Việc xây dựng và hình thành một TTCK ở Việt Nam nhằm những mục tiêu sau:
- TTCK là cầu nối quan trọng trong việc tiết kiệm đầu tư, tạo điều kiện cho mọi tầng lớp dân cư, mọi tổ chức kinh tế có khả năng đầu tư gián tiếp, thu hút các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài
- TTCK cùng với cơ chế hoạt động của nó sẽ góp phần vào sự ổn đinh và phát triển kinh tế; phát huy những mặt tích cực đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất những mặt tiêu cực cho nền kinh tế.
- TTCK phải có khả năng hoà nhập với hoạt động của TTCK quốc tế mà đặc biệt là với TTCK của các nước trong khu vực của khối ASEAN.
Với những kiến thức học hỏi được, với lòng say mê tìm hiểu về TTCK, em mong muốn rằng sẽ được đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình trong tiến trình thành lập một TTCK ở nước ta.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán và những điều kiện để thành lập một thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
án bằng ngoại tệ thì tạo nên khoản nợ nước ngoài.Trái khoán Nhà nước được bảo hộ chắc chắn, có khả năng cầm cố hoặc chuyển nhượng. Ngân hàng Nhà nước là nơi phát hành các trái khoán Nhà nước. Thời hạn lưu thông trái khoán Nhà nước là do Chính phủ quy định (có thể là 5 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm).
-Trái khoán ngắn hạn của Nhà nước
Trái khoán ngắn hạn của Nhà nước khi được phát hành thường áp dụng hình thức bán với giá thấp hơn mệnh giá của trái khoán để khi hết hạn thì người sở hữu sẽ nhận lại số tiền đúng bằng mệnh giá của trái khoán.
Ví dụ: Một trái khoán ngắn hạn của Nhà nước có mệnh giá là 100USD, thời hạn là 1 năm. Khi được bán ra thị trường thì giá của nó là 92,5 USD và sau 1 năm thì người mua trái khoán này sẽ nhận được 100 USD (nghĩa là lãi của trái khoán này là 7,5USD).
- Trái khoán của chính quyền địa phương.
Chính quyền địa phương (tỉnh, thành phố, vùng...) phát hành trái khoán địa phương với mục đích là vay vốn. Trái khoán địa phương là khoản vay của chính quyền địa phương đối với các tổ chức, cá nhân mua chúng. Việc phát hành trái khoán địa phương phải được sự cho phép của Nhà nước hoặc Uỷ ban chứng khoán Quốc gia. Số tiền thu được do bán trái khoán sẽ được chính quyền địa phương sử dụng để nâng cấp, đầu tư cho các công trình công cộng ở địa phương.
- Trái khoán công ty (hay còn gọi là trái khoán công nghiệp)
Trái khoán công ty do các công ty cổ phần và các xí nghiệp có quy mô lớn phát hành đưa vào thị trường vốn dưới dạng phiếu nợ tầng phần và được đảm bảo bằng tài sản của công ty hoặc xí nghiệp. Các công ty muốn phát hành trái khoán phải được sự cho phép của Uỷ ban chứng khoán Quốc gia.
- Trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm.
Việc phát hành này nhằm tạo nguồn vốn cho các tổ chức ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng có liên quan. Trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm được phát hành với thời hạn và lãi suất khác nhau. Việc mua trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm không phải trả lệ phí và được bảo hiểm. Các ngân hàng và các quỹ tiết kiệm khi muốn phát hành trái phiếu hoặc tín phiếu đều phải có sự cho phép của Uỷ ban chứng khoán quốc gia.
Bên cạnh đó, người ta còn sử dụng hình thức trái phiếu ngân hàng. ở Việt Nam tín phiếu ngân hàng được gọi là tín phiếu ngân hàng hoặc chứng chỉ tiền gửi.
Đây thực chất là công cụ vay nợ của ngân hàng bán cho người gửi tiền và khi đến hạn thanh toán thì ngân hàng hoàn trả lại giá mua ban đầu cùng với số tiền lãi.
Kỳ phiếu ngắn hạn của ngân hàng là món tiền mà chủ tài khoản trả cho người thứ 3 thông qua ngân hàng. Đặc trưng của nó là thay thế cho phương tiện lưu thông tiền mặt trong một thời gian có kỳ hạn. Nó liên quan đến Ngân hàng Trung ương, lượng cung ứng tiền mặt; nó vừa là công cụ vay nợ, vừa là công cụ thanh toán (ở nước ta, kỳ phiếu ngắn hạn ngân hàng còn tồn tại dưới dạng sổ tiết kiệm)
- Tín phiếu kho bạc Nhà nước.
Tín phiếu kho bạc Nhà nước là những chứng khoán có lãi suất cố định, có thời hạn ngắn (thường từ 6 tháng đến 5 năm) do hệ thống kho bạc Nhà nước phát hành. Thông thường thì tỷ lệ lợi tức của tín phiếu kho bạc Nhà nước thấp hơn tỷ lệ lợi tức trên thị trường vốn trong cùng một thời điểm. Tín phiếu kho bạc Nhà nước được hệ thống kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước mua vào, bán ra trong thị trường nhằm điều chỉnh hoạt động của thị trường tiền tệ.
b. Chứng khoán có thu nhập biến đổi.
Trong các loại chứng khoán có thu nhập biến đổi thì cổ phiếu mang tính chất đặc trưng nhất. Thu nhập do việc sở hữu cổ phiếu gọi là lãi cổ phần hay còn gọi là cổ tức và thu nhập này biến động tuỳ theo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hàng cổ phiếu. Người sở hữu cổ phiếu là các cổ đông và những người này có cổ phần trong công ty, vì thế họ có quyền đòi được chia phần trong thu nhập ròng và tài sản của hãng kinh doanh. Cổ phiếu được coi là một chứng khoán dài hạn.
Trong tất cả các hình thức cổ phiếu, người ta thường sử dụng các loại cổ phiếu sau.
- Cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu được hưởng quyền ưu tiên đặc biệt, được hưởng một mức lãi suất cố định hàng năm cho dù tình hình hoạt động kinh doanh của công ty như thế nào và vì thế nó cũng được xem xét như một loại chứng khoán có lãi suất cố định. Cổ phiếu này được ưu tiên nhận lãi cổ phần trước và nhận phần tài sản còn lại trước theo tỷ lệ khi công ty phá sản.
Cổ tức của loại cổ phiếu này bị giới hạn ở tỷ lệ cố định, do vậy thị giá của các cổ phiếu này thường có khuynh hướng phản ảnh những biến động của mức lãi suất bởi vì thị giá bình quân của các cổ phiếu được tính theo công thức sau:
Thị giá bình Mệnh giá x suất lợi tức cổ phiếu
quân của =
cổ phiếu Suất lợi tức tiền gửi ngân hàng
Những cổ tức thường gộp lãi, nghĩa là nếu công ty gặp một năm hoạt động kinh doanh khó khăn và không thể chi trả cổ tức cho cổ phiếu ưu đãi thì số tiền thiếu sẽ phải được trả từ lợi nhuận của năm sau đó trước khi các cổ đông có các loại cổ phiếu khác nhận được cổ tức.
Trong trường hợp cổ phiếu ưu đãi không gộp lãi thì công ty phát hành không bị ràng buộc là phải trả bất kỳ khoản cổ tức đã qua nào mà chưa trả.
Bên cạnh hình thức cổ phiếu ưu đãi, người ta còn sử dụng loại giấy tờ có giá trị có thể mang lại cổ tức là phiếu tham gia góp vốn. Phiếu tham gia góp vốn xác nhận sự tham gia đóng góp vào công ty cổ phần nhưng không được công nhận là thành viên (hay cổ đông) của công ty. Số vốn của những người sở hữu phiếu tham gia góp vốn vào công ty được nằm riêng rẽ bên cạnh vốn cổ phần. Người sở hữu phiếu tham gia góp vốn cũng có quyền nhận thu nhập theo mức thu nhập dao động của các cổ phiếu thông thường. Đối với các công ty cổ phần thì việc phát hành phiếu tham gia góp vốn có ưu điểm là nhận được khoản vốn bù đắp mà không cần phải thay đổi quan hệ sở hữu và quyền biểu quyết. Về nguyên tắc thì người sở hữu phiếu tham gia góp vốn thường nhận được lợi tức cao hơn so với các cổ đông.
- Cổ phiếu thường:
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu do các công ty cổ phần phát hành để thu hút vốn cho đầu tư và sản xuất kinh doanh. Cổ đông “thường“ được hưởng cổ tức và tất cả các quyền được quy định đối với việc quản lý công ty.
- Bên cạnh đó còn có trái phiếu được chỉ số hoá:
Thông thường trái phiếu được chỉ số hoá là các công trái của Nhà nước được phát hành khi chính phủ cần vay tiền trong dân. Loại trái phiếu này được quy đổi giá trị và tính lãi suất theo vàng, bạc hoặc theo ngoại tệ mạnh.
c. Chứng khoán hỗn hợp .
Chứng khoán hỗn hợp là chứng khoán vừa mang tính chất có lãi suất cố định, vừa mang tính chất có thu nhập thay đổi. Loại chứng khoán này chỉ được phát hành khi đáp ứng những yêu cầu đặc biệt của thị trường vốn.
Chứng khoán hỗn hợp bao gồm ba loại.
- Trái khoán công ty có khả năng chuyển đổi.
Loại trái khoán này cũng có một mức lãi suất cố định; nó bảo đảm cho người sở hữu quyền đổi nó thành cổ phiếu với những điều kiện đã xác định. Giá của loại trái khoán này có liên quan đến giá của cổ phiếu, nghĩa là phụ thuộc vào chất lượng cổ phiếu của công ty. Ưu thế của loại trái khoán này là người sở hữu nó được sự an toàn về đầu tư nhờ vào sự chuyển đổi của dạng vốn, còn đối với công ty phát hành là chỉ phải trả lãi suất thấp hơn so với trái phiếu thông thường và khi chuyển đổi trái phiếu thì công ty không phải hoàn lại tiền vay.
- Trái khoán công ty có quyền mua cổ phiếu.
Loại này giống như trái khoán công ty nói chung, nhưng ngoài khoản lợi tức cố định nhận được, nó còn có quyền mua một số lượng cổ phiếu nhất định của công ty đang phát hành.
- Trái khoán công ty có thu nhập bổ sung.
Loại chứng khoán này đảm bảo một khoản lợi tức cố định nhưng người sở hữu có thể nhận được một khoản thu nhập bổ sung theo dao động tăng của cổ tức mà các cổ đông được hưởng.
3. Các kiểu phát hành cổ phiếu:
Có ba kiểu phát hành cổ phiếu:
- Phát hành khi mới thành lập công ty:
Việc phát hành này nói chung không dễ dàng bởi vì vấn đề chính không phải là các thủ tục mà do công ty mới nói chung chưa đủ uy tín để thu hút cổ đông.
- Phát hành để tăng vốn:
Đây là hình thức phổ biến nhất trên thị trường phát hành cổ phiếu. Điểm cần lưu ý nhất là khi đưa ra các cổ phiếu mới sẽ ảnh hưởng đến thị giá của các cổ phiếu cũ. Giải pháp này ở đây là cần phải bù đắp chênh lệch giá cho các cổ đông thông qua các “phiếu lợi tức chia thêm” có thể chuyển nhượng được tỷ lệ thuận với số cổ phiếu họ nắm giữ. Thường thì giá của các cổ phiếu mới là thấp hơn giá thị trường.
- Phát hành khống:
Đây là kiểu phát hành không làm tăng thêm vốn mà công ty thông qua hình thức “phiếu lợi tức chia thêm” cấp không cho các cổ đông của mình các cổ phiếu mới tỷ lệ với số lượng cổ phiếu họ nắm giữ. Các cổ phần mới này được tạo ra từ khoản dự trữ vốn của công ty. Thực chất đây là chuyển đổi bản chất vốn trong tài khoản nợ của công ty theo hướng có lợi cho các cổ đông.
III- Sở giao dịch chứng khoán (trung tâm dịch vụ chứng khoán).
Hoạt động của sở giao dịch chứng khoán gắn liền với hoạt động của các trung tâm giao dịch khác như giao dịch tiền tệ, giao dịch hàng hoá.... Sở giao dịch chứng khoán chịu sự giám sát của Chính phủ mà trực tiếp nhất là Uỷ ban chứng khoán quốc gia. Mỗi Sở giao dịch đều phải có một qui định giao dịch và được Uỷ ban chứng khoán quốc gia chấp nhận.
Cơ cấu của sở giao dịch bao gồm:
- Hội đồng quản trị
- Trung tâm tiếp nhận chứng khoán
- Hội đồng môi giới.
- Uỷ ban giao dịch và hội đồng trọng tài
1. Hội đồng quản trị:
Hội đồng quản trị của Sở giao dịch chứng khoán là do các thành viên chính thức của sở bầu ra trên nguyên tắc bỏ phiếu kín hoặc do Chính phủ cử ra. Số thành viên của hội đồng quản trị tuỳ thuộc vào quy mô của sở giao dịch và ghi trong điều lệ của Sở.
Nhiệm vụ của hội đồng quản trị là:
- Hướng dẫn của sở giao dịch.
- Ban hành quy chế giao dịch.
- Ban hành quy chế lệ phí giao dịch.
- Chuẩn y tiếp nhận thành viên của Sở.
- Xác nhận giá trị giao dịch công khai.
- Tiếp nhận chứng khoán và kinh doanh.
2. Trung tâm tiếp nhận chứng khoán:
Trung tâm tiếp nhận chứng khoán là nơi quyết định việc thu nhận chứng khoán vào kinh doanh, giao dịch. Trung tâm sẽ xem xét các khía cạnh về mặt pháp lý cũng như kinh tế của các loại chứng khoán nhằm mục đích đưa các loại chứng khoán đó vào danh sách chính thức hay không chính thức hoặc không được phép lưu hành taị Sở giao dịch.
3. Hội đồng môi giới.
Hội đồng môi giới có nhiệm vụ đưa ra những quy định về môi giới giá chứng khoán, giám sát hoạt động của những người môi giới chứng khoán, kiểm soát việc định giá công khai và dàn xếp các vụ tranh chấp giữa những người mối giới giá.
Có hai loại môi giới là môi giới chính thức và môi giới tự do.
- Những người môi giới chính thức thường do Chính phủ chỉ định, những người có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính. Họ có nhiệm vụ xác định giá chứng khoán cho ngày giao dịch.
- Những người môi giới tự do thường là các thương gia. Họ xác định giá và kinh doanh chứng khoán theo cách tính toán riêng người môi giới tự do có nhiệm vụ xác định giá cho những loại chứng khoán không được tiếp nhận vào sở giao dịch nhưng vẫn được lưu thông tại đó.
Người môi giới là người bảo vệ quyền lợi cho khách hàng và là “chất xúc tác” giúp cho quá trình mua bán diễn ra một cách trôi chảy.
4. Uỷ ban giao dịch và Hội đồng trọng tài.
Uỷ ban giao dịch của sở có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của các thành viên tham gia Sở giao dịch. Uỷ ban có thể xử lý bằng nhiều hình thức tuỳ theo mức độ vi phạm của các thành viên như phạt tiền, ngừng tham gia một thời gian...
Hội đồng trọng tài do hội đồng quản trị của Sở lập ra, có nhiệm vụ giải quyết những tranh chấp trong kinh doanh.
Chương II
Điều kiện hình thành thị trường chứng khoán
ở việt nam - thực trạng và giải pháp.
Sau gần 10 năm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ chế độ quản lí kinh tế quan liêu báo cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trên mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là về kinh tế. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói như một số nước đang phát triển khác gặp phải, chúng ta đang cố gắng hết sức mình để tìm ra đường lối phát triển kinh tế đúng đắn tránh sa lầy vào “vết xe đổ”như những nước đó. Là một nước nghèo nàn, lạc hậu với nguồn vốn đầu tư quá ít ỏi, chúng ta phải làm gì để tạo được nguồn vốn đủ để cung cấp cho việc phát triển kinh tế? Làm thế nào để hệ thống quản lý vốn hoạt động có hiệu quả? Sự ra đời của thị trường chứng khoán sẽ trả lời những câu hỏi đó.
Thị trường chứng khoán ra đời ở Việt Nam sẽ là một nhân tố quan trọng để hoàn chỉnh cấu trúc của hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường, nó tạo cơ hội thuận lợi cho mọi đối tượng trong nền kinh tế thực hiện ý định biến tiết kiệm thành đầu tư. Sự ra đời của TTCK như một chất xúc tác tạo nên mối liên hệ chặt chẽ hơn nữa giữa các trung gian tài chính ở Việt Nam hiện nay và tạo nên những dòng dẫn vốn trực tiếp cũng như gián tiếp không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng ra thế giới.
Dưới góc độ của một người sinh viên, qua quá trình tìm hiểu những vấn đề về TTCK và những yếu tố mà Việt Nam đang chuẩn bị cho việc hình thành TTCK, em xin nêu thực trạng và các giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa cho việc chuẩn bị đó.
1. Về yếu tố con người và bộ máy quản lý TTCK.
Để điều hành hoạt động của TTCK mà trực tiếp là tại Trung tâm giao dịch chứng khoán cũng như các tổ chức tham gia phát hành, quản lý và môi giới mua bán chứng khoán thì cần phải có một đội ngũ cán bộ thật thông thạo về nghiệp vụ quản lý kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính. Muốn vậy, chúng ta cần phải xây dựng một kế hoạch đào tạo cụ thể dưới sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ mà trực tiếp là Uỷ ban phụ trách về TTCK do Chính phủ lập ra. Chúng ta cần phải phân loại cụ thể nhiệm vụ, công việc của các cán bộ cũng như nhân viên tại trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc tại các cơ quan quản lý TTCK, tại các ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác. Các tiêu chuẩn về trình độ nghiệp vụ, khả năng nắm bắt và xử lý thông tin của những người quản lý phải cụ thể, rõ ràng và phù hợp với yêu cầu. Bên cạnh đó cũng cần phải đào tạo các nhân viên cho TTCK thông qua các trường đại học với công việc ban đầu là trang bị các kiến thức sơ đẳng nhất và sau đó là mở rộng và chuyên sâu,đồng thời sử dụng lực lượng này để phổ biến sâu rộng đến các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Việc đào tạo cán bộ phải tuỳ thuộc vào công việc mà có những hình thức đào tạo cụ thể, tránh việc đào tạo với số lượng quá lớn trong khi chất lượng nghiệp vụ lại non kém. Chúng ta cũng cần phải đào tạo thông qua hình thức gửi đi học tập, huấn luyện ở nước ngoài và mời các chuyên gia kinh tế của nước ngoài tới nước ta để tổ chức các buổi toạ đàm, hội thảo về TTCK và thông qua đó bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thành những chuyên gia lành nghề quản lý và điều hành TTCK có hiệu quả.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy rằng Nhà nước ta cũng rất quan tâm tới vấn đề chuẩn bị một đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực để điều hành TTCK khi nó được thành lập. Tháng 7 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lậpBan chuẩn bị tổ chứcTTCK (gọi tắt là Ban chứng khoán). Ban này có nhiệm vụ soạn thảo nghị định trình lên Chính phủ để phê duyệt việc thành lập Uỷ ban chứng khoán quốc gia và qui chế hoạt động của Uỷ ban đó. Đồng thời, được sự tài trợ của một số các tổ chức quốc tế, một số cán bộ của ngành ngân hàng - tài chính và các cơ quan quản lý của Chính phủ đã được gửi đi học tập, nghiên cứu, khảo sát về TTCK ở các nước phát triển. Song thực tế cho thấy việc tạo cán bộ trong lĩnh vực này vẫn còn mang tính chắp vá, chưa thực sự chủ động trong việc chuẩn bị các kiến thức sơ đẳng về TTCK, do vậy chưa đạt được kết quả cao trong việc nắm vững các nội dung và qui định về TTCK. Chính vì vậy, ngay từ bây giờ chúng ta cần phải chọn đúng đối tượng có trình độ nghiệp vụ tốt, phân công một cách cụ thể, có kế hoạch các công việc cần nghiên cứu và chuyên sâu thì mới đảm bảo được yếu tố con người trong việc thành lập TTCK. TTCK ra đời và hoạt động có hiệu quả hay không cũng tuỳ thuộc rất nhiều vào những con người - yếu tố chủ thể - tham gia điều hành nó.
2. Về hàng hoá của TTCK
Bất kỳ thị trường nào cũng phải có loại hàng hoá để phục vụ cho hoạt động của thị trường đó, do vậy việc chuẩn bị hàng hoá cho TTCK là nội dung cơ bản có tính chất quyết định đối với việc thành lập TTCK.
Quá trình hình thành TTCK đòi hỏi phải song song với nó là quá trình tạo lập và đa dạng hoá các loại chứng khoán để đáp ứng ý định đầu tư và phân tán rủi ro cho các nhà đầu tư, đồng thời cũng là để đáp ứng nhu cầu của thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Việc đa dạng hoá các loại hàng hoá của TTCK cũng đòi hỏi phải có nhiều công ty cổ phần được hình thành và từng bước đưa chứng khoán của các công ty này vào lưu thông ở những phạm vi và qui mô khác nhau. TTCK sẽ hoạt động có hiệu quả hơn khi các chứng khoán được mua bán tự do theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và được phổ biến rộng rãi trong quần chúng nhân dân.
Trước đây, ở nước ta đã phát hành các loại tín phiếu kho bạc Nhà nước, kỳ phiếu ngân hàng, cổ phiếu công ty, nhưng các loại chứng khoán này đều là chứng khoán ghi danh và chưa có khả năng chuyển nhượng. Đó là một hạn chế rất lớn.
Thời gian gần đây, do nhu cầu cấp bách về việc huy động vốn để phát triển kinh tế, chúng ta đã phát hành chứng khoán với các chủng loại phong phú và đa dạng hơn. Cụ thể là:
- Cổ phiếu các doanh nghiệp:
Bao gồm cổ phiếu của trên 100 doanh nghiệp cổ phần, trong đó có 52 ngân hàng thương mại cổ phần và 2 công ty tài chính cổ phần với tổng giá trị là 914 tỷ đồng; 2 công ty bảo hiểm và các công ty kinh doanh thương nghiệp với tổng trị giá lên tới 1.000 tỷ đồng.
Năm 1994, có 3 doanh nghiệp được cổ phần hoá là: Công ty liên hiệp vận chuyển với tổng giá trị tài sản là 6,2 tỷ đồng; Xí nghiệp cơ điện lạnh Thành phố Hồ Chí Minh với tổng trị giá tài sản là 16 tỷ đồng và nhà máy giấy An Hiệp với tổng trị giá tài sản là 4,7 tỷ đồng.
- Các loại trái phiếu:
Chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước theo chương trình cổ phần hoá của Nghị định 388/HĐBT, Quyết định 315/HĐBT và Quyết định 202/CP với chính thức đa dạng hoá các loại chứng khoán của các doanh nghiệp này, chúng ta đã đạt được một số kết quả sau:
Trái phiếu nhà máy xi măng Hoàng Thạch phát hành đạt 44,4 tỷ đồng; trái phiếu xây dựng đô thị đường Nguyễn Tất Thành (TP. HCM) phát hành đạt 24,7 tỷ đồng; trái phiếu của ngân hàng đầu tư và phát triển phát hành đạt 200 tỷ đồng và 1 triệu USD; Trái phiếu Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đạt 500 tỷ đồng; trái phiếu Ngân hàng Công thương đạt 200 tỷ đồng. Ngoài ra còn có trái phiếu KBNN với lãi suất cao và trái phiếu tài trợ cho đường dây 500KV được bảo đảm bằng vàng đạt hơn 100 tỷ đồng. Ngân hàng Thương mại cũng phát hành trái phiếu quốc tế ra nước ngoài theo Nghị định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 139/QĐ-NH ngày 18/05/1995. Bên cạnh đó, hình thức tín dụng nhân dân vẫn được duy trì và có chiều hướng phát triển mạnh lên và đặc biệt những năm gần đây đã xuất hiện việc mua bán các loại công trái Nhà nước để hưởng chênh lệch giá.
Tuy nhiên, các loại chứng khoán ở nước ta hiện nay cũng bộc lộ rất nhiều điểm hạn chế:
- Công trái Nhà nước cho phép chuyển nhượng nhưng lại rất phiền hà bởi các thủ tục pháp lý.
- Các loại trái phiếu KBNN, kỳ phiếu ngân hàng mới chỉ là các khoản vay với số lượng có hạn và mức huy động thấp.
- Chưa có các tổ chức đứng ra môi giới và kinh doanh chứng khoán, thông tin về giá cả chưa chuẩn xác, môi trường kinh doanh và thủ tục pháp lý chưa đảm bảo.
Hơn nữa, một số công cụ có khả năng phổ biến sâu rộng về việc kinh doanh chứng khoán trong quần chúng nhân dân vẫn chưa được phát hành.
Sự hình thành và phát triển của TTCK phải được đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ những hàng hoá ban đầu cho đến nhiều chủng loại hàng hoá phong phú theo sự phát triển khách quan và đòi hỏi của thị trường. Để có được những hàng hoá phục vụ tốt cho sự ra đời của TTCK ở Việt Nam, theo em chúng ta cần phải làm những việc sau đây:
- Thúc đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đã đủ điều kiện theo chỉ thị 204/TTCK. Không thực hiện được quyền Nhà nước và không thành lập các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô quá nhỏ.
- Hàng hoá của thị trường chứng khoán trong thời gian đầu thì chủ yếu phải là trái phiếu Nhà nước, bao gồm cả trái phiếu của Chính phủ trung ương và trái phiếu của chính quyền địa phương bởi vì các loại trái phiếu này ít rủi ro, có khả năng khuyến khích đầu tư.
- Trong các chứng khoán thì trái phiếu ngắn hạn cần phải phát hành sao cho chiếm được một tỷ trọng. Đề nghị này được xuất phát từ ba lý do sau:
+ Nền kinh tế nước ta chưa phát triển, năng suất lao động còn thấp, thu nhập của dân cư chưa cao nên vốn tích luỹ trong nền kinh tế nói chung và của dân cư nói riêng còn hạn hẹp; vốn dư thừa ít và cũng chỉ là tạm thời cho nên không thể đầu tư dài hạn được.
+ Dân cư chủ yếu cho vay và vay vốn thông qua “thị trường ngầm” tức là cho vay và vay trực tiếp mà chưa có thói quen thông qua việc mua bán chứng khoán.
+ Tình trạng làm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi nhưng nguy cơ tái lạm phát vẫn còn, vì thế ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của người đầu tư là đầu tư dài hạn sẽ gặp nhiều rủi ro.
- Các chứng khoán phải được mua bán tự do dưới sự bảo đảm của pháp luật. Các doanh nghiệp có đủ điều kiện có thể phát hành trái phiếu như công ty TNHH chỉ có thể phát hành trái phiếu thế chấp; công ty quốc doanh có thể phát hành trái phiếu thông thường nhưng có sự bảo trợ của Bộ Tài chính và ngân hàng Đầu tư.
- Các loại chứng khoán đều phải được giao cho các tổ chức của Nhà nước in ấn để tránh hiện tượng làm giả, đảm bảo an toàn cho người có vốn đầu tư và chống rối loạn trên thị trường.
3. Đổi mới công nghệ quản lý và phát triển các dịch vụ của ngân hàng và các trung gian tài chính khác:
Các tổ chức tài chính bao gồm: Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng Cổ phần, Hợp tác xã tín dụng, các công ty tài chính, các tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động trên nước ta.... đây là các chủ thể chủ yếu tham gia vào thị trường và mang tính cạnh tranh rất cao. Xây dựng và phát triển các loại hình tổ chức tài chính là tạo điều kiện làm cho TTCK hoạt đồng nhộn nhịp, đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong các chủ thể tài chính thì ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng Thương mại phải là các đơn vị tham gia chính trên TTCK, là trung tâm môi giới và điều tiết các nguồn vốn.
Việc hiện đại hoá công nghệ quản lý và phát triển các dịch vụ của hệ thống ngân hàng - tài chính sẽ đảm bảo hiệu lực vững chắc về quản lý theo một chính sách tiền tệ và tín dụng đúng đắn, nâng cao tính năng động và hiệu quả của việc kinh doanh tiền tệ, tín dụng, hoàn thiện công tác thanh toán, phân tích kinh tế, giám sát và phòng ngừa rủi ro,ổn định thu chi ngân sách và cán cân thanh toán quốc tế, chấm dứt được phát hành bù đắp nhu cầu chi ngân sách bằng các biện pháp khơi tăng nguồn thu từ thuế, bảo hiểm, tín dụng trong nước và quốc tế. Hệ thống ngân hàng - tài chính là công cụ vững chắc của Nhà nước pháp quyền trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Nếu như người ta ví TTCK là khía cạnh sắc bén của thị trường tài chính quốc gia thì ngân hàng và các tổ chức tài chính khác sẽ vừa là nền móng, vừa là chất kết dính tạo nên TTCK. Một chính sách tiền tệ đúng đắn được thực thi bởi một hệ thống ngân hàng mạnh dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng trung ương với vai trò là người quản lý, giám sát mọi hoạt động tiền tệ - tín dụng và thanh toán bằng nhiều công cụ hữu hiệu chắc chắn sẽ tạo nên một môi trường cực kỳ thuận lợi cho các hoạt động của TTCK; nó sẽ tạo ra “mảnh đất lý tưởng” đối với việc thực hiện các ý định tìm kiếm lợi nhuận cao và ít rủi ro cho các nhà đầu tư chứng khoán.
Trong thời gian qua, hệ thống tổ chức các ngân hàng và các trung gian tài chính khác ở nước ta đã có những bước biến chuyển căn bản mà thể hiện rõ nét nhất là sự hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp (từ tháng 5 năm 1988), hệ thống KBNN, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân và sự xuất hiện của các chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh các ngân hàng thương mại quốc doanh đã xuất hiện 52 ngân hàng cổ phần và 2 công ty tài chính cổ phần đã tạo nên một mạng lưới hệ thống các trung gian tài chính khá đa dạng ở nước ta. Ngân hàng trung ương đang từng bước thực hiện tốt vai trò điều tiết vĩ mô trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng, đồng thời các ngân hàng cũng như các trung gian tài chính khác đang tích cực đổi mới công nghệ quản lý và phát triển các dịch vụ để đáp ứng tốt các nhu cầu của xã hội.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia IFC (tổ chức tài chính quốc tế - The International Finance Corporation) thì hệ thống các tổ chức tài chính ở Việt Nam mới chỉ kiểm soát được 10% nguồn vốn của nền kinh tế, phần còn lại thuộc các cơ cấu tài chính không chính thức. Các hình thức huy động vốn thông qua các chứng khoán như trái phiếu KBNN, kỳ phiếu ngân hàng... đến nay mới chỉ đạt khoảng 5,8% GDP, trong khi đó ở các nước phát triển thì tỷ lệ này là 40 - 50% (ví dụ như ở Mỹ, trong năm 1991 thì nguồn vốn vay của chính phủ thông qua các hình thức chứng khoán là 3.200 tỷ USD, chiếm 52% GDP). Bên cạnh đó, nghiệp vụ đang áp dụng tại các ngân hàng ở Việt Nam vẫn còn rất đơn giản, kỹ thuật còn hạn chế; việc trang bị máy móc mới chỉ dừng lại ở mức thay thế cho các công việc thủ công và sự đổi mới công nghệ quản lý, phát triển dịch vụ ở một số ngân hàng cũng chỉ là hình thức, chưa thực sự có hiệu quả.
Trước những thực tại đó, để tạo được một hệ thống các trung gian tài chính mà đặc biệt là hệ thống các ngân hàng nhằm phục vụ đắc lực cho hoạt động của TTCK khi nó ra đời, em cho rằng ngay từ bây giờ chúng ta cần phải thực hiện các công việc sau:
- Các ngân hàng và các tổ chức trung gian tài chính khác phải tiếp tục nghiên cứu và đưa ra các nghiệp vụ mới nhằm phục vụ trực tiếp cho đơn vị phát hành chứng khoán và những người đầu tư có điều kiện cần thiết để tham gia TTCK.
- Các tổ chức tài chính mà trước hết là các ngân hàng thương mại, dưới sự chỉ đạo của NHTW cần phải có kế hoạch triển khai nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng các nghiệp vụ của TTCK gắn liền với các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại.
- Đào tạo cho cán bộ và nhân viên những kiến thức cơ bản và chuyên sâu theo chương trình của quốc tế; đồng thời Nhà nước cũng nên hỗ trợ để trang bị những phương tiện cần thiết cho các hoạt động nghiệp vụ, thông tin của các tổ chức này như hệ thống máy vi tính hiện đại, máy fax...
4. Triển khai công tác kiểm toán, kế toán theo thông lệ quốc tế.
Bất kỳ nhà đầu tư chứng khoán nào trước khi ra quyết định đầu tư trong nước cũng như ở nước ngoài đều phải thu thập các thông tin cần thiết và các loại chứng khoán, đặt biệt là về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mà mình có ý định đầu tư. Nhà đầu tư cũng như các chuyên gia về chứng khoán phải phân tích tình hình tài chính của công ty đó thông qua các con số báo cáo trong thời gian gần nhất. Báo cáo tài chính của công ty phát hành chứng khoán phải được xây dựng trên một cơ sở của một chế độ hoạch toán thống nhất và tuân theo các thông lệ quốc tế. Các báo cáo này không phải chỉ do công ty tự kê khai hoặc do một công ty kiểm toán nào đó cung cấp mà phải có sự xác nhận của hai công ty kiểm toán độc lập. Vì vậy, công tác kiểm toán, kế toán đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin một cách chính xác, đầy đủ, trung thực về các công ty phát hành chứng khoán. Trên cơ sở của các số liệu kế toán, kiểm toán đó mà Uỷ ban chứng khoán quốc gia có thể đưa ra quyết định là các chứng khoán của doanh nghiệp nào sẽ được phép đưa ra phát hành, mua bán trên TTCK và các cơ quan quản lý và điều hành TTCK cũng có được con số chính thức để công bố cho nhà đầu tư tại TTCK.
Hiện nay ở Việt Nam đã có 3 công ty kiểm toán là: Công ty kiểm toán Việt Nam (viết tắt là VACO) được thành lập năm 1991; Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kiểm toán và kế toán (AASS) được thành lập năm 1993; Công ty kiểm toán và dịch vụ tin học được thành lập năm 1994. Ngoài ra còn có một số các công ty kiểm toán với 100% vốn nước ngoài như: E&Y; KPMG; Price Water House; Deloit Touche Tohmatsu; Copper... và các văn phòng đại diện khác của các công ty kiểm toán quốc tế.
Thời gian trước đây, hệ thống kiểm toán cũng như kế toán của chúng ta hoạt động chưa thực sự có hiệu quả vì một số điều khoản chưa phù hợp với quy định kiểm toán, kế toán quốc tế. Trước tình hình đó và các yêu cầu của quá trình đổi mới nền kinh tế theo hướng đa dạng hóa, ngày 01/11/1995 Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành văn bản “Hệ thống tài khoản kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp” theo Quyết định số 1141 TC/CĐKT. Sau khi văn bản này được ban hành, nó đã được áp dụng ngay trong năm 1995 và tỏ ra là một văn bản có tính khoa học, chính xác.
Tuy vậy, để tạo điều kiện tốt hơn nữa cho việc thành lập một TTCK ở Việt Nam thì chúng ta cần phải:
- Nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ cũng như nhân viên ngành kiểm toán, kế toán để bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời.
- Các công ty kiểm toán, kế toán phải trang bị một hệ thống xử lý thông tin hiện đại, phải thường xuyên cập nhật các báo cáo tài chính của các công ty phát hành chứng khoán. Cần phải công khai các báo cáo cân đối tài chính, kết quả kinh doanh và các tài liệu có liên quan tới việc phát hành chứng khoán.
5. Về việc trang bị các hệ thống thông tin kinh tế.
Thông tin kinh tế không phải là một bộ phận của các cơ quan tổ chức, điều hành và quản lý TTCK nhưng lại là một công tác rất cần thiết và quan trọng cho các công tác của TTCK, bởi vì các nhà đầu tư và các chuyên gia về chứng khoán đều phải dựa vào các thông tin về tình hình hoạt động, kinh doanh và khả năng phát triển của doanh nghiệp mới dám đầu tư mua cổ phiếu hoặc trái phiếu. Ngay cả UBCKQG khi quyết định cho phép hay đình chỉ việc phát hành chứng khoán đối với một doanh nghiệp cũng phải dựa vào các nguồn thông tin. Bên cạnh đó, TTCK cũng bị tác động mạnh mẽ bởi các yếu tố khác như tình hình chính trị, kinh tế, xã hội... trong từng giai đoạn, từng thời kỳ, do vậy cũng cần phải cập nhật và xử lý thông tin một cách liên tục mới có được các quyết định đúng đắn khi tham gia vào TTCK.
Người ta ví trung tâm giao dịch chứng khoán như một cái kho xuất và nhập thông tin. Hệ thống máy tính ở đây được nối mạng với nhau và với các trung tâm tài chính khác. Việc giao dịch mua bán các chứng khoán được diễn ra trực tiếp bằng máy tính và bên cạnh đó thì hệ thống xử lý và cập nhật thông tin khác như điện thoại, máy nhắn tin, máy fax cũng được sử dụng rất có hiệu quả.
ở Việt Nam hiện nay, theo con số thống kê mới nhất thì cả nước mới chỉ có khoảng 29.000 máy vi tính, trong đó 75% dành cho các cơ quan thuộc khối hành chính, 20% dành cho các xí nghiệp sản xuất và chỉ có 5% là của các hộ gia đình. Đây là con số rất nhỏ so với tổng số dân nước ta là hơn 78 triệu người. Theo nhận xét của ông Tổng thư ký Hội tin học Việt Nam thì máy tính ở ta chưa có nhiều máy hiện đại mà vẫn chủ yếu là những máy đã lạc hậu so với các máy đang sử dụng trên thế giới và hệ thống máy này cũng vẫn chưa được nối mạng quốc tế nên nhiều nguồn thông tin chưa được thu thập và xử lý nhanh được.
Về hệ thống quản lý thông tin ngân hàng, nhiều ngân hàng ở nước ta đã có các chương trình phần mềm khác nhau mà có khả năng xử lý nhanh, chính xác các thông tin trong phạm vi nội bộ nhưng lại thiếu khả năng thích ứng, hoà nhập với mạng thanh toán của các ngân hàng khác cho nên chưa có sự nối kết, thông suất bình thường giữa các ngân hàng và kết quả là tạo nên sự phiền phức, chậm trễ trong việc xử lý thông tin và việc thanh toán giữa các ngân hàng. Bên cạnh đó, các phương tiện thông tin khác như điện thoại vẫn chưa được phổ biến trong dân cư mặc dù có rất nhiều hãng thông tin nổi tiếng thế giới đầu tư và lắp đặt như NTT (Nhật Bản), Motorola (Mỹ)...
Để thông tin trở thành cánh tay đắc lực phục vụ cho sự ra đời của một TTCK, ngay từ bây giờ chúng ta cần phải:
- Xây dựng mạng lưới thông tin rộng, chất lượng cao.
- Trang bị hệ thống máy tính hiện đại với các chương trình xử lý đa dạng, có khả năng đáp ứng được tất cả các nghiệp vụ của TTCK.
- Nhà nước cần lập kế hoạch trang bị kỹ thuật đồng bộ, hiện đại, đảm bảo các thiết bị có khả năng sử dụng lâu dài, mở rộng nghiệp vụ và hoà nhập vào hoạt động của TTCK trên phạm vi quốc tế.
- Thực hiện chiến lược phát triển thông tin quốc gia mà vai trò tích cực là của ngành bưu điện và ngân hàng.
6. Về mặt hệ thống pháp luật.
Hoạt động của TTCK là hoạt động của một thị trường cao cấp, phức tạp vì vậy nó có liên quan tới nhiều đối tượng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; nó đòi hỏi một trình độ nghiệp vụ cao và chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố khác như đã nêu ở trên. Chính vì vậy cho nên để đảm bảo cho hoạt động của TTCK đạt hiệu quả cao, tránh được các tiêu cực thì cần phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh.
Hiện nay chúng ta đã ban hành một số luật đơn hành nằm trong Bộ luật Thương mại (như Luật công ty, Luật phá sản...); Pháp lệnh tài chính - Ngân hàng. Các luật này được hình thành và bổ sung dựa trên những yêu cầu hết sức khách quan của xã hội và mang tính logíc, khoa học.
Tuy nhiên, một đặc điểm hạn chế rất lớn của văn bản luật ở nước ta là luôn luôn có sự thay đổi hoặc rất chậm được sửa đổi và đây cũng là điều lo ngại lớn nhất của các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Theo nhận xét của ông John Douglas - cao uỷ thương mại của Australia- thì “.... nhiều doanh nghiệp của chúng tôi rất lo lắng vì luật lệ của Việt Nam chưa được ổn định. Việc hiểu được mối quan hệ về mối quan hệ quản lí giữa cấp trung ương và địa phương thật khó khăn”. Còn ông Patrich. J. Delahurt- giám đốc phát triển thị trường Việt Nam của tập đoàn Hugtres (Mỹ)- thì lại nhận xét: “Việc bổ sung kịp thời các chính sách cho phù hợp với sự phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay còn rất chậm chạp”.
Bên cạnh đó, ở nước ta vẫn còn tồn tại một thực tế là các nhà làm luật còn hạn chế về kiến thức kinh tế, còn các nhà kinh tế thì lại hạn chế kiến thức về luật; đồng thời một số trung tâm nghiên cứu khoa học và cơ quan của Chính phủ nghiên cứu về luật TTCK vẫn chưa có sự phối hợp đồng bộ trên tinh thần cộng tác thực sự nên chưa đạt được những kết quả mong muốn và khi ban hành một số luật lệ thì chưa có khả năng áp dụng hoặc được áp dụng với các cách hiểu khác nhau.
Chính vì vậy, để tạo lập được một môi trường pháp lý đồng bộ, hoàn chỉnh, theo em chúng ta cần phải làm một số các công việc sau đây:
- Giao trách nhiệm chính cho một tổ chức dưới sự chỉ đạo của hội đồng Chính phủ để tổ chức nghiên cứu và đưa ra luật về TTCK.
- Mở rộng phạm vi nghiên cứu, không nên nghiên cứu trong phạm vi hẹp và phải tập hợp được các nhà làm luật, các nhà kinh tế và các chuyên gia thực sự hiểu biết về lĩnh vực này.
- Ban hành các Nghị định của Chính phủ về phát hành chứng khoán để đáp ứng nhu cầu trước mắt là sự ra đời của một thị trường sơ cấp hoàn chỉnh; các Nghị định về thành lập cơ quan quản lí TTCK và UBCKQG, trong đó có quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của nó; các qui chế về giao dịch chứng khoán, trong đó có qui định về xử lí các quan hệ phát sinh trong quá trình mua bán chứng khoán nhằm tạo điều kiện cho sự ra đời của thị trường thứ cấp.
7. Về việc tổ chức và quản lí của Nhà nước đối với TTCK
Trong nền kinh tế thị trường, quy luật giá trị có tác động điều chỉnh sản xuất và lưu thông mà một trong những biểu hiện đầu tiên là việc di chuyển vốn đến những lĩnh vực có lợi nhuận cao. Khi thành lập TTCK thì các vấn đề này cũng xảy ra tương tự, vì vậy nếu Nhà nước không chủ động tổ chức quản lí để cho các hoạt động diễn ra một cách dễ dàng, thuận tiện, có trật tự thì sẽ dấn đến tình trạng rối loạn, có tác động xấu đến tiến trình hoạt động của nền kinh tế, đặc biệt là đối với nền kinh tế theo cơ chế thị trường.
Thực tế trong những năm qua cho thấy việc quản lí của Nhà nước đối với thị trường vốn là chưa có hiệu quả. Việc đổ vỡ của hàng loạt các quĩ tín dụng; việc nợ nần dây dưa, vòng vèo giữa các đơn vị kinh tế và hoạt động mạnh mẽ của “thị trường ngầm” với tệ cho vay nặng lãi là những bằng chứng về hậu quả của việc không chủ động của Nhà nước trong quản lí đối với thị trường vốn. Sở dĩ có những hiện tượng như vậy là vì hệ thống lãi suất vay và cho vay rất kém linh hoạt (do bị khống chế bởi mức lãi suất trần và mức lãi suất sàn) nên chưa tạo ra được một môi trường cạnh tranh lành mạnh, thuận lợi giữa các ngân hàng và các tổ chức tài chính, kinh tế. Nguồn vốn tiền gửi giữ các tổ chức kinh tế và các ngân hàng chưa được đặt đùng vị trí. Mức lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền tiết kiệm còn chênh lệch nhau một khoảng khá lớn, do vậy khả năng thu hút tiền gửi của các tổ chức kinh tế không cao mà chủ yếu là tiền gửi của các doanh nghiệp Nhà nước (loại này chiến 30% tổng vốn huy động). Nguồn quỹ khấu hao và tiền gửi của tư nhân chỉ chiếm khoảng 10%. Chính vì vậy các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư được gửi vào “thị trường ngầm” nhằm mục đích kiếm lời cao hơn là gửi vào các quỹ, các ngân hàng của Nhà nước là điều không thể tránh khỏi.
TTCK là biểu hiện cao nhất, là công cụ đắc lực nhất của thị trường vốn. Để việc quản lí của Nhà nước đối với TTCK có hiệu quả cao thì ngay từ bước ban đầu chuẩn bị thành lập TTCK, chúng ta cần phải có sự quản lí tốt của Nhà nước về thị trường vốn. Muốn vậy thì phải làm những việc sau đây.
- Điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi cũng như tiền tiết kiệm cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế song cũng tránh gây ra lạm phát cao.
- Mở rộng hình thức thu hút vốn trong các doanh nghiệp cũng như trong các tầng lớp dân cư mà vai trò chủ đạo là của chính phủ và các bộ máy trực thuộc Chính phủ.
- Xem xét và đánh giá chính xác các dự án đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế để góp phần sử dụng vốn có hiệu quả “rót” vốn đúng chỗ.
Bên cạnh đó, song song với việc quản lí và chuẩn bị cho việc thành lập TTCK, chúng ta cũng cần phải tiến hành việc hoàn thiện cơ cấu, bộ máy tổ chức cho Uỷ ban chứng khoán quốc gia và đặc biệt quan trọng là tổ chức được một trung tâm giao dịch chứng khoán là tiền thân của Sở giao dịch chứng khoán bởi vì nó đóng một vai trò hạt nhân trong TTCK, chưa có nó cũng có nghĩa là chưa có TTCK. Về mặt lí thuyết cũng như thực tế thì Sở giao dịch chứng khoán là một loại định chế tài chính phức tạp nhất, do vậy nó không thể được hình thành một cách tự phát mà phải có sự giám sát chặt chẽ của chính phủ.
8. Thành lập các quỹ đầu tư và cải cách hệ thống thanh toán.
Quỹ đầu tư là định chế tài nằm trong khái niệm của TTCK và là cơ quan trung gian cho các nhà đầu tư, các nhà doanh nghiệp góp vốn hoặc do Nhà nước thành lập. Thông qua TTCK, quỹ đầu tư sẽ sử dụng vốn của mình để mua các chứng khoán. Trong trường hợp thiếu vốn, quỹ đầu tư sẽ huy động thêm vốn của các nhà đầu tư, nhà doanh nghiệp thân chủ. Hình thức đầu tư của các quỹ đầu tư thông qua TTCK là hình thức đầu tư gián tiếp. Song song với việc thiết lập nên TTCK, Nhà nước cần phải thành lập ngay các quỹ đầu tư cùng với các quy chế hoạt động của chúng. Các quỹ này có thể được tổ chức dưới hình thức các quỹ đầu tư trong nước hoặc các quỹ đầu tư liên doanh với nước ngoài.
Hiện nay ở nước ta đang có 5 quỹ đầu tư của nước ngoài đăng ký hoạt động; trong nước có quỹ ngoại tệ và nội tệ liên ngân hàng do ngân hàng trung ương quản lí. Các quĩ này đang góp phần không nhỏ vào việc huy động và sử dụng vốn phục vụ phát triển kinh tế. Quỹ đầu tư là yếu tố cần thiết để giúp chúng ta học hỏi kinh nghiệm quản lí nguồn vốn đầu tư và giúp cho các đối tác nước ngoài mạnh dạn hơn trong việc đầu tư vốn kinh doanh ở Việt Nam.
Bên cạnh việc thành lập các quỹ đầu tư thì việc cải cách hệ thống thanh toán cũng không kém phần quan trọng. Hệ thống thanh toán có hoạt động tốt mới đảm bảo việc huy động và cung cấp vốn kịp thời và nhanh gọn. Thời gian vừa qua cho thấy, hệ thống thanh toán của các ngân hàng ở nước ta cũng đã cso những thay đổi lớn, đặc biệt là sau khi hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp (từ tháng 5/1998).
Tuy nhiên, việc thanh toán giữa các ngân hàng với nhau cũng như với các tổ chức tài chính khác vẫn chưa có sự nối kết và thông suốt bình thường, nhiều lúc còn rất chậm trễ và phiền phức. Vì vậy, để cải thiện hơn nữa hệ thống thanh toán ở nước ta hiện nay nhằm tạo một môi trường tốt cho việc thành lập một TTCK, chúng ta cần phải sớm triển khai nối mạng thanh toán nhanh trên toàn quốc, tạo điều kiện cho các ngân hàng mà đặc biệt là ngân hàng thương mại trong nước và nhập vào mạng thanh toán của thế giới, trước hết là các nước trong khu vực ASEAN.
9. ổn định nền kinh tế vĩ mô và xã hội.
Sự ra đời của TTCK là một trong các yếu tố góp phần tạo nên sự tăng trưởng của nền kinh tế thông qua các hình thức huy động vốn để phát triển sản xuất. Nhưng cũng chính sự tăng trưởng kinh tế và ổn định nền kinh tế vĩ mô có vai trò lớn trong việc tạo ra các điều kiện cần thiết để thành lập TTCK và đưa nó vào hoạt động, bởi vì chỉ có sự tăng trưởng và ổn định sẽ tạo ra thu nhập ngày càng cao hơn hay tăng được tiết kiệm và yếu tố này khi thông qua TTCK sẽ thành một trong các yếu tố quan trọng của nền kinh tế - yếu tố đầu tư. Nền kinh tế có tăng trưởng khi mà vốn đầu tư được huy động chủ yếu ở trong nội tại nền kinh tế và bên cạnh đó là từ các nguồn đầu tư nước ngoài. Sự ổn định nền kinh tế vĩ mô sẽ tạo lòng tin đối với các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài, cho phép chúng ta có thể thu hút vốn từ nhiều nguồn khác nhau.
Bên cạnh đó thì yếu xã hội cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng. TTCK hoạt động không phải là chỉ để phục vụ riêng cho một giai cấp, từng lớp nào trong xã hội mà nó phục vụ cho tất cả các tầng lớp dân cư; nó cũng không hạn chế phạm vi hoạt động trong một quốc gia mà nó mang tính chất quốc tế. TTCK hoạt động thực sự có hiệu quả khi những vấn đề cơ bản về nó được phổ biến rộng rãi cho các tâng lớp dân cư. Mọi người khi tham gia vào hoạt động của TTCK cần phải co những hiểu biết cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ của họ khi mua hoặc bán các chứng khoán, biết sử dụng các chứng khoán mà họ sở hữu trong các tình huống khác nhau. Khi nâng cao được tầm hiểu biết về TTCK cho toàn xã hội thì hoạt động của TTCK sẽ càng trôi chảy vì các nguồn vốn nhàn rỗi ngày càng được huy động nhiều thông qua các công cụ của nó.
Trong thời gian qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt mức khá cao (trong giai đoạn 1991 -1995 có tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 8,3%) nhờ có sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Chính phủ. Tỷ lệ lạm phát đã được điều chỉnh một cách kịp thời để tránh tổn hại đến sự tăng trưởng kinh tế, cụ thể như sau:
Năm
1994
1995
1996
1997
1998 (dự báo)
Tỷ lệ lạm phát (%)
14,4
12,7
4,5
9,7
8,0
Nhà nước đã ban hành các luật để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể huy động các nguồn vốn và bước đầu các công cụ của TTCK đã được sử dụng, công chúng Việt Nam đang dần dần làm quen với các công cụ đó.
Tuy nhiên vấn đề đặt ra cho nước ta trong việc ổn định kinh tế vĩ mô và xã hội nhằm phục vụ cho sự ra đời một TTCK là vẫn còn các yếu tố khả năng gây mất ổn định. Nguồn vốn huy động phục vụ phát triển kinh tế thấp do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là do chính sách pháp luật chưa được ổn định, thu nhập của các tầng lớp dân cư thấp (mới chỉ khoảng 235 USD/người/năm), việc điều tiết chưa có hiệu quả vẫn tạo ra những bất ổn về giá cả trên thị trường (ví dụ như cơn sốt giá xi măng vào tháng 5/1995); tỷ lệ thâm hụt ngân sách Nhà nước vẫn còn cao và tình trạng tham ô lãng phí vốn vẫn tồn tại. Bên cạnh đó, việc phát hành các công cụ để huy động vốn chưa được phổ biến rộng rãi trong nhân dân; đa phần nhân dân mới chỉ biết tới khía cạnh lợi ích là khoảng tiền lãi thu được sau khi mua trái phiếu KBNN, kỳ phiếu ngân hàng.... Mà chưa hiểu được cách sử dụng hoặc chưa có điều kiện sử dụng các khả năng mà người sở hữu chứng khoán có quyền tận dung; việc thông báo về các đợt phát hành chưa được phổ biến rộng rãi và những đợt phát hành này chủ yếu chỉ quan tâm tới việc thu hút vốn mà chưa quan tâm thực sự tới quyền lợi của khách hàng.
Như đã phân tích ở trên, vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế có vai trò quan trọng trong việc thành lập TTCK. Trước những thực tại đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay, để có được một môi trường kinh tế thuận lợi cho việc thành lập TTCK, theo em chúng ta cần phải :
- Nhà nước đóng vai trò ngày càng tích cực trong điều tiết kinh tế vĩ mô, điều hành quản lý xã hội.
- Tăng cường nâng cao giáo dục trong toàn xã hội và phổ biến rộng rãi những kiến thức phổ thông và TTCK với các tầng lớp dân cư trong xã hội bằng cách biên soạn, in ấn những tài liệu dễ hiểu, đơn giản để phục vụ cho việc tự tìm hiểu của quần chúng.
- Các trung gian tài chính cần đào tạo các chuyên gia để có khả năng hướng dẫn, giải đáp cho khách hàng với vai trò là người tư vấn.
10. Tổ chức hệ quản lý và môi giới chứng khoán.
Thị trường thứ cấp là nơi diễn ra việc mua bán lại các chứng khoán đã được đưa vào lưu thông. Người bán chứng khoán không chỉ là một số pháp nhân (cơ quan, tổ chức, công ty) được phép phát hành mà có thể là tất cả những ai đang nắm giữ trong tay chứng khoán; người mua chứng khoán cũng đông đảo như vậy và thực chất thì các tác nhân vừa thực hiện việc mua, vừa thực hiện việc bán chứng khoán. Một số lượng lớn người tham gia trên thị trường cùng với sự lưu thông của các loại chứng khoán có giá, thời hạn...khác nhau làm cho việc quản lí, định giá thanh toán, thông tin môi giới trở nên cực kỳ phức tạp. Chính vì những lý do đó mà việc tổ chức hệ thống quản lý và môi giới chứng khoán là một yếu tố hết sức quan trọng và cần thiết ngay từ những bước đầu tiên thành lập TTCK. Để thực hiện được mục tiêu này, chúng ta cần phải tổ chức xây dựng các bộ phận quan trọng hàng đầu của TTCK là: Uỷ ban chứng khoán quốc gia (UBCKQG), Trung tâm giao dịch chứng khoán (hay Sở giao dịch chứng khoán) (TTGDCK), các công ty chứng khoán, cơ quan tư vấn chứng khoán và đầu tư.
UBCKQG
UBCKQG phải được tổ chức như một cơ quan quyền lực độc lập ngang bộ, bao gồm các thành viên do chính phủ bổ nhiệm như đại diện của Văn phòng chính phủ, của NHTW, của Bộ Tài chính... UBCKQG có chức năng và quyền hạn như sau:
- Thành lập qui chế của TTCK. Quy chế này quy định các điều kiện về quản lý các công ty chứng khoán, huỷ bỏ chứng khoán, tổ chức và vận hành TTCK, các điều kiện về nghĩa vụ của các công ty chứng khoán.
- Thực hiện việc kiển soát, giám sát các hoạt động của các công ty chứng khoán trong việc tuân thủ các quy định pháp lí hiện hành.
- Thực hiện giám sát hoạt động của TTCKQG.
- Cung cấp và kiểm tra độ xác thực của các thông tin đưa ra công chúng do các tổ chức và các công ty chứng khoán cung cấp.
- Bác bỏ hoặc chuẩn y giấy xin phép hoạt động tại TTGDCK của các công ty chứng khoán.
- Giải quyết đơn khiếu tố, khiếu nại của dân chúng , cơ quan, tổ chức tham gia vào TTCK khi có tranh chấp xẩy ra.
TTGDCK.
Trung tâm này có nhiệm vụ đảm bảo việc quản lý và thực thi các quyết định của UBCKQG; tổ chức vận hành thị trường và cung cấp thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư. Bao gồm các nhiệm vụ chính sau:
- Có thẩm quyền quản lý, đăng ký và công bố giao dịch.
- Giám sát, kiểm soát thị trường và các công ty chứng khoán theo uỷ quyền của UBCKQG, có quyền quyết định tạm thời đình chỉ việc mua bán hoặc định giá chứng khoán.
- Thực hiện chức năng thanh toán bù trừ các hoạt động thanh toán và luân chuyển chứng khoán giữa các công ty chứng khoán, đảm bản quy chế về chuyển tiền và chứng khoán theo thoả thuận.
Các công ty chứng khoán.
Các công ty này là một pháp nhân có nhiệm vụ thực hiện hai chức năng chính là: Môi giới chứng khoán và mua - bán, chuyển nhượng chứng khoán và các sản phẩm tài chính khác. Ngoài ra, công ty chứng khoán còn đảm nhận trách nhiệm quản lý tổng lượng chứng khoán của các cá nhân, tổ chức đầu tư... và quản lý tài sản, phát triển các dịch vụ cũng như tư vấn về kỹ thuật tài chính.
Các tổ chức, cơ quan chứng khoán và đầu tư.
Ngoài ba loại tổ chức có liên quan trực tiếp như đã nêu ở trên, Nhà nước cần khuyến khích việc thành lập các trung tâm công ty tư vấn chứng khoán để giúp cho mọi người biến tiết kiệm thành đầu tư. Đây là một yếu tố không thể thiếu được trong giai đoạn đầu của một TTCK
Kết luận
Sự hình thành một TTCK được xem như là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Quá trình hình thành TTCK phụ thuộc rất nhiều vào tiến trình thực hiện các bước chuyển tiếp từ nền kinh tế theo chế độ quản lý quan liêu bao cấp sang chế độ quản lý nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, trong đó việc ban hành và thực hiện các chính sách, các chương trình cụ thể của Nhà nước về phát triển nền kinh tế ở mỗi giai đoạn là hết sức quan trọng. Các bước thành lập TTCK gắn liền với việc giải quyết các vấn đề có liêu quan đến việc xây dựng cơ chế quản lý kinh tế mới, tức là gắn liền quá trình hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc xây dựng và hình thành một TTCK ở Việt Nam nhằm những mục tiêu sau:
- TTCK là cầu nối quan trọng trong việc tiết kiệm đầu tư, tạo điều kiện cho mọi tầng lớp dân cư, mọi tổ chức kinh tế có khả năng đầu tư gián tiếp, thu hút các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài
- TTCK cùng với cơ chế hoạt động của nó sẽ góp phần vào sự ổn đinh và phát triển kinh tế; phát huy những mặt tích cực đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất những mặt tiêu cực cho nền kinh tế.
- TTCK phải có khả năng hoà nhập với hoạt động của TTCK quốc tế mà đặc biệt là với TTCK của các nước trong khu vực của khối ASEAN.
Với những kiến thức học hỏi được, với lòng say mê tìm hiểu về TTCK, em mong muốn rằng sẽ được đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình trong tiến trình thành lập một TTCK ở nước ta.
Tài liệu tham khảo
1. FREDDERIC. MISHKIN.
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính.
NXB Khoa học & Kỹ thuật 1995.
2. NEIL. STAPLEY
Thị trường chứng khoán.
NXB TP. HCM 1994.
Tạp chí Cộng sản số 2, 3, 5 năm 1996. Số 1, 2 năm 1998
Thời báo Kinh tế Việt Nam các số năm 1995, 1998
Thời báo Tài chính các số năm 1997, 1998
PGS.PTS. Nguyễn Văn Nam
Thị trường chứng khoán
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34974.doc