Bán lẻ hiện đại thực sự là một hình thức kinh doanh mới mẻ trong nền kinh tế nước ta với lịch sử hình thành chỉ gần 20 năm. Mặc dù thị phần thấp, song tốc độ tăng trưởng của loại hình phân phối này lại là cao nhất trong thị trường phân phối. Với ưu thế vượt trội về nhiều mặt và xu hướng chi tiêu của người Việt, có thể khẳng định rằng sự phát triển và chiếm lĩnh thị trường của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại trong tương lai không xa là một tất yếu khách quan; khi mà đối trọng với nó chỉ là một chuỗi những cửa hàng kinh doanh truyền thống qui mô cồng kềnh, độ thích nghi thấp. Tuy nhiên, bắt tay vào thực hiện lộ trình cam kết khi gia nhập WTO trong vòng chưa đầy 2 năm nữa, chúng ta không khỏi lo ngại trước nguy cơ “chết trẻ” của ngành phân phối đầy tiềm năng này với sự xâm nhập của những “gã khổng lồ” phân phối của thế giới.
Nhận thấy tiềm năng phát triển của thị trường phân phối bán lẻ hiện đại trong hệ thống phân phối hàng tiêu dùng là rất to lớn, đề án đã tập trung nghiên cứu một cách tổng thể về quá thực trạng; thành tựu, hạn chế; đồng thời xem xét cả tiềm năng phát triển hệ thống trong tương lai. Việc nghiên cứu sự phát triển của loại hình bán lẻ hiện đại được xem xét gắn với thực trạng phát triển của thị trường hàng tiêu dùng nói chung, và hệ thống phân phối bán lẻ truyền thống để người đọc dễ dàng so sánh, đối chiếu, đưa ra nhận định chính xác nhất về loại hình phân phối này. Trong đề tài, tác giả cũng mạnh dạn nêu ra một số giải pháp hi vọng sẽ vạch ra hướng đi cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trên con đường hội nhập.
Mong rằng, với đề tài chúng ta sẽ có được cái nhìn đúng đắn về tiềm năng phát triển thị trường bán lẻ hiện đại Việt Nam.
29 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1625 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Những giải pháp phát triển hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và chỉ sau Ấn Độ và Nga. Các nhà đầu tư nước ngoài nhận định thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam hiện nay như một Ấn Độ thu nhỏ với tình hình thị trường gần như tương đồng nhau. Thể hiện ở 2 điểm cơ bản: Thứ nhất, Việt Nam là một thị trường rộng lớn với số dân lên tới hơn 83 triệu người. Thêm nữa, hệ thống phân phối của Việt Nam đang ở mức sơ khai, mới chỉ khai thác một phần rất nhỏ tiểm năng của thị trường. Một điều kiện thuận lợi nữa là ở Việt Nam tốc độ mở cửa của thị trường khá nhanh. Năm 2009 theo cam kết gia nhập WTO, thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam chính thức mở cửa. Với những nhận định trên thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam quả là miếng bánh béo bở cho các đại gia phân phối nước ngoài.
Hiện tại qui mô tiêu dùng tại Việt Nam đã lên tới 41.5 triệu USD và không ngừng tăng lên. Tỷ lệ tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng so với mức chi tiêu cuối cùng đã tăng lên nhanh chóng qua các năm. Nếu năm 2000 mới chỉ đạt 68.5%, thì năm 2006 đã lên tới 85.4%. Tỷ lệ quĩ tiêu dùng cuối cùng so với GDP của Việt Nam đang thuộc loại cao so với các nước trên khu vực (trên 70%), so với 55.9% của Singapore, 58.2% của Malaysia,…Điều này chứng tỏ tiêu dùng cuối cùng thông qua mua, bán trên thị trường đã tăng khá nhanh, tính tự cấp, tự túc trong nền kinh tế đã được thay thế dần bằng tính thị trường.
II. Hệ thống phân phối hàng tiêu dùng tại Việt Nam.
1. Các thành viên trong hệ thống phân phối hàng tiêu dùng.
Cũng như hệ thống phân phối hàng hoá khác, hệ thống phân phối hàng tiêu dùng cũng bao gồm 3 thành viên chính: nhà sản xuất, trung gian phân phối và người tiêu dùng cuối cùng.
1.1. Nhà sản xuất: là những người đầu tiên đưa hàng hoá vào lưu thông trên thị trường, họ có thể là những người sản xuất trực tiếp hoặc những người nhập khẩu hàng hoá. Trong thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam doanh nghiệp trong nước bộ phận chủ yếu cung cấp hàng hoá cho thị trường (tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng trong năm qua chỉ là 8.1% trong tổng lượng hàng nhập khẩu). Song khả năng bao phủ thị trường của các doanh nghiệp trong nước đang giảm dần cùng với sự mở cửa của nền kinh tế.
1.2. Các trung gian phân phối: trung gian phân phối là hệ thống mạch máu với chức năng đưa hàng hoá từ nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Hoạt động dịch vụ phân phối có tầm quan trọng lớn với nền kinh tế Việt Nam, đóng góp 13 - 14% vào GDP. Theo số liệu tổng điều tra, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phân phối tăng hơn 2 lần trong thời kỳ 2000 - 2004, từ gần 14.100 doanh nghiệp lên gần 28.600 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp hoạt động bán buôn tăng gần 170% và bán lẻ tăng gần 50%.
Trung gian bán buôn được chia làm 3 loại chính: Nhà bán buôn sở hữu hàng hoá thực sự; các đại lý, môi giới và nhà buôn hưởng hoa hồng; chi nhánh và đại diện bán của nhà sản xuất. Qui mô của các trung gian bán buôn trong thị trường hàng tiêu dùng nước ta còn nhỏ lẻ, manh mún, mang tính tự phát cao.
Trung gian bán lẻ gồm: các loại hình bán lẻ truyền thống như: Chợ, cửa hàng tạp hóa,…; các loại hình bán lẻ hiện đại như: siêu thị, cửa hàng tiện ích, …; cửa hàng phân phối, giới thiệu sản phẩm của các nhà sản xuất. Đây là trung gian gần với người tiêu dùng cuối cùng nhất.
Với đặc điểm cơ bản của hàng tiêu dùng là tổng khối lượng cầu của thị trường là lớn song giá trị và số lượng hàng hoá trong mỗi lần trao đổi thấp nên trung gian bán lẻ là bộ phận quan trọng nhất trong các trung gian tham gia phân phối hàng tiêu dùng.
1.3 Người tiêu dùng cuối cùng: Người tiêu dùng cuối cùng tập hợp lại trở thành cầu của thị trường, là mắt xích cuối cùng song vô cùng quan trọng điều khiển toàn bộ kênh phân phối. Hiện tại qui mô cầu hàng tiêu dùng của Việt Nam là rất lớn với số lượng dân số hơn 83 triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới. Mặt khác, khả năng thanh toán của người dân Việt Nam ngày càng tăng lên, khiến cho thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài.
2. Đánh giá chung về hệ thống phân phối hàng tiêu dùng Việt Nam.
Cùng với sự non trẻ của nền kinh tế thị trường, hệ thống phân phối hàng tiêu dùng của nước ta đang tồn tại rất nhiều nhược điểm. Hệ thống phân phối hiện nay có qúa nhiều cấp trung gian trong cùng một khâu (bán buôn, bán lẻ) và quá nhiều đầu mối trên một khu vực địa lý. Bên cạnh đó, sự phân đoạn thị trường giữa các thành viên trong hệ thống và giữa các thành viên trong cùng một cấp độ kênh chưa hợp lý. Những nhược điểm trên làm mất khả năng kiểm soát toàn bộ hệ thống phân phối, làm giảm tính liên kết của các thành viên. Do vậy không tạo ra được sức mạnh chung trong việc nghiên cứu thị trường, tập trung đơn đặt hàng, định hướng cho sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng. Khả năng tự điều chỉnh của thị trường kém nhanh nhạy và các biện pháp can thiệp của Nhà Nước kém phát huy được hiệu quả. Điều này dẫn tới hậu quả là tác động của thị trường thế giới đến thị trường trong nước thường mạnh hơn so với các nước khác, gây thiệt hại cho không chỉ một thành viên tham gia kênh mà toàn bộ kênh. Với cam kết mở cửa thị trường hàng tiêu dùng vào năm 2009, sự xuất hiện ồ ạt của các tập đoàn phân phối nước ngoài sẽ tấn công trực tiếp vào hệ thống phân phối của nước ta, đẩy nguy cơ phá vỡ hệ thống lên cao hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây, hệ thống phân phối Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực. Doanh nghiệp trong nước đã nhận định được nguy cơ sắp tới và bước đầu có sự điều chỉnh. Một mặt, mỗi doanh nghiệp đang tự hoàn thiện dần hệ thống phân phối của bản thân, hàng hoá đưa vào thị trường ngày càng phong phú về mẫu mã và chất lượng hơn; các hình thức phân phối được đa dạng hoá với chất lượng phục vụ cao hơn trước. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng khẳng định liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước là điều kiện cần thiết cho cuộc chiến sắp tới.
PHẦN II. ĐÁNH GIÁ VỀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG PHÂN PHỐI BÁN LẺ HIỆN ĐẠI CỦA VIỆT NAM.
I. Tổng quan về thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng ở Việt Nam.
Như đã nói ở trên, bán lẻ là hình thức phân phối gần nhất với người tiêu dùng và thực tế đã chứng minh là chi tiêu của người tiêu dùng hầu hết thông qua hình thức bán lẻ. Hệ thống phân phối bán lẻ hàng tiêu dùng ở Việt Nam bao gồm: hệ thống phân phối truyền thống, hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại cuối cùng là hệ thống các cửa hàng phân phối trực tiếp của các nhà sản xuất.
Có thể đưa ra một vài nhận định cơ bản về thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng của Việt Nam nhưa sau:
Thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng Việt Nam là thị trường đang mở rộng về qui mô. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế thì luôn ở mức cao và ổn định mức sống người dân được nâng cao rõ rệt. Năm 2005, sức mua hàng hóa và dịch vụ của thị trường Việt Nam tăng khá mạnh với bình quân chi tiêu đầu người lên đến 438.000 đồng/tháng, cao hơn nhiều so với mức 378.000 đồng/tháng của năm trước đó và gấp 2 lần so với năm 2000.
Tỷ lệ giữa kênh phân phối truyền thống và hiện đại ở Việt Nam hiện đang chênh lệch ở mức cao. Nếu như Thái Lan tỷ lệ này là 4 : 6 (kênh phân phối truyền thống 40%, hiện đại 60%) thì ở Việt Nam là 8,4 : 1,6. Sức hấp dẫn rất lớn ở thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam nằm ở chỗ khả năng nắm giữ được 84% thị phần vốn rất rời rạc và manh mún này là rất cao.
Hệ thống phân phối truyền thống vẫn là kênh phân phối chủ yếu: Hệ thống phân phối truyền thống điển hình là các cửa hàng bán lẻ hộ gia đình nằm rải rác trong các khu dân cư và chợ vẫn là những hình thức chủ yếu cung cấp tới 90% tổng nhu cầu hàng tiêu dùng của người dân, cả về hàng thực phẩm cũng như phi thực phẩm. Mua hàng tại các cửa hàng hoặc các chợ này là thói quen xuất phát từ nhu cầu sử dụng thực phẩm tươi sống hằng ngày tồn tại từ rất lâu của người dân Việt Nam. Ngoài ra hệ thống phân phối truyền thống có khả năng cạnh tranh về giá khá cao xuất phát từ việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng thấp. Với 2 ưu điểm nổi bật trên, hệ thống phân phối truyền thống vẫn áp đảo hệ thống phân phối hiện đại trong nhièu phân đoạn thị trường, điều này sẽ được xem xét ở phần tiếp theo. Tuy nhiên, hệ thống phân phối truyền thống đang bộc lộ những yếu điểm lớn, gây mất lòng tin của người tiêu dùng. Sự thiếu liên kết và thống nhất giữa các thành viên gây ra tình trạng giá cả chênh lệch ngay trên một khu vực địa lý hẹp, khách hàng buộc phải tìm hiểu giá cả trước khi mua hàng với tâm lý sợ bị mua “hớ”.
Hệ thống phân phối bán lẻ hiên đại - đối trọng của hệ thống bán lẻ truyền thống: Hệ thống phân phối hiện đại, bao gồm nhiều loại hình như trung tâm thương mại (TTTM), siêu thị, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh là loại hình phân phối còn rất non trẻ, mới chỉ khai thác được 16% thị trường đầy tiềm năng này. Tuy nhiên hệ thống phân phối này đang thể hiện là một kênh phân phối ưu việt nhất trong toàn kênh với sức tăng trưởng rất cao và sự hoàn hảo trong dịch vụ khách hàng. Hệ thống này được dự đoán sẽ bùng nổ rất nhanh chóng trong tương lai không xa.
BIỂU ĐỒ 1: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của cả nước giai đoạn 2000 - 2006
Nguồn: Tổng cục thống kê
II.Thực trạng hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại hàng tiêu dùng ở Việt Nam.
Tại Việt Nam, đặc biệt là TP.HCM, bán lẻ hiện đại dưới hình thức siêu thị tự chọn, các cửa hàng, trung tâm thương mại xuất hiện từ những năm 1994 và phát triển mạnh trong những năm gần đây. Sau đây chúng ta sẽ xem xét kĩ hơn về thực trạng phát triển của loại hình phân phối mới mẻ này trong bức tranh phân phối tổng thể của Việt Nam.
1. Số lượng và sự phát triển của loại hình bán lẻ hiện đại ở Việt Nam.
Nếu như cuối năm 1995 nước ta mới chỉ có 12 siêu thị tại 6/64 tỉnh và thành phố, thì đến 2005 số lượng này đã lên tới trên 200 siêu thị, 30 TTTM tại 30/64 tỉnh và thành phố; khoảng 1.000 cửa hàng tiện lợi và hàng nghìn cửa hàng chuyên doanh phân bố rộng khắp cả nước tuy quy mô chưa lớn, trình độ quản lý, công nghệ, thiết bị kỹ thuật và phương thức kinh doanh chưa theo được chuẩn mực quốc tế.
Tốc độ tăng trưởng hàng năm của kênh phân phối hiện đại này khoảng 15%-20%, cao hơn tốc độ tăng trưởng của ngành bán lẻ khác 10% và của nền kinh tế 7%-8%. Từ chỗ chỉ chiếm dưới 3% thị phần bán lẻ, đã tăng lên khoảng trên 10%-25% và tốc độ này đang ngày càng tăng cao, đến 30% - 40%. Người tiêu dùng ngày càng có xu hướng chuyển từ mua sắm tại chợ truyền thống sang các siêu thị hiện đại. Có thể khẳng định rằng: Bán lẻ hiện đại đang tấn công mạnh mẽ vào hệ thống phân phối truyền thống.
Biểu đồ 2: Bức tranh mạng lưới bán lẻ Việt Nam
Nguồn: www.sgtt.com.vn - Kịch bản nào mở cửa ngành bán lẻ, 2006
2. Mạng lưới phân bổ và mức độ bao phủ thị trường của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại tại Việt Nam.
Kênh phân phối hiện đại của Việt Nam thông qua mạng lưới cửa hàng tiện lợi nhỏ gọn được đặt trong khu dân cư, phục vụ cho các nhu cầu thường ngày của người dân. Các siêu thị, đại siêu thị qui mô lớn hơn phục vụ cho những dịp mua sắm lớn của người dân như lễ tết, hội hè. Với mạng lưới phân bố như vậy, kênh phân phối hiện đại dường như đang thích nghi với thói quen tiêu dùng của người dân Việt Nam. Qui mô hiện tại của hình thức này là 16% trên toàn bộ hệ thống bán lẻ.
Thành thị, đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là thị trường tiêu thụ hàng hoá chính của kênh phân phối hiện đại. Lúc đầu, các loại hình này tập trung chủ yếu ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và Tp. HCM, nhưng vài năm trở lại đây đã phát triển rộng ra các thành phố khác (Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ,…) với tốc độ khá nhanh. Phân phối hiện đại ngày càng tỏ ra phù hợp với khu vực dân cư này. Mặc dù vậy, theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, kênh phân phôi này chỉ mới đáp ứng được 20%-30% nhu cầu tiêu dùng của khách hàng có mức sống trên trung bình.
Nông thôn, với 75% dân số cả nước, được coi là thị trường khá rộng lớn, là mục tiêu của chuỗi phân phối bán lẻ hiện đại. Tuy nhiên, xâm nhập thị trường nông thôn trong thời điểm hiện tại quả là một bài toán nan giải đối với các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại. Tính đến cuối năm 2005, cả nước có 9.063 chợ; trong đó 6.788 chợ ở nông thôn và 2.275 chợ ở khu vực thành thị. Nhìn vào tỉ lệ phân phối chợ giữa thành thị và nông thôn, chúng ta có thể nhận định rằng đối với người dân nông thôn chợ vẫn là hình thức mua sắm chủ yếu. Người dân ở khu vực này, đại đa số là nông dân, có yêu cầu về dịch vụ, về sự đa dạng hàng hoá cùng với mức độ tinh tế của sản phẩm thấp hơn so với khu vực thành thị, song cái mà họ đặt ra để làm tiêu chí hàng đầu cho quyết định mua hàng của minh chính là giá cả. Đây lại chính là yếu điểm của kênh phân phối hiện đại so với những cửa hàng bán lẻ truyền thống. Điều này cũng lý giải tại sao nông thôn vẫn chỉ là một thị trường “đầy tiềm năng, có thể khai thác được” của kênh phân phối hiện đại. Rõ ràng chính sách một giá (giá chung cho thành thị và nông thôn) và cách tiếp cận “thành thị” là không phù hợp với cầu tiêu dùng nông thôn. Các doanh nghiệp cần có các chiêu thức tiếp thị đặc biệt, nâng cao sức cạnh tranh về giá nhằm khắc phục tình trạng không có kênh phân phối trên thị trường rộng lớn này. Đây cũng là một bước để hoàn thiện và nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp phân phối bán lẻ hiện đại Việt Nam.
Bảng 1: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế giai đoạn 1993 – 2006.
Năm
Tổng số
Chia ra
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế ngoài Nhà nước
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Tỷ đồng
1993
67273.3
14650.0
52623.3
1994
93490.0
21566.0
71478.0
446.0
1995
121160.0
27367.0
93193.0
600.0
1996
145874.0
31123.0
112960.0
1791.0
1997
161899.7
32369.2
127332.4
2198.1
1998
185598.1
36083.8
147128.3
2386.0
1999
200923.7
37292.6
160999.6
2631.5
2000
220410.6
39205.7
177743.9
3461.0
2001
245315.0
40956.0
200363.0
3996.0
2002
280884.0
45525.4
224436.4
10922.2
2003
333809.3
52381.8
267724.8
13702.7
2004
398524.5
59818.2
323586.1
15120.2
2005
480293.5
62175.6
399870.7
18247.2
Sơ bộ 2006
580710.1
72095.0
485496.4
23118.7
Cơ cấu (%)
1993
100.0
21.8
78.2
1994
100.0
23.1
76.4
0.5
1995
100.0
22.6
76.9
0.5
1996
100.0
21.3
77.5
1.2
1997
100.0
20.0
78.6
1.4
1998
100.0
19.4
79.3
1.3
1999
100.0
18.6
80.1
1.3
2000
100.0
17.8
80.6
1.6
2001
100.0
16.7
81.7
1.6
2002
100.0
16.2
79.9
3.9
2003
100.0
15.7
80.2
4.1
2004
100.0
15.0
81.2
3.8
2005
100.0
12.9
83.3
3.8
Sơ bộ 2006
100.0
12.4
83.6
4.0
Nguồn: Tổng cục thống kê.
3. Chất lượng dịch vụ, sự cạnh tranh giữa các loại hình bán lẻ hiện đại tại Việt Nam
Bán lẻ hiện đại là cách gọi chỉ chung cho những phương thức bán hàng khác biệt so với những phương thức bán hàng truyền thống của người dân Việt Nam. Để xem xét chất lượng của loại hình bán lẻ này, chúng ta làm phép so sánh với kênh phân phối truyền thống
Trước hết, về đầu tư: hệ thống cửa hàng, siêu thị, đại siêu thị nằm trong chuỗi phân phối bán lẻ hiện đại được đầu tư rất lớn tới hàng trăm tỷ đồng. Trong khi đó, để có một cửa hàng bán tạp hoá hoặc một chỗ bán hàng trong chợ, người bán chỉ cần số tiền lên tới vài chục triệu, có khi, tại các khu miền núi, nông thôn, con số đấy chỉ là mấy triệu. Với sự chênh lệch về đầu tư như vậy, cũng dễ hiểu tại sao người tiêu dùng chúng ta vẫn thích vào siêu thị, trung tâm thương mại, dù chỉ là ngắm đồ.
Về cơ sở hạ tầng: Các cửa hàng chuyên doanh, siêu thị,… thường được nhà đầu tư lựa chọn địa điểm rất kĩ, thông thường là những địa điểm gần đầu mối giao thông hoặc các trục đường chính nhiêu người qua lại và thường bố trí chỗ để xe cho khách hàng, rất thuận tiện cho người dân mua sắm. Cửa hàng được xây dựng qui mô, hoặc được thiết kế độc đáo mang phong cách riêng, và tạo cảm giác sạch sẽ, thoải mái, ấn tượng cho người mua. Nhìn lại một khu chợ, kể cả trong trung tâm thành phố, có thể cũng được xây dừng gần nơi đông dân, song hầu hết đều lụp xụp, đường xá xuống cấp, bẩn thỉu, nhầy nhụa nhất là sau khi mưa, cách bố trí hàng hoá cũng lộn xộn, không theo hệ thống làm giảm mĩ quan và gây khó khăn cho người tiêu dùng.
Về hàng hoá: Bước vào một siêu thị, người tiêu dùng sẽ choáng ngợp trước lượng hàng hoá dồi dào, đa dạng cả về mẫu mã và số lượng, hơn hẳn lượng hàng trong các sạp hàng chợ, hoặc các cửa hàng tạp hoá. Điều đáng nói ở đây là mỗi nhóm hàng đều được bố trí ở những địa điểm cụ thể và giá cả niêm yết rõ ràng, thường được kiểm tra về chất lượng, thờì hạn sử dùng trước khi bày bán, do đó không gây ra sự mất tin tưởng về cả giá cả cũng như chất lượng hàng hoá như ở các hình thức bán lẻ truyền thống. Sở dĩ có sự khác biệt trên là do phân phối bán lẻ hiện đại có hệ thống kho chứa và phương tiện chở hàng hơn hẳn hệ thống bán lẻ truyền thống.
Về nguồn nhân lực: Trình độ quản lý của kênh phân phối bán lẻ tỏ ra vượt trội do được đào tạo bài bản, có trình độ học vấn cao, am hiểu kiến thức chuyên môn và nền kinh tế. Cách quản lý khoa học, tạo ra được sự thống nhất trong cả một hệ thống bán hàng của doanh nghiệp. Trong khi đó, người bán lẻ truyền thống hầu hết đều chỉ sở hữu một hoặc một số sạp hàng giá trị thấp. Hoạt động quản lý của họ chủ yếu dựa trên kinh nghiệm bản thân.
Như vậy, với chất lượng dịch vụ vượt trội, kênh phân phối bán lẻ hiện đại đang đe doạ bán lẻ truyền thống.
Xem xét sự cạnh tranh trong nội tại các loại hình bán lẻ hiện đại, ta thấy đang bắt đầu xuất hiện sự cạnh tranh của các nhóm sau: Cạnh tranh giữa hệ thống phân phối thông qua siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện ích chiếm 10% toàn kênh phân phối với 2 hệ thống phân phối đã bắt đầu được quan tâm là hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm, chuyên doanh của các nhà sản xuất trực tiếp và hệ thống phân phối bán lẻ thông qua mạng điện tử, 2 hệ thống phân phối này chiếm gần 6% toàn kênh. Thứ 2 là cạnh tranh giữa các nhà bán lẻ hiện đại trong nước và những nhà phân phối bán lẻ hiện đại nước ngoài.
Về sự cạnh tranh của các nhà cung ứng: nhà cung ứng có khả năng hội nhập dọc thuận chiều, họ có khả năng tự xây dựng những cửa hàng, trung tâm phân phối cho riêng sản phẩm của họ. Tất nhiên đó không phải là một xu thế phổ biến vì dù cho các nhà cung ứng có thể xây dựng các trung tâm phân phối, bán hàng của riêng họ thì chuỗi các loại hình kinh doanh bán lẻ của các DNBL vẫn chiếm 60% sự thành công của các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa. Song điều này cũng gây nên áp lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại nước ta.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đặc biệt là internet đã làm thay đổi cả thế giới. Và thương mại điên tử đang là một xu hướng tất yếu. Amazon.com, ebay.com là các trang web thương mại điện tử (e-comerce) lớn nhất thế giới. Các loại hàng hóa mà trước đây chỉ xuất hiện trên kệ của các cửa hàng truyền thống giờ đây đã hiện diện trên các trang web này và được NTD sẵn sàng mua (order) như họ mua ở các cửa hàng bán lẻ . Ở Việt Nam hiện nay, thương mại điện tử vẫn chỉ đang ở dạng khai sinh, đã có nhiều trang web bán hàng trực tuyến nhưng vẫn chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm, thăm dò thị trường nhưng nó cũng đã báo hiệu cho một xu thế mua sắm online ở Việt Nam.
III. Đánh giá tiềm năng phát triển của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại ở Việt Nam.
1. Những điều kiện thuận lợi và cơ hội.
1.1. Xuất phát từ môi trường bên ngoài doanh nghiệp.
- Nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định, môi trường kinh doanh của Việt Nam có mức độ rủi ro thấp. Quĩ tiêu dùng của dân cư ngày càng cao, khả năng chi tiêu của người dân đang tăng lên. Theo cách nói thông thường, người dân đã chuyển từ “ăn no, mặc ấm” sang “ăn ngon, mặc đẹp”.
- Nhà nước bắt đầu có những quan tâm đúng đắn đến sự phát triển của loại hình bán lẻ này. Hiện Bộ Thương mại đang đàm phán với Chính phủ Phần Lan về khoản viện trợ 20 triệu Euro, hỗ trợ Việt Nam nâng cao kết cấu hạ tầng thương mại. Đây là nguồn vốn ODA đầu tiên rót vào ngành dịch vụ phân phối nước ta.
- Thói quen tiêu dùng trong dân cư đã có những chuyển biến thuận lợi. Tỷ lệ dân cư thành thị có thói quen mua sắm tại các siêu thị, trung tâm bán lẻ ngày càng cao. Khu vực phía Nam có đến gần 85% dân cư là khách hàng thường xuyên của siêu thị.
- Các nghành kinh tế khác có tốc độ tăng trưởng nhanh, hỗ trợ cho hệ thống phân phối có điều kiện phát triển theo. Ví dụ như: Ngành viễn thông cho phép áp dụng mạng nội bộ để kiểm soát hoạt động phân phối hàng và quản lý thanh toán…, sự phát triển của sản xuất vật chất trực tiếp, hoạt động nhập khẩu cung ứng cho hệ thống phân phối lượng hàng hoá phong phú về chất lượng và chủng loại…
1.2. Xuất phát từ nội tại doanh nghiệp.
- Đã xây dựng được hệ thống phân phối trên hầu hết các thành phố.
- Hầu hết các doanh nghiệp đã nắm bắt được nguy cơ khi nhà nước mở cửa thị trường phân phối vào 2009 và bước đầu đã hình thành xu hướng liên kết.
- Bước đầu tạo được sự tin tưởng cho khách hàng về chất lượng phục vụ và khả năng đáp ứng nhu cầu. So với kênh phân phối truyền thống, phân phối bán lẻ hiện đại đã thể hiện những ưu thế vượt trội về nhiều mặt.
- Ngày càng nắm bắt và am hiểu hơn thói quen mua sắm của người tiêu dùng.
- Bắt đầu đẩy mạnh xây dựng các mô hình kinh doanh siêu thị, trung tâm thương mại.
2. Những tồn tại của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại Việt Nam.
2.1. Xuất phát từ môi trường bên ngoài doanh nghiệp.
- Đầu tiên, khó khăn xuất phát từ hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ và còn nhiều bất cập của nước ta. Hiện tại, Việt Nam chưa có một bộ luật chuẩn nào điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường bán lẻ. Các luật định lại thưòng xuyên thay đổi, gây khó khăn cho việc hoạch định chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp. Điều này sẽ còn ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp trong nước hơn nữa khi thị trường trong nước mở cửa.
- Công tác qui hoạch chợ và siêu thị ở nhiều địa phương còn qúa kém, chưa được quan tâm hợp lý. Các siêu thị và chợ mọc quá gần nhau gây ra sự cạnh tranh không cần thiết, làm chia nhỏ lượng khách hàng và giảm hiệu quả kinh doanh của từng siêu thị. Kể cả các siêu thị cũng được xây dựng không hợp lý, chưa có sự hợp tác lẫn nhau gây ra tình trạng phân bố không hợp lý, có khu vực thì quá nhiều, có những khu lại hầu như chẳng có siêu thị nào được xây dựng. Lấy một ví dụ điển hình: Đoạn đường Phạm Ngọc Thạch, Hà Nội với độ dài gần 1km có tới 3 siêu thị được xây dựng gồm siêu thị Hà Nội Star Bow, siêu thị Asean , ngay gần đó là 2 khu chợ Kim Liên và chợ Đông Tác.
- Trong cơ cấu thị trường Việt Nam, tỉ trọng người tiêu dùng nông thôn còn khá cao (hơn 75% trên tổng số dân của cả nước). Mặt khác cầu có khả năng thanh toán của khu vực này thấp và thói quen tiêu dùng hàng chợ, hàng rong vẫn còn lớn. Đây là một thách thức to lớn trong chiến lược mở rộng thị trường của các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại Việt Nam.
- Việc phát triển hình thức bán lẻ hiện đại cũng gặp phải rào cản tồn tại trong chính thói quen mua sắm đặc thù của người dân Việt Nam. Có tới 90% các bà nội trợ Việt Nam đi chợ mỗi ngày, với mục đích chính là nguyên liệu thực phẩm tươi sống.
2.2. Xuất phát từ phía các doanh nghiệp.
- Tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp trong nước đang còn yếu. Hầu hết doanh nghiệp trong hệ thống bán lẻ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tập trung vốn trung và dài hạn để mở rộng kênh phân phối là điều khó khăn.
- Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao trong hệ thống. Do đó, việc thực hiện các chức năng trong quá trình quản trị thiếu hiệu quả và chưa đồng bộ.
- Hoạt động Marketing chưa được quan tâm đúng mức: Chưa có chiến lược cho những phân khúc thị trường khác nhau, hoạt động quảng bá, khuyếch trương thương hiệu vẫn chưa được trú trọng, hệ thống hậu cần chưa đồng bộ và kém hiện đại… hiện tại các doanh nghiệp đang bỏ ngỏ khu vực thị trường nông thôn rộng lớn.
- Khả năng áp dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là thương mại điện tử thấp. Điển hình là hình thức thanh toán điện tử hầu như chưa được thực hiện trong hệ thống.
- Thương mại hiện đại đòi hỏi 1 hệ thống hậu cần hiện đại và mang tính chuyên nghiệp cao mà Việt Nam cũng đang thiếu, từ “phần cứng” như hệ thống kho, các phương tiện vận chuyển chuyên dùng đến “phần mềm” là con người và phương pháp làm việc trong hệ thống.
- Dù có nhiều ưu thế vượt trội, song so với kênh phân phối truyền thống giá cả hàng hoá vẫn có phần cao hơn.
Với các hạn chế trên, mỗi doanh nghiệp trong chuỗi phân phối bán lẻ chưa xây dựng cho mình được các chuỗi phân phối bán lẻ có qui mô lớn như chuỗi siêu thị hay cửa hàng tiện lợi và toàn bộ kênh phân phối bán lẻ chưa thực sự liên kết với nhau một cách chặt chẽ trong chiến lược chung đối phó với sự xâm nhập của các doanh nghiệp nước ngoài.
PHẦN III. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG PHÂN PHỐI BÁN LẺ HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM.
I. Dự báo xu thế phát triển của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại Việt Nam.
1. Dự báo các xu hướng tiêu dùng hiện đại:
Quĩ tiêu dùng cuối cùng: Theo các chuyên gia kinh tế, quỹ tiêu dùng cuối cùng so với GDP sẽ tiếp tục giữ khoảng 70% cho thời kì chiến lược 2006 – 2020. Đến năm 2010, quĩ tiêu dùng cuối cùng sẽ có qui mô khoảng 843.000 - 860.000 tỷ đồng.
Nhóm khách hàng tiềm năng:
Sự xuất hiện tầng lớp trung lưu :Một xu hướng chủ đạo hết sức mạnh mẽ trong các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam là việc xuất hiện tầng lớp trung lưu. Đây là tầng lớp thường được biết đến như những người tiêu xài nhiều và tiết kiệm ít, thích tiếp cận các sản phẩm mới và một khi sản phẩm mới này được chấp nhận họ sẽ tiếp tục sử dụng những mẫu mã ''mới và được cải tiến'' khi chúng xuất hiện trên thị trường. AT Kerney tiên đoán rằng đến năm 2020, 9 triệu người Việt Nam sẽ có thu nhập hằng năm là l0.000 USD. Hơn thế nữa, trong ngành dịch vụ của chúng ta, khi một quốc gia tiến tới giai đoạn phát triển với bình quân tổng sản phẩm quốc gia/đầu người (GNP per capital) được nâng từ mức 2.000 USD đến 10.000 USD, thì điều này có nghĩa là mức gia tăng chi tiêu tuyệt đối trên sản phẩm tiêu dùng trong thời kỳ này là cao nhất. Nói một cách khác đó là ''thời kỳ vàng'' cho ngành dịch vụ. TPHCM và Hà Nội hầu như đã đạt được điểm khởi đầu của quy trình này,
Những cư dân nữ thành thị trẻ độc lập về tài chính: Thành phần các phụ nữ làm việc và chọn lối sống độc thân để theo đuổi sự nghiệp riêng tại Việt Nam chưa có một con số chính xác song cũng giống như nhiều quốc gia đang phát triển khác, con số này chắc chắn sẽ tăng nhanh trong vòng mấy năm tới. Những người phụ nữ tự tin và có đầu óc doanh nghiệp này là những người tự do và háo hức được thử các thói quen tiêu dùng mới. Các sản phẩm chăm sóc cơ thể và làm đẹp đã hiển nhiên được chú ý. Tuy nhiên, cũng có nhiều ngành công nghiệp khác được ăn theo phân khúc này, “Thẻ tín dụng chỉ dành cho phụ nữ”, công nghiệp thời trang và giải trí, sự bùng nổ các cơ sở spa và chăm sóc tóc là một trong các thí dụ.
Những gia đình hạt nhân mới: trong cuộc sống hiện đại, gia đình hạt nhân với 2 thế hệ đang dần chiếm ưu thế.
Xu hướng lựa chọn kênh phân phối và thời gian mua hàng: Xu hướng chung của người tiêu dùng là ngày càng tiếp cận các kênh phân phối hiện đại như siêu thị và cửa hàng tự chọn. Các dịp mua sắm lớn chủ yếu vẫn tập trung vào các ngày nghỉ Lễ, Tết... Tuy nhiên, cũng có một xu hướng tiêu dùng mới hình thành tại các đô thị, đó là nhu cầu mua sắm vào dịp cuối tuần tại các trung tâm thương mại hiện đại. Mức tăng trưởng của hệ thống bán lẻ hiện đại luôn đạt khoảng 20%/năm. 2/3 số người được hỏi khẳng định rằng trong tương lai sẽ mua sắm ở khu thương mại hiện đại như Metro, Coop Mart, Zen Plaza hay Vincom City Tower thường xuyên hơn.
Hướng thu thập thông tin: Phần lớn khách hàng khi mua hàng vẫn tham khảo qua các nguồn thông tin từ báo chí, quảng cáo và bạn bè. Tuy nhiên, nhu cầu tiếp cận các kênh thông tin về sản phẩm và dịch vụ của độc giả Tư vấn & Tiêu Dùng ngày càng thiên về các loại hình thông tin đại chúng, bao gồm cả phát thanh - truyền hình, báo chí và Internet. Còn mức độ ảnh hưởng từ các kênh thông tin truyền thống (qua bạn bè, người quen, gửi hàng mẫu...) lại có xu hướng giảm xuống. Tức là người tiêu dùng đã có lòng tin nhất định vào sự giới thiệu của các nhà sản xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Tiêu chí lựa chọn sản phẩm: Mức độ nhận biết là tiêu chí đầu tiên để người tiêu dùng tin, lựa chọn và sử dụng sản phẩm - dịch vụ. Điều này dẫn đến những trường hợp có những thương hiệu hoặc nhãn hiệu được “mặc định” cho một dòng sản phẩm nào đó và sẽ có ưu thế nổi trội hơn hẳn so với các sản phẩm cùng loại. Ví như trường hợp Honda đồng nghĩa với xe máy; hay nước khoáng thiên nhiên chỉ có thể là Lavie. Chính vì thế đây cũng chính là những sản phẩm được người tiêu dùng bình chọn ở mức độ tin và dùng cao nhất.
Xu hướng lựa chọn sản phẩm: Trong top 10 sản phẩm được tin và dùng thường xuyên nhất đa phần lại thuộc nhóm hàng điện, điện tử hoặc sản phẩm công nghệ cao. Kết quả này cũng thể hiện rằng đời sống kinh tế của người tiêu dùng đang được cải thiện và xu hướng mua sắm các sản phẩm công nghệ kỹ thuật cao đang ngày một tăng.
Xe gắn máy được nhận biết cao hầu hết là các sản phẩm có tuổi đời dài, chất lượng đã được kiểm chứng bởi thời gian. Nhãn hiệu hàng đầu được người tiêu dùng lựa chọn là Honda, chiếm lĩnh đến 60% thị trường xe máy với mức độ nhận biết và ưa dùng rất cao. Yamaha luôn theo hướng Honda nhưng vị thế bị bỏ lại khá xa. Piaggio thì mặc dù số lượng sử dụng ít nhưng mức độ nhận biết và tin dùng lại tương đối lớn.
Thị trường ôtô cũng trong tình trạng tương tự. Toyota dẫn đầu về nhận biết chung trên thị trường. Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp sản xuất ôtô đều khai thác tốt phân đoạn thị trường riêng. Mức độ ưa thích của Mercedes và BMW vẫn ở mức cao dù số lượng tiêu dùng bị hạn chế.
Trong các dòng sản phẩm đồ gia dụng, các nhãn hiệu Nhật Bản vẫn nhận được mức độ tin dùng cao nhất. Nói chung, người Việt Nam rất ưa chuộng các thương hiệu hàng điện tử có nguồn gốc xuất xứ từ Nhật Bản. Trong đó, Sanyo đứng đầu về mức độ nhận biết trong dòng sản phẩm máy giặt và tủ lạnh, bỏ xa 2 thương hiệu Hàn Quốc khác là LG và Daewoo. Với sản phẩm thông dụng nhất là tivi thì Samsung dẫn đầu thị trường về số lượng người dùng nhưng sự ưa thích dành cho Sony lại cao hơn.
Tương tự, trên thị trường điện thoại di động, Nokia là sản phẩm được sử dụng nhiều nhất trong số phản hồi, tuy nhiên, số đánh giá tốt trên số phản hồi lại thuộc về Sony-Ericsson. Các thương hiệu Việt Nam hầu như không có chỗ đứng trên thị trường vì chất lượng, mẫu mã và nhất là mức độ nhận biết rất kém. Chỉ có 2 thương hiệu được nhận biết tốt ở dòng máy vi tính là CMS Thế Trung (Thánh Gióng) và FPT Elead, nhưng mức độ tin dùng cũng không thật sự nổi trội so với các loại máy vi tính khác.
Đối với các mặt hàng tiêu dùng, hầu hết mức độ nhận biết cao của người tiêu dùng là thông qua các chiến dịch truyền thông, tiếp thị và khuếch trương thương hiệu. Với 2 mặt hàng dầu gội và sữa tắm, mức độ nhận biết là không quá chênh lệch giữa các nhãn hiệu. Điều này chỉ ra sự cạnh tranh quyết liệt cả trên thị trường hóa phẩm lẫn trong các chiến lược quảng cáo của các nhãn hàng này.
Hai nhãn hiệu được nhận biết tốt nhất trên thị trường hóa phẩm - chất làm sạch là P/S và OMO. Mức độ nhận biết cao cho P/S là do lịch sử lâu đời và chất lượng tốt. OMO dẫn đầu thị trường xà phòng giặt về mức độ nhận biết.Trong khi đó, VICO - Vì dân lại tạo nên mức đột phá trên thị trường về mức độ nhận biết và sử dụng do rất thành công ở thị trường nông thôn. Số lượng phản hồi cho VICO - Vì dân giải thích sự ưu ái cho nhãn hiệu này bởi giá rẻ mà giặt vẫn trắng sáng.
Các nhãn hiệu hàng tiêu dùng thường xuyên lại mang tính nhận biết thấp và không có thương hiệu nổi trội được nhận biết tốt, ngoại trừ những thương hiệu đã khẳng định được vị trí trong ngành. Có thể lấy ví dụ từ trường hợp của Vinamilk hay Kinh Đô. Vinamilk dẫn đầu thị trường về nhận biết các sản phẩm có nguồn gốc từ sữa trong khi các thương hiệu khác chỉ cố gắng khai thác một phân đoạn nhỏ theo mặt hàng hay loại sữa.
BIỂU ĐỒ 3: Tỷ lệ các yếu tố chọn lựa của người tiêu dùng khi mua hàng
Nguồn: www.sgtt.com.vn – Áp lực bán lẻ, 2006
2. Thị trường bán lẻ trong thời gian tới
Trong thời gian sắp tới, khi đàm phán về gia nhập WTO, Việt Nam chắc chắn sẽ phải thực hiện cam kết mở cửa thị trường bán lẻ. Theo dự báo của Bộ Thương mại, đến năm 2010, kênh phân phối hiện đại sẽ chiếm tỷ lệ 30-40%, bằng với Trung Quốc hiện nay và đến năm 2020, chiếm khoảng 60%, bằng với Thái Lan hiện nay. Với hệ thống phân phối yếu như hiện nay, việc cần làm là gấp rút cải thiện và phát triển một hệ thống phân phối hàng hoá đủ mạnh với chủ đạo là hệ thống phân phối hiện đại, nếu không các doanh nghiệp trong nước sẽ khó tránh được nguy cơ thua ngay trên sân nhà.
Các cửa hàng đại lý hiện đại sẽ được mở rộng
Dự báo, mô hình về hệ thống bán lẻ ở nước ta sẽ thay đổi một cách đáng kể trong một vài năm tới, với những cửa hàng siêu thị mini có điều hoà và sự liên kết giữa 2 mô hình siêu thị và những cửa hàng nhỏ sẽ trở nên phổ biến, thu hút được người tiêu dùng vốn có thói quen mua bán ở những cửa hàng bên đường. Nhịp độ thay đổi này sẽ nhanh hơn ở các khu vực trung tâm TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội, nơi người tiêu dùng có thu nhập cao hơn với sức mua tập trung hơn so với người tiêu dùng khu vực nông thôn. Khu vực nông thôn, người bán lẻ quy mô nhỏ và cửa hàng ngoài trời sẽ vẫn là trung tâm của thương mại bán lẻ.
Số lượng các siêu thị sẽ tăng lên một cách nhanh chóng do nhu cầu đang ngày càng tăng giữa những người tiêu dùng vì sự thuận tiện, nhất là khi họ đã có thói quen mua hàng trong các siêu thị đối với các loại hàng hoá từ thực phẩm cho đến hàng tiêu dùng lâu bền. Dây chuyền siêu thị lớn nhất trong nước là Saigon Co-op Mart, dự định có một mạng lưới khoảng 20 siêu thị trong năm 2005, hầu hết các siêu thị đó đều tập trung xung quanh quanh TP.Hồ Chí Minh. Những dây chuyền siêu thị trong nước khác, chẳng hạn như dây chuyền siêu thị tư nhân Maximark đang có dự định mở rộng mạng lưới tương tự nhằm bảo vệ thị phần của mình. Một số doanh nghiệp đã bước đầu xây dựng thương hiệu tại các khu vực nông thôn. Mặc dù sức mua ở khu vực nông thôn hạn chế, thêm vào đó là cơ sở hạ tầng nhìn chung nghèo nàn nhưng Saigon Co-op Mart vẫn có kế hoạch mở rộng các chi nhánh đến những khu vực xa xôi. Tuy nhiên, trong vài năm tới, thị trường bán lẻ ở khu vực nông thôn vẫn chưa phát triển.
Hoạt động của các nhà bán lẻ nước ngoài thời gian tới
Mặc dù Chính phủ vẫn nắm giữ kiểm soát chặt chẽ khu vực bán lẻ, theo đó những Công ty hay tập đoàn kinh doanh bán lẻ nước ngoài phải được phép thiết lập chi nhánh, nhưng những tập đoàn này vẫn tham vọng sẽ mở rộng được thị phần của mình. Tập đoàn French Bourbon Group sáp nhập được coi là tập đoàn bán lẻ lớn nhất hoạt động trên thị trường Việt Nam thông qua một loạt các hệ thống siêu thị và cửa hàng lớn đa dạng về hàng hoá - dịch vụ (hiện nay, hoạt động tại thị trường Việt Nam với thương hiệu Big C). Kế hoạch của tập đoàn này là trong vòng 5 năm nữa sẽ mở rộng hơn nữa thị trường hoạt động bằng việc đầu tư vào 5 trung tâm thương mại ở TP.Hồ Chí Minh. Tập đoàn này đã mở một chi nhánh ở Thành phố Hà Nội – đó là Big C Thăng Long vào đầu năm 2005. Siêu thị Metro của Đức với hoạt động mua bán thanh toán bằng tiền mặt, khâu phân phối đã mở rộng hoạt động của mình trên khắp Việt Nam. Tập đoàn này đã mở 2 siêu thị ở TP.Hồ Chí Minh, 1 siêu thị ở Hà Nội và 1 ở Cần Thơ. Đến năm 2007, kế hoạch của Metro là có 8 siêu thị hoạt động trên khắp Việt Nam, trong đó có 3 siêu thị ở TP.Hồ Chí Minh, 2 ở Hà Nội và 1 siêu thị ở Cần Thơ, 1 ở Hải Phòng và 1 ở Đà Nẵng.
Trên đây là kế hoạch của 2 đại gia bán lẻ hiện đang “làm mưa, làm gió” trên thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam. Theo dự đoán, các tập đoàn kinh doanh bán lẻ của quốc gia lớn khác, bao gồm một số tập đoàn từ Mỹ, sẽ tìm kiếm lợi nhuận và một vị trí chắc chắn ở Việt Nam. Một loạt các tập đoàn đã có kế hoạch cụ thể cho việc thâm nhập vào nước ta như: Wal – Mart, Lotte Shopping, Parkson, Dairy Farm…"Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng và một lực lượng dân số trẻ là khách hàng tiềm năng của những nơi mua sắm kiểu Wal – Mart. Chúng tôi đã sẵn sàng cho ngày thâm nhập thị trường", phát ngôn viên Wal – Mart, Bill Wertz nhận định. Mới đây nhất, ngày 23/10/2006, công ty liên doanh Lotte Vina Shopping là liên doanh giữa doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Minh Vân (Việt Nam) và Công ty Lotte Shopping Co., Ltd (Hàn Quốc) với mục tiêu đầu tư chuỗi 15 trung tâm thương mại tổng hợp tại thành phố Hồ Chí Minh. Trung tâm đầu tiên dự kiến được xây dựng tại khu vực đường Quang Trung (Gò Vấp) với tổng vốn đầu tư 50 triệu USD cũng đã được Thủ tướng chấp thuận đầu tư. Ngoài ra tập đoàn phân phối bán lẻ Dairy Farm (Singapore) cũng nộp đơn xin thành lập công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam trong năm 2006.
Bảng 2: Dự báo thị trường bán lẻ Việt Nam.
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Doanh số bán lẻ(triệu USD)
20.355
21.710
23.135
24.747
26.747
28.045
Mức tăng trưởng doanh số bán lẻ (%)
10,0
3,3
5,8
5,9
6,0
6,1
Nguồn: The Economist Intelligent Unit
Nguy cơ về một cuộc chiến không cân sức:
Theo kinh nghiệm của một số nước đi trước, trong vòng bán kính 3 km, khi một đại siêu thị ẩmở ra thì có khả năng hàng trăm các cửa hàng, các sạp tạp hóa bán lẻ, các siêu thị nhỏ bé, manh mún sẽ bị đóng cửa vì không cạnh tranh được, về sự đa dạng phong phú của hàng hóa, giá cả, chất lượng phục vụ cũng như chất lượng kinh doanh, vệ sinh an toàn thực phẩm,... Đây cũng là điều dễ hiểu bởi lẽ doanh nghiệp nước ngoài lợi thế hơn hẳn về cả tiềm lực nhân sự, tài chính, với kinh nghiệm quản lý lâu năm và mức độ bao phủ thị trường rộng khắp trên toàn thế giới. Các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ Việt Nam cũng không nằm ngoài nguy cơ này, khi mà các tập đoàn nước ngoài có với tiềm lực vốn dồi dào của mình có thể xây dựng những chiến lược lỗ lên đến 10 năm nhằm chiếm lĩnh thị trường bán lẻ. Điều này thì các doanh nghiệp trong nước có nằm mơ cũng không thể thự hiện được.
II. Các giải pháp phát triển hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại Việt Nam.
1. Giải pháp từ phía nhà nước:
1.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp:
Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có một văn bản luật riêng biệt điều chỉnh hoạt động phân phối vốn tiềm ẩn rất nhiều vấn đề phức tạp và đa dạng. Trong bài viết này em xin đề cập đến pháp luật về cạnh tranh. Đây thực sự là vấn đề cấp bách bởi chỉ còn 2 năm nữa Việt Nam chính thức chịu sự cạnh tranh của vô số các đối thủ cạnh tranh hàng đầu. Nếu không có nguồn luật đủ công bằng và minh bạch doanh nghiệp Việt Nam rất dễ bị bóp chết bởi các chiêu thức cạnh tranh kém lành mạnh của các đại gia.
Các biện pháp cụ thể:
- Cụ thể hoá các hành vi hạn chế cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực bán lẻ (như qui định về: “kinh doanh cửa hàng bán lẻ lớn”, “doanh nghiệp bán lẻ lớn”). Các hành vi kinh doanh không lành mạnh liên quan đến cửa hàng bán lẻ lớn như trả lại hàng hoá một cách bất hợp pháp, chậm thanh toán cho nhà cung cấp mà không rõ lý do, đưa ra các yêu cầu, ép buộc bất hợp pháp hoặc áp đặt không công bằng đối với chi phí quảng cáo, xúc tiến bán…
- Nâng cao nhận thức cho các đối tượng tham gia kênh phân phối: nhà cung cấp, doanh nghiệp bán sỉ, bán lẻ, người tiêu dùng về quyền lợi và nghĩa vụ của họ trong việc chấp hành nghiêm chỉnh luật cạnh tranh nhằm tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng hơn nữa cho mọi đối tác.
- Tăng cường quản lý hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ, nâng cao vai trò của nhà nước trong quản lý và điều chỉnh thị trường.
1.2. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng quốc gia:
Phân phối hiện đại khác với phân phối truyền thống là sự phát triển cao hơn về chất lượng dịch vụ và cơ sở hạ tầng kĩ thuật. Do vậy, để xây dựng và gia tăng nhanh chóng số lượng cũng như chất lượng các loại hình bán lẻ hiện đại, yêu cầu cơ bản chính là phát triển cơ sở hạ tầng. Phát triển cơ sở hạ tấng sẽ tạo tiền đề phát triển hệ thống này.
Các biện pháp cụ thể:
- Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản lý nhà nước và định hướng cho doanh nghiệp, bao gồm hệ thống các văn bản mới ( luật đầu tư, luật doanh nghiệp, …) cùng các nguồn dữ liệu khác về thị trường và biến động giá cả…
- Xây dựng một qui hoạch tổng thể để phát triển các doanh nghiệp bán lẻ từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn năm 2020 trên cơ sở những cam kết gia nhập WTO và lộ trình thực hiện cam kết. Mục tiêu là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hình thành nên hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại, văn minh, theo tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là hệ thống chuỗi các siêu thị, trung tâm thương mại…
- Nâng cấp hạ tầng thương mại và công nghệ.
- Nhà nước cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp bằng ưu đãi vay vốn từ các quỹ hỗ trợ phát triển, chính sách cho thuê đất dài hạn, chính sách hỗ trợ đào tạo nhân lực và chuyển giao công nghệ…
2. Giải pháp cho các doanh nghiệp trong hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại Việt Nam.
Đứng trước nguy cơ xâm nhập mạnh mẽ của các nhà phân phối nước ngoài với chất lượng phục vụ cao, giá rẻ, hàng hoá đa dạng, phong phú; cùng với sự chuyển biến về thói quen tiêu dùng của người dân, các doanh nghiệp trong hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại Việt Nam hơn bao giờ hết phải nhanh chóng tìm ra cho mình giải pháp tối ưu nhằm bảo vệ chính mình đồng thời khai thác được thị trường đầy tiềm năng đang có những thay đổi thuận lợi trên. Sau đây tôi xin đề xuất một vài biện pháp cho các doanh nghiệp nước ta:
2.1. Chiến lược liên kết: Giải pháp được coi là tối ưu nhất giúp cho các doanh nghiệp trong nước tránh khỏi bàn thua ngay trên sân nhà là phải liên kết với nhau. Sự liên kết không chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại mà các doanh nghiệp này còn phải tạo ra mối liên hệ mật thiết với các nhà sản xuất, các doanh nghiệp, những chủ tiệm tạp hóa, các sạp chợ cộng… cùng với ý thức thay đổi trong phương thức kinh doanh nhằm tập hợp thống nhất thành một khối, hình thành nên một kênh phân phối Việt đủ mạnh, tức là vừa có sức mạnh tài chính vừa có nguồn nhân lực vững vàng… làm đối trọng bình đẳng đối với các tập đoàn phân phối đa quốc gia. Liên kết thực sự là đối sách chiến lược, lâu dài cho các doanh nghiệp bán lẻ trong nước không chỉ là doanh nghiệp bán lẻ hiện đại. Từ 2 năm nay, Sài Gòn Co.op Mart đã nhắm đến chiến lược mở rộng mạng lưới phân phối về các tỉnh và tăng cường liên kết với các nhà phân phối trong nước khác như Strata, Vissan, Unilever. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho thấy doanh nhân Việt Nam đã bước đầu nhạy cảm với những biến động của môi trường và có biện pháp đáp trả thích hợp.
Bên cạnh chiến lược liên kết dài hạn trên, các doanh nghiệp trong nước cần có một chính sách hợp lý có thể áp dụng ngay giúp cân bằng áp lực cạnh tranh với các nhà đầu tư nước ngoài trong ngắn hạn. Bằng cách: lựa chọn các địa điểm kinh doanh thuận lợi, tiến hành xây dựng và hoàn thiện phương thức kinh doanh, lấy lòng tin của khách hàng trước khi các doanh nghiệp nước ngoài đổ vào, buộc các doanh nghiệp này phải di dời ra những khu vực cách xa khu dân cư. Nhằm kéo dài thời gian thích ứng cho doanh nghiệp trong nước.
2.2. Chuyển đổi phong cách làm ăn: Đối với mỗi doanh nghiệp, xoá bỏ phong thái làm ăn cũ chộp dật và thiếu chiến lược (kể cả ngắn hạn và dài hạn), chủ động xây dựng chiến lược cạnh tranh, phân phối cho mình trên cơ sở tổ chức phát triển và tham gia vào các hệ thống phân phối hiện đại của cả nước.
2.3. Sử dụng nhiều phương thức kinh doanh mới: Việc sử dụng các phương thức kinh doanh mới như nhượng quyền thương mại để mở rộng mạng lưới bán hàng đồng thời khai thác và kết hợp nguồn lực của nhiều doanh nghiệp nhỏ để trở thành hệ thống có quy mô lớn và trình độ tổ chức cao cũng là một phương thức hay để tập trung nguồn lực cho hệ thống bán lẻ hiện đại nước ta. Một mặt nâng cao giá trị các thương hiệu trong nước, mặt khác sẽ giảm bớt đầu mối và các khâu trung gian trong hệ thống phân phối. Hình thức này đã bắt đầu được các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại Việt Nam áp dụng. Điển hình cho mô hình này là chuỗi siêu thị G7 Mart, các doanh nhân của Cty này đã và đang lập ra một mạng lưới phân phối khổng lồ nhưng được quản lý và kiểm soát chặt chẽ, gồm: 100 nhà phân phối tại 64 tỉnh thành, 18 tổng kho bán buôn, 10.000 cửa hàng tiêu chuẩn... với tổng giá trị đầu tư lên tới 395 triệu USD, sẽ cuốn hút 26.395 lao động tham gia hệ thống trong năm 2006.
2.4. Đầu tư vào thị trường nông thôn: Doanh nghiệp thương mại cần nhanh chóng mở rộng đầu tư về các vùng nông thôn để trở thành kênh phân phối chủ yếu trước khi thị trường này bị các doanh nghiệp nước ngoài nhòm ngó tới. Với các phân tích ở trên, rõ ràng thị trường nông thôn là đoạn thị trường vô cùng quan trọng trong tương lai. Song đây là thị trường khá nhạy cảm về giá nên sẽ rất khó khăn trong việc cạnh tranh đối với các nhà phân phối hàng đầu thế giới.
2.5. Xây dựng mối liên hệ chặt chẽ với người tiêu dùng. Càng ngày người tiêu dùng càng nắm trong tay quyền lực thị trường lớn hơn. Nắm bắt xu thế biến đổi của cầu tiêu dùng. Thực hiện chiến lược bán lẻ khác nhau, phù hợp với từng phân khúc thị trường cụ thể, …. Là những yếu tố tất yếu phải thực hiện nhằm thu hút khách hàng và nâng cao hiệu quả cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại trong nước so với các doanh nghiệp ở khu vực truyền thống và đặc biệt là các đối thủ cạnh tranh nước ngoài.
KẾT LUẬN
Bán lẻ hiện đại thực sự là một hình thức kinh doanh mới mẻ trong nền kinh tế nước ta với lịch sử hình thành chỉ gần 20 năm. Mặc dù thị phần thấp, song tốc độ tăng trưởng của loại hình phân phối này lại là cao nhất trong thị trường phân phối. Với ưu thế vượt trội về nhiều mặt và xu hướng chi tiêu của người Việt, có thể khẳng định rằng sự phát triển và chiếm lĩnh thị trường của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại trong tương lai không xa là một tất yếu khách quan; khi mà đối trọng với nó chỉ là một chuỗi những cửa hàng kinh doanh truyền thống qui mô cồng kềnh, độ thích nghi thấp. Tuy nhiên, bắt tay vào thực hiện lộ trình cam kết khi gia nhập WTO trong vòng chưa đầy 2 năm nữa, chúng ta không khỏi lo ngại trước nguy cơ “chết trẻ” của ngành phân phối đầy tiềm năng này với sự xâm nhập của những “gã khổng lồ” phân phối của thế giới.
Nhận thấy tiềm năng phát triển của thị trường phân phối bán lẻ hiện đại trong hệ thống phân phối hàng tiêu dùng là rất to lớn, đề án đã tập trung nghiên cứu một cách tổng thể về quá thực trạng; thành tựu, hạn chế; đồng thời xem xét cả tiềm năng phát triển hệ thống trong tương lai. Việc nghiên cứu sự phát triển của loại hình bán lẻ hiện đại được xem xét gắn với thực trạng phát triển của thị trường hàng tiêu dùng nói chung, và hệ thống phân phối bán lẻ truyền thống để người đọc dễ dàng so sánh, đối chiếu, đưa ra nhận định chính xác nhất về loại hình phân phối này. Trong đề tài, tác giả cũng mạnh dạn nêu ra một số giải pháp hi vọng sẽ vạch ra hướng đi cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trên con đường hội nhập.
Mong rằng, với đề tài chúng ta sẽ có được cái nhìn đúng đắn về tiềm năng phát triển thị trường bán lẻ hiện đại Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình marketing quốc tế.
Giáo trình kinh doanh quốc tế. Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn Thị Hường. NXB Lao động – Xã hội. 2003.
Các giải pháp phát triển hệ thống phân phối hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ nhiệm: TS. Lê Trịnh Minh Châu – Bộ Thương mại, 2003.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
23.
24.
25.
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35.
36.
37.
38.
39.
40.
41.
42.
43.
44.
45.
www.sgtt.com.vn – Áp lực bán lẻ, 2006
www.sgtt.com.vn -Hệ thống bán lẻ G7 Mart: Còn nhiều bài toán phải giải quyết, 2006
www.sgtt.com.vn -Tăng tốc chạy đua trong hệ thống bán lẻ, 2006
www.sgtt.com.vn – Kịch bản nào mở cửa ngành bán lẻ, 2006
www.dddn.com.vn – Cán cân đang nghiêng, 2006
www.sgtt.com.vn – Thị trường bán lẻ Việt Nam: Xí để bán chỗ, 2006
www.dantri.com.vn – Chuyển động thị trường bán lẻ: chúng tôi cần chính sách hỗ trợ, 2006
www.vneconomy.com.vn – Thị trường bán lẻ: Cuộc chiến thị phần sau khi gia nhập WTO, 2006
www.sgtt.com.vn – Đua mở cửa hàng tiện ích, 2006
www.sgtt.com.vn – Ngành bán lẻ Việt Nam đang thiếu liên kết, thiếu đào tạo và thiếu quy hoạch, 2006
www.sgtt.com.vn – Hiệp hội bán lẻ Singapore: Sức mạnh từ liên kết, 2006
www.vnn.vn – Mở cửa có điều kiện thị trường phân phối, 2006
www.tuoitreonline.com.vn – Bốn doanh nghiệp lớn liên kết chiếm lĩnh thị trường phân phối nội địa
www.vietnamtrafair.com – Thông tin về chợ, siêu thị, trung tâm thương mại ở Việt Nam
www.vnn.vn – Siêu thị mới thách thức thị trường bán lẻ truyền thống Việt Nam, 2006
www.vneconomy.com.vn – Việt Nam đoạt ba giải nhà bán lẻ hàng đầu Châu Á – Thái Bình Dương, 2006
www.vneconomy.com.vn – Ưu đãi đầu tư xây dựng hệ thống siêu thị, 2006
www.vneconomy.com.vn – Nhu cầu và thói quen và tiêu dùng giai đoạn 2006 -2010, 2006
www.vneconomy.com.vn – Năm 2010 Siêu thị sẽ chiếm 20% tổng mức bán lẻ, 2006
www.lic.vnu.edu.vn – Việt Nam con hổ đang chuyển mình
www.vneconomy.com.vn – Dịch vụ phân phối dưới sức ép cạnh tranh, 2006
www.vneconomy.com.vn – Thị trường phân phối: thời của liên kết đã đến, 2006
www.sgtt.com.vn – Bốn đại gia bán lẻ hợp lực để cạnh tranh, 2007
www.vneconomy.com.vn – Chúng tôi kinh doanh cái tiện lợi, 2006
www.vnn.vn – Ngành phân phối Việt Nam chạy đua với WTO, 2007
www.vneconomy.com.vn –Đưa hàng vào siêu thị 2 bên đều khó, 2006
www.vneconomy.com.vn – Hà Nội quyết tâm phát triển ngành bán lẻ, 2006
www.vneconomy.com.vn – Kinh nghiệm hội nhập cho ngành phân phối bán lẻ, 2006
www.sgtt.com.vn – Năm 2006 sẽ bùng nổ thị trường bán lẻ, 2005
www.sgtt.com.vn – Thị trường bán lẻ, 4 cây chụm lại…, 2007
www.dantri.com.vn – Chuyển động thị trường bán lẻ, chúng tôi cần chính sách hỗ trợ, 2006
www.dantri.com.vn – Sẽ bùng nổ thị trường mặt bằng bán lẻ vào năm 2007, 2006
www.irv.moi.gov.vn – Thị trường bán lẻ, tiếng chuông trước giờ G, 2006
www.dantri.com.vn – Thị trường bán lẻ Việt Nam vào cuộc đua, 2006
www.vnexpress.net – Thị trường bán lẻ Việt Nam hấp dẫn hơn Trung Quốc, 2006
www.ngoisao.net – Đổ bộ vào thị trường bán lẻ Việt Nam, 2006
www.tintuconline.vietnamnet.vn – Siêu thị có làm giảm cơ hội của người nghèo, 2006
www.vnexpress.net – Sài gòn Co.op lọt vào top 500 nhà bán lẻ hàng đầu Châu Á, 2005
www.vnn.vn – Thị trường bán lẻ: Trung nguyên vào cuộc, 2006
www.tintuconline.vietnamnet.vn – Thị trường bán lẻ Việt Nam hấp dẫn thứ 3 toàn cầu, 2006
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35985.doc