụm công nghiệp việc làm cho lao động nông thôn và tạo vùng nguyên liệu cho các xí nghiệp công nghiệp. Từ đó hạn chế lao động di cư ra thành phố.
- Phát triển các chính sách đào tạo ghề gán với phát triển khu công nghiệp. Việ chtành lập các chính sách đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp chuyển sang sản xuất công nghiệp, góp phần đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp khu công nghiệp, nhà đầu tư không phải tuyển lao động từ các địa phương khác. Do đó, giảm sức ép về do dân. Và nhà ở với các khu vực đô thị lân cận, góp phần chuyển đổi ngành nghề, tạo đời sống ổn định cho nhân dân địa phương
Thứ 2: Xúc tiến việc làm trên cơ sở phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh.
Theo kinh nghiệm ở nhiều nước (kể cả các nước phát triển), đây là lĩnh vực có khả năng thu hút được nhiều lao động, cũng là hướng chiến lược phát triển kinh tế và giải quyết việc làm. Đây là loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh đa dạng, nhạy bén, linh hoạt nhất nên dẽ thích nghi với cơ chế thị trường. Nhận thức được vấn đề phát triển DNVVN là một nhiệm vụ chính tị quan trọng chiến lược xây dựng quan hệ sản xuất mới, dựa trên đặc điểm, tính chất và xu hướng phát triển của khu vực này. Phát triển DNVVN giải quyết việc làm cần tập trung.
+ Hợp lý hoá và đơn giản hoá các thủ tục thành lập doanh nghiệp và công ty, giúp các DNVVN một cách hiệu quả hơn trong việc huy động vốn; quy định một cơ cấu vốn mền dẻo hơn, bảo vệ tốt hơn các cổ đông thiểu số, có quy tắc rõ ràng trách nhiệm pháp lý của giám đốc và các giao dịch quan trọng của Công ty như sát nhập và chuyển đổi hình thức Công ty .Quy định những điều khoản rõ ràng và toàn diện hơn đối với việc quản lý Công ty nhằm cải thiện việc quản lý Công ty và kiểm soát các thành viên Công ty.
+ Hoàn thiện chính sách vốn và tài chính tín dụng. Giống như tất cả các doanh nghiệp khác, các DNVVN cần tài chính để tồn tại và phát triển. Bên cạnh vốn tự có, có 2 nguồn tài chính cho doanh nghiệp là vốn và tín dụng.
Cần phải tạo một “sân chơi bình đẳng” về tín dụng trung và dài hạn để tất cả người đi vay đều tuân thủ những quy định nhằm xây dựng một khung pháp lý toàn diện và hiện đại, tạo điều kiện cho người cho vay thực hiện và bắt buộc cầm cố, thế chấp; mở rộng khả năng tiếp cận của DNVVN tới vốn và các quỹ đầu tư.
+ Về chính sách công nghệ.
Khuyến khích các hợp đồng thuê, thuê mua hoặc bán trả góp, tạo điều kiện, nâng cấp máy móc, thiết bị. Nhiều DNVVN không có khả năng mua máy móc mới đồng thời gặp khó khăn về các khoản vay tín dụng từ ngân hàng. Do đó hình thức thuê mua là một giải pháp hợp lý phù hợp tình trạng DNVVN hiện nay.
Ngoài ra, cần tăng cường quản lý Nhà nước đối với sự phát triển của DNVVN.
2. Nhóm giải pháp chính sách
Giải quyết việc làm không phải là công việc của một cá nhân của riêng nhà nước hay của một tổ chức xã hội mà là công việc của cả cộng đồng. Để công tác giải quyết việc làm đạt hiệu quả cao cần có chính sách của Nhà nước.
a) Nâng cao chất lượng nguồn lao động
Trong bối cảnh nước ta hiện nay và từ trình độ nguồn nhân lực còn thấp, phân bổ không đều
Để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của quá trình phát triển, chúng ta cần đến một hệ thống các giải pháp đồng bộ trong đó:
Thứ nhất, phải kiên quyết và nhanh chóng tăng nguồn đầu tư ngân sách hơn nữa cho giáo dục và đào tạo.
Mặc dù nước ta đang còn khó khăn về kinh tế - xã hội, nhưng không thể để tổng kinh phí đầu tư cho giáo dục và đào tạo dưới 15% tổng chi ngân sách. Đồng thời, phải phân bố nguồn ngân sách ấy một cách hợp lý cho việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đào tạo cán bộ cho một số ngành trọng điểm, bồi dưỡng nhân tài. Phải phân bổ ngân sách hợp lý cho các cấphọc, bậc học, cho các vùng. Thực hiện cân bằng trong giáo dục, người nghèo được cộng đồng giúp đỡ, bảo đảm cho người giỏi phát triển tài năng. Mở rộng hệ thống giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, các trường bán công, dân lập, trường công trong đó các trường công lập là nòng cốt.
Nhà nước phải thống nhất quản lý nội dung chương trình, văn bằng chứng chỉ tạo điều kiện người học lựa chọn cách học phù hợp.
Thứ hai, Thực hiện xã hội hoá giáo dục và đào tạo. Việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo không chỉ là công việc của Nhầ nước, chúng ta cần phải thông suốt quan điểm "giáo dục và đào tạo" là sự nghiệp toàn đảng toàn dân. Cần phải kết hợp giữa gia đình nhà trường và xã hội trong phát triển giáo dục và đào tạo.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ giáo viên có chất lượng cao và tiếp tục cải cách nội dung và phương pháp đào tạo.
Đổi mới cơ chế quản lý ngành trên cơ sở hình thành hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ ;củng cố mạng lưới các trường Đại học và chuyên nghiiệp ,xây dựng các trung tam dạy nghề ...
b) Chính sách huy động vốn:
Thực tế quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động trong các ngành của nền kinh tế trong những năm qua đã cho thấy: Vốn đầu tư luôn là một nhân tố quan trọng và có vai trò quyết định trong việc thúc đẩy quy mô và tốc độ quá trình chuyển dịch kinh tế, là nhân tố gián tiếp tạo việc làm cho người lao động. Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì đảm bảo đủ nhu cầu vốn cho phát triển là rất quan trọng.
Trong những năm qua, vốn đầu tư được hình thành từ các nguồn chủ yếu như nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, từ các doanh nghiệp, dân cư, nguồn vốn đầu tư từ nướcngoài, vốn tín dụng Trong thời gian tới cần tập trung vào các giải pháp huy động vốn sau:
+ Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư thông qua các kênh huy động vốn khác nhau như tiền gửi tiết kiệm, trái phiếu kho bạc nhà nước, công trái, kỳ phiếu với loại thời hạn huy động khác nhau, trên cơ sở phù hợp với thời gian nhàn rỗi của từng loại nguồn vốn trong dân. Thực tế cho thấy, mặc dù nguồn vốn này thời gian qua còn hạn chế. Để thu hút tối đa nguồn vốn trong dân vào các kênh huy động nói trên, nhà nước cần có các chính sách để tạo niềm tin cho họ.
+ Ưu tiên phát triển các hình thức thu hút vốn trung và dài hạn nhằm phục vụ cho mục tiêu đầu tư phát triển dịch vụ và ngành nghề cả nông thôn và thành thị.
Thời gian để hoàn thành một dự án phát triển thường dài song phần lớn vốn đầu tư của nước ta để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là vốn ngắn và trung hạn. Từ nay đến 2010, như cầu vón tăng nhanh, do đó nếu không thu hút được vốn trung và dài hạn thì nhu cầu vốn cho chuyển dịch cơ cấu sẽ không thể thực hiện tối đa.
+ Tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm để thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư nông thôn. Đây là giải pháp thu hút vốn khá mạnh, những năm qua, do nền kinh tế phát triển chậm, nên đã làm sức mua của dân cư nhất là dân cư nông thôn giảm tương đối. Vì vậy nhiều cơ sở sản xuất phải giảm quy mô kinh doanh điều này đã buộc ngân hàng phải hạ lãi suất tiền gửi của mình để hạ lãi suất cho vay nhằm kích cầu về vốn. Nhưng ở góc độ khác, giải pháp này lại tác động tiêu cực đến thu hút tiền nhàn rỗi.
+ Có cơ chế hợp lý để huy động thông qua các đại lý và hệ thống quỹ tín dụng ở nông thôn. Trong những năm qua, mặc dù ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn và một số hệ thống ngân hàng khác đã huy động được một lượng vốn lớn cho đầu tư song nhu cầu về vốn cho CNH - HĐH đất nước là rất lớn. Để tăng được năng lực khai thác vốn của Ngân hàng và các tổ chức tín dụng cho thị trường vốn, cần có cơ chế và chính sách hợp lý để thu hút tiền gửi của đại đa số các tầng lớp dân cư.
+ Với nguồn vốn nước ngoài bao gồm FDI và ODA, là nguồn vốn rất quan trọng trong vấn đề tạo đà phát triển của đất nước cũng như đào
c) Chính sách phát triển thị trường lao động
Trong cơ chế cũ kế hoạch tập trung việc làm được bố trí theo kế hoạch phân bổ từ trên xuống do vâỵ gần như là thị trường lao động là không phát triển. Khi nước ta chuyển sang cơ chế mới - cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thị trường lao động ra đời và phát triển nhằm cung cấp lao động phù hợp với yêu cầu của người sử dụng lao động và giải quyết việc làm cho người lao động. Những năm gần đây thị trường lao động nước ta còn nhỏ chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp và người lao động tham gia, các trung tâm dịch vụ việc làm kém phát triển, nhỏ lẻ chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển. Do vậy, nhà nước cần có chính sách để thúc đẩy phát triển thị trường góp phần giải quyết việc làm cho người lao động và để giải quyết việc làm cần tập trung vào:
+ Phát triển dịch vụ việc làm:
Dịch vụ việc làm ra đời do yêu cầu của thị trường, là trung gian giới thiệu việc làm cho người lao động và cung cấp thông tin về người lao động cho các doanh nghiệp. Dịch vụ việc làm càng phát triển thì người lao động có việc làm càng cao, dịch vụ việc làm tư vấn, hướng dẫn cho người lao động tìm kiếm được công việc phù hợp với khả năng của mình, là cơ sở gián tiếp tạo việc làm cho người lao động đặc biệt là những người mới bước vào tuổi lao động hay lao động mới tốt nghiệp. Trên cơ sở các trung tâm dịch vụ việc làm, các chủ doanh nghiệp lựa chọn được các lao động tốt nhất có trình độ phù hợp với khả năng sản xuất của doanh nghiệp mình qua đó tối đa hoá sản xuất. Để phát triển dịch vụ việc làm nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về vốn, thuế, cơ chế quản lý hoạt động, tập trung đầu tư mở rộng phát triển các dịch vụ việc làm hiện đại. Nhà nước cần phải xây dựng các trung tâm dịch vụ việc làm nhà nước với quy mô lớn đảm bảo uy tín và chất lượng phục vụ để thu hút người có nhu cầu lao động tham gia nhiều hơn.
+ Thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động, trả lương theo hợp đồng lao động đã ký giữa người và người sử dụng lao động. Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa hai bên, là giao kèo có tính nghĩa vụ và quyền lợi cao do đó sẽ đảm bảo người lao động thực hiện công việc tốt và họ sẽ được hưởng những quyền lợi theo hợp đồng đã ký.
+ Hình thành hệ thống thông tin thống kê về thị trường lao động
Nắm bắt thường xuyên thông tin về tình hình cung - cầu lao động ở từng vùng, địa phương và cả nước. Từ thông tin này người lao động sẽ nắm bắt và có kế hoạch bồi dưỡng trình độ để phù hợp yêu cầu. Các địa phương, ngành, nhà nước sẽ có chính sách thích hợp để phát triển nguồn nhân lực cũng như phát triển kinh tế giải quyết lao động.
+ Tăng cường giáo dục pháp luật lao động, phổ biến quán triệt các văn bản pháp quy có liên quan đến lao động cho người lao động, người sử dụng lao động và khả năng thực thi các văn bản. Ngoài ra, trong điều kiện cung lao động lớn hơn cầu lao động, cần xử lý tốt quan hệ giữa đầu tư và tạo việc làm; xây dựng chiến lược dạy nghề, quy hoạch hệ thống chính sách dạy nghề
Ngoài một số chính sách cơ bản trên, nhà nước còn ban hành một số chính sách để thúc đẩy giải quyết việc làm như chính sách di sân Mỗi chính sách đều có đặc điểm khác nhau, tác động khác nhau. Song tựu chung lại là giải quyết việc làm cho người lao động.
3. Thúc đẩy xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một nhiệm vụ chính trị kinh tế ý nghĩa chiến lược, là nhu cầu khách quan của nền kinh tế nước ta, là xu thế toàn cầu háo, cũng là vấn đề bức xúc trước về lao động việc làm. Xuất khẩu lao động và chuyên gia là làm giàu cho đất nước, cho chính người lao động là tạo điều kiện cho người lao động và chuyên gia tiếp cận, tiếp thu công nghệ, kỹ thuật và kiến thức quản lý hiện đại. Xuất khẩu lao động là quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động, là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị - xã hội.
Xuất khẩu lao động cần tập trung
+. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách và tập trung đầu tư để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, xây dựng và ban hành cơ chế tài chính, quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động. Trọng tâm là honà thiện dự thảo Nghị định mới hướng dẫn thực hiện các điều về xuất khẩu lao động trong luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật lao động và ban hành thông tư hướng dẫn Nghị định, hoàn thành hành lang pháp lý chặt chẽ nhưng thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp.
+Phổ biến và nhân rộng các mô hình hoạt động xuất khẩu lao động có hiệu quả, đổi mới và tăng cường công tác thông tin về thị trường, chính sách cơ chế và quá trình xuất khẩu lao động, cung cấp các thông tin cơ bản về thị trường giúp các doanh nghiệp có điều kiện thâm nhập khai thác, ký kết hợp đồng; đồng thời cung cấp thông tin đầy đủ cho người lao động về điều kiện, tiêu chuẩn, quyền lợi, nghĩa vụ để họ tự chuẩn bị cho mình các điều kiện cần thiết tham gia xuất khẩu lao động.
+ Tập trung chỉ đạo và tháo gỡ các vướng mắc trong khâu tổ chức thực hiện cho các doanh nghiệp ở các thị trường trọng điểm. Tiếp tục đầu tư, nghiên cứu để khai thác và mở một số thị trường mới đặc biệt là thị trường USA, Trung Đông, Châu Phi. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đẩy mạnh lao động sang các nước Trung Đông và Châu Phi.
+ Tăng cường công tác quản lý từ cơ quan quản lý nhà nước đến các cơ quan chủ quản doanh nghiệp, phối hợp chặt chẽ giữa các ngành liên quan, các địa phương trong việc hỗ trợ và quản lý hoạt động xuất khẩu lao động của ngành mình và trên địa bàn; tổ chức thực hiện tốt sự liên kết giữa chính quyền các cấp, ngành LĐTBXH với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong việc tạo nguồn và đầu tư cho đào tạo nguồn và đầu tư cho đào tạo nguồn lao động xuất khẩu; giáo dục đầy đủ cho người lao động trước khi đi, đồng thời phối hợp quản lý lao động ở nước ngoài để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động.
4. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước trong tổ chức và thực hiện kế hoạch.
- Thực hiện kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý lao động trong các cấp, các ngành.
- Tổ chức thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm trong thời kỳ 5 năm, hàng năm từ trung ương xuống các ngành và địa phương.
- Ban hành các chính sách đòn bảy kinh tế như thuế tín dụng, tiền công, tiền lương các chính sách dịch vụ kỹ thuật sản xuất tiêu thụ sản phẩm.
- Xây dựng các dự án giải quyết việc làm.
Trên đây là các giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình giải quyết việc làm trong giai đoạn 2001-2005. Đây là các giải pháp cơ bản nhất nhưng cần chú trọng giải quyết việc làm trong khu vực nông thôn. Bởi lẽ, ngay cả khi toàn bộ khối công nghiệp chính thức, bằng cách nào đó có thể tăng lực lượng lao động lên gấp đôi trong 5 năm thì cũng chỉ tạo được số việc làm thấp hơn mức tăng trưởng lực lượng lao động trong một năm. Vì vậy, triển vọng giải quyết việc làm trong những năm tới phụ thuộc chủ yếu vào sự phát triển của khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn.
Kết luận
Trong các vấn đề xã hội , việc làm cho người lao động đang là vấn đề bức xúc để toàn tthể xã hội hết sức quan tâm .Đặc biệt đối với cácc nước đang phát triển , nhu cầu về việc làm đã tạo ra sức ép lớn đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế .Để tạo việc làm cho người lao động đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực không chỉ của Nhà nước ,người sử dụng lao động mà còn cần đến sự tham gia của chính bản than người lao động. Trong đó vai trò Nhà nước là quan trọng nhất .Các văn kiện của Đảng và các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã đề cập thường xuyên vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động .Trong bối cảnh hiện nay ,việc nghiên cứu đề tài “Nhiệm vụ và giải pháp giải quyết việc làm trong Kế hoạch năm năm 2001-2005 ở Việt nam “sẽ có ý nghĩa thiét thực , góp một tiéng nói chung để giải việc làm cho người lao động .
Đề tài đi xem xét cơ sở lý luận lao động và việc làm ,tức tìm hiểu các khái niệm ,vai trò , mối quan hệ của kế hoạch việc làm .Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng thực hiện Kế hoạch giải quyết vịêc làm ở nước ta trong giai đoạn 1996-2000 và đưa ra các giải pháp cơ bản thúc đẩy quá trình giải quyết việc làm trong giai đoạn 2001-2005. Các giải pháp đi sâu vào hai khu vực nông thôn và thành thị ,trong đó giải quyết việc làm trong khu vực nông thôn là vô cùng quan trọng .Vì giải quýet vịêc làm ở khu vực nông thôn sẽ giảm sự di chuyển lao động ra thành thị và sức ép giải quyết việc làm trong khu vực này `.ngoài ra các nhóm giải pháp chính sách việc làm cũng quan trọng không kém .
Hi vọng với sự quản lý điều tiết của Nhà nước và sự cố gắng của các doanh nghiệp cũng như người lao động .Trong giai đoạn 2001-2005 , kế hoạch giải quyết việc làm sẽ dạt dược các mục tiêu đề ra ,qua đó cùng các kế hoạch khác thúc đẩy phát triển kinh tế.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội.
Khoa Kế hoạch và phát triển
Trường Đại học KTQD
2. Giáo trình Kinh tế phát triển (tập 1).
Khoa Kế hoạch và phát triển
Trường Đại học KTQD
3. Giáo trình Kinh tế lao động.
Bộ môn Kinh tế lao động
Trường Đại học KTQD
4. Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam.
NXB Chính trị Quốc gia
5. Văn kiện đại hội Đảng VIII.
6. Văn kiện đại hội Đảng IX.
7. Tạp chí Lao động & Xã hội
Số 2/1998
Số 4/1998
Số 11/2000
Số 3/2001
8. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới – Số 5/1998
9. Tạp chí Kinh tế & Dự báo – Số 2/2000
10. Tạp chí Kinh tế & Phát triển – Số 50/2001
11. Tạp chí Lý luận chính trị – Số 5/2001
12. Tạp chí nghiên cứu kinh tế – Số 272/2001
13. Niên giám thống kê: Kết quả điều tra lao động việc làm thời kỳ 1996 – 2001. NXB thống kê.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV026.doc