Đề án Những vấn đề cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta

Tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, giữ vững về chính trị để tạo môi trường thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đẩy mạnh công tác giáo dục đào tại nhằm nâng cao tay nghề của đội ngũ cán bộ, công nhân giúp cho việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật được dễ dàng thuận lợi. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền phổ biến để đưa quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trở thành nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân.

doc41 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Những vấn đề cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ cực kỳ khó khăn, phức tạp. Hơn nữa, thực tiễn 20 năm xây dựng công nghiệp ở miền Bắc và 15 năm phát triển công nghiệp trong cả nước, bên cạnh những thành công, có không ít những thất bại với nhiều bài học sâu sắc về công nghiệp hoá. Vấn đề đặt ra cho Việt nam: Một là: tại sao lại cần công nghiệp hoá ? Hai là: có thể thực hiện thành công công nghiệp hoá được không ? Ba là: con đường, mục tiêu, nội dung và bước đi công nghiệp hoá theo hướng hiện đại ở Việt nam cần lựa chọn là gì ? Sự cần thiết khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá theo hướng hiện đại của nước ta trước hết bắt nguồn từ đòi hỏi khắc phụ tình trạng nghèo đói, lạc hậu ; phát triển kinh tế – xã hội để củng cố độc lập dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta được thức tỉnh tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ hàng chục năm, cho đến mùa xuân 1975 thì dành được hoà bình độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Thắng lợi đó khẳng định vị trí của nước Việt nam trên trường quốc tế, đồng thời đặt ra cho dân tộc ta một thách thức mới, cần thiết phải khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, phát triển kinh tế làm cơ sở củng cố hoà bình, độc lập và thống nhất đất nước. Ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật làm cho khoảng cách giữa những nước giầu và nước nghèo ngày càng chênh lệch, tạo ra sự thách thức gay gắt cho các nước nghèo, hoặc là vươn lên trong thế giới hiện đại, hoặc là dừng lại và như vậy có nghĩa là tụt hậu mãi mãi trong cảnh nghèo đói và phụ thuộc. Nhân dân ta đã chọn con đường độc lập để chấn hưng đất nước, thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá để từ một đất nước lạc hậu trở thành một nước công nghiệp tiên tiến. Quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chế độ mới. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là toàn bộ những yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất đạt trình độ khoa học - kỹ thuật hiện đại. Chủ nghĩa tư bản xuất hiện từ sự ra đời của máy hơi nước, từ cách mạng công nghiệp, chủ nghĩa xã hội phải ra đời từ cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Việt nam đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa cho nên để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội của nước ta không thể thiếu được giai đoạn cơ khí hoá, công nghiệp hoá tạo ra cơ sở để tiến lên hiện đại hoá. Mục tiêu công nghiệp hoá theo hướng hiện đại đặt ra nhiệm vụ vừa cơ khí hoá vừa hiện đại hoá, cơ khí hoá để tiến lên hiện đại hoá, hiện đại hoá trong điều kiện lao động thủ công còn phổ biến bắt buộc phải thực hiện quá trình cơ khí hoá. Như vậy, tiến trình phát triển khoa học - kỹ thuật, tiến trình phát triển lực lượng sản xuất xã hội có trình tự, bước đi và những nấc thang nhất định, có thể rút ngắn, có thể tăng tốc độ phát triển, có thể lựa chọn chiến lược phù hợp nhưng không thể tuỳ tiện bỏ qua để tiến thẳng lên hiện đại ngay được. Điều đó làm công nghiệp hoá ở nước ta trở nên khó khăn, phức tạp hơn và cần thiết khách quan hơn. Để tạo lập nền sản xuất lớn, hiện đại của chủ nghĩa xã hội không thể không cải tổ cơ cấu kinh tế. Con đường tất yếu và chủ yếu để cải tổ cơ cấu kinh tế là công nghiệp hoá theo hướng hiện đại. Ngày nay, các nước không những có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại mà còn có khu vực dịch vụ rất phát triển, không những phát triển kinh tế trong nước mà còn tích cực tham gia vào xu hướng quốc tế hoá, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác quốc tế. Để vươn tới trình độ hiện đại đó phải thực hiện tiến trình cải tạo sâu sắc cơ cấu kinh tế, chuyển từ nền nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế được tổ chức theo kiểu công nghiệp, dựa trên kỹ thuật máy móc và công nghệ hiện đại. Quá trình cải tổ cơ cấu đó chủ yếu phải được thực hiện bằng công nghiệp hoá theo hướng hiện đại. Trên cơ sở tác động của công nghiệp mà phân công lại lao động, bố trí lại ngành nghề, phân bố lại dân cư làm cho công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cùng phát triển, tạo khả năng tham gia thị trường quốc tế. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại là quá trình tạo lập và đổi mới toàn bộ cơ sở vật chất - kỹ thuật, công nghệ và cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, dựa trên sự ứng dụng rộng rãi những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nhằm tạo ra sự phát triển về chất của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội, biến nước nông nghiệp lạc hậu thành nước có công nghiệp, nông nghiệp và kết cấu hạ tầng hiện đại, có khoa học, giáo dục và văn hoá tiên tiến. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại tạo ra lực lượng sản xuất mới về chất, và trên cơ sở đó, dẫn đến hệ quả hình thành nhiều mối quan hệ mới về kinh tế, xã hội, chính trị trong toàn xã hội. Thật vậy, trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa sẽ từng bước được hình thành, mở rộng và củng cố ; đời sống của nhân dân sẽ dần dần được cải thiện, liên minh công - nông - trí thức và chính quyền nhà nước sẽ được củng cố và kiện toàn ; cách mạng tư tưởng và văn hoá sẽ có nhiều điều kiện thực hiện ; giai cấp công nhân được trưởng thành về số lượng và chất lượng ; lao động chân tay và trí óc giảm dần sự cách biệt ; nông thôn và thành thị xích lại gần nhau ; sự bình đảng toàn diện giữa các dân tộc trong nước từng bước được thực hiện ; củng cố và tăng cường khả năng quốc phòng ; khả năng hợp tác và phân công lao động quốc tế được mở rộng và năng cao v.v... Như vậy, công nghiệp hoá theo hướng hiện đại nền kinh tế thực sự là một công cuộc cải biến sâu sắc và toàn diện, trước hết và chủ yếu từ phát triển lực lượng sản xuất, dẫn đến một loạt hệ quả tất yếu tác động tích cực đến các mặt của đời sống xã hội, hình thành nên những yếu tố của hình thái xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại bảo đảm giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Vì thế, công nghiệp hoá theo hướng hiện đại là một tất yếu khách quan đối với con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ nền kinh tế kém phát triển, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước ta. Chính vì sự cần thiết khách quan và ý nghĩa to lớn của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá mà tất cả các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ nền kinh tế kém phát triển đều coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên đây cũng là nhiệm vụ nặng nề. Trìnhããã xuất phát của một nước càng thấp thì quá trình thực hiện nhiệm vụ đó càng khó khăn, lâu dài. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định:" Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân." 3. Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong điều kiện ngày nay, quan niệm về công nghiệp hoá dù trên giác độ nào cũng không đồng nhất quá trình phát triển công nghiệp. Trong quá trình công nghiệp hoá có những nét riêng đối với từng nước, nhưng đó chỉ là sự vận dụng một quá trình có tính chất phổ biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước mà thôi. Công nghiệp hoá là quá trình rộng lớn và phức tạp. Bản chất của quá trình này bao hàm trên các mặt sau đây: a) Công nghiệp hoá là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí trọng yếu. Thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện cách mạng khoa học kĩ thuật ngày nay, quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ cho các ngành phải gắn liền với quá trình hiện đại hoá ở cả phần cứng và phần mềm của công nghệ . Quá trình ấy phải tác động làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần chênh lệch trình độ kinh tế xã hội của đất nước với các nước phát triển. Hiện đại hoá xét trên giác độ kinh tế - kĩ thuật, là cái đích cần vươn tới trong quá trình công nghiệp hoá. Nhưng sự vươn lên về trình độ công nghệ này lại bị ràng buộc bởi yêu cầu bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội. Xét toàn cục, hiện đại hoá lại chỉ là phương tiện, điều kiện để đạt tới mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá mà thôi. Một vấn đề khác cũng cần được giải quyết là xác đinh và đánh giá mức độ hiện đại của công nghệ được trang bị. Tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động mà xác định trình độ thích ứng. Quan niệm một cách giản đơn theo kiểu "cũ người mới ta", cái không tiến tiến của nước khác cũng là cái hiện đại của nước mình. Trong lựa chọn công nghệ nhập, sự thiếu hiểu biết và thiếu thông tin đã dẫn nhiều nước đang phát triển đến việc lựa chọn thiết bị lạc hậu hoặc thiết bị cũ được tân trang lại. Cái giá phải trả quá lớn, tốc độ hiện đại hoá không được đẩy nhanh. b) Quá trình công nghiệp hoá không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp mà là quá trình bao trùm tất cả các ngành các lĩnh vực hoạt động của mỗi nước. Đó là lẽ tát yếu của mỗi nước vì nền kinh tế của mỗi nước là một hệ thống thống nhất, các ngành, các lĩnh vực hoạt động có quan hệ tương đối với nhau. Sự thay đổi ở ngành kinh tế, lĩnh vực hoạt động này sẽ kéo theo hoặc sẽ đòi hỏi sự thay đổi thích ứng ở các ngành, các lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy, quá trình công nghiệp hoá cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu các ngành kinh tế. Trong sự chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hoá, vị trí của các ngành sẽ thay đổi. Xét tổng thể, cơ cấu kinh tế của mỗi nước được cấu thành bởi ba loại ngành tổng hợp: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Các ngành này có quan hệ ràng buộc nhau, trong đó công nghiệp trong nhận thức luôn được coi là ngành quan trọng. Nhưng trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, các nước đang phát triển chỉ có lực lượng công nghiệp nhỏ bé sản xuất hàng tiêu dùng đơn giản và khai thác các sản phẩm thô từ tài nguyên thiên nhiên. Trong quá trình công nghiệp hoá, công nghiệp luôn dành được sự ưu tiên phát triển. Tuy công nghiệp hoá không đồng nhất với quá trình phát triển công nghiệp nhưng không thể công nghiệp hoá nếu không thể phát triển mạnh công nghiệp. Bởi vậy, với vị trí ban đầu, công nghiệp dần dần chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế quốc dân của đất nước. Đến trình độ phát triển nhất định, thì nông nghiệp và dịch vụ chỉ giữ vị trí ở hàng thứ trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước trong quá trình công nghiệp hoá sẽ trải qua hai giai đoạn : Từ cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ chuyển sang cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ. c) Quá trình công nghiệp hoá trong bất kỳ giai đoạn nào cũng đều vừa là quá trình kinh tế - kĩ thuật, vừa là quá trình kinh tế - xã hội. Việc thực hiện có kết quả quá trình công nghiệp hoá sẽ thủ tiêu tình trạng lac hậu về kĩ thuật, thấp kém về kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi "vòng luẩn quẩn". Đồng thời quá trình công nghiệp hoá cũng gắn liền với quá trình thủ tiêu tình trạng lạc hậu về xã hội, nâng cao dân trí , nâng cao mức sống của dân cư, đưa xã hội đến trình độ văn minh công nghiệp. Quá trình kinh tế - kĩ thuật và quá trình kinh tế - xã hội có quan hệ ràng buộc nhau. Quá trình kinh tế - kĩ thuật tạo điều kiện vất chất kĩ thuật cho việc thực hiện các nội dung của qúa trình kinh tế - xã hội. Ngược lại, quá trình kinh tế - xã hội góp phần tạo nên động lực cho thực hiện quá trình kinh tế - kĩ thuật. d) Quá trình công nghiệp hoá cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện ngày nay, mở rộng phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu thế phát triển ngày càng mạnh mẽ. Mỗi nước trở thành một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, có tác động tương hỗ ở mức độ khác nhau với kinh tế của các nước khác và chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế - xã hội chung của thế giới. ở mỗi nước, việc xác định mục tiêu, phương thức công nghiệp hoá cần phải phân tích và dự đoán được những biến động kinh tế - xã hội chung của thế giới, đặc biệt là của các nước trong khu vực. Cần phải đặt sự phát triển kinh tế của đất nước trong việc xây dựng hệ thống kinh tế mở, tăng cường quan hệ thương mại quốc tế, tham gia tích cực vào quá trình cạnh tranh và liên kết kinh tế quốc dân. Về nguyên tắc, việc thực hiện quá trình công nghiệp hoá phải dựa vào các nguồn lực trong nước là chủ yếu. Trong việc xây dựng kinh tế mở, thực hiện phương châm "tự lực cánh sinh" vì lực lượng bên ngoài chỉ là sự hỗ trợ, sự giúp đỡ chứ không phải là lực lượng làm thay và cũng không thể là sự sao chép máy móc các kinh nghiệm của nước khác. e) Công nghiệp hoá không phải mục đích tự thân, mà là một phương thức có tính chất phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi nước. Mỗi nước có hệ thống mục tiêu riêng của mình. Tuy vậy, về hình thức, vẫn có thể thấy được những nét tương đồng về hệ thống mục tiêu đó. Đó là xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật ngày càng hiện đại, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, bảo đảm nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân cư ... Mục tiêu cụ thể của mỗi nước phụ thuộc vào quan điểm của hệ thống chinh trị lãnh đạo. Phương hướng, quy mô và nhịp độ công nghiệp hoá phụ thuộc vào đặc điểm chính trị xã hội của đất nước. Đó chính là một trong những biểu hiện của quan hệ biện chứng giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Không thể thực hiện có hiệu quả quá trình công nghiệp hoá khi hệ thống chính trị không ổn định và không được đổi mới. Ngược lại, cũng không thể giữ được ổn định về chính trị xã hội, chủ quyền của đất nước nếu không thực có hiệu quả quá trình công nghiệp hoá. Từ toàn bộ những vấn đề đã phân tích ở trên có thể rút ra kết luận khái quát : Thực chất công nghiệp hoá là một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học - công nghệ ngày càng hiện đại. III. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam. 1. Sự cần thiết phải xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. a. Một số khái niệm. Nghiên cứu các khái niệm này, không những giúp ta hiểu được nội dung mà còn giúp ta cả việc hiểu được về mặt phương pháp luận. - Tiền đề vật chất của xã hội: Trước hết bao gồm các yếu tố vật chất, các yếu tố khách thể của nền sản xuất xã hội mà trước hết là công cụ lao động. Cơ sở vật chất - kĩ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kĩ thuật, công nghệ thích ứng mà lực lượng lao động của xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội. Do đó cơ sở vật chất - kĩ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại chỉ có thể là nền đại công ngiệp cơ khí hoá cân đối và hiện đại dựa trên trình độ khoa học công nghệ phát triển ngày càng cao. Khái niệm cơ sở vật chất kĩ thuật là một phạm trù kinh tế của kinh tế chính trị học, bao gồm nội dung kinh tế kĩ thuật và kinh tế xã hội. Chính nội dung về mặt kinh tế xã hội này cho ta thấy cơ sở vật chất kĩ thuật của phương thức sản xuất xã hội mới không thể phát triển đầy đủ và hoàn thiện ở trong lòng phương thức sản xuất xã hội cũ được mà chỉ phát triển đầy đủ và hoàn thiện khi có sự ra đời của hệ thống quan hệ sản xuất xã hội mới. b) Mỗi phương thức sản xuất xã hội đều phải dựa trên một cơ sở vật chất kĩ thuật tương ứng. Vì vậy, các nước tiến lên chủ nghĩa xã hội phải xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho xã hội chủ nghĩa. Nhưng đối với nước đã qua chủ nghĩa tư bản phát triển tức là có s1/2n nền đại công nghiệp của chủ nghĩa tư bản để lại thì không phải xây dựng từ đầu cơ sở vật chất cho xã hội mới mà chỉ cần cải tiến nền đại công nghiệp cho phù hợp để tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Còn đối với những nước kém phát triển thì hầu như phải xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ ngiã xã hội từ đầu do đó phải tiến hành công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá là con đường, là biện pháp để xây dựng cơ sở vật chất kĩ tuật cho xã hội mới. 2. Tính tất yếu khách quan tiến hành CNH, HĐH ở Việt Nam. Công nghiệp hoá là tất yếu khách quan, là nội dung và con đường duy nhất đúng để đưa nền kinh tế xã hội nước ta phát triển nhanh bền vững và có hiệu quả nhằm thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Nước ta do đi từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ lên nền kinh tế lớn xã hội chủ nghĩa do đó khách quan đòi hỏi phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá và công nghiệp hoá hiện đại hoá là nội dung, là phương thức, là con đường để phát triển nhanh và có hiệu quả. - Tác dụng của công nghiệp hoá hiện đại hoá đối với nước ta: + Chỉ có tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá nước ta mới xây dựng được cơ sở vật chất kĩ thuật cho xã hội mới và xã hội chủ nghĩa mới phát triển được lực lượng sản xuất ở nước ta. + Có tiến hành công nghiệp hoá mới củng cố và hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất mới ở nước ta. + Có tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới xây dựng thành công nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mới thực hiện được tái sản xuất mở rộng không ngừng đổi mới, nâng cao năng suất lao động xã hội cải thiện được đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. + Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới phát triển lực lượng giai cấp công nhân củng cố liên minh công nông. + Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo tiền đề cho việc xây dựng thành công nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta. + Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta rút ngắn được khoảng cách chênh lệch giữa trình độ lạc hậu của nước ta với trình độ văn minh của thế giới. Nước ta mới tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm cho nền kinh tế nước ta hoà nhập vào kinh tế thế giới và khu vực. + Thực hiện công nghiệp hoá mới củng cố được quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Chính trên những ý nghĩa to lớn về kinh tế chính trị và xã hội của công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng và Nhà nước ta coi nó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. chương III Nội dung cơ bản về cNH - HĐH ở nước ta Nội dung của công nghiệp hoá bao gồm nhiều vấn đề, ở đây ta chỉ đi sâu vào ba vấn đề cơ bản, đó là trang bị kĩ thuật và công nghệ mới cho nền kinh tế, xây dựng cơ cấu kinh tế mới gắn với quá trình tổ chức và phân công lại lao động xã hội và điều chỉnh cơ cấu đầu tư thực hiện quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế sao cho phù hợp. 1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình tiến hành cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ, là quá trình cơ khí hoá - hiện đại hoá nền sản xuất nhằm trang bị kĩ thuật và công nghệ mới cho nền kinh tế quốc dân để chuyển lao động bằng thủ công lên lao động bằng máy móc. Thực chất của công nghiệp hoá ở nước ta là tiến hành cuộc cách mạng kĩ thuật để trang bị kĩ thuật mới cho nền kinh tế. Cách mạnh khoa học kĩ thuật và công nghiệp hoá là hai khái niệm khác nhau nhưng giữa chúng có một nội dung chung đó là chuyển lao động bằng thủ công lên lao động bằng cơ giới hoá và hiện đại hoá. Cách mạng kĩ thuật là sự thay đổi về chất của kĩ thuật. Kĩ thuật gắn liền với lao động sản xuất của con người trong quá trình phát triển của lịch sử loài người. Kĩ thuật tiến bộ trên 3 mặt : công cụ, năng lực và động lực, nguyên vật liệu. Cuộc cách mạng kĩ thuật lần này không chỉ diễn ra trong kĩ thuật mà cả trong khoa học, trong công nghệ, trong đó có cả sinh học và tin học... Vì vậy, nó được gọi là cách mạng khoa học - công nghệ. Trước sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật lần thứ hai, để đất nước tiến nhanh, tiến mạnh lên hiện đại, phải triệt để lợi dụng thành tựu kĩ thuật hiện có của thế giới. Do đó, công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá để không thua kém các nước phát triển trên thế giới. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là vừa cơ khí hoá nền sản xuất thay thế lao đông thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, vừa tạo ra những bước nhảy vọt, đi từ thủ công lên thẳng tự động hoá ở một số ngành mũi nhọn. Đối với một số lĩnh vực kinh tế có điều kiện chúng ta có thể "không chỉ đi tuần tự qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, mà còn kết hợp đồng thời các thành tựu trên nhiều lĩnh vực, và có những mũi nhọn phát triển đi tắt, đón đầu, không chỉ áp dụng các công nghệ tiên tiến mà còn phải biết tận dụng và hiện đại hoá công nghệ truyền thống" (Đảng cộng sản Việt nam ; Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII - 1994, trang 75). Trong thời đại ngày nay, xu hướng quốc tế hoá lực lượng sản xuất đang diễn ra khá mạnh mẽ. Điều đó vừa bắt buộc, vừa tạo khả năng khách quan cho các nước kinh tế lạc hậu như nước ta, có thể kết hợp những bước tiến tuần tự với những bước tiến nhảy vọt về công nghệ rút ngắn thời gian đuổi kịp các nước tiên tiến và không rơi vào tình trạng bị tụt hậu xa hơn. Ngoài ra, chúng ta thực hiện việc chuyển giao công nghệ để nhập công nghệ mới cho nền kinh tế, đây cũng là nội dung của việc trang bị kĩ thuật và công nghệ mới cho nền kinh tế quốc dân, nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở nước ta. Tuy nhiên, công nghiệp hoá không chỉ đơn thuần là trang bị kĩ thuật và công nghệ mới cho nền kinh tế quốc dân mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với tổ chức và phân công lại lao động xã hội và điều chỉnh cơ cấu đầu tư tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn với quá trình tổ chức và phân công lại lao động xã hội và điều chỉnh cơ cấu đầu tư. a. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta có mục tiêu bản "biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất xã hội tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" (Dự thảo các văn kiện trình Đại hội VIII của Đảng - lưu hành nội bộ tháng 12 - 1995, trang 17). Muốn đạt tới mục tiêu cơ bản đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nươc ta phải lấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ nhằm khai thác, phát huy tối ưu những tiềm năng, lợi thế so sánh của đất nước, đảm bảo đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, làm nội dung và mục tiêu trực tiếp xuyên suốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở một nước kinh tế lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội như nước ta là vấn đề tất yếu khách quan. ở nước ta, trong mấy năm qua cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế cũng đã diễn ra một bước chuyển dịch cơ cấu theo hướng công - nông nghiệp - dịch vụ như đại hội VII đề ra. Sự chuyển dịch bước đầu đó thể hiện sự biến đổi tỉ trọng của một số ngành cơ bản trong giá trị tổng sản phẩm xã hội (GDP), như : năm 1990, công nghiệp chiếm 23,8%(GDP), nông nghiệp chiếm 40,3%(GDP), dịch vụ chiếm 36,3%(GDP), đến năm 1994 những tỉ trọng tương ứng trên là : 29,6% ; 28,7% và 41,7%(GDP). Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế ở nước ta tất yếu dẫn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước hình thành cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại ; kết hợp nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hoá hình thức sở hữu, sự phát triển ba ngành cơ bản nói trên trong một cơ cấu hữu cơ nhiều thành phần kinh tế với các tỷ trọng hợp lý và áp dụng những quy trình công nghệ hiện đại sẽ đưa nền kinh tế nước ta phát triển đi lên với tốc độ tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao. Cơ cấu kinh tế mới ở nước ta không phải hình thành một cách tự phát mà hình thành một cách có kế hoạch. b. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với quá trình tổ chức phân công lại lao động xã hội. Nước ta đang trong quá trình chuyển từ một nước nông nghiệp lạc hậu sang một nước có nền công nghiệp hiện đại thì việc tổ chức, phân công lại lao động xã hội là một tất yếu khách quan. Cần phải chuyển một bộ phận lao động nông thôn sang các lĩnh vực dịch vụ sản xuất, đời sống và các đặc điểm công nghiệp mới hình thành để sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động xã hội và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Do đó, tính quy luật của việc tổ chức, phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thể hiện ở chỗ : - Tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm và ngược lại tỉ trọng lao động công nghiệp tăng. - Tỉ lệ lao động trí óc ngày càng tăng và chiếm phần lớn trong tổng số lao động xã hội. - Tỉ lệ lao động trong các ngành phi vật chất tăng nhanh. c. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư : Việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm đảm bảo khai thác và sử dụng tốt nhất các tiềm năng của cả nước, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội làm cho nền kinh tế phát triển nhanh đuổi kịp các nước trong khu vực, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người lao động. Thời kỳ trước năm 1975, cơ cấu đầu tư của nước ta nhằm phục vụ đường lối ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp nặng trên cơ sở một nền kinh tế khép kín bao cấp, do đó vốn đầu tư bị lãng phí lớn. Hiện nay trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá Đảng và Nhà nước ta đã điều chỉnh cơ cấu đâù tư: - Đầu tư theo cơ cấu ngành, tranh thủ khoa học kĩ thuật tiên tiến, công nghệ mới. - Cần đầu tư phục vụ sản xuất thay thế nhập khẩu và công nghiệp hướng ngoại. - Trong điều kiện vốn đầu tư bị hạn chế cần tranh thủ phát triển một số ngành sử dụng nhiều lao động thay thế cho vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá được gắn liền với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế. Đặc trưng của cơ chế thực hiện quá trình công nghiệp hoá theo nghị quyết Đại hội III, thể hiện trong nội dung của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961 - 1965, là kế hoạch hoá tập trung cao độ theo một phương án duy nhất được Trung ương quyết định và chỉ đạo nhằm xây dựng những cơ sở công nghiệp quốc doanh quy mô lớn và vừa do Trung ương quản lý. Tuy nhiên, quá trình này bị gián đoạn bởi cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và vì tập trung sức lực cả nước vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế - xã hội theo nghị quyết Đại hội VI hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý cũ không còn thích hợp nữa đồng thời nội dung và nhiệm vụ của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở giai đoạn hiện nay cũng có những điểm khác trước. Vì vậy, cần phải lợi dụng mọi cơ chế mới thích hợp với yêu cầu huy động lực lượng rộng rãi vào thực hiện nhiệm vụ quan trọng bức thiết này. Trên cơ sở các nghị quyết nêu trên và yêu cầu triển khai thực hiện cụ thể trong điều kiện cơ chế quản lý kinh tế - xã hội hiện nay có thể thấy khá rõ phương hướng và nội dung của cơ chế quản lý mới đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn này, có thể tóm tắt là "đa dạng có định hướng". Phương hướng và nội dung cụ thể của công nghiệp hoá, hiện đại hoá có thể diễn giải : a. Đa dạng hướng phát triển ngành, có định hướng ngành trọng tâm. Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn này khẳng định không chỉ chú ý tập trung vào ngành công nghiệp, mà là bao quát tới mọi ngành kinh tế - kĩ thuật và các lĩnh vực hoạt động của xã hội. b. Đa dạng công nghệ, có định hướng lựa chọn thích hợp. c. Đa dạng vùng phát triển, có định hướng quy hoạch vùng trọng điểm. d. Đa dạng hoá nguồn vốn, có định hướng chiến lược đầu tư. Những tiền đề và điều kiện để tiến hành công nghiệp hoá theo hướng hiện đại hoá nền kinh tế nước ta. Chương Iv Những điều kiện tiền đề của cnh - hđh Sau khi khẳng định sự cần thiết khách quan của công nghiệp hoá, cần phải trả lời câu hỏi thứ hai là Việt nam với trình độ và nguồn lực hiện nay, trong hoàn cảnh quốc tế mới có thể thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá được không? có đủ tiền đề và điều kiện cho công nghiệp hoá không? 1. Các tiền đề của công nghiệp hoá Để thực hiện công nghiệp hoá phải có tiền đề bên trong và bên ngoài. Trong nước ta phải có sự ổn định về chính trị - xã hội. Muốn phát triển kinh tế, muốn tiến hành công nghiệp hoá trước hết phải có môi trường chính trị - xã hội ổn định. Lựa chọn con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đang đổi mới hệ thống chính trị nhằm củng cố nhà nước của dân, do dân vì dân, thực hiện dân chủ rộng rãi, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng cương lĩnh, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Đây là tiền đề chính trị bên trong cho công nghiệp hoá. Môi trường quốc tế và xu hướng phát triển mới của thế giới cũng tạo ra tiền đề bên ngoài thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá theo hướng hiện đại hoá ở nước ta. Trước hết, đó là môi trường hoà bình với xu hướng hoà hoãn và hợp tác quốc tế cho phép ta mở rộng quan hệ bạn bè và hợp tác với nhiều nước nhằm tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ đa phương của quốc tế. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới tạo điều kiện và thời cơ cho những nước kém phát triển, trong đó có Việt nam, có thể tranh thủ sử dụng khoa học, công nghệ mới cũng như nguồn vốncủa các nước giàu và sự nghiệp công nghiệp hoá bằng cách tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự lớn mạnhcủa các lực lượng đấu tranh cho hoà bình, dân chủ và tiến bộ, sự thức tỉnh của nhân loại về một thế giới mới cũng là hoàn cảnh thuận lợi hỗ trợ cho các nước kém phát triển đẩy nhanh công nghiệp hoá, phát triển kinh tế. Vài chục năm qua, một số nước đã biết vận dụng hoàn cảnh và tiền đề quốc tế để đẩy nhanh công nghiệp hoá, trong thời gian ngắn, từ nước lạc hậu kém phát triển trở thành những nước công nghiệp hoá. 2. Những điều kiện để công nghiệp hoá Từ các tiền đề đó công nghiệp hoá có thành công hay không còn phụ thuộc vào một số điều kiện cụ thể. Công nghiệp hoá chỉ được thực hiện với những điều kiện nhất định. Tuy nhiên công nghiệp hoá là một quá trình, quá trình này càng phát triển thì các điều kiện càng được mở rộng, càng đầy đủ hơn để đẩy nhanh công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá là quá trình ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật vào tất cả các ngành kinh tế quốc dân, đối với các nước kinh tế lạc hậu thì trước hết là ứng dụng các phương pháp sản xuất công nghiệp vào các ngành kinh tế, là cải tổ cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và phù hợp với quá trình phân công và hợp tác quốc tế. Để đạt được mục tiêu đó, từng nước phải chọn một số khâu của nền kinh tế để ưu tiên phát triển và hiện đại hoá, tuỳ điều kiện cụ thể mà hình thành phương án thực hiện, có thể tiếp thu có kết quả nhấtcác thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại. Vì vậy các nước đang phát triển phải phân tích sâu sắc các điều kiện trong quá trình xây dựng chiến lược, phương án công nghiệp hoá của đất nước. Điều kiện thứ nhất là cơ sở tài nguyên, tiềm lực, lợi thế, đặc điểm kinh tế xã hội. Bất cứ nước nào quá trình công nghiệp hoá, sự phát triển kinh tế cũng phải được tiến hành từ điều kiện cụ thể của đất nước, trên cơ sở khai thác sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên, phát huy thế mạnh và tiềm lực kinh tế, xuất phát từ đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của đát nước để lựa chọn, xác định phương hướng, chiến lược, kế hoạch, bước đi cho công nghiệp hoá. Lựa chọn đúng đắn mục tiêu là đảm bảo chắc chắn cho thành công của quá trình công nghiệp hoá. Nước ta có thế mạnh về nguồn tài nguyên nước, tài nguyên sinh vật phong phú, tài nguyên biển và ven biển, một số dạng khoáng sản (bô xít, đất hiếm, đá quý...). Nước ta lại nằm ở vùng nhiệt đới khí hậu gió mùa, nguồn tài nguyên nhiệt ẩm dồi dào, có vị trí địa lý thuận lợi và nơi du lịch phong phú. Công nghiệp hoá hướng vào khai thác những tài nguyên đó là điều kiện thuận lợi của nước ta. Điều kiện thứ hai là khả năng huy động vốn trong và ngoài nước. Công nghiệp hoá theo hướng hiện đại đòi hỏi một nguồn vốn lớn lao. Nói chung, ở các nước kém phát triển nguồn vốn trong nước thường là hạn chế. Tuy nhiên có chính sách và cơ chế đúng cũng có thể huy động được nguồn vốn đáng kể. Trước hết, đó là chính sách để biến của cải, tài sản, tiền bạc trong xã hội thành nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất. Nguồn vốn lớn này đang bị lãng phí trong việc cất giấu để giành phân tán trong dân cư, đầu tư vào bất động sản (xây dựng nhà cửa, sắm sửa hàng hoá lâu bền đắt tiền) mà chưa được huy động vào bất động sản kinh doanh. Nguồn vốn thứ hai là tích luỹ từ sản xuất. Chúng ta đang từ tình trạng làm không đủ ăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, tuy nhiên nếu đổi mới cơ chế quản lý, có chính sách phân phối đúng đắn thì sản xuất kinh doanh phát triển, đời sống công nhân được cải thiện và bước đầu tạo ra tích luỹ từ sản xuất kinh doanh. Đáng lưu ý là cơ sở vật chất - kỹ thuật, tài sản cố định hiện có của ta tuy không lớn nhưng là nguồn vốn đang bị huỷ hoại và lãng phí rất lớn ; công suất máy móc thiết bị được huy động ở mức rất thấp. Chống tham nhũng, lãng phí thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng đang là con đường góp phần tăng tích luỹ mở rộng sản xuất. Các nước kém phát triển thực hiện công nghiệp hoá thì phần vốn quan trọng là phải dựa vào bên ngoài. Trong hoàn cảnh quốc tế mới không chỉ trông chờ vào sự viện trợ, giúp đỡ sản xuất từ một nước lớn xã hội chủ nghĩa đi trước mà phải tranh thủ sự giúp đỡ sản xuất đa phương, hợp tác đầu tư từ nhiều nước và khu vực của thế giới. Vốn đầu tư gián tiếp (viện trợ và cho vay) là cần thiết nhưng không phải là nguồn chính. Trong điều kiện quốc tế hiện nay thì nguồn vốn chủ yếu là đầu tư trực tiếp. Vì vậy chúng ta phải hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế, chính sách, thực hiện tốt Luật đầu tư của nước ngoài nhằm tranh thủ tối đa nguồn vốn và công nghệ nước ngoài. Huy động vốn là điều kiện quan trọng, nhưng sẽ không đầy đủ nếu không nhấn mạnh đên hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả đầu tư, đây cũng là biện pháp quan trọng tăng nhanh nguồn vốn đẩy mạnh công nghiệp hoá. Gắn liền với chính sách thu hút vốn nước ngoài là chính sách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực từ xuất nhập khẩu, hợp tác lao động, hợp tác khoa học - kỹ thuật cho đến du lịch, dịch vụ tạo ra sự giao lưu kinh tế trong nước với ngoài nước, tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho đầu tư nước ngoài vào Việt nam. Điều kiện thứ ba là năng lực ứng dụng các thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật. Năng lực ứng dụng các thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật. Năng lực này phụ thuộc vào hai yếu tố chủ yếu là đội ngũ cán bộ khoa học, công nhân kỹ thuật và hệ thống tổ chức nghiên cứu, triển khai tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Đến nay nước ta đã có một đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật đáng kể gồm hai triệu công nhân kỹ thuật, 76 vạn cán bộ trung cấp, 40 vạn cán bộ đại học và trên 6000 cán bộ trên đại học. Lực lượng cán bộ khoa học và công nhân kỹ thuật đó đã có cống hiến bước đầu, đã làm chủ nhiều loại khoa học và công nghệ, có trình độ tương đối hiện đại như ở xi măng Hoàng Thạch, Giấy bãi Bằng... Hoặc quy mô lớn hơn như ở Thuỷ điện Hoà Bình, Cầu Thăng long, Nhiệt điện Phả Lại... Ta có mạng lưới gần 100 trường đại học và cao đẳng, hàng trăm trường trung cấp và công nhân kỹ thuật, gần hai trăm viện và trung tâm nghiên cứu, thiết kế, khảo sát. Lực lượng đó đã có nhiều đóng góp trong việc nắm bắt các thành tựu khoa học - kỹ thuật, kể cả một số lĩnh vực hiện đại như tin học, điện tử, sinh học, đã nhận chuyển giao kỹ thuật vào trong nước, đóng góp thiết thực trong phát triển nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp chế biến, thuỷ điện nhỏ, các chương trình phát triển kinh tế vùng hoặc lĩnh vực. Trong điều kiện kinh tế nước ta, năng lực khoa học - kỹ thuật đó là nguồn vốn quý, là thế mạnh tương đối so với các nguồn lực khác để khai thác sức mạnh thời đại phục vụ có hiệu qủa sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Tuy nhiên tiềm lực đó chưa được sử dụng hợp lý và có hiệu quả. Đó cũng là tình trạng lãng phí lớn nhất (lãng phí chất xám) ở nước ta hiện nay. Điều kiện thứ tư năng lực tổ chức quản lý, trước hết là nâng cao trình độ quản lý nhà nước. Năng lực tổ chức quản lý của người lao động. Sự yếu kém bộc lộ trên nhiều mặt từ tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý, tới trình độ cán bộ, từ chuẩn bị và ra quyết định tới chỉ đạo thực hiện, từ quyết định chiến lược tới quyết định chiến thuật. Thực tiễn quản lý những năm qua chứng tỏ rằng chỉ cần thay đổi cơ chế quản lý thì nhiều vấn đề kinh tế xã hội, gay cấn có thể được giải quyết, tạo ra chuyển biến đáng kể. Các nguồn lực tiềm tàng như lao động, tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học và công nghệ chưa được phát huy tác dụng khi hệ thống tổ chức, quản lý của nhà nước là điều kiện hết sức cần thiết để khai thác nguồn năng lực và tiềm năng đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại. Hiện nay, chúng ta đã chấp nhận quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường, đòi hỏi phải đổi mới quản lý nhà nước cũng như các lĩnh vực khoa học và công nghệ để đẩy nhanh qúa trình công nghiệp hoá, tiến hành công nghiệp hoá một cách hiệu quả với những biện pháp tối ưu và hợp lý. Tóm lại, cơ sở vật chất, kỹ thuật của ta nhỏ bé và lạc hậu, cơ sở kết cấu hạ tầng chậm phát triển. Điểm xuất phát của ta trên con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá là rất thấp nhưng chúng ta cũng có những tiền đề và điều kiện để có thể thực hiện thành công nhiệm vụ công nghiệp hoá, rút ngắn khoảng cách của ta với các nước phát triển hiện đại. chương V điều kiện thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện cnh - hđH ở nước ta 1. Những điều kiện thuận lợi: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là con đường phát triển của đất nước ta trong giai đoạn mới. Trong cuộc hành trình đi đến tương lai, chúng ta không quên rằng đất nước mình còn nghèo nàn và lạc hậu, khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước quanh ta còn khá xa, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn là thách đố gay gắt. Một số thế lực vẫn muốn thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình" để chống phá cách mạng nước ta. Trong khi đó, chệch hướng xã hội chủ nghĩa và quan liêu, tham nhũng vẫn là những nguy cơ lớn. Tuy nhiên chúng ta có những điều kiện và khả năng để thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những yếu tố thuận lợi do môi trường quốc tế đem lại cùng với những bước chuyển mạnh mẽ do chúng ta tạo ra đã trở thành nguồn lực tổng hợp đưa đất nước đi lên. Môi trường quốc tế hiện nay có nhiều biểu hiện tích cực rất thuận lợi cho sự phát triển. Đó là xu hướng quốc tế hoá với việc phân công lao động quốc tế không ngừng phát triển, là tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật - công nghệ, đặc biệt là không khí hoà bình, hợp tác trong khu vực và trên toàn thế giới. Bối cảnh chung đó giúp cho những nước đi sau như nước ta có điều kiện để nhìn trước, trông sau, tìm ra cho mình những nhân tố hợp lý, rút được những bài học thành công và cả bài học không thành công của các nước đi trước. Điều kiện quốc tế bên ngoài rất quan trọng, nhưng nhân tố quyết định quan trọng nhất cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá lại từ phía chúng ta. Mười năm đổi mới đã mang lại cho chúng ta những kết quả to lớn : Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tuy một số mặt còn chưa vững chắc ; những nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành ; Việt Nam đã tại lập được nội lực mới, thế đứng mới và gia tốc mới. Thế mới và lực mới là kết quả tổng hợp của quá trình đổi mới và hội nhập, là sự ổn định về chính trị và tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế. Gia tốc mới chính là có cách nghĩ và cách làm hợp lý mang lại hiệu quả rõ rệt, là sự khởi sắc của nền kinh tế có tích luỹ từ nội bộ, là sự vượt trội tạo đà cho quá trình phát triển tiếp theo. Một vấn đề rất quan trọng nữa là lợi thế và tiềm năng của đất nước. Nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, có vùng biển và thềm lục địa rộng lớn, nhiều tuyến giao lưu quốc tế quan trọng, lại nằm trong khu vực đang và sẽ phát triển năng động nhất thế giới. Chúng ta lại có nguồn nhân lực rất dồi dào. Đội ngũ lao động của chúng ta có kĩ thuật, có kiến thức, lại cần cù, khéo léo, năng động và sáng tạo, có đủ khả năng tiếp cận những công nghệ mới tiên tiến của thế giới. Mặt khác, nước ta là nước đi sau nên chúng ta có thể rút ra nhiều kinh nghiệm từ các nước đi trước. Với sự định hướng chuẩn xác và phát động đúng thời điểm, như một nhạc trưởng tài hoa điều khiển dàn nhạc hào hùng đất nước, Đảng cộng sản Việt Nam - đã kết hợp được cả ba yếu tố : thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Đó là điều kiện thuận lợi cơ bản nhất bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp cao cả và trọng đại : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. 2. Những khó khăn khi nước ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Khó khăn đầu tiên của nước ta trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là do phải trải qua bao nhiêu năm chiến tranh để giành được độc lập, tự do, thống nhất đất nước, lại bị bao vây nên quá trình công ngiệp hoá diễn ra quá chậm. Hai là, nền kinh tế của chúng ta đứng ở điểm xuất phát rất thấp. Về cơ sở hạ tầng kinh tế còn yếu kém lại bị chiến tranh tàn phá, trong khi trình độ dân trí chưa cao. Ba là, do thu nhập bình quân đầu người của nước ta còn ở trong số những nước thấp nhất thế giới nên sẽ gặp không ít khó khăn vì vừa phải thu hút vốn đầu tư trong hoàn cảnh cạnh tranh quyết liệt, vừa phải tích luỹ vốn để xây dựng đất nước và thực hiện nhiệm vụ cấp bách là cải thiện đời sống của nhân dân. Để khắc phục khó khăn, đẩy lùi nguy cơ bị tụt hậu xa hơn bạn bè không có giải pháp nào tốt hơn là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ giúp chúng ta có lực mới để có thể tăng nhanh tốc độ phát triển. Không những thế, do có hiện đại hoá, chúng ta có điều kiện để đi tắt, đón đầu. Tăng tốc, chạy tắt, đón đầu, chính là những yếu tố tổng hợp để phát triển đất nước. 3. Mục tiêu và thành tựu Tình hình thế giới có nhiều biến động đã tác động vào hầu hết các mặt đời sống xã hội nước ta. Nó đem lại cho nước ta những thuận lợi và khó khăn. Vì vậy đảng và Nhà nước đưa ra những chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình hiện nay. Xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ của toàn dân trong thời kỳ mới. Mục tiêu : giữ vững mục tiêu chiến lược : xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa và phát triển. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp " xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh." Giai đoạn từ nay đến năm 2000 được xác định là bước quan trọng của thời kỳ mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành tựu đạt được : Trong thời kỳ từ 1986 đến nay đây là thời kỳ đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ về quan điểm, chúng ta đã đạt được tốc độ tăng bình quân của tổng sản phẩm xã hội: 4,8%; thu nhập quốc dan: 3,9%, giá trị sản lượng công nghiệp : 3,9% ; giá trị sản lượng nông nghiệp : 3,6% ; giá trị xuất khẩu : 2,8%, nhập khẩu : 2,8%. Chúng ta không những tự túc được lương thực mà còn cân đối gạo xuất khẩu. Lần đầu tiên sau hơn 30 năm, chúng ta gần như lập được cân đối giữa xuất và nhập khẩu trong tình hình nguồn viện trợ từ Liên xô và các nước Đông Âu không còn. chương Vi Những giải pháp tiến hành cnh, hđh ở nước ta trong hoàn cảnh hiện nay Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp. Muốn thành công chúng ta cần phải có những giải pháp thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh nước ta hiện nay. Đại hội Đảng VIII đã nêu ra những giải pháp cơ bản sau: 1. Phải đẩy nhanh phát triển khoa học và công nghệ vì khoa học và công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Nâng cao trình độ trang bị kĩ thuật và đổi mới công nghệ trong tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ với chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn, lợi nhuận cao hơn, tạo ra nhiều việc làm hơn. - Kết hợp kĩ thuật và công nghiệp nhiều trình độ theo hướng sử dụng tốt kĩ thuật và công nghệ hiện có chưa được khai thác và sử dụng tốt, hiện đại hoá kĩ thuật và công nghệ truyền thống, đi thẳng vào kĩ thuật và công nghệ hiện đại ở nơi có nhu cầu và điều kiện. - Chú trọng áp dụng công nghệ vừa có hiệu quả về mặt kĩ thuật, vừa có hiệu quả cao về kinh tế xã hội và bảo vệ được môi trường. 2. Phát triển đồng thời cả ba lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong một hệ thống mở với cơ cấu năng động, có hiệu quả và chuyển dụch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 3. Tích luỹ vốn, tạo nguồn vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Để công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế phải có chiến lược huy động nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Đối với nước ta, nguồn vốn trong nước là quết định, nguồn vốn ngoài nước là rất quan trọng, thiếu một trong hai nguồn vốn nói trên đều gặp khó khăn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chúng ta cần có những những chính sách đúng đắn về tích luỹ, tiết kiệm và chính sách mở cửa hấp dẫn để gọi vốn đầu tư từ nước ngoài vào để tạo nguồn vốn lớn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 4. Cần có chính sách giáo dục và đào tạo. - Đầu tư cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo chính là đầu tư phát triển con người và phải được xem là đầu tư theo chiều sâu cho phát triển kinh tế - xã hội. - Tập trung mọi lĩnh vực của nhà nước vào việc đào tạo nhân tài cho tổ quốc. - Tăng cường hệ thống đào tạo nghề theo yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Tăng cường đầu tư, nâng cấp các cơ sở đào tạo bồi dưỡng hiện có của đất nước, từng bước hình thành các "tổ hợp" giữa cơ sở đào tạo với thực tiễn, gắn quá trình đào tạo với yêu cầu của hoạt động thực tiễn. - Ưu tiên, khuyến khích những người làm việc trong các cơ quan nghiên cứu đào tạo, bảo đảm cho họ có cuộc sống ổn định, có điều kiện phương tiện làm việc đầy đủ hiện đại ... 5. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý và hoạt động thực tiễn, đội ngũ cán bộ này phải đạt tầm cao ở các yêu cầu sau: - Trung thành với đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước đề ra và biết tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối chính sách kinh tế đó trong thực tiễn. - Thích ứng với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước để không những chỉ làm việc tốt có hiệu quả cao ở thị trường trong nước mà còn tiếp cận được với cả thị trường thế giới. - Nắm bắt được quy luật và xu hướng phát triển khoa học, kỹ thuật trên thế giới để vận dụng sáng tạo và có hiệu quả vào điều kiện thực tế của nước ta. 6. Phải phát huy sức mạnh toàn dân thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những giải pháp cho những vấn đề lớn đã được xây dựng với ý chí phát huy sức mạnh sự nghiệp xây dựng đất nước vì lợi ích của nhân dân. chương Vii kết luận I. ý nghĩa vấn đề nghiên cứu. Qua bài tiểu luận này, chúng ta đã hiểu được những vấn đề về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời qua đó hiểu được những thách thức, khó khăn lớn mà chúng ta gặp phải trong quá trình phát triển tiến lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp lâu dài, khó khăn, phức tạp nhưng rất vẻ vang của toàn Đảng, toàn dân ta. Kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng về việc phát triển và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày càng được tích luỹ nhiều. Tuy nhiên, chúng ta vẫn luôn cần ra sức học tập làm cho sự lãnh đạo của Đảng ta ngày càng được đúng đắn hơn. Nhân dân ta rất cách mạng, chúng ta có chủ nghĩa Mac - Lênin, có kinh nghiệm và sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nếu chúng ta quyết học tập để nắm vững thực tiễn của nước ta thì chúng ta nhất định thắng lợi, nhất định thành công trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. II. Những kiến nghị và suy nghĩ của bản thân Vì điểm xuất phát của Việt Nam trong qua trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá rất thấp nên chúng ta phải coi đây là một nhiệm vụ lâu dài khó khăn, không nên nôn nóng đốt cháy giai đoạn, để tránh những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra. Phải căn cứ vào những điều kiện cụ thể trên cơ sở khai thác và sử dụng hợp lí, hiệu quả nguồn tài nguyên, phát huy thế mạnh của những nước đi sau bằng cách thực hiện việc "đi tắt đón đầu" ... để lựa chọn, xác định phương hướng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, giữ vững về chính trị để tạo môi trường thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đẩy mạnh công tác giáo dục đào tại nhằm nâng cao tay nghề của đội ngũ cán bộ, công nhân giúp cho việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật được dễ dàng thuận lợi. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền phổ biến để đưa quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trở thành nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Tài liệu tham khảo Bài viết đã tham khảo một số tài liệu sau: - Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ V - Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI - Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII - Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực. NXB thống kê 1995 - Suy nghĩ về công nghiệp hoá ở nước ta. NXB Chính trị quốc gia 1992 - Chủ biên: GS, TS Ngô Đình Giao - Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và Cách mạng công nghệ. - Một số tạp chí: Kinh tế dự báo, tạp chí cộng sản,kinh tế phát triển

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33756.doc
Tài liệu liên quan