Đề án Những biện pháp cơ bản đảm bảo nguồn lao động và giải quyết việc làm cho thời kỳ phát triển kinh tế 2001-2010

Nghiên cứu về vấn đề lao động và việc làm chúng ta càng thấy rõ tầm quan trọng của nó đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Để nâng cao đời sống nhân dân vấn đề trước tiên phải đảm bảo đủ việc làm cho người lao động. Giải quyết việc làm nâng cao chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội là một bộ phận quan trọng của phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi toàn nhân loại đang chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới với những hành trang về KHKT. Trong bối cảnh đó xây dựng chiến lược việc làm để đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH đất nước góp phần đưa đất nước sánh vai cùng nhân loại trong thế kỷ tới và trong thiên niên kỷ tới là một yêu cầu khách quan trong chính sách xã hội của nước ta. Song chúng ta cần có những giải pháp trước mắt để hoàn thành chiến lược việc làm lâu dài và cũng để kiểm chứng đánh giá sự phù hợp của mục tiêu phương hướng đề ra, nhằm có những giải pháp để điều chỉnh kịp thời. Một lần lữa chúng ta khẳng định đảm bảo nguồn lao động và giải quyết việc làm trước mắt cũng lâu dài là rất cần thiết cho sự nghiệp phát triển đất nước

doc36 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Những biện pháp cơ bản đảm bảo nguồn lao động và giải quyết việc làm cho thời kỳ phát triển kinh tế 2001-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân số tiềm năng gồm những người có đủ khả năng thể lực và trí lực làm việc, chưa tính đến các đặc điểm về tuổi và giới tính. Tuy nhiên trong thông kê giới hạn về tuổi lao động được quy định trong Bộ luật lao động ở nước ta hiện nay 15- 60 tuổi đối với nam và 15- 55 tuổi đối với nữ. 1.1.2. Tình trạng cung lao động. - Về số lượng: Theo tổng điều tra dân số Việt nam ngày 1/4/1999 dân số nước ta là 76.321.628 người. Như vậy tốc độ tăng dân số trung bình mỗi năm trong giai đoạn 2 cuộc tổng điều tra dân số 1998-1999 là 1,8% (so với 2% giữa hai cuộc điều tra trước), với cơ cấu dân số trẻ mặc dù đã có sự chuyển biến theo hướng già hoá dân số. Tất cả những đặc trưng dân số đó đã tạo ra một lực lượng lao động đồi dào và trẻ, có tốc độ tăng trưởng cao trong những năm vừa qua. Tính đến ngày 1/7/2000 tổng số nhân khẩu từ đủ 15 tuổi trở nên thực tế thường trú trong toàn quốc là 54.269.798 người, chiếm 69,85% dân số thực tế thường trú trong cả nước. Số nhân khẩu trong độ tuổi lao động (nam từ đủ 15-60, nữ từ đủ 15-55) là 46.249.428 người, chiếm 59,53% tổng dân số. Năm 2000 số nhân khẩu khu vực thành thị từ đủ 15 tuổi trở nên chiếm 73,59% dân số thực tế thường trú trong khu vực, nhân khẩu trong độ tuổi lao động chiếm 64,41%, ở khu vực nông thôn con số này là 68,15% và 58,03%. Qua các số liệu điều tra ta thấy rằng nguồn lao động nước ta hiện nay thực sự đông đảo. Nếu không có hướng việc làm phù hợp thì nguồn lao động dư thừa là rất cao. -Về chất lượng. Chất lượng lao động ở nước ta ngày càng được nâng lên, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 10% năm 1996 lên 20% năm 2001 trong đó số qua đào tạo nghề là13,4%. Trình độ học vấn của lực lượng lao động cũng ngày được nâng cao. Cụ thể người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I giảm từ 26,67% năm 1996 xuống còn 22,1% năm1999.Số người tốt nghiệp cấp II, cấp III tăng lên không ngừng, trong đó tăng nhanh nhất là số người tốt nghiệp cấp III, bình quân hàng năm số người đã tốt nghiệp cấp I trong tổng lực lượng lao động tăng 10,14% với mức tăng tuyệt đối là 541,5 nghìn người. Xu hướng giảm dần của tỷ lệ người không có chuyên môn kỹ thuật. Cả nước tính đến ngày 1/7/2000 số lao động qua đào tạo có 5.996.007 người chiếm 15,52% so với tổng số. Vùng Đông Nam Bộ là vùng có tỷ lệ lực lượng lao động qua đào tạo cao nhất 21,00%, sau đó là đồng bằng Sông Cửu Long 10,03%, thấp nhất là vùng Tây Bắc 9,56%, các vùng còn lại tỷ lệ này đều thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước và giao động trong khoảng từ 13 -15%. Đối với khu vực thành thị Hà nội có tỷ lệ này cao nhất 44,28%, tiếp theo là thành phố Hồ Chí Minh 28,7%, Hải Phòng là 28,5%, Đà Nẵng là 23,7%. Tính riêng hai khu vực thành thị và nông thôn tỷ lệ lao động qua đào tạo cũng tăng lên, song tốc độ tăng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của khu vực thành thị cao hơn hẳn so với khu vực nông thôn. Lực lượng lao động qua đoà tạo còn phân bố không đều trên cả nước, chủ yếu tập trung ở các vùng đô thị dẫn đến tình trạng nơi thừa nơi thiếu lao động. Tuy lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng lên, song tỷ lệ này còn thấp, tỷ trọng lao động giản đơn còn cao 84,48%, lực lượng lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật (năm 2000) chỉ giảm 1,65% so với năm 1999. Điều này phản ánh đội ngũ lực lượng lao động chưa sẵn sàng để chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, càng chưa sẵn sàng để hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức. - Về cơ cấu lao động. + Cơ cấu lao động theo độ tuổi: tính đến ngày 1/7/2000, lực lượng lao động của cả nước ở nhóm tuổi 15–24 có 8.44,6 ngàn người chiếm 21,85% lực lượng lao động nói chung; lực lượng lao động ở nhóm tuổi 25-34 có 10.894,9 ngàn người chiếm 15,06%; lực lượng lao động ở nhóm tuổi 45-54 có 5.822,1ngàn người, chiếm15,06%; lực lượng lao động ở nhóm tuổi 55-59 có 12266 ngàn người chiếm 3,17% và lực lượng lao động ở tuổi 60 có 1.359,7 ngàn người chiếm 3,53%. Nếu chia theo 3 nhóm: lực lượng lao động trẻ (15-34 tuổi) có 19.339,5 ngàn người chiếm 50,04%; lực lượng lao động trung liên (35-54 tuổi) có 16.717,3 ngàn người chiếm 43,26%; lực lượng lao động cao tuổi (55 tuổi trở nên) có 2.586,4 ngàn người chiếm 6,7% so với tổng số. Qua số liệu trên ta thấy rằng nước ta lao động trẻ chiếm bộ phận lớn trong lực lượng lao động của cả nước. Đây sẽ là bộ phận năng động sáng tạo có khả năng nắm bắt tiến bộ khoa học tiên tiến nhanh chóng, nhưng cũng thấy rằng so với năm 1996 lực lượng lao động trẻ giảm từ 55,82% xuống 50,04% năm 2000. Điều này chứng tỏ lao động nói chung của cả nước đang có xu hướng già hoá. +Cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế: Lao động trong các ngành nông lâm ngư nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, song cơ cấu lao động đang trong quá trình chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ lệ lao động trong các ngành nông lâm ngư nghiệp. Nhưng khu vực công nghiệp lại chưa có khả năng thu hút mạnh lao động nông nghiệp. Năm 2000 cả nước có 22650,8 ngàn người làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp, chiếm 62,56%, có 4761,4 ngàn người làm việc trong nhóm ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 13,15%, có 8794,8 ngàn người làm việc trong nhóm ngành dịch vụchiếm 24,29%so với tổng số, năm 1996 chỉ tiêu này là 24366,7 ngàn người và 69,80% trong nông nghiệp, 3682,1 và 11,93% trong công nghiệp, 6838,8 và 19,65% trong dịch vụ. Như vậy bình quân hàng năm giai đoạn 1996-2000 số lao động làm việc thường xuyên trong nông nghiệp giảm được 1,02% với quy mô giảm là 237,8 ngàn người, trong công nghiệp tăng thêm 7,49% với quy mô tăng 298,7 ngàn ngưòi, trong dịch vụ tăng thêm 7,26%, với quy mô tăng 537,8 ngàn người +Cơ cấu lao động theo khu vực: Nhìn chung lao động khu vực thành thị có xu hướng tăng, năm 1996 lực lượng lao động ở khu vực thành thị chiếm 19,06%; năm 1997 tăng lên 20,20%; năm 1999 là 22,28%; năm 2000 là 22,56%. Lao động ở khu vực nông thôn vận động theo xu hướng ngược lại, tỷ lệ giảm hàng năm là 0,7%; năm 1996 tỷ lệ lao động ở nông thôn chiếm 80,94% và năm 2000 chiếm 77,44%. 1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến cung lao động. 1.2.1. Dân số: Cung lao động là một bộ phận cấu thành của dân số, một dân số đông và tăng nhanh sẽ tạo nên một cung lao động lớn nhưng không đồng thời mà sau một thời gian nhất định do cơ cấu tuổi quyết định. Như vậy dân số được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động, quy mô và cơ cấu dân số có ý nghĩa quyết định đến quy mô và cơ cấu nguồn lao động. Đến lượt mình dân số lại chịu ảnh hưởng của các quá trình sinh, chết, di dân, phong tục tập quán, trình độ phát triển kinh tế, mức độ chăm sóc y tế và chính sách của từng nước đối với vấn đề khuyến khích hay hạn chế sinh đẻ. Tình hình tăng dân số trên thế giới hiện nay có sự khác nhau giữa các nước. Nhìn chung các nước phát triển có mức sống cao thì tỷ lệ tăng dân số thấp, ngược lại những nước kém phát triển thì tỷ lệ tăng dân số cao. Các nước đang phát triển dân số tăng nhanh trong khi kinh tế phát triển chậm, làm cho mức sống của nhân dân không tăng lên và tạo áp lực lớn trong giải quyết việc làm. Nước ta cũng thuộc diện trên, nhưng những năm gần đây tỷ lệ tăng dân số có xu hướng giảm dần cho thấy qua phân tích cơ cấu tuổi của cơ cấu dân số: Tỷ lệ dân số nhóm tuổi 0-14 so với tổng dân số giảm từ 42,55% năm 1997 xuống còn 38,36% năm 1998 và 33,49% năm1999, trong khi khoảng tuổi 15-59 tăng từ 50,39% lên 54,45% năm 1998,58,39% năm 1999 và năm 2001 là 59,25%, khoảng tuổi từ 60 trở lên cũng tăng. Xu hướng trên cho thấy rằng tỷ lệ sinh giảm dần. Các số liệu tổng điều tra dân số cho biết tỷ lệ sinh giảm liên tục trong vòng 20 năm kể từ năm1979 đến nay. Trong thời kỳ 1979-1984 tỷ lệ sinh trung bình là 3,35% giảm xuống còn 2,05% trong thời kỳ 1994-1999. tương ứng số sinh tuyệt đối cũng giảm nhanh đặc biệt là năm 1999 so với năm 1998 giảm 400 nghìn trẻ em. Số sinh năm nay giảm cũng có nghĩa là số lao động của 15 năm sau và đồng thời là giảm sức ép của cung lao động của nhiều năm kế tiếp. Một trong những yếu tố dân số học quan trong ảnh hưởng đến cung là di dân. Sự di chuyển của con người kèm theo sự thay đổi nơi sinh sống thường xuyên làm thay đổi không chỉ số lượng dân mỗi vùng mà còn làm thay đổi cơ cấu tuổi và giới tính. 1.2.2. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là số phần trăm của dân số trong độ tuổi lao động có tham gia lực lượng lao động trong tổng số nguồn nhân lực. Nhân tố cơ bản tác động đến tỷ lệ tham gia lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động không có nhu cầu làm việc vì đang đi học, đang làm công việc nội trợ hoặc trong tình trạng mất khả năng lao động, đây là dân số không hoạt động kinh tế. Nước ta năm 1989 dân số không hoạt động kinh tế là 25,7% so với tổng số dân, 1999 là 26,5% và năm 2001 là 28,1%. Điều này có nghĩa là tỷ lệ tham gia lực lượng lao động có xu hướng giảm dần. 1.2.3. Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp: Thất nghiệp gồm những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc. Số người không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến số người làm việc và ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của nền kinh tế vì người không có việc làm sẽ không có thu nhập, phải sống nhờ những người đi làm. Như vậy chất lượng cuộc sống của cả người có việc làm và những người thất nghiệp giảm, thu nhập của toàn xã cũng giảm. Thất nghiệp là vấn đề trung tâm của mọi quốc gia vì nó không chỉ tác động về kinh tế mà còn tác động về khía cạnh xã hội, không có việc làm quá phát sinh nhiều tệ nạn xã hội như trộm cắp để có tiền chi tiêu, nhàn rỗi dẫn dến nghiện hút… Theo cách tính thông thường tỷ lệ thất nghiệp bằng tỷ lệ phần trăm giữa tổng số người thất nghiệp và tổng số nguồn lao động. Nhưng đối với các nước đang phát triển tỷ lệ thất nghiệp này chưa phản ánh đúng sự thực về nguồn lao động chưa sử dung hết. Ơ nước ta nguồn lao động chưa sử dụng hết chủ yếu ở nông thôn. Đây là bộ phận thất nghiệp trá hình, là những người có việc làm, nhưng làm việc với mức năng suất thấp, họ đóng góp rất ít hoặc không đáng kể vào phát triển sản xuất. Đánh giá chung về tỷ lệ thất nghiệp của cả nước: Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 6,34% năm 2001, tỷ lệ thất của các khu vực giao động trong khoảng 6%-8% cụ thể ở một số nơi Hà Nội là 7,95%, Hải Phòng là 7,76%, Cần Thơ là 7,15%, TP HCM là 6,48%, Đà Nẵng 5,95%. 1.2.4. Thời gian lao động: Thời gian lao động thường được tính bằng số ngày làm việc/ năm; số giờ làm việc/ năm; số ngày làm việc/ tuần; số giờ làm việc/ tuần hoặc số giờ làm việc/ngày. Xu hướng chung của các nước là thời làm việc sẽ giảm đi khi trình độ phát triển kinh tế được nâng cao. Nước ta thời gian làm việc do nhà nước quy định giảm xuống 40 giờ/tuần so với trước là 48 giờ/ tuần tại các cơ quan nhà nước, ở nông tỷ lệ sử dụng thời gian thấp 71%. Nhìn chung dân số nước ta đông, tỷ lệ thất nghiệp cao, thời gian sử dụng lao động không cao nên cung lao cao. 2. Thực trạng giải quyết việc làm. 2.1. Cầu lao động. 2.1.1. Khái niệm cầu lao động. Cầu lao động là khả năng thuê lao động trên thị trường lao động, nó thể hiện khả năng cung cấp việc làm của một quốc gia.Cầu lao động cũng phản ánh phần nào nền sản xuất phát triển của một quốc gia. 2.1.2. Đặc điểm cầu lao động ở nước ta. Nước ta là một nước nông nghiệp, nghèo có dân số đông với tốc độ tăng cao, nguồn lao động dồi dào, năng suất lao động thấp, cung lao động luôn lớn hơn cầu lao động. Do đó tình trạng chung là nền kinh tế luôn có lực lượng lao động dư thừa dưới nhiều hình thức, tình trạng thiếu việc làm là chủ yếu. Nhu cầu lực lượng lao động nông thôn vẫn là chủ yếu, chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành chậm chạp và không thực sự vững chắc. Giai đoạn1993-2000 tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp chỉ giảm được từ 71% xuống 62,56%, năm 1999 có sự giảm tỷ trọng trong ngành dịch vụ và sự biến động không đáng kể của ngành nông nghiệp và công nghiệp xây dựng. Như vậy cơ cấu lực lượng lao động của nước quá lạc hậu. Đặc điểm về cơ cấu lực lượng lao động theo khu vực là có sự biến động khá lớn. Lao động trong khu vực nhà nước chiếm tỷ lệ nhỏ mặc dù tỷ trọng đóng góp vào GDP khá lớn. Cầu lao động trong các doanh nghiệp nhà nước kể từ năm 1990 trở lại đây có xu hướng giảm do tổ chức laị sản xuất, sắp xếp lại lao động, tinh giảm bộ máy quản lý. Khu vực ngoài quốc doanh thu hút phần lớn lao động, cầu lao động của các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có xu hướng ngày càng tăng do sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này góp phần giải quyết cho lượng lao động khá lớn. Từ 1990-1998 bình quân mỗi năm có 5000 doanh nghiệp và công ty tư nhân mới được thành lập tạo ra hơn 500 nghìn chỗ làm việc. Cầu lao động của các doanh nghiệp tư nhân nhỏ cũng khá lớn, tính đến năm 1997 cả nước có khoảng 620 nghìn doanh nghiệp hộ gia đình thuê lao động. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng cao xong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không thu hút nhiều lao động, đến năm 1999 thu hút khoảng 45 vạn, chiếm 1,27% lao động có việc làm. Như vậy sự phát triển của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh là nhân tố quan trọng để thúc đâỷ tăng cầu trên thị trường lao động. Xuất khẩu lao động cũng là một hướng đi cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho người lao động và tác động làm tăng cầu lao động. Những thị trường xuất khẩu truyền thống được giữ vững của nước ta là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Lào, Libi, khu vực Trung Đông. 2.1.3. Những nguyên nhân của việc hạn chế cầu lao động. Phần lớn nguồn lao động nằm ở khu vực nông thôn, nhưng diện tích đất canh tác bình quân đầu người ở đây thấp, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp ở đây chậm chạp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở đây kém phát triển, mức đầu tư cho nông nghiệp còn hạn chế. Khu vực ngoài quốc doanh đặc biệt là kinh tế hộ gia đình và các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều khả năng tạo việc làm nhưng khu vực này đang phải đối đầu với nhiều khó khăn trong điều kiện mở cửa và hội nhập, sản phẩm kém cạnh tranh do chất lượng không cao, ngoài ra môi trường kinh doanh chưa ổn định, còn nhiều rủi ro, thiếu thông tin, thiếu sự hỗ trợ, hạn chế về vốn. Khu vực nhà nước cũng đang gặp nhiều thách thức, khó khăn trong sản xuất kinh doanh dù có nhiều khoản đầu tư và chính sách hỗ trợ. Hơn nữa tình trạng dư thừa lao động tại các doanh nghiệp nhà nước cũng là vấn đề đáng quan tâm với tỷ lệ lao động dôi dư năm 1999 là 9%. Ngoài ra, vấn đề chung của nước ta là thiếu vốn đầu tư , chiến lược lựa chọn công nghệ thích hợp chưa được xác định thật rõ ràng, cơ cấu kinh tế đang trong quá trình chuyển dịch nhưng diễn ra rất chậm. Một số ngành vùng có tiềm năng lớn, có khả năng thu hút nhiều lao động nhưng thiếu điều kiện để biến khả năng thành hiện thực như vốn, hạ tầng cơ sở, kỹ thuật và công nghệ hoặc thị trường tiêu thụ. 2.2. Thực trạng việc làm. 2.2.1. Tình hình chung về giải quyết việc làm ở nước ta. Mục đích của tăng trưởng là tiến tới làm giầu cuộc sống của mọi người dân. Do đó xét cho cùng phát triển nhân lực chính là tăng trưởng kinh tế. Nếu không có tăng trưởng kinh tế thì khó có thể tạo được việc làm và có thu nhập. Vì vậy việc làm là cầu nối giữa tăng trưởng kinh tế và các cơ hội phát triển nhân lực. Thực trạng việc làm biểu hiện trạng thái phát triển nhân lực của một đất nước. Hiện nay giải quyết việc làm cho người lao động đang là vấn đề nan giải ở nước ta. Trong giai đoạn 1996-2000 cả nước đã tạo ra 6,1 chỗ làm việc, trong đó 2 năm gần đây số làm việc được tạo ra tương đối cao,năm 2000 đã giải quyết được khoảng 1,3 triệu lao động trong đó giải quyết việc làm trong nước là 1,27 triệu , xuất khẩu 3 vạn người. Tổng số người có việc làm thường xuyên tăng từ 33,978 triệu (năm 1996) lên 33,677 triệu (năm 2001). Tỷ lệ người làm công ăn lương tăng cao, năm 1997-1998 tỷ lệ này là19,48% trong tổng số việc làm. Nhìn chung số chỗ việc làm mới tạo ra hàng năm có xu hướng tăng trong suốt thời kỳ. Nếu thời kỳ 1991-1995 số chỗ làm việc tăng thêm bình quân hàng năm là 863 ngàn người thì thời kỳ 1996-2000 là 1,2 triệu người tăng 39% so với thời kỳ 1991-1995. Tổng số chỗ việc làm hiện nay là 40,6 tăng đáng kể so với 30,2 triệu chỗ năm 1990. Giải quyết việc làm theo khu vực công nghiệp và xây dựng 33-35 vạn, nông lâm ngư nghiệp 50-60 vạn, khu vực đô thị tạo khoảng 28 vạn chỗ làm việc mới, khu vực nông thôn tạo được gần 1 triệu chỗ làm việc mới. Tăng trưởng kinh tế cao góp phần giải quyết việc làm và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, trong giai đoạn 1992-1997 GDP tăng trưởng với tốc độ trung bình là 9,1% trong khi lao động tăng 3,1% . Như vậy tăng trưởng 3% GDP sẽ tăng 1% việc làm. Tuy vậy tình trạng thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ở nước ta còn gay gắt. Trong 61 tỉnh thành phố, vẫn còn 11 tỉnh thành phố có tỷ lệ thất nghiệp trên 7%, 24 tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp từ 6%-6,5% chỉ có 27 tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp ở mức dưới 6%. Do tốc độ tăng dân số ở nước ta còn cao 1,8% nên số chỗ mà cơ hội việc làm được mở rộng cũng không đủ thu hút hết số thất nghiệp tồn đọng đặc biệt là khu vực thành thị. 2.2.2. Hiện trạng việc làm ở khu vực nông thôn. ở Việt nam nông nghiệp vẫn còn là một ngành kinh tế quan trọng trong nhiều thập kỷ tới. Nông thôn vẫn còn là khu vực địa lý rộng lớn và là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của quá trình CNH, HĐH đất nước. Vì vậy trong giải quyết việc làm của cả nước, phải đặc biệt chú ý quan tâm đến giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn. Hiện nay vấn đề việc làm ở khu vực nông thôn hết sức bức xúc. Chúng ta thấy rằng đội ngũ lao động nông nghiệp nông thôn quá lớn do nước ta là một nước nông nghiệp gần 80% sinh sống ở vùng nông thôn, lực lượng lao động tăng bình quân hàng năm khá cao72 vạn người với tốc độ tăng hàng năm 2,46%, càng góp phần làm lực lượng lao động nông thôn ngày càng nhiều, trong khi nhu cầu sử dụng lao động ở mức thấp. Năm 2000 nguồn nhân lực của cả nước là 46 triệu người trong đó khu vực nông thôn là34,7 triệu người, nhưng nhu cầu lao động nông thôn tối đa gần 21 triệu người. Như vậy về cơ bản nông thôn vẫn là khu vực tạo việc làm phần lớn cho lao động xã hội, nhưng khu vực nông thôn lại là nơi thiếu việc làm nghiêm trọng. Số người thiếu việc làm ở khu vực nông thôn tập trunh nhiều nhất ở lứa tuổi 15-34 (29,39%) và nhóm 35-44 (21,29%). Chất lượng nguồn lao động nông thôn thấp với lực lượng lao động qua đào tạo (sơ cấp và học nghề trở nên) mới chiếm 9,28%, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cổ truyền. Đây là vấn đề khó khăn trong giải quyết việc làm nhất là trong giai đoạn hiện nay. Vì lao động nông thôn dôi dư nhiều trong khi một số khu công nghiệp và đô thị được hình thành ở đây nhưng trình độ lao động nông nghiệp thấp không tuyển dụng vào làm việc được. Để đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH nông thôn, trình độ thấp không đủ khả năng giải quyết những vấn đề trong nông nghiệp và nông thôn. Đảm bảo lao động có trình độ cao có đào tạo nghề là một hướng chủ yếu trong giải quyết việc làm cũng như phát triển đất nước đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH đất nước. Lao động nông thôn có xu hướng tăng bị làn chặt trong đơn vị diện tích đất canh tác có xu hướng giảm dần. Cùng với quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn, quá trình đô thị hoá diễn ra khá mạnh làm cho đất nông nghiệp mất dần nhất là những vùng nông thôn ven đô thị lớn. Lực lượng lao động lớn cũng là nguyên nhân dẫn đến hệ số sử dụng thời gian lao động thấp. Nhờ các tác động của chuyển đổi cơ cấu, cải cách hành chính và các biện pháp tích cực tạo việc làm nên hệ số sử dụng lao động thời gian qua đã được nâng nên nhưng cũng chỉ đạt mức 60% năm 1996; 65% năm 1997 và 70% năm 1999. Đây là tình trạng lao động nông thôn có nhiều thời gian nhàn rỗi. Cơ cấu lao động nông thôn lạc hậu và qua trình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm, nông dân sản xuất tự cung tự cấp là chủ yếu, sản xuất lương thực chỉ đủ ăn không làm giầu được. Các hoạt động nông nghiệp là chủ yếu, hoạt động phi nông nghiệp ít và không phát triển. Vì vậy lao động dôi dư không thể chuyển sang các ngành khác vì công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn phát triển chậm. Giá trị lao động và thu nhập thấp : giá trị lao động bình quân hàng năm của lao động ở nông thôn rất thấp 531 nghìn (1990); 572 nghìn (1995); 597 nghìn (1997). Tốc độ tăng năng suất lao động hàng năm chỉ đạt 1,5% thời kỳ 1990-1995 và 3% thời kỳ 1996-2000. Với giá trị lao động thấp như vậy, thu nhập của người lao động nông nghiệp nông thôn trở nên quá ít ỏi, phần lớn không có tích luỹ. Đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đói nghèo, không phát triển được. 2.2.3. Hiện trạng việc làm ở khu vực thành thị. Tình trạng việc làm ở khu vực thành thị luôn diễn ra căng thẳng, cấp bách do tính chất và quy mô số người chưa có việc làm: Số người chưa có việc làm phần lớn tập trung ở lứa tuổi thanh niên. Đó là lực lượng lao động trẻ mới bước vào tuổi lao động, đại bộ phận chưa lập gia đình, về cơ bản chưa có nghề. Họ thụ động và kén chọn nghề, thà thất nghiệp chứ không chịu làm việc nặng nhọc và thu nhập thấp nhường việc đó cho bộ phận nông dân tràn ra thành thị.Rất nhiều người lao vào con đường thi cử vào các trường đại học, xô vào học ngoại ngữ, vi tính để mong tìm được việc làm có thu nhập cao làm thị trường lao động thành thị càng căng thẳng. Hiện tượng thất nghiệp trong giới có học có xu hướng ngày càng mở rộng. Đó là hiện tượng số sinh viên tốt nghiệp các trường đại học không muốn rời khỏi thành phố về quê sau khi ra trường, nhưng cũng không tìm được việc làm ngay. Tái thất nghiệp cũng là hiện tượng đáng lưu ý, bởi trong cơ chế thị trường để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ, do vậy đòi hỏi đội ngũ lao động có chất lượng cao hơn, trẻ hơn dẫn đến sa thải lao động cũ. Những người muốn có việc làm nhất thiết phải được đào tạo lại. Vấn đề nhức nhối của khu vực thành thị là cho người mắc phải tệ nạn xã hội, dòng người nông thôn vào thành thị tìm kiếm việc làm đã hình thành các trợ lao động, người lang thang. 2.2.4. Thực trạng việc làm theo nhóm ngành kinh tế. Trong thời gian qua cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm đã có chuyển biến tích cực theo hướng đa dạng hoá ngành nghề. Đó là tăng tỷ trọng lao động làm việc trong công nghiệp và xây dựng, giảm tỷ trọng lao động làm việc trong nông nghiệp. Bảng1: Thực trạng việc làm theo nhóm ngành kinh tế Năm Tổng Nông, Lâm, Ngư nghiệp Công nghiệp và Xây dựng Dịch vụ 1985 100 72,9 13,6 13,5 1990 100 72,3 13,9 13,8 1995 100 68,0 13,25 18,75 2000 100 61,3 15,41 23,29 2.2.5. Thực trạng việc làm theo khu vực kinh tế. -Tỷ lệ lao động trong khu vực nhà nước giảm liên tục từ 14,7% (1985) xuống dưới 9% vào giữa những năm 90 và gần đây có xu hướng tăng trở lại song cũng chỉ đạt 9% vào năm 2000. -Khu vực kinh tế hộ gia đình và ngoài quốc doanh giữ vai trò chủ yếu trong tạo việc làm mớicó 113 trang trại thu hút khoảng 678.000 lao động -Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thể hiện một tiềm năng và ưu thế trong tạo việc làm. Hiện nay, có khoảng 41.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 96% số doanh nghiệp cả nước, thu hút gần 49% lực lượng lao động phi nông nghiệp. -Khu vực có vốn đầu tư nước, kể cả dịch vụ và công nghiệp từ 1993-1998 thu hút khoảng 300.000 lao động. 2.2.6. Thực trạng việc làm thông qua các chương trình mục tiêu. Từ 1991- 2000, đã tiến hành xuất khẩu lao động sang 38 nước và vùng lãnh thổ, số lượng lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài ngày một tăng. Hiện tại đang có khoảng 250.000 lao động và chuyên gia Việt nam làm việc ở nước ngoài. Ngoài ra còn các chương trình việc làm khác: Bảng2: Thực trạng việc làm qua các chương trình. Chương trình 1991-1995 1995-2000 1991-2000 1. Xoá đói giảm nghèo 2. Chương trình Việt-Tiệp, EU, Đức 3. Chương trình327,733 4. Chương trình tín dụng nông thôn và các chương trình khác 120 250 480 1730 380 250 520 1970 500 500 1000 3700 Cộng 2580 3120 5700 Chương 3 Phương hướng việc làm cho thời kỳ phát triển kinh tế 2001- 2010 1. Quan điểm của chính sách việc làm Trong chính sách giải quyết việc làm một nguyên tắc cơ bản cần được thực hiện là đảm bảo công bằng xã hội trên cơ sở nhà nước tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mọi người có cơ hội trong việc tìm kiếm và tự do việc làm, tránh tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước. Cùng với việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, con người được đặt đúng vị trí trung tâm của sự phát triển, con người cần tích cực chủ động tự tạo việc làm cho mình và thu hút thêm lao động xã hội, thông qua việc đầu tư phát triển sản xuất và dịch vụ. Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ về tài chính để xúc tiến việc làm, có các chính sách về việc làm, nhằm thu hút sự đầu tư nước ngoài để giải quyết việc làm. Ngoài ra, nhà nước bảo vệ khuyến khích mọi người làm giàu một cách chính đáng, bảo đảm quyền tự do di chuyển chỗ làm, việc làm, tự do hành nghề. Từ đó chúng ta thấy rằng quán triệt những quan điểm sau: -Thay đổi quan niệm nhận thức về việc làm. Trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, Nhà nước phải lo mọi vấn đề về lao động và việc làm từ đào tạo, phân bổ đến sử dụng và đãi ngộ. Cơ chế ấy đã hạn chế đáng kể việc tự do di chuyển lao động, tự do hành nghề. Do vậy hạn chế việc phát huy sức mạnh nguồn nhân lực cũng như quá trình tăng trưởng và phát triển nền kinh tế xã hội nói chung. Từ khi có cơ chế mới, cơ chế thị trường đã thu hút lao động, tạo khả năng mở thêm hàng triệu chỗ việc làm. Do vậy trong cơ chế thị trường tự do hoá lao động phải là quan điểm cơ bản nhất để hình thành chính sách việc làm trong điều kiện mới. Quan điểm này được thể chế hoá thành luật pháp để bảo đảm cho người lao động tự do hành nghề, liên doanh, liên kết và tự do thuê mướn lao động trên cơ sở pháp luật và sự hướng dẫn của Nhà nước. -Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với nguồn lao động khá lớn hiện nay thì thất nghiệp là điêù khó tránh khỏi. Vấn đề cơ bản là nhà nước phải kiểm soát được thị trường lao động nhằm khống chế và hạn chế thất nghiệp đến mức thấp nhất bảo đảm sự an toàn cho phép. -Chính sách việc làm phải được hướng vào tiếp tục giải phóng tiềm năng lao động, khuyến khích các lĩnh vực ngành nghề và nhiều hình thức hoạt động có khả năng thu hút nhiều lao động, đặc biệt khuyến khích những người có vốn, kỹ thuật và công nghệ đầu tư vào sản xuất, kinh doanh dịch vụ đẻ tạo ra việc làm mới thu hút thêm nhiều lao động xã hội. -Chính sách việc làm phải nhằm hoàn thiện số lượng, chất lượng nguồn nhân lực. Gắn với chất lượng nguồn nhân lực phải phát triển hệ thống giáo dục đào tạo nhằm vừa nâng cao dân trí vừa đáp ứng yêu cầu lao động cá kỹ thuật cao trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời tạo điều kiện cho lao động tự tạo việc làm. Vì vậy Nhà nước cần tổ chức khuyến khích việc đào tạo, đào tạo lại và phổ cập nghề để người lao động có thêm nhiều cơ hội hơn trong việc tìm kiếm việc làm hoặc tự tạo việc làm. -Giải quyết việc làm theo các chương trình dự án có mục tiêu, có vốn đầu tư từ nhiều nguồn và lập quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Gắn vấn đề lao động việc làm với chiến lược phát triển kinh tế xã hội cũng như các chương trình quốc gia khác như tín dụng, phát triển nông thôn, quy hoạch và phát triển đô thị, xuất khẩu lao động ra nước ngoài. 2. Mục tiêu giải quyết việc làm. Trong giai đoạn tới nước ta xác định mục tiêu chủ yếu giải quyết việc làm cho người lao động là hình thành một lực lượng lao động xã hội đông đảo có cơ cấu và chất lượng phù hợp với nền kinh tế thị trường, từ đó tạo khả năng giải quyết nhiều nhất lượng lao động hiện nay 2.1. Trên cơ sở đó mục tiêu cụ thể trong 10 năm tới. Trước hết phát triển kinh tế xã hội duy trì tỷ lệ tăng GDP hàng năm không dưới 7% để tạo 5 - 5,5 nghìn chỗ làm việc mỗi năm giai đoạn 2001 - 2005. Tạo việc làm cho 13,5 triệu lao động, bình quân mỗi năm là 1,35 triệu, giải quyết cơ bản vấn đề lao động ở cả thành thị và nông thôn nâng tỷ lệ người lao động có việc lên khoảng 40% Thu hút số lao động vào khu vực dịch vụ là 3,7 triệu, trong 5 năm đầu là 1,9 triệu, phát triển xây dựng các khu công nghệ cao, các khu công nghiệp, khu kinh tế mở để thu hút lao động có trình độ, với lượng lao động khu công nghiệp là 4,9 triệu, 5 năm đầu là 2,5 triệu Chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp xuống 50%, công nghiệp và xây dựng là 23%, dịch vụ là 27%, trong đó đến năm 2005 các tỷ lệ đó là 55%, 21%, 27%.Tăng tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn lên 85%. Đến năm 2005 tạo chỗ làm việc ổn định cho hơn 40 triệu lao động, trong đó 22,6 triệu thuộc khu vực sản xuất nông lâm ngư nghiệp, 8 triệu người thuộc khu vực sản xuất công nghiệp, 9,4 triệu người khu vực dịch vụ Mục tiêu đưa 0,8 - 1 triệu lao động làm việc ở nước ngoài, đảm bảo việc làm ở nước ngoài không chỉ số lượng mà cả chất lượng. Trước tiên giai đoạn 2002-2005 thông qua xuất khẩu lao động và chuyên gia bình quân hàng năm là 300 ngàn. Đẩy mạnh đào tạo nghề và bổ túc nghề cho hơn 1,5 triệu lao động mỗi năm, trong đó 5 năm đầu là 626 ngàn, 5 năm sau khoảng 1 triệu mỗi năm. 2.2. Đào tạo đội ngũ lao động. Mục tiêu đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng cao năm vững khoa học công nghệ hiện đại, tay nghề vững vàng đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện, đại hoá đất nước góp phần ngăn chặn nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực. Trong Hội thảo đào tạo nghề 2001 – 2010 nhấn mạnh chiến lược đào tạo nghề và việc làm là quốc sách hàng đầu, đào tạo nghề là nhiệm vụ hàng đầu cần được ưu tiên. Mục tiêu chung: - Đào tạo và bồi dưỡng nhân lực kỹ thuật với chất lượng cao với quy mô và cơ cấu ngành nghề hợp lý. Phấn đấu đến năm 2005 mỗi địa phương có ít nhất một trường dạy nghề và đến năm 2010 mỗi quận/ huyện có ít nhất một trung tâm dạy nghề trên địa bàn. Nâng tỷ lệ thu hút học sinh sau THCS vào học nghề từ 6% năm 2000 lên 15% năm 2005 và 25% năm 2010. Phấn đấu đến năm2005 đạt tỷ lệ qua đào tạo nghề tăng từ 13% năm 2000 lên 22% năm 2005 và đạt 30% năm 2010. Nâng tỷ lệ được đào tạo từ 22% năm 2000 lên 30% năm 2005 và 40% năm 2010 và để đảm bảo mục tiêu tốc độ tăng của lao động qua đào tạo trong 10 năm tới là 9,4%/ năm, trong đó thời kỳ 2001 –2005 là 9,2%, 2006 – 2010 là 9,7%/ năm so với mức 7,9% thời kỳ 1980 – 2000. Như vậy mục tiêu đào tạo nghề mỗi năm trên 1,5 triệu thời kỳ 2001 – 2010. Đào tạo nghề với mục quan trọng để người lao động tìm kiếm nhiều cơ hội làm việc tốt, tăng khả năng có được việc làm, nhất là có nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp phát triển chung của đất trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập. -Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn cũng là vấn đề rất được quan tâm trong mục tiêu giải quyết việc làm nhằm phát triển bền vững nông nghiệp và nông thôn Việt nam. Nông nghiệp nông thôn Việt nam chiếm vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong sư nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn coi đó là nền tảng để phát triển kinh tế xã hội, ổn định chính trị. Mục tiêu để phát triển trong giai đoạn tới hướng vào những nội dung chủ yếu: ỳ Nhanh chóng đào tạo, đào tạo lại lực lượng lao động nông thôn để họ có thể tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tăng năng suất lao động, tạo điều kiện đổi mới tư duy kinh tế và tổ chức cuộc sống. Mục tiêu đến năm 2010 năng suất lao động tăng 4 – 5%/ năm. ỳ Đào tạo nguồn nhân lực nông thôn cần hương vào phục vụ chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành nông lâm, thuỷ lợi. ỳ Tăng cường đào tạo các kiến thức mới và cấp bách để phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển các hoạt động phi nông nghiệp. ỳ Tăng cường cập nhật và phổ biến thông tin các vấn đề khoa học kỹ thuật, kinh tế xã hội thiết thực cho người dân ở nông thôn như thành lập các trung tâm, mạng lưới thông tin, phát triển các phương tiện thông tin nghe nhìn. 2.3. Đảm bảo nguồn lao động phục vụ qúa trình CNH, HĐH, đất nước. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt nam trong 10 năm tới là đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện thành công công cuộc CNH, HĐH đất nước phải đảm bảo về nguồn lực lao động. Nguồn lực lao động ở đây gồm cả chất lượng lao động và số lượng lao động, trong đó đặc biệt quan tâm đến chất lượng lao động: cơ cấu, quy mô, chất lượng đào tạo, thời gian lao động, năng suất lao động, thu nhập, thể chất, văn hoá của người lao động. Một lợi thế của Việt nam là số lượng lao động khá dồi dào, trẻ và có triển vọng phát triển. Tuy nhiên chúng ta không sử dụng một cách khoa học, hợp lý và hiệu quả thì sẽ có kết quả ngược lại là số lao động kìm hãm quá trình CNH, HĐH. Như vậy công tác giáo dục đào tạo nguồn lao động giữ vai trò quyết định trong sự nghiệp CNH, HĐH. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy nước nào có tỉ biết chữ cao (75-90%) đều thành công trong phát triển kinh tế. Do đó việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực bồi dưỡng nhân tài trong những năm đầu của thế kỷ 21 được coi là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Đối với giáo dục đại học đặc biệt đào tạo kỹ thuật nghề nghiệp là một bộ phận chủ yếu tạo nguồn lao động có chuyên môn cao cho CNH, HĐH đất nước. Đào tạo phải coi trọng quy mô đào tạo, chất lượng đào tạo, hiệu quả đào tạo gắn liền với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 2.4. Nâng cao chất lượng nguồn lao động cho cạnh tranh và hội nhập Lâu nay nước ta được đánh giá như một lợi thế “nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, lao động cần cù thông minh, hiếu học và có khả năng tiếp thu nhanh kỹ thuật mới”. Điều này đúng nhưng chưa thật toàn diện và có mặt chưa hoàn toàn thích ứng trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập trước xu thế toàn cầu hoá và nền kinh tế trí thức. Toàn cầu hoá sẽ làm dòng di chuyển nguyên vật liệu, nguồn lao động giữa các nước nhiều hơn. Các doanh nghiệp nước ta phải đối mặt với cạnh tranh nhiều hơn, phải có các sản phẩm mà do năng suất lao động tăng, chất lượng tốt, giá thành hạ do sản xuất đem lại. Muốn đạt được các tiêu chuẩn như vậy thì tiêu chuẩn nguồn lao động có chất lượng cao càng có vị trí quan trọng đặc biệt là có đội ngũ cán bộ giỏi năng động, thích nghi nhiều điều kiện hoàn cảnh Đảm bảo cán bộ trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế theo các hướng: - Tuyển dụng cán bộ chặt chẽ đáp ứng yêu cầu về năng lực phẩm chất - Bồi dưỡng cán bộ: cán bộ được tuyển dụng phải qua kỳ huấn luyện do cán bộ ngành, lĩnh vực sử dụng cán bộ tiến hành. - Thuyên chuyển vị chí công tác: Thuyên chuyển cũng là quá trình đào tạo trong thực tế vừa tăng hiểu biết theo chiều rộng, vừa nâng cao kiến thức theo chiều sâu cho cán bộ. 3. Phương hướng giải quyết việc làm. 3.1. Dân số là cơ sở hình thành nguồn lao động vì vậy cần: Giảm tỷ lệ tăng dân số để giảm cung lao động, hạn chế mức chênh lệch quá lớn giữa cung và cầu lao động là hướng trước tiên để giải quyết việc làm. Song đó là phương hướng có tính chiến lược dài hạn, nhưng chúng ta phải có những giải pháp đủ mạnh và thực hiện một cách quán triệt. 3.2. Thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ tích cực với những nét đặc trưng chủ yếu sau: -Tăng nhanh tỷ trọng của các khu vực công nghiệp-xây dựng, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp nhăm tạo cơ cấu của một nền kinh tế có khả năng tạo thêm nhiều việc làm mới và thu hút ngày càng nhiều lực lượng lao động. Đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn. -Thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn làm cơ sở cho việc phát triển nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động nông thôn. Nhà nước kích thích quá trình này bằng cách hỗ trợ xây dựng các công trình cấu trúc hạ tầng như cấp điện, giao thông, thông tin liên lạc, các trung tâm thương mại dịch vụ. Khuyến khích dân cư nông thôn tự tạo việc làm ngay tại quê hương mình. Đồng thời phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn. Đó là chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị trên diện tích đất canh tác, khuyến khích phát triển các ngành nghề và làng nghề truyền thống. Tăng việc sử dụng thời gian lao động trong nông nghiệp, đặc biệt trong các thời kỳ nông nhàn, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nông thôn. 3.3. Cải tiến và đổi mới cơ chế huy động vốn, sử dụng và quản lý vốn đầu tư theo những hướng sau: - Đa dạng hoá hình thức huy động vốn và thường xuyên điều chỉnh lãi xuất cũng như việc thuận lợi hoá việc gửi tiền và rút tiền tiết kiệm nhằm huy động ngày càng nhiều vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn vốn cho vay lớn để phát triển kinh tế tạo việc làm - Cải tiến cơ cấu sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước theo hướng chủ yếu dành để xây dựng kết cấu hạ tầng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác đầu tư vào phát triển khu vực, các ngành kinh tế có khả năng tạo thêm được nhiều chỗ làm việc hơn, khả năng sinh lời và quay vòng vốn nhanh hơn. -Tăng nguồn vốn trung hạn và dài hạn hỗ trợ cho nhân dân, đặc biệt là nông dân trong quá trình tạo việc làm và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. 3.4. Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình phát triển kinh tế xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư trong nước và nước ngoài mở mang ngành nghề tạo nhiều việc làm cho người lao động. Có chính sách thoả đáng khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế trang trại và kinh tế hộ gia đình, các chương trình phát triển kinh tế xã hội trọng điểm, đặc biệt là các công trình trọng điểm quốc gia, các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng sử dụng nhiều lao động Đẩy nhanh công tác dậy nghề và hướng nghiệp nhằm phát triển nguồn nhân lực với chất lượng cao. Đồng thời tổ chức đào tạo lại đội ngũ lao động hiện có, phổ cập nghề nghiệp cho lao động xã hội, trước hết là thanh niên nhằm hình thành đội ngũ lao động có số lượng, cơ cấu và chất lượng phù hợp với cơ cấu hệ thống kinh tế mới và yêu cầu của thị trường lao động tạo ra sự hấp dẫn đối với người sử dụng lao động. Phát huy vai trò của các trung tâm xúc tiến việc làm trong việc làm môi giới giữa người lao động và người sử dụng lao động. Kết hợp giải việc làm tại chỗ là chính, tiếp tục phân bổ lại dân cư và nguồn lao động trên các vùng lãnh thổ của đất nước, tăng dân cư trên địa bàn có tính chất chiến lược về kinh tế và an ninh quốc phòng, xây dựng các vùng kinh tế mới đẻ gắn lao động với đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Đa dạng hoá việc làm trên cơ sở đa dạng hoá thu nhập, phát triển các hình thức kinh doanh phong phú trong mối quan hệ đan xen giữa các thành phần kinh tế. 4. Giải pháp giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2010. 4.1. Các giải pháp tăng cầu lao động trong thời gian tới. 4.1.1. Phát triển toàn diện khu vực nông thôn. Nước ta hiện nay hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Mặc dù khu vực này tạo thu nhập không cao như các khu vực khác nhưng lại là khu vực tập trung đông đảo nguồn lao động nhất. Vì vậy cần khuyến khích phát triển khu vực này, tăng số công ăn việc làm, tạo thu nhập cho dân cư, cải thiện các dịch vụ y tế và giáo dục, phát triển cơ sở hạ tầng. Thực hiện được các giải pháp này một mặt tác động làm giảm cung về lâu dài, mặt khác tăng cầu lao động tại chỗ hạn chế di cư ồ ạt từ nông thôn ra thành thị dần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn. 4.1.2. Khai thác các yếu tố tăng việc làm tự thân. Khu vực việc làm tự thân gồm những chủ doanh nghiệp đọc lập, chủ cửa hàng, cửa hiệu tự hạch toán, người làm thường xuyên và không thường xuyên, nghề tự do, các thành viên gia đình, làm việc tuỳ theo nhu cầu sử dụng vốn và nhu cầu hàng hoá dịch vụ. Việc làm tự thân phần lớn xuất phát từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có khả năng thu hút nhiều lao động với cường độ lớn nó bổ sung cho các doanh nghiệp lớn của nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Do đó khu vực việc làm tự thân trong một nước nghèo và đông dân như nước ta cần được thừa nhận và chú ý phát triển. Trong hơn hai năm qua kể từ ngày Luật doanh nghiệp có hiệu lực, cả nước có hơn 42000 doanh nghiệp và hơn 30000 hộ kinh doanh cá nhân mới đăng ký thu hút thêm hơn 4 tỷ USD tiền vốn đầu tư tạo được 750000 chỗ làm việc mới. Để tạo được nhiều việc làm cần tập trung vào các yếu tố cần thiết như sự ổn định thể chế kinh tế vĩ mô, sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và huy động mọi nguồn lực đặc biệt về vốn, đào tạo chuyên môn kỹ thuật và nâng cao trình độ văn hoá cho các đối tượng trong khu vực việc làm tự thân. 4.1.3. Mở rộng các ngành sản xuất nhỏ, công nghệ sản xuất phù hợp . CNH, HĐH tác động đến việc làm thông qua chính sách của chính phủ lựa chọn các ngành công nghiệp để phát triển. Nếu lựa chọn phát triển các ngành sử dụng lượng vốn lớn, công nghệ cao, đặc biệt các ngành xuất khẩu thì sẽ không có khả năng tạo đủ việc làm cho lực lượng lao động đang tăng lên. Vì vậy cần chú trọng khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp ở cả khu vực truyền thống và hiện đại, cả thành thị và nông thôn. Có thể thực hiên bằng các giải pháp như nhà nước có hình thức khuyến khích phù hợp, tái phân phối lại thu nhập cho người nghèo để họ phát triển, nghiên cứu công nghệ sử dụng nhiều lao động để nhanh chóng ứng dụng vào thực tế sản xuất nhằm sử dụng tối đa nguồn lao động đông đảo ở nước ta hiện nay. 4.1.4. Kiểm soát yếu tố giá cả tiền lương, phân phối, tiêu dùng. Đây là giải pháp gián tiếp tác động đến việc làm, tương quan lao động và vốn trong sản lượng phụ thuộc vào hàm sản xuất và giá cả, do đó cần có chính sách tài chính hạn chế việc tăng dung lượng vốn và sử công nghệ đắt không phù hợp, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn. Khuyến khích các hình thức tiêu thụ hàng hoá trong nước nhằm tăng mức sản lượng trong nước. 4.2. Các giải pháp giải quyết việc làm cho giai đoạn 2001- 2010. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm vừa là vấn đề kinh tế vừa là vấn đề xã hội. Về kinh tế giải quyết việc làm có nội dung chủ yếu là phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. Nó gắn liền và được thực hiện thông qua chính sách, chương trình phát triển kinh tế. Việc sử dụng lao động được định hướng vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế và là động lực của tăng trưởng kinh tế. Về mặt xã hội, giải quyết việc làm có mục tiêu hướng vào toàn dụng lao động, chống thất nghiệp và tình trạng thiếu việc làm, đảm bảo tăng thu nhập. Vì thế giải quyết việc làm được coi là một trong những chính sách xã hội cơ bản của Nhà nước, góp phần ổn định và an toàn xã hội. Đây thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và thực hiện công bằng trong lĩnh vực việc làm. Do đó phải tạo ra nhiều việc làm càng tốt. Giải quyết việc làm có tính liên ngành, tính tổng hợp, nên mọi ngành, mọi cấp mọi địa phương và mọi thành phần kinh tế cùng phối hợp thực hiện tạo ra sự đồng bộ và hiệu quả cao. 4.2.1. Giải pháp phát triển kinh tế. Trước hết phải thực hiện các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đó làviệc thâm canh hơn 8 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó chú trọng đầu tư phát triển kinh tế trang trại, nhằm đảm bảo việc làm cho khoảng 20 triệu lao động. Tiếp tục chương trình trồng 5 triệu ha rừng theo Nghị quyết của Quốc hội, bảo vệ10 ha rừng tự nhiên để tạo ra việc làm ổn định cho 5 triệu lao động ở trung du và miền núi. Tăng cường đầu tư phát triển nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản, hải sản để tạo việc làm cho khoảng 2 triệu lao động ven biển. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn để tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn. Đẩy mạnh và thực hiện các chương trình phát triển công nghiệp và dịch vụ như: chương trình phát triển các khu công nghệ cao, chương trình phát triển các trung tâm văn hoá, thể thao, các khu du lịch để tạo việc làm và tăng thu nhập. Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các chương trình này có vai trò quyết định sự chuyển đổi cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng lao động và góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta Các chương trình hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm. 4.2.2. Giải pháp đào tạo nghề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong giải quyết việc làm, đào tạo nghề là công việc có ý nghĩa quyết định nhăm nâng cao giá trị việc làm. Từ nay đến năm 2010 chúng ta cần hướng vào một số giải pháp chủ yếu sau: + Chương trình đào tạo nghề chính quy, dài hạn, trước mắt phải củng cố và phát triển hệ thống các trường dạy nghề đảm bảo cân đối nhu cầu lao động được đào tạo cho các ngành kinh tế mũi nhọn, khu công nghiệp tập trung và xuất khẩu lao động, chuyên gia. + Chương trình đào tạo nghề ngắn hạn cho nông thôn nhăm trang bị kiến thức và kỹ năng lao động cho người lao động, đặc biệt chuyển giao công nghệ sinh học trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. + Chương trình đào tạo nghề trong các làng nghề, phố nghề nhằm khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống, các sản phẩm tiêu dùng được ưa chuộng. + Chương trình đào tạo nghề ngắn hạn nhằm thoả mãn nhu cầu đào tạo, đào tạo lại cho lao động xã hội, đáp ứng nhanh nhu cầu đa dạng hoá của thị trường lao động. - Các giải pháp về chính sách của nhà nước. Để thực hiện được mục tiêu tạo nhiều việc làm và việc làm có chất lượng, Nhà nước cần phải xây dựng và hoàn thiện một hệ thống chính sách ở tầm vĩ mô. + Trước hết là chính sách kinh tế: cần hoàn thiện các chính sách khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế thu hút nhiều lao động xã hội, nhất là lao động tại chỗ. Đặc biệt cần hoàn thiện chính sách phát triển các doanh nghiệp lớn, khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất với kỹ thuật và công nghệ cao, tạo đà phát triển và nâng cao sức cạnh tranh. + Chính sách về nguồn nhân lực. Về chiều rộng, khuyến khích mọi người có khả năng lao động đều phải tham gia làm việc. Để hiệu quả việc làm ngày một cao mỗi người phải thường xuyên cập nhật kiến thức, nâng cao kỹ năng lao động, rèn luyện để thích nghi với nhiều công việc, lao động sáng tạo và sáng tạo không ngừng, có chính sách khuyến khích người lao động học tập suốt đời, ưu đãi tôn vinh những người thực sự tài giỏi. Chính sách vĩ mô phải thể hiện sự toàn dụng của lao động, không lãng phí sức lao động, nhất là lao động đã được đào tạo, lao động có trình đọ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật cao. Về chiều sâu, cần có chính sách đầu tư tập trung đào tạo lao động có trình độ cao cho các khu công nghệ cao và các ngành kinh tế mũi nhọn. + Chính sách phát triển thị trường Để toàn dụng lao động cần thiết phải có chính sách phát triển thị trường lao động, tăng khả năng cầu để giải toả cung về lao động. Đối với người lao động, cho phép họ di chuyển theo quy định của pháp luật để tìm kiếm, lựa chọn việc làm cho phù hợp với khả năng, hoàn cảnh của mình. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin về thị trường lao động, tạo mọi điều kiện để người lao động và người sử dụng lao động có thể thường xuyên tiếp cận với các thông tin về lao động và việc làm. Đối với thị trường lao động nước ngoài, phải được mở rộng ra tất cả các khu vực, tất cả các ngành nghề mà ta có khả năng đáp ứng phù hợp với chính sách đối ngoại rộng mở của Việt nam. + Chính sách đảm bảo cho người lao động: Đó là việc hoàn thiện chính sách về tiền lương, bảo hiểm xã hội cần nhanh chóng xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp để hỗ trợ người lao động khi mất việc làm. 4.2.3. Gắn kết giáo dục đào tạo với việc làm. Đây là giải pháp có tính chiến lược để giải quyết việc làm trước mắt cũng như lâu dài. Việc tăng quy mô đào tạo đặc biệt là đào tạo đại học trong những năm gần đây tạo hiện tượng người thất nghiệp có học, nhiều sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm hoặc việc làm không xứng với trình độ chuyên môn. Đào tạo chính quy bị giới hạn trước nhu cầu học lớn và tăng nhanh, làm cho các hình thức đào tạo bằng hai mở rộng quy mô với chất lượng đào tạo không cao. Đây là biểu hiện của sự kéo dài thời gian học trước sự phát triển không kịp của khu vực công nghiệp và dịch vụ hiện đại. Kết quả là sự lãng phí xã hội, chi phí cơ hội cao. Vì vậy giải pháp tích cực là tạo những cơ hội kinh tế hẫp dẫn hơn ở nông thôn và nhu cầu có nghề để làm việc và khả năng tự tạo việc làm hơn là hướng cho sinh viên vào các nhu cầu làm việc hiện đại. Điều đó còn giúp tránh tình trạng học và đào tạo tràn nan ở các trường trung cấp, cao đẳng, đại học dân lập mà khả năng xin được việc thấp. Không chỉ hướng sự học tập gắn kết với khả năng xin việc mà còn hướng những sinh viên tốt nghiệp về làm việc tại quê hương bằng những hấp dẫn về việc làm như: Tập trung phát triển các vùng còn nhiều tiềm năng tạo việc làm có thể thu hút sinh viên mới ra trường, tạo những điều kiện thuận lợi xã hội khác. Kết luận Nghiên cứu về vấn đề lao động và việc làm chúng ta càng thấy rõ tầm quan trọng của nó đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Để nâng cao đời sống nhân dân vấn đề trước tiên phải đảm bảo đủ việc làm cho người lao động. Giải quyết việc làm nâng cao chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội là một bộ phận quan trọng của phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi toàn nhân loại đang chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới với những hành trang về KHKT. Trong bối cảnh đó xây dựng chiến lược việc làm để đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH đất nước góp phần đưa đất nước sánh vai cùng nhân loại trong thế kỷ tới và trong thiên niên kỷ tới là một yêu cầu khách quan trong chính sách xã hội của nước ta. Song chúng ta cần có những giải pháp trước mắt để hoàn thành chiến lược việc làm lâu dài và cũng để kiểm chứng đánh giá sự phù hợp của mục tiêu phương hướng đề ra, nhằm có những giải pháp để điều chỉnh kịp thời. Một lần lữa chúng ta khẳng định đảm bảo nguồn lao động và giải quyết việc làm trước mắt cũng lâu dài là rất cần thiết cho sự nghiệp phát triển đất nước Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế phát triển tập 1- Khoa KTPT - NXB Thống kê -1999 Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội - Khoa học quản lý NXB Khoa học và kỹ thuật - 2000 Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam - NXB Thống kê Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX - NXB Chính trị quốc gia. Tạp chí Thị trường lao động: Số 5,6/ 2001 Số 2,3 / 2002 Tạp chí lao động xã hội : Số 3,4,10 /2000 Số 1,2,3,5,9/ 2001 Số 4/ 2002 Tạp chí quản lý nhà nước: Số 6/2000 Số 5/ 2002 Tạp chí kinh tế và phát triển: Số 39/2000 Số 46,47,50, 58/ 2001 Số 62/2002 9. Tạp chí tài chính : Số 12/2000. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35319.doc
Tài liệu liên quan