Đề án Những giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Sau khi nghiên cứu đề tài này em nhận thấy rằng: là sinh viên chuyên ngành QTNL thì việc nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là rất cần thiết. Việc nghiên cứu này đã giúp em biết được thêm nhiều để có thể ứng dụng cho công việc sau này. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, muốn trở thành một nước ngày càng giàu mạnh sánh vai với các cường quốc trên thế giới thì không còn cách nào khác là phải đầu tư vào lĩnh vực đào tạo và phát triển con người- nguồn nhân lực quan trọng nhất của đất nước và chỉ cóp như vậy nước ta mới thực hiện được quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Đây cũng chính là hướng tổng quát nhất cho sự nghiệp đào tạo nói chung nhằm phục vụ nền kinh tế thị trường.

doc28 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1707 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Những giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trình độ còn thấp, muốn đáp vứng được yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nhất là đáp ứng cho yêu cầu của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cần phải có một kế hoạch rõ ràng về đào tạo, huy động, và sử dụng lực lượng lao động. - Nhân lực là nguồn lực to lớn của mỗi quốc gia, là yếu tố vật chất quan trọng và quyết định nhất của lực lượng sản xuất và do đó nó là động lực thúc đẩy phát triển. - Nước ta tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện tiềm lực kinh tế còn nhỏ bé, tích luỹ từ nội bộ kinh tế còn thấp. Ngoài ra tiềm lực con người, tài nguyên khoáng sản không nhiều…. Do đó để tiếp cận với nền khoa học, kỹ thuật đang tiến nhanh như vũ bão của thế giới, từng bước rút ngắn và đuổi kịp với sự phát triển của các nước; Đảng ta đã xác định phát triển nguồn nhân lực là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong suốt quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá, là nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Sự khẳng định này là bài học rút ra từ lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến thành công hay thất bại đều do chính con người quyết định. I- Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. 1. Các khái niệm về nguồn nhân lực. - Nguồn nhân lực với tư cách là nơi cung cấp cho xã hội, nó bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường, không kể bị khuyết và dị tật bẩm sinh. - Nguồn nhân lực có thể với tư cách là một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội, là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. - Nguồn nhân lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này, nguồn nhân lực bao gồm những người bắt đầu bước vào tuổi lao động trở lên có tham gia vào nền sản xuất xã hội. - Là toàn bộ những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc và những người thuộc tình trạng khác (những người nghỉ việc hoặc hưu trước tuổi theo quy định của bộ luật lao động ). - Nguồn nhân lực là tiềm năng của lao động trong thời kỳ xác định của một quốc gia, suy rộng ra có thể xác định trên một địa phương, một ngành hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực được xác định bằng số lượng và chất lượng của bộ phận dân số có thể tham gia vào hoạt động kinh tế xã hội. Số lượng nguồn nhân lực được thể hiện bằng các chỉ tiêu về quy mô và tốc độ phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện bằng các chỉ tiêu về tình trạng phát triển thể lực, trình độ kiến thức, tay nghề, tác phong nghề nghiệp, cơ cấu nguồn nhân lực về tuổi, giới tính, thiên hướng ngành nghề, phân bố lãnh thổ, khu vực thành thị – nông thôn… các phương thức tác động và sự phát triển về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực bao gồm : công tác dân số kế hoạch hoá gia đình, công tác phân bố nguồn nhân lực theo vùng, lãnh thổ, các chương trình dinh dưỡng, công tác y tế chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, công tác giáo dục đào tạo và dạy nghề …… Nguồn nhân lực gồm hai bộ phận: Bộ phận hoạt động Bộ phận chưa hoạt động 2. Sự cần thiết khách quan của việc xây dựng con người Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa. - Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa. - Phát huy nguồn nhân lực con người là vấn đề chiến lược trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3. Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. 3.1. Số lượng lao động - Việt Nam là một nước có tổng số dân số thuộc loại cao trên thế giới. Trong những năm vừa qua, chúng ta đã cố gắng giảm tốc độ tăng dân số tự nhiên và đã đạt được những thành công đáng kể. Đó là giảm được tốc độ tăng dân số từ trên 2%/năm xuống còn 1,7%/năm vào năm 1999. Tuy nhiên với tình hình dân số đông như vậy vẫn là một áp lực lớn cho toàn xã hội. . Ta hãy xét bảng sau để đánh giá tình hình dân số cũng như lực lượng lao động của Việt Nam: Bảng 1: Dự báo dân số việt Nam 1/4 năm 1994-2024 Đơn vị : Nghìn người Nhóm tuổi 1994 1999 2004 2009 2014 2019 2024 0 - 9 17381,4 16592,5 15780,5 15320,0 15424,8 15056,7 14270,9 10 - 14 8542,5 8853,3 8270,1 8112,5 7506,4 7680,6 7632,1 Dân số trong tuổi lao động 38462,0 44470,2 50656,3 55606,0 59253,1 61264,5 62947,2 60-64 1814,4 1704,9 1678,3 1868,1 2756,8 3914,3 4733,5 65- 3559,4 4168,0 4537,2 4752,7 5060,6 6105,0 8077,9 Dân số cả nước 70777,9 76787,1 82004,2 87218,1 92216,5 96706,2 100491,4 Tỷ lệ % so với dân số 54,34 57,91 61,77 63,76 64,25 63,75 62,64 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Như vậy , nhìn vào bảng trên ta có thể thấy giai đoạn 2001-2005 , hay cụ thể hơn vào năm 2004, dân số nước ta là 82004,5 nghìn người, trong đó dân số ở độ tuổi lao động là 50656,3 nghìn người, chiếm 61,77% so với dân số. Đây là một áp lực lớn cho xã hội trong việc giải quyết việc làm. Bước sang năm 2005, theo dự báo của bảng trên sẽ có khoảng 8853,3 nghìn người bước vào độ tuổi lao động và đây là con số đủ khả năng cung cấp nhu cầu lao động của xã hội. Nhìn vào bảng trên ta cũng thấy dân số trong độ tuổi lao động liên tục tăng qua các năm . Cụ thể , năm 1994 chiếm 53,34% so với dân số, năm 1999 chiếm 57,91% và năm 2004 sẽ chiếm khoảng 61,77%. Con số này cho chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng dân số tuy đã hạ xuống nhưng vẫn ở mức cao, áp lực công việc nặng nề, nếu không có những phương pháp giải quyết thích hợp sẽ dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp cao. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao cũng cho chúng ta thấy một khả năng dồi dào về lao động, có đủ khả năng giải quyết mọi công việc. Trên thực tế, năm 1998, cả nước có khoảng 45,2 triệu lao động, so với năm 1995 tăng 3,91 triệu người, trung bình tăng 1,3 triệu người hàng năm. Đây là kết quả của tốc độ tăng dân số tương đối cao và ổn định của những năm trước. Trong đó số lao động có khả năng lao động cũng tăng từ 83,7% năm 1995 lên 84,4% năm 1998. Năm 1996, lực lượng lao động nước ta là 35,9 triệu người. Tốc độ tăng bình quân 2,95%/năm.Với số lao động mới tăng thêm, 4 triệu người, số lao động thất nghiệp hoàn toàn chưa được giải quyết việc làm năm 1996 là 0,7 triệu người, năm 1997 là 1,05 triệu người; số lao động dôi ra do chuyển dịch cơ cấu kinh tế dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sắp xếp lại doanh nghiệp phải tìm việc làm mới cho khoảng 3 triệu người; yêu cầu của việc nâng quỹ thời gian lao động trong nông thôn đã được sử dụng 72,11% năm 1996 lên 75% năm 2000. Trong 4 năm (1996-2000) đã có 8 triệu người cần được giải quyết việc làm. 3.2. Cơ cấu nguồn lao động có nhiều bất cập. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước không chỉ đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ cao về tay nghề và trí tuệ mà còn phải có cơ cấu hợp lý. Chất lượng nguồn lao động nước ta hiện nay nhìn chung thấp, điều đó không chỉ thể hiện ở tình trạng sức khoẻ và trình độ chuyên môn kỹ thuật yếu mà còn thể hiện ở những bất cập trong cơ cấu nguồn lao động. Về sức khoẻ, mặc dù đã có những tiến bộ trong công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân nhưng do xuất phát điểm là một nước nghèo, đông dân nên phần lớn dân số nước ta chưa đảm bảo về sức khoẻ, đặc biệt là trẻ em và bộ phận dân số ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Về lề lối, tác phong làm việc, do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên còn chậm chạp, thiếu động lực sáng tạo trong lao động. Về mặt cơ cấu lao động của nước ta quả thật còn rất nhiều nan giải cần phải giải quyết được thể hiện qua thực trạng sau: Thứ nhất, tuy tỷ lệ biết chữ của nước ta cao so với một số nước nhưng trình độ văn hoá vẫn thuộc loại thấp, thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế phân theo trình độ văn hoá(%) 1996 1997 1998 Tổng Trong đó nữ Tổng Trong đó nữ Tổng Trong đó nữ Chưa biết chữ 5,8 62,3 5,1 61,6 3,8 62,4 Chưa tốt nghiệp cấp I 20,9 56,4 20,3 55,5 18,5 56,1 Đã tốt nghiệp cấp I 27,8 49,7 28,1 49,2 29,4 45,3 Đã tốt nghiệp cấp II 32,1 48,3 32,4 48,1 32,3 48,3 Đã tốt nghiệp cấpIII 13,5 44,1 14,1 44,0 16,0 44,2 Nguồn: Thực trạng lao động - Việc làm ở Việt Nam, nxb Thống kê 1996-1998 Theo số liệu của bảng trên, tỷ lệ người chưa biết chữ đã giảm, là kết quả của chương trình xoá mù chữ do Chính phủ thực hiện trong những năm qua. Số lao động chưa tốt nghiệp cấp I trong hai năm 1997-1998 đẫ giảm từ 20,3% xuống 18,5% nhưng tỷ lệ này vẫn còn cao và tốc độ chậm, trong khi đó cơ cấu lao động theo trình độ cấp I, II, III chuyển biến còn rất chậm. Thực tế là tỷ lệ lao động tốt nghiệp cấp I năm 1996 là 27,8% nhưng đến năm 1998 cũng mới chỉ là 29,4%; lao động tốt nghiệp cấp III năm 1996 là 13,5% đến năm 1998 là 16%. Trong khi đó, tỷ lệ lao động tốt nghiệp cấp III chiếm một tỷ lệ không cao trong toàn lao động, do đó cơ hội tìm việc làm là rất khó khăn. Thứ hai, vẫn tồn tại một cách quá cao tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật. Thực hiện CNH, HĐH là chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động cùng với công nghệ cao, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao dộng xã hội cao. Thực chất đây là quá trình chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Bước chuyển này sẽ vô cùng khó khăn nếu không đi trước một bước trong việc chuẩn bị lực lượng lao động (LLLĐ) có trình độ học vấn, tay nghề cao, có cơ cấu hợp lý và đồng bộ. Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH song tỷ lệ lao động giản đơn còn quá cao(88%), cơ cấu nguồn lao động còn quá lạc hậu so với nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển. Trong khi LLLĐ lành nghề ở các nước công nghiệp chiếm tới 35% trong tổng số LLLĐ xã hội thì nước ta chỉ có 5,5%. LLLĐ có trình độ chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư, và các nhà khoa học của họ chiếm tới 30% còn nước ta mới có 6,5%. Chúng ta đang rất thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật (tính đến giữa năm1999 số này mới có khoảng 14%). Trong một số ngành kinh tế quan trọng cần nhiều lao động kỹ thuật nhưng hiện có rất ít. Chẳng hạn, ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng1,6%, ngành nông lâm ngư nghiệp 7%(hiện nay LLLĐ của ngành này chiếm tới 3/4 tổng lao động xã hội). Vùng đồng bằng sông Cửu Long - một trong những vùng sản xuất lương thực lớn nhất - nhưng LLLĐ đã qua đào tạo chỉ đạt 3,68%, trong đó công nhân kỹ thuật có bằng 0,6%, trung cấp 1,55% và đại học 0,74%. Một số khu chế xuất, khu công nghiệp cần tuyển lao động có kỹ thuật thì lao động của nước ta chỉ đáp ững được rất ít. Ví dụ: Khu chế xuất Linh Trung cần tuyển 7000 công nhân nữ có trình độ tay nghề bậc 3/7 trở lên nhưng chỉ đáp ứng được 1500 người. Khu chế xuất Tân Thuận cũng ở tình trạng tương tự: cần tuyển 15000 công nhân kỹ thuật, ta chỉ đáp ứng được 3000. Cái thiếu của ta là lao dộng kỹ thuật trong khi lại dư thừa lao động phổ thông. Bởi vậy, cơ cấu nguồn lao động không đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước, chưa nói đến yêu cầu tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thứ ba, tình trạng thừa thầy thiếu thợ ở mức khá nghiêm trọng. Tức là ngay trong LLLĐ có trình độ chuyên mộ kỹ thuật đã ít lại còn có cơ cấu bất hợp lý. Có thể thấy tình trạng đó ở bảng sau: Bảng 3: Cơ cấu LLLĐ kỹ thuật ở Việt Nam giai đoạn 1979-1999 1979 1989 1997 1999 Tổng số 100 100 100 100 Công nhân kỹ thuật 68,6 44,9 40,8 30,3 Trung học chuyên nghiệp 21,7 35,2 35,4 36,8 Cao đẳng , đại học 9,7 19,9 23,8 32,9 Nguồn: Thời báo kinh tế, số 13 ngày 31/1/2000 Nhìn vào biểu trên ta thấy, nếu như năm 1979, cơ cấu LLLĐ kỹ thuật của nước ta là tương đối phù hợp với yêu cầu thực hiện CNH, HĐH đất nước (tỷ lệ phổ biến của cơ cấu LLLĐ kỹ thuật của các nước đã thành công trong CNH, HĐH là 1 đại học, cao đẳng/ 4 trung học chuyên nghiệp/10 công nhân kỹ thuật và lúc đó tỷ lệ tương ứng của ta là 1/2, 2/7, 1). Nhưng sau 10 năm (đến năm 1989) tỷ lệ đó chuyển dịch theo hướng lệch đi (1/1, 8/2 ,2), bộc lộ rõ tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, đến năm 1997 là 1/1,5/ 1,7 và đến năm 1999 tỷ lệ này càng chệch hướng thêm nữa (1/1,2/0,92), nó gần như “lộn ngược” với các nước khác. Cũng từ biểu trên ta thấy số lao động có trình độ đại học, cao đẳng trở lên từ năm 1979 đến năm 1989 tăng rất nhanh (3,4 lần ), trong thời gian đó số công nhân kỹ thuật lại giảm rất nhanh ( 2,26 lần ). Vì thế, chúng ta đang còn ở trong tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” rất nghiêm trọng. Theo báo cáo của bộ giáo dục và đào tạo, trong 10 năm (1986-1996), số học sinh học nghề giảm 35%, số giao viên dạy nghề giảm 31%, số trường dạy nghề giảm 41%, trong khi đó có 70-80% số sinh viên tốt nghiệp đại học cao đẳng ra trường không có việc làm, riêng nghành y hiện nay có trên 3000 bác sỹ không có việc làm. Thứ tư, LLLĐ là chủ yếu trong cơ cấu lao động trong ngành. Sự nghiệp CNH đã được tiến hành vài thập kỷ song cho đến nay nền kinh tế nước ta vẫn còn mang nặng dấu ấn một nền kinh tế thuần nông, thể hiện rõ trong cơ cấu nguồn lao động theo ngành. Năm 1993, lao động nông nghiệp chiếm tới 71%, trong khi đó lao động công nghiệp chỉ chiếm 12% và dịch vụ 17% trong tổng LLLĐ xã hội. Năm 1998, cơ cấu lao động theo ngành đã có những chuyển biến tích cực, nhưng so với yêu cầu còn rất chậm: lao động nông nghiệp giảm còn 66% và lao động công nghiệp, dịch vụ tăng lên 13% và 21%.So với một số nước trong khu vực, cơ cấu LLLĐ của nước ta như vậy là còn rất lạc hậu. Chẳng hạn, năm 1997, tỷ trọng lao động nông nghiệp của Mianma giảm xuống còn 51,8%, Malayxia còn 14,8%, Indonexia còn 39,2%, Phillipin 37,2%, Thái Lan 49,2%. Để có nền kinh tế tiên tiến, hiệu quả vấn đề không chỉ đơn thuần thay đổi cơ cấu ngành kinh tế, mà quan trọng hơn là thay đổi cơ cấu lao động, cơ cấu dân số. Hiện tại vẫn còn khoảng gần 70% lao động nằm trong khu vực I (nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản) và 80% dân số sống ở vùng nông thôn thì việc thực hiện CNH, HĐH rất không dễ dàng. Điều này cho thấy tính phức tạp của việc chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang một nền kinh tế có vóc dáng hiện đại, và cũng phải biết từ bỏ tham vọng đốt cháy giai đoạn để tránh những bệnh do hình thức mà ra. Từ năm 1980 đến năm 1997, dân số tăng 1,3 lần, lao động tăng 1,7 lần, riêng lao động trong nông nghiệp là 1,75 lần nhưng diện tích trồng trọt là 1,38 lần. Do đó, diện tích gieo trồng tính bình quân năm 1997 giảm đi. Vì vậy, cần phải tăng mạnh năng suất lao động trong nông nghiệp để cải thiện tình hình. Thứ năm, thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ. Hiện nay, tỷ trọng lao động ở hai vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long cao nhất nước (20,5% và 21,7% tổng LLLĐ xã hội). Trong khi đó vùng Tây Nguyên rộng lớn, LLLĐ chỉ có 4%, vùng duyên hải Miền Trung10,4% và Đông Nam Bộ 12,7%. Sự mất cân đối này không chỉ gây nên khó khăn cho vấn đề công ăn việc làm mà còn ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế xã hội cũng như an ninh quốc phòng của quốc gia. Thứ sáu, chuyển dịch cơ cáu lao động diễn ra rất chậm theo nghành kinh tế. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thực ra không dừng lại ở chỗ nó chiếm bao nhiêu phần trăm trong GDP mà ở chỗ nó thu hút đến trên 80% LLLĐ xã hội (bảng 4 và 5): Bảng4: Thay đổi lao động trong khu vực nhà nước1990-1995 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Tổng số lao động(nghìn) 30286 30994 31815,2 32718 33663,9 34589,6 Khu vực nhà nước 3415,7 3135,7 2975,2 2960,4 2928,3 3053,1 Tỷ trọng(%) 11,3 10,1 9,4 9,0 8,7 8,8 Tăng, giảm9nghìn) -280 -160,5 -14,8 -32,1 124,8 Nguồn: Niên giám thống kê Bảng 5: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế Đơn vị: % 1994 1995 1996 1997 (1) (2) (1) (2) (1) (2) (1) (2) Tổng số 33,664 8,70 34,950 8,83 35,792 8,77 33,994 8,83 Khu vực I Nông nghiệp và Lâm nghiệp Thuỷ sản 71,68 69,99 1,69 1,24 1,23 1,68 69,74 68,00 1,74 1,21 1,20 1,48 69,22 67,48 1,74 1,04 1,03 1,49 68,78 67,07 1,70 1,01 1,00 1,35 Khu vực II CN khai thác CN chế biến SX và PP điện, khí đốt và nước Xây dựng 12,93 0,34 9,26 0,44 2,89 22,79 73,33 19,07 32,21 27,25 13,25 0,60 9,33 0,44 2,88 22,93 49,08 18,56 35,15 29,78 12,93 0,59 9,19 0,43 2,72 23,37 46,48 19,09 39,46 30,18 12,52 0,57 8,90 0,41 2,64 24,73 52,6 19,38 38,56 34,65 Khu vực III Thương nghiệp và sửa chữa Khách sạn, nhà hàng Vận tải, kho bãi, thông tin Tài chính và tín dụng Hoạt động và KHCN Kinh doanh tài sản và tư vấn QLNN, ANQP, BHXH Giáo dục và đào tạo Y tế và cứu trợ xã hội Hoạt động VHTT Hoạt độngdảng, đoàn thể Phục vụ cá nhân và cộng đồng 15,39 6,56 0,51 1,65 0,35 0,12 0,16 0,59 2,67 1,04 0,31 0,23 1,02 31,62 8,98 17,77 34,43 41,88 65,86 56,72 91,99 75,55 44,25 28,27 68,15 4,00 17,02 5,46 1,46 2,26 0,37 0,11 0,16 1,13 2,81 0,81 0,27 0,28 1,65 29,07 10,51 6,83 24,96 37,66 69,79 51,72 52,00 73,01 58,52 33,83 56,32 2,71 17,85 0,63 1,54 2,39 0,35 0,11 0,21 1,14 2,78 0,82 0,72 0,28 1,66 28,16 9,61 7,27 24,49 39,66 81,63 44,21 53,10 74,49 57,24 33,72 54,91 2,78 18,70 7,22 1,40 2,31 0,34 0,11 0,21 1,11 2,70 0,80 0,26 0,27 1,61 26,95 7,68 7,19 23,00 41,78 79,63 44,13 57,60 77,75 58,51 34,72 64,66 3,68 Nguồn: Tính toán từ niên giám thống kê (1):Tổng số lao động: Triệu người, cơ cấu lao động là % trong tổng số (2): Tỷ lệ lao động trong khu vực nhà nước trong tổng số lao động của mỗi ngành kinh tế Bảng 4 cho ta thấy lao động trong khu vực nhà nước chỉ chiếm 10% trong tổng số lao động đang làm việc. Năm 1990, tỷ trọng đó là 11,3%, năm1994 còn 10,1% và năm 1995 còn 8,8%và duy trì ở mức đó cho đến nay (nhưng trong tương lai sẽ còn giảm). Theo số liệu thống kê thì từ năm 1991 đến năm1994, khu vực nhà nước đã đưa ra gần nửa triệu lao động và chính khu vực ngoài quốc doanh đã tiếp nhận phần lớn số lao động này. Ta hãy xét bảng 5 ở trên để thấy được cơ cấu lao động và quá trình phân bổ lại lực lượng lao động trong nền kinh tế từ năm 1994 đến năm 1997. Khu vực I chiếm 70% lao động đang làm việc, khu vực II chỉ chiếm vào khoảng 13% và còn lại là khu vực dịch vụ trên dưới 17%. Lao đông trong khu vực I có xu hướng giảm, khu vực II gần như không thay đổi và khu vực III có chiều hướng gia tăng, nhưng nói chung sự thay đổi là không đáng kể, qqua trình phân bổ lại lực lượng lao động giữa các ngành kinh tế lớn vẫn chưa diễn ra, khu vực I vẫn còn quá lớn và hầu hết là ngoài quốc doanh. Khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng lớn và hầu như bao trumg ở những ngành công nghiệp, những ngành đòi hỏi có trình độ kỹ thuật và đào tạp tốt. Có hay không sự trùng hợp về lao động từ khu vực nhà nước chảy sang khu vực tư nhân từ năm 1991 đến năm 1994 làm cho tỷ lệ tăng trưởng cao, và khi khu vực nhà nước thu hút lao động trở lại thì qúa trình tăng trưởng bị giảm sút là điều còn theo dõi và phân tích về sau này. Từ bảng trên cho thấy trong khu vực ngoài quốc doanh hầu hết là nông nghiệp và những ngành nghề đơn giản, trình độ kỹ thuật thấp, ít được đào tạo, vì thếviệc phân bổ lại lực luợng lao động trong thời gian tới sẽ hết sức khó khăn. Thứ bẩy, năng suất lao động của nước ta còn rất thấp. Năng suất lao động xã hội có thể hiểu là lượng GDP do một lao động làm ra trong năm. Chúng ta có thể thấy mối quan hệ giữa lao động và vốn đầu tư qua bảng sau đây: Bảng 6: Năng suất lao động và trang bị vốn đầu tư cho lao động GDP(triệu đồng)/1 LĐ Vốn ĐT(triệu đồng)/1 LĐ 1995 1996 1997 1995 1996 1997 Chung trong nền kinh tế 5,65 5,97 6,25 1,68 1,89 2,14 Kinh tế nhà nước 25,67 27,79 29,27 6,72 9,73 11,66 Nguồn: Tính toán từ thống kê Tính theo giá cố định năm 1994, năng suất lao động xã hội năm 1995 là 5,65 triệu đồng, năm 1996 là 5,97 triệu đồng và năm 1997 là 6,25 triệu đồng. Nghĩa là có sự gia tăng liên tục năng suất lao động trung bình của toàn xã hội nhưng bức tranh năng suất trong từng ngành lại rất khác nhau: năng suất thấp và hầu như không tăng trong khu vực I với ngành nông nghiệp và thuỷ sản; ở khu vực III có năng suất khá cao nhưng không có gia tăng trong các năm 1995-1997. Kinh tế nhà nước với các ngành công nghiệp, dịch vụ có mức năng suất cao và tăng nhanh qua các năm, nhưng ở khu vực I, khu vực lao động của ngoài quốc doanh thì lại có năng suất rất thấp và sự gia tăng không đáng kể. Nguyên nhân chính là vốn đầu tư cho một lao động ở khu vực II, III cao hơn so với khu vực I và ở khu vực I hầu như không tăng qua các năm 1995-1997 về mức vốn đầu tư cho một lao động. 3.3. Nguyên nhân gây ra những bất cập. Thứ nhất, do có sự suy giảm đáng kể đào tạo nghề (ĐTN) dài hạn, mất cân đối với đào tạo nghề ngắn hạn. Điều này có nguồn gốc từ những nỗ lực chưa đủ mức của chính ngành giáo dục và đào tạo. Bảng 7: Số học sinh của các trường nghề và vốn đầu tư qua các niên học 1986-1997 Năm Số học sinh đi học(nghìn người) Đầu tư Trung học CN Dạy nghề Tỷ đồng % GDP Năm có nhiều học sinh nhất 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 147(1979/1980) 126,6 123,3 115,8 107,5 101,3 104,7 92,3 97,8 108,1 116,4 116,1 124,6 171(1984/1985) 119,7 102,0 118,4 92,4 60,3 57,6 68,7 74,7 58,7 69,9 102,5 439 748 1495 2321 3414 4722 5500 7150 1,0 1,0 1,4 1,7 2,0 2,1 2,1 2,1 Nguồn : Niên giám thống kê Trong giai đoạn 1990-1998, tổng đầu tư từ ngân sách cho giáo dục gia tăng liên tục, tỷ lệ đầu tư cho từng cấp giáo dục riêng lẻ kể cả ĐTN giảm. Năm 1994, chi phí choĐTN là 11% tổng ngân sách nhà nước dành cho giáo dục (mức chi phí này ở các nước khác là 25% ). Hơn nữa, phần chi cho giáo dục từ ngân sách nhà nước chiếm phần lớn trong chi phí cho ĐTN. Sự suy giảm các chương trình ĐTN dài hạn thể hiện rất khác nhau tong từng loại hình và chuyên ngành đào tạo. NHìn chung, năm 1992-1993 là năm có số học sinh đi học thấp nhất. SSự suy giảm mạnh nhất diễn ra ở các nhóm ngành nông-lâm-thuỷ sản và sư phạm đối với loại hình trung học chuyên nghiệp; và ở nhóm ngành xây dựng, cơ khí đối với loại hình ĐTN. đối chiếu thực trạng này với tình hình mở rộngviệc làm trong nửa đầu thập niên 90 cho thấy, ĐTN dài hạn đã suy giảm trong khi cơ hội việc làm gia tăng, số học sinh giảm mạnh nhất trong chuyên ngành dịch vụ, nơi có tốc độ gia tăng việc làm nhanh nhất. Thực tế này đang đặt ra nhiều vấn đề nổi cộm đối với hệ thống ĐTN. Theo Bộ Giáo dục và đào tạo, có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu do sự thích ứng chậm của hệ thống ĐTN đối với nền kinh tế nhiều thành phần, cả về chất lượng đào tạo lẫn cơ cấu ngành đào tạo; sự nghèo nàn của đội ngũ giáo viên và trang thiết bị cũng làm suy giảm đáng kể năng lực của các trường nghề. Phần lớn các trường nghè hiện nay chỉ đáp ứng được dưới 50% như cầu về hạ tầng “trường sở”, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, sách giáo khoa, xưởng thực hành. Thứ hai, do quy mô đào tạo ở các trường trung học, dạy nghề quá nhỏ, trên 50% các trường có quy mô đào tạo dưới 500 học sinh/năm. Quy mô nhỏ là lý do chính làm cho chi phí đào tạo trên một đơn vị đào tạo cao. Trước sức ép của nhu cầu đào tạo thực tế, nhiều trường rơi vào tình trạng quá tải. Thứ ba, từ lâu nay, chúng ta hầu như đào tạo rất ít cho đào tạo nghề. Từ năm 1995 đến năm 1995, tỷ trọng đầu tư cho giáo dục đào tạo từ ngân sách Nhà nước tăng từ 11% lên 13% ( từ mức 1094 tỷ đồng lên 1600 tỷ đồng ) nhưng số tiền này chủ yếu được rót vào cho hệ đại học, cao đẳng, phổ thông, còn các trường dạy nghề không được CHLB Đức và Hàn Quốc trang bị cho một số thiết bị hiện đại. Đã thế, đầu tư cho đào tạo nghề lại rất phân tán và không đúng hướng. Do nhiều năm không được đầu tư nên số trường ĐTN giảm từ 512 trường năm 1991 xuống 400 trường năm 1998. Trường sở và nơi ăn, ở của học sinh dột nát nhiều, số lượng người học giảm một nửa. Trang thiết bị dạy nghề lạc hậu cũ kỹ, nhiều trường hoàn toàn dùng thiết bị của 50 năm trở về trước. Thứ tư, về quản lý thì hầu như phân tán và buông lỏng. Sau ngày sáp nhập Tổng cục dạy nghề và Bộ Giáo dục và đào tạo, các cơ sở dạy nghề phải tự túc về nội dung, chương trình và phương tiện đào tạo, phải chạy lo tìm đủ môn sinh, hàng loạt trường phải chấp nhận tuyển gần như 100% người nộp đơn dự tuyển. Do đó chất lượng đào tạo kém. Trong khi đó thì hệ đại học dưới dạng khầu hiệu “đa dạng hoá ngành, cấp học và hình thức học”, cùng với cách đào tạo theo kiều “mì ăn liền” của cá nhân và tổ chức khắp nơi nhảy ra kinh doanh lĩnh vực đào tạo làm cho các trường ĐTN vắng lạnh một cách dễ sợ. Cái buông lỏng nữa là Nhà nước không có quy định bắt buộcvề nội dung đào tạo, chương trình và thời gian đào tạo và kiểm tra việc thực hiện, kể cả với một số trường đã từng có một thời thực hiện khá nghiên ngặt. Một số người đi học thực chất chỉ là lấy bằng cấp chứ không phải lấy kiến thức. Thứ năm, chất lượng đội ngũ giáo viên còn bất cập. Tình trạng quá tải đã gây thiếu giáo viên cả về tương đối và tuyệt đối. Điều này làm cho không ít nơi giáo viên không có thời gian để nghiên cứu, bổ sung kiến thức thường xuyên và tình trạng “chạy sô” khá phổ biến.Nhưng theo một đánh giá của Bộ Giáo dục và đào tạo thì đội ngũ giáo viên đã có chất lượng tốt hơn trước đây. Chỉ số của sự đánh giá chất lượng cao hơn này gồm có: thâm niên giảng dạy trung bình cao hơn, và số có bằng đại học và sau đại học nhiều hơn trước đây. Song thực chất, chỉ số này chưa đủ để phản ánh toàn diện chất lượng giáo viên. Số năm thâm niên trung bình cao có thể cảnh báo một xu hướng già hoá, lớp trẻ ít quan tâm đến việc trở thành giáo viên ở các trường ĐTN. Đồng thời các chỉ số về chuyên môn cụ thể cho các môn học ngành nghề hiện nay đang thấp hơn nhiều so với các bộ môn cơ bản. Như vậy, điểm yếu vẫn đang tập trung ở các trường kỹ thuật ngành nghề. Thứ sáu, nhu cầu ĐTN phần lớn còn mang tính tự phát, thiếu qui hoạch đồng bộ với nhu cầu của nền kinh tế. Các chỉ tiêu đào tạo của bộ chủ quản còn quá lệ thuộc vào kinh phí, chưa theo nhu cầu thực tế của nền kinh tế, có nơi, có lúc còn mang nặng tư tư tưởng “xin-cho”, cấp phát đơn thuần. Do áp lực từ phía người lao động mà gần đây ĐTN ngắn hạn nổi lên như một hình thức mới để bù đắp cho sự suy giảm ĐTN dài hạn và sự thiếu hụt trầm trọng công nhân kỹ thuật. Số học sinh theo học các khoá ngắn hạn tăng 8 lần trong 10 năm từ 1986-1996. Sự thu hẹp các khoá ĐTN dài hạn còn chứa đựng xu thế “sao nhãng” các nghề đòi hỏi đào tạo công phu, chi phí đào tạo cao. Qua khảo sát 421.500 người được ĐTN gần đây, chỉ có 0,5 % thuộc ngành cơ khí, 2,4% thuộc ngành điện. Thêm vào đó sự phân bố các trung tâm ĐTN rất không đồng đều theo địa lý cũng như theo nhu cầu sử dụng. Phần lớn các trung tâm tập trung ở thành thị, trong khi lại rất vắng bóng ở các vùng nông nghiệp, nông thôn, nơi đang cần có những người nông dân được đào tạo bài bản để hội nhập nền nông nghiệp nước nhà với thế giới. Hơn nữa, không có sự bổ sung kịp thời những lao động có đào tạo cho nông nghiệp thì quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn khó mà đạt kết quả như mong muốn. Tính tự phát và thiếu qui hoạch đồng bộ một thời gian dài đã gây ra tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về nguồn lực, trong khi kinh nghiệm của các nước trên thế giới là duy trì cơ cấu bậc học “tháp hình chuông” thì ở nước ta, số học sinh vào đại học thường vượt quá nhiều lần so với học sinh các trường nghề. Thứ bảy, có cả lý do từ tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị tuy đã giảm từ 12% năm1989 xuống 6% năm1996, nhưng lại tăng lên 8-10% năm 1998 và 1999. Tại nông thôn, tỷ lệ thiếu việc làm là từ 25% đến 35% và nhóm bất lợi là độ tuổi từ 15-24. Có một nghịch lý là trong khi tỷ lệ thất nghiệp cao thì thị trường lao động lại không cung cấp đủ nhu cầu cho doanh nghiệp, nghĩa là có tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Lao động thiếu không chỉ ở trình độ lành nghề mà còn ở trình độ kỹ thuật cấp trung. Nếu ở các khu vực kinh tế phát triển hơn, sự thiếu hụt lao động có thể nhìn thấy rõ trong các ngành kinh tế đang mở rộng, thì ở khu vực nông thôn sự thiếu hụt lục lượng lao động có kỹ năng khó nhìn thấy hơn và khó đánh giá hơn. Các khu vực kinh tế kém phát triển ở các vùng nông thôn rộng lớn đang cần những nhóm lao động hạt nhân, năng động để tạo ra phong trào làm kinh tế giỏi. Thứ tám, hệ thống đãi ngộ và việc làm hiện nay chưa khuyến khích lao động làm việc tại nông thôn. Nhiều con em vốn từ nông thôn, đã qua đào tạo, dù khong có việc làm cũng cố ở lại thành thị chờ cơ hội. Thực tế này không chỉ làm xói mòn các kiến thức đã được đào tạo và lãng phí nguồn lực, mà còn tạo xu thế kém phát triển lâu dài ở các vùng nông thôn rộng. Thứ chín, hiệu quả đầu tư giáo dục của nước ta còn thấp, Chính phủ đã đặt mục tiêu nâng tỷ lệ lao động được đào tạo tới 25% lực lượng lao động và nâng cáap các chương trình đào tạo, cung cấp các trang thiết bị, tài liệu giảng dạy mới và theo sát hơn các công nghệ mới. Tuy nhiên, mục tiêu chung ấy phải được chi tiết hoá thành các chỉ tiêu cụ thể để có tính khả thi khi triển khai. Khi đưa ra các mục tiêu như vậy, cần được tính đến các mối quan hệ về lợi ích -chi phí. Song đến nay tỷ lệ thu hồi đối với đầu tư giáo dục là rất thấp. Gần đây, tài liệu của nước ta và của ngân hàng thế giới lưu ý rằng hầu hết các khoản đầu tư cho giáo dục ỏ Việt Nam có tỷ lệ thu hồi thấp, trong đó đầu tư cho ĐTN tỏ ra là một khoản đầu tư đặc biệt kếm hiệu quả. Tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư từ góc độ cá nhân ở cả ĐTN lẫn giáo dục đại học không thoả mãn kiểm nghiệm 10%. Trong khi ngay các nước thu nhập thấp khác có mức thu hồi trung bình là 10,6%. Điều này chúng tỏ hiệu quả đầu tư giáo dục ở nước ta còn quá thấp. 4. Những giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 4.1. Những giải pháp chung: - Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới sâu rộng hơn, huy động sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế, tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong đó ưu tiên cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và vùng kinh tế biển làm cho kinh tế của tỉnh phát triển nhanh, vững chắc. - Chỉ đạo thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho người dân như: chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân, chăm sóc sức khoẻ sinh sản và dịch vụ kế hoạch hoá gia đình, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài… tạo điều kiện cho người dân nói chung và nguồn nhân lực, LLLĐ của tỉnh khoẻ về thể chất, có trình độ chuyên môn kỹ thuật có nhiều công việc tự tạo được việc làm và tìm được việc làm trong nước và xuất khẩu lao động. - Phát triển nguồn nhân lực về số và chất lượng phải gắn với việc sử dụng nguồn nhân lực để phát huy hiệu quả, phát triển nguồn nhân lực để phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá của tỉnh và phục vụ cho chương trình xuất khẩu lao động. 4.1.1. Một số quan điểm chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực. - Chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta. Giáo dục đào tạo giữ vai trò quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực. Giáo dục đào tạo có nhiệm vụ nâng cao dân chí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo điều kiện phát triển tài năng. Phát triển nguồn nhân lực gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ khoa học – công nghệ và sự nghiệp củng cố an ninh quốc phòng. Phát triển nguồn nhân lực là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Phát triển nguồn nhân lực phải tính đến sự hội nhập quốc tế và khu vực trên cơ sở kế thừa và giữ vững những tinh hoa văn hóa dân tộc. 4.1.2. Từ những đánh giá tổng quát trên, có thể đưa ra phương hướng để nâng cao chất lượng LLLĐ trong thời gian tới như sau: Thứ nhất, về quy môvà mức độ, ở Việt Nam mặc dù đẫ có mục tiêu đạt 25% LLLĐ qua đào tạo song mục tiêu này không được gắn trực tiếp với tỷ lệ của các cấp đào tạo. Tính đến các yếu tố như, nguồn lực hạn hẹp, chi phí cao của các cấp ĐTN ở bậc sau trung học và khả năng tạo việc làm của nền kinh tế, Việt Nam cần khuyến khích ĐTN cấp trung học. Hiện tại cần lưu ý một số yếu tố thuận lợi cho việc mở rộng giáo dục ĐTN cấp trung học như sau: Một là, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, giới trẻ trở nên thực tế và định hướng thị trường nhanh nhạy hơn. Do vậy, yếu tố thu nhập chứ không phải các yếu tố khác quyết định tham gia vào chương trình đào tạo này hay chương trình đào tạo khác. Hai là, hệ thống tiền lương hiện nay duy trì sự khác biệt quá nhỏ giữa lao động chân tay với lao động trí óc, không tạo ra sự khác biệt lớn giữa sự lựa chọn giáo dục phổ thông, với mục tiêu nhất thiết là phải vào cho được đại học với lựa chọn vào trưòng dạy nghề. Ngoài ra, mở rộng ĐTN còn giúp lớp trẻ có lựa chọn nghề sớm ngay khi họ tốt nghiệp trung học. Điều giúp cho giảm áp lực vào các cuộc tuyển sinh đại học và tiết kiệm chi phí, giúp cho học sinh tránh được cú sốc tinh thần khi thi trượt. Sự hướng nghiệp sớm còn giúp họ yên tâm với sự lựa chọn từ đầu của mình. Nhờ đó, khi có việc làm theo đúng chuyên môn đào tạo họ nỗ lực làm việc tốt hơn và cho năng suất lao đôngj cao hơn, khắc phục được tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”. Thứ hai, trong khi khuyến khích mở rộng ĐTN, các nhà hoạch định chính sách cần lưu ý đến giới hạn tối ưu của nó, ở giai đoạn phát triển hiện nay vốn dựa chủ yếu vào ngành sử dụng nhiều lao động và tổ chức lao đôngj theo phương pháp Tay-lo thì việc mở rộng ĐTN thung học đồng nghĩa với việc tiết kiệm nguồn lực trong nước và giảm chi phí cơ họi cho học sinh. Việc mở rộng ĐTN nên được xem như một quá trình luôn có sự điều chỉnh và sự điều chỉnh này cũng cần tính tới khả năng, việc mở rộng thái quá ĐTN trung học cũng có thể dẫn tới một thực tế ngoài mong đợi, khi nền kinh tế đi vào con đường hội nhập với nền kinh tế toàn cầu và thực hiện mô hình tổ chức linh hoạt, đòi hỏi phải có những công nhân đa chức năng. Thứ ba, để tiết kiệm nguồn lực và thời gian, cần sắp xếp lại và nâng cấp các trường ĐTN sẵn có, khuyến khích luồng học sinh vào để khắc phục quy mô nhỏ, vốn là nguyên nhân quan trọng dẫn đến chi phí đơn vị cao trong ĐTN hiện nay. Đồng thời tiến hành các thay đổi cần thiết trong các chương trình học và phân ngành đào tạo sao cho có thể phản ánh được các thay đổi trong cơ cấu ngành nghề trong hệ thống làm việc.Cần chuyển khỏi đào tạo nghề chuyên môn hẹp và đi theo hướng đào tạo rộng hơn trong ĐTN. Cần tăng cường kiểm soát chất lượng và tạo cơ hội cho học sinh được chuyển đổi giữa các lựa chọn trung học phổ thông và trung học nghề. Sau khi cac strường nghề hiện thời được nâng cấp và đạt được quy mô hợp lý, mới xem xét mở rộng trường mới. Thứ tư, có chính sách cụ thể quan tâm thực sự tới sự phát triển bền vững của ĐTN. Khác với giáo dục đại học, ĐTN không dễ có một vị thế cao trong xã hội. Vị thế xã hội đáng mong ước của ĐTN bao quát hai khía cạnh: Một là, sự kính trọng và uy tín của cấp giáo dục này trong nhận thức của người dân. Những thái độ và giá trị của người dân dành cho ĐTN là rất quan trọng vì chúng cho phép tái sản xuất quá trình đào tạo, nói cách khác cho phép quá trình đào tạo được liên tục. Hai là, các giá trị của ĐTN cần được thể hiện trong hệ thống việc làm, chế độ đãi ngộ. Điều đó có nghĩa là đầu tư cá nhân vào ĐTN (dưói hình thức tiền của lẫn thời gian) phải được phản ánh rõ trong việc làm và thu nhập. Thứ năm, xây dựng một hệ thống ĐTN ưu tiên phát triển nông nghiệpvà nông thôn, tự tạo việc làm và kỹ năng kinh doanh nhỏ. Với yêu cầu sử dụng lao động cũng như cuộc cải cách nông nghiệp trong những năm 80, hệ thống ĐTN dường như tụt lại phía sau so với hệ thống việc làm. Do đó, LLLĐ thiếu việc làm ở nông thôn tương đối cao. Hậu quả là luồng di cư từ nông thôn ra thành thị diễn ra mạnh, làm tăng thêm số người nghèo đói ở thành thị cùng với áp lực môi trường và nhiều tiêu cực khác. Nguyên nhân có nhiều nhưng yếu tố không thể bỏ qua là thiếu ĐTN. Nếu hệ thống ĐTN nhấn mạnh khả năng tự tạo việc làm kết hợp với các giải pháp chính sách hỗ trợ kinh doanh nhỏ sẽ giúp cải thiện đáng kể tình hình. Phát triển hệ thống ĐTN ở nông thôn thực hiện lin hoạt vvới chương trình, thời gian và địa điểm đào tạo theo nhu cầu địa phương. Trong vài năm trước mắt, ưu tiên phát triển ĐTN dài hạn ở khu vực thành thị và ĐTN ngắn hạn ở nông thôn, đồng thời sự phát triển ĐTN ở nông thôn còn được khuyến khích song song với các hệ thống phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn. Trong khi phát triển hệ thống ĐTN ở nông thôn cần chú trọng đào tạo kỹ năng kinh doanh nhỏ và tự tạo việc làm. Thứ sáu, tăng cường đội ngũ giáo viên. Thực tế cho thấy đội ngũ giáo viên dạy nghề hiện đang là khâu yếu, cần tập trung phát triển khi đất nước mở rộngĐTN. Ngay từ đầu cuộc cải cách ĐTN ở nước ta cần đưa ra các giải pháp khắc phục sự thiếu hụt về số lượng và chất lượng giáo viên dạy các môn ngành nghề. Trong giai đoạn trước mắt của ta, khi đội ngũ giáo viên nghề giỏi chưa hình thành đầy đủ, việc sử dụng đội ngũ thợ lành nghề đã về hưu hoặc đưng chức là phù hợp. Sử dụng đội ngũ thợ lành nghề về hưu sẽ tận dụng được một nguồn lực không nhỏ. Tuy có thể phương pháp sư phạm của họ bị hạn chế, song ở họ lại có sự dày dạn về kinh nghiệm. 4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 4.2.1 Những giải pháp về việc làm. Thứ nhất, Chính phủ cần tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế và tạo việc làm ở nông thôn trên cơ sở phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn trên cơ sở đa dạng hoá việc làm. Thứ hai, tập trung phát triển các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có lợi thế, phát triển các doanh nghiệp với kỹ thuật và công nghệ cao để tạo ra mũi nhọn tăng trưởng, đồng thời phải khuyến khích các ngành, các lĩnh vực đầu tư ít vốn, sử dụng nhiều lao động, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ ba, thực hiện tốt việc kết hợp giữa sắp xếp lại sản xuất, cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước với duy trì đảm bảo việc làm cho người lao động, chống sa thải công nhân hàng loạt, thông qua chính sách trợ giúp của Nhà nước về thuế, vốn, công nghệ, lập quỹ hỗ trợ doanh nghiệp để phát triển sản xuất, mở rộng ngành nghề, nhất là doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ. Thứ tư, đẩy mạnh xuất khẩu lao động trên cơ sở mở rộng thị trường, phấn đấu đạo tạo nghề để đưa lao động có nghề đi xuất khẩu lao động, đảm bảo mỗi năm đưa đi được khoảng 20-25 vạn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Thứ năm, tổ chức tốt việc quản lý hiện tượng di dân tự phát vào thành phố tìm kiếm việc làm tiếp tục hỗ trợ di chuyển lao động và dân cư để xây dựng các vùng kinhtế mới. Thứ sáu, tiếp tục hoàn thiện Luật Đầu tư nước ngoài và chính sách khuyến khích đầu tư trong nước vì kinh nghiệm cho thấy rằng đây không những là nguồn vốn quan trọng để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước mà còn là nhân tố hàng đầ góp phần giải quyết hiệu quả tình trạng thiếu việc làm ở Việt Nam hiện nay... 4.2.2. Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phải kiên quyết và nhanh chóng tăng nguồn đầu tư ngân sách hơn nữa cho giáo dục - đào tạo.Thực hiện xã hội hóa giáo dục - đào tạo.Việc đào tạo và đào tạo lại người lao động phải được coi là nhiệm vụ cấp thiết trong từng ngành, từng vùng, từng địa phương.Để đảm bảo về số lượng và chất lượng nguồn lực con người cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giáo dục phải được phát triển cả về quy mô và về chất lượn.Cần đào tạo có địa chỉ, theo nhu cầu của các lĩnh vực, các hệ thống xã hội trong cả nước.Giáo dục - đào tạo cần phải được đổi mới cả về nội dung lẫn phương pháp.Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục - đào tạo. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hóa chiến lược, chính sách phát triển nguồn nhân lực của đất nước mà trước hết là các chính sách về đào tạo, đãi ngộ, bồi dưỡng cán bộ, đổi mới và phát triển hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, phân cấp quản lý lao động cho các ngành, các địa phương và các đơn vị cơ sở một cách rộng rãi, cụ thể. Các chính sách chỉ nên có tính chất hướng dẫn để cho mỗi cấp, mỗi ngành đều có thể vận dụng phù hợp với thực tế, phát huy hơn tính năng động, sáng tạo, tránh áp đặt. Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trọng điểm, nhất là đối với hệ thống dạy nghề và hướng nghiệp. Hàng năm, một số lượng lớn dân cư bước vào độ tuổi lao động phải được đào tạo, để trở thành người lao động có tay nghề, có kỹ thuật. Với trình độ đại học hoặc trên đại học, chấm dứt tình trạng đào tạo tràn lan, chạy theo số lượng mà bỏ qua chất lượng như hiện nay. Muốn vậy phải tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý. Mặt khác, có chính sách động viên, khuyến khích đối với đội ngũ cán bộ giảng dạy trong và ngoài hệ thống đào tạo. Hoàn thiện các đề án đổi mới, nội dung và phương pháp đào tạo trong các trường đại học và dạy nghề. Chính sách đào tạo cũng phải được áp dụng cụ thể cho các địa phương, các cấp và nhất là trong các doanh nghiệp, coi đây là nhiệm vụ bắt buộc, là hoạt động đầu tư của mỗi doanh nghiệp. Phát triển đào tạo cao đẳng, đại học và sau đại học để đào tạo những người đủ tri thức nhằm tiếp nhận, sử dụng và phát triển những thành tựu khoa học công nghệ mới. Tính đến 1/7/1998 cả nước có 5 triệu người thuộc lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật (gồm công nhân, sơ cấp, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học) chiếm 13,11% tổng số lao động (năm 1996), tăng trung bình hằng năm là 6,18% đặc biệt lao động có trình độ cao đẳng, đại học tăng nhanh nhất. Trường 1992 1993 1994 1995 1996 1997 109 109 109 109 96 110 Học sinh (1000người) 136,8 157,1 203,3 297,9 509,3 662,8 Nguồn: Niên giám thống kê 1998. Các trường đại học cần đẩy nhanh tiến độ đổi mới nội dung giảng dạy và phương pháp giảng dạy để sinh viên khi ra trường có được các kiến thức hiện đại, phù hợp với điều kiện Việt Nam và kỹ năng làm việc thực tế, đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tiếp tục đẩy mạnh công tác bồi dưỡng giáo viên bằng các khoá học trong nước và ngoài nước để nâng cao chất lượng giáo viên, đáp ứng yêu cầu đào tạo trong nước và yêu cầu toàn cầu hoá giáo dục đại học trong thế kỷ XXI. Quan tâm thích đáng tới việc đổi mới các hoạt động phục vụ giảng dạy và học tập trong các trường đại học để nâng cao chất lượng phục vụ đặc biệt là hệ thống các thư viện. Các cán bộ, nhân viên thư viện và các cán bộ chủ chốt trong các bộ phận phục vụ cần cần dược đào tạo lại ở trong nước và ngoài nước để có kỹ năng và phương thức hoạt động đáp ứng đồng bộ yêu cầu cải tiến phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng đào tạo. Từng bước trang bị các phương tiện giảng dạy hiện đại để đáp ứng yêu cầu cải tiến phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng đào tạo. Các trường đại học cần dành kinh phí thích đáng cho giai đoạn thực tập của sinh viên để tăng trách nhiệm của các doanh nghiệp. Có thể sử dụng hợp đồng đào tạo để gắn bó doanh nghiệp với trường đại học. Đối với đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, ngoài đào tạo trong nước, Nhà nước còn có chính sách cử những người có khả năng sang các nước phát triển học tập hay du học tại chỗ thông qua hình thức giúp đỡ đào tạo của chính phủ các nước phát triển và các tổ chức phi chính phủ. Hình thức này đang có xu hướng phát triển ở nước ta. Nhà nước cần dành đầu tư thích đáng cho việc mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống các trường dạy nghề bằng đẩy mạnh công tác đào tạo giáo viên, đổi mới và tăng cường trang thiết bị cần thiết; có chính sách khuyến khích việc thành lập các trường dạy nghề tư thục và đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Tiếp tục cải tiến hệ thống giáo dục phổ thông sao cho có thể cung cấp cho các bậc đào tạo tiếp theo những học sinh có kiến thức toàn diện. Có các biện pháp tuyên truyền, giáo dục dân chúng để thay đổi nếp nghĩ khi chọn nghề; có các biện pháp khuyến khích, thu hút thanh niên theo học các trường dạy nghề cũng như các biện pháp giáo dục người lao động ở mọi tuổi về đạo đức, thái độ lao động và đạo đức kinh doanh. Thứ nhất, khẩn trương điều chỉnh lại cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực. Tập trung vào ba hướng sau: -Với đào tạo đại học, cao đẳng: Giảm ngay chỉ tiêu tuyển sinh ở những trường mà quy mô đào tạo hiện đang quá tải so với điều kiện cho phép và ở những ngành học có quy mô đào tạo quá nhu cầu như báo chí, luật, kinh tế. Tăng chỉ tiêu tuyển sinh ở những trường sư phạm, kỹ thuật, nông nghiệp nhất là các trường nằm ngay ở đồng bằng sông Cửu Long và trung du miền núi phía Bắc. Để làm tốt điều này, cần rà soát lại chiến lược đào tạo nguồn nhân lực để điều chỉnh kịp thời chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm cho các trường, các ngành học. Các cơ sở đào tạo, một mặt, phải thực hiện đúng chỉ tiêu tuyển sinh, khắc phục tình trạng tuỳ tiện tăng chỉ tiêu, mặt khác phải tiến hành khâu tuyển sinh chặt chẽ, nghiêm túc, đảm bảo chất lượng đầu vào cho các trường và ngành học. -Nhanh chóng mở rộng quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật. Trong mấy năm qua, quy mô đào tạo tuy đã tăng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Cần dấy lên phong trào học nghề trong toàn xã hội, phải quy hoạch lại hệ thống dạy nghề theo hướng đồng bộ cả về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng kinh tế và ở từng địa phương. Đổi mới phương pháp, nội dung và giáo viên dạy nghề cho phù hợp với thực tế. -Thực hiện phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông. Việc phân luồng này, một mặt phải được điều khiển bằng cơ chế, chính sách vĩ mô của Nhà nước trên cơ sở nhận thức rõ ràng giá trị xã hội của từng loại lao động và có chính sách khuyến khích vật chất cho học sinh vào học các trường nghề, mở ra cho họ có khả năng phát triển trong tương lai, mặt khác, đòi hỏi các trường phổ thông phải làm tốt công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh. Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực trong đó cần đặc biệt coi trọng các chính sách sau: tập trung đầu tư thoả đáng vào đào tạo lao động cho khu vực công nghệ cao; khuyến khích các doanh nghiệp, giáo viên và người học trong lĩnh vực đào tạo nghề; khuyến khích người học nghề phát triển tài năng và mở đường cho họ phát triển không hạn chế tài năng; khuyến khích vật chất và đãi ngộ tài năng thoả đáng (tiền lương, phụ cấp, bồi dưỡng vật chất) cho các nghệ nhân dạy nghề và truyền nghề ... Thứ ba, phát triển và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm vào việc đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho người lao động, cũng như nhu cầu vay vốn dài hạn với lãi xuất ưu đãi cho kinh tế hộ nông thôn nhằm giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở khu vực này, giải toả sức ép di dân đến đô thị. 4.2.3. Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ. Không thể đưa sự công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đến thành công nếu không thường xuyên đào tạo những người làm công tác khoa học – công nghệ và ngày một nâng cao trình độ nghề nghiệp cho những người đã được đào tạo. Xây dựng một chính sách hợp lý đối với đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ. Xây dựng và sớm thực hiện quy chế đảm bảo dân chủ, phát huy tinh thần sáng tạo, tăng cường đoàn kết, ý thức trách nhiệm xã hội của các nhà khoa học trong hoạt động nghiên cứu và triển khai. 4.2.4. Xây dựng con người Việt nam kết hợp với quá trình đổi mới kinh tế xã hội. Kết hợp nâng cao đời sống vật chất với đời sống tinh thần cho nhân dân. Phát triển nguồn nhân lực về số và chất lượng phải gắn với việc sử dụng nguồn nhân lực để phát huy hiệu quả, phát triển nguồn nhân lực để phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá của tỉnh và phục vụ cho chương trình xuất khẩu lao động Kết hợp phát triển kinh tế với việc giải quyết tốt vấn đề công bằng xã hội. Đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết hợp phát triển nền kinh tế độc lập – tự chủ với hội nhập khu vực và quốc tế. Đẩy nhanh việc đào tạo thêm công ăn việc làm, giảm dần nạn thất nghiệp. Đẩy lùi tệ nạn xã hội. 4.2.5. Nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng và hiệu quả hoạt động của nhà nước trong quá trình xây dựng con người. Đảng và nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt chiến lược phát triển con người Việt nam theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng và nhà nước phải xây dựng được một hệ thống chính sách đồng bộ nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược con người. Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế – một yếu tố cơ bản trong việc xây dựng con người Việt nam. Kết luận Sau khi nghiên cứu đề tài này em nhận thấy rằng: là sinh viên chuyên ngành QTNL thì việc nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là rất cần thiết. Việc nghiên cứu này đã giúp em biết được thêm nhiều để có thể ứng dụng cho công việc sau này. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, muốn trở thành một nước ngày càng giàu mạnh sánh vai với các cường quốc trên thế giới thì không còn cách nào khác là phải đầu tư vào lĩnh vực đào tạo và phát triển con người- nguồn nhân lực quan trọng nhất của đất nước và chỉ cóp như vậy nước ta mới thực hiện được quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Đây cũng chính là hướng tổng quát nhất cho sự nghiệp đào tạo nói chung nhằm phục vụ nền kinh tế thị trường. Tài liệu tham khảo 1) Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX của Đảng 2) Tạp chí “thị trường lao động” số 1,2,3 năm 2000 3) Tạp chí “nghiên cứu lý luận” 6/2000 4) Tạp chí “lao động và xã hội” 5,6/1998, 11/1999, 9/2000 5) Tạp chí “nghiên cứu kinh tế” 12/1999, 1/2000 6) Thực trạng lao động và việc làm ở Việt Nam năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000 7) Giáo trình kinh tế lao động - ĐHKTQD 8) Tạp chí Kinh tế và phát triển. Số 34/2000. Số 38/2000. Số 30/2001. Số 32/2001. Số 42/2001. 9) Nghiên cứu lí luận. Số 3/2000. Số 1/2001. 10) Quản lý nguồn nhân lực. 11) Đào tạo và phát triển. 12) Quản trị nguồn nhân lực. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35704.doc
Tài liệu liên quan