Chúng ta phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xoá bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển, bằng chiến lược quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của nhà nước để định hướng phát triển kinh tế, xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, đảm bảo cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập, kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó, đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hoá, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường công tác thông tin kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán thống kê, ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
Ngoài ra, sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển. Nó là điều để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và ngoài nước yên tâm đầu tư. Muốn giữ vững ổn định chính trị ở nước ta hiện nay cần phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nó tạo ra hành lang luật pháp cho các hoạt động kinh tế, buộc các doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết của nhà nước.
29 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1546 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phác thảo một số thực trạng; mục tiêu phấn đấu của Đảng và Nhà nước ta đến năm 2010; các giải pháp khắc phục và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường phát triển kinh tế thị trường ở các nước khác. Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh, nhờ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chúng ta đã bắt đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật và công nghệ của nước ngoài, giải phóng năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao. Vì vậy ta cần hiểu rõ định hướng và quan điểm của Nhà nước ta về kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường có nghĩa là:
a. Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và chuyển sang cơ chế thị trường.
Sau chiến thắng mùa Xuân 1975, đất nước thống nhất, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đất nước chịu những đảo lộn kinh tế và xã hội với quy mô lớn sau cuộc chiến tranh ác liệt, lâu dài, tình hình thế giới có những mặt diễn biến không thuận lợi. Đây cũng là thời điểm mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp với đặc trưng là sản xuất theo kế hoạch của nhà nước với một hệ thống chỉ tiêu mang tính pháp lệnh, vốn do nhà nước cấp, người lao động và cán bộ do cơ quan nhà nước chỉ định (lãi thu - lỗ bù) do đó đã triệt tiêu động lực của kinh tế và lợi nhuận, quan hệ phân phối mang tính chất bình quân và bao cấp, sản xuất trì trệ, bộ máy quản lý cồng kềnh, kém hiệu lực, không có khả năng kinh doanh, cơ chế này đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất, làm cho nền kinh tế thị trường trì trệ, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội sâu sắc cuối những năm 70, đầu những năm 80.
Đại hội Đảng lần thứ VI đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện cả về cơ chế kinh tế đến tư tưởng chính trị, văn hoá, xã hội, nhận thức của các tầng lớp nhân dân, mà quan trọng nhất là việc dứt khoát phải xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đề cập đến mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường, vận dụng các quy luật của sản xuất hàng hoá... Tới Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng đã làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đó là đã đưa ra mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mô hình này đã chuyển nền kinh tế từ kinh tế hiện vật, bao cấp là chủ yếu sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là cách tổ chức sản xuất tối ưu để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội mà hiệu quả kinh tế cuối cùng là năng suất lao động cao, chất lượng tốt, tạo ra nhiều sản phẩm thặng dư.
b. Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.
Kinh tế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó nó sản xuất ra để bán trên thị trường, nó không phải là một phương thức sản xuất, cũng không phải là một chế độ xã hội mà nó chỉ là một kiểu tổ chức xã hội.
Trước đây, người ta vẫn nghĩ rằng kinh tế hàng hoá chỉ phát sinh và tồn tại trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu. Nhưng nguyên nhân hình thành hàng hoá và trao đổi hàng hoá trong buổi đầu của lịch sử ra đời củ nó lại chính là sở hữu công cộng tồn tại riêng rẽ nhau giữa các cộng đồng nguyên thuỷ khi đã có sự phân công, “chuyên môn hoá” sản xuất giữa các cộng đồng đó. C.Mác viết: “... sự trao đổi các sản phẩm phát sinh ở những điểm tiếp xúc giữa các gia tộc, thị tộc, cộng đồng khác nhau, vì ở thời đầu của nền văn minh thì không phải là những cá nhân riêng biệt, mà là các gia tộc, thị tộc, v.v... mới tiếp xúc nhau như những đơn vị độc lập” và “... sự chuyển hoá sản phẩm thành hàng hoá là kết quả của sự trao đổi giữa các công xã khác nhau, chứ không phải giữa những thành viên của cùng một công xã”.
Ph. ăngghen cũng viết: “Những bộ lạc du mục tách rời khỏi bộ phận còn lại của người dã man: đó là sự phân công xã hội lớn đầu tiên... Vì vậy mà lần đầu tiên, đã có thể có sự trao đổi đều đặn. ở các giai đoạn phát triển trước đây, chỉ có thẻ có những sự trao đổi ngẫu nhiên mà thôi;... Lúc đầu, sự trao đổi được tiến hành giữa các bộ lạc thông qua những tù trưởng thị tộc của mỗi bên; nhưng khi những đàn gia súc bắt đầu chuyển thành sở hữu riêng, thì sự trao đổi giữa cá nhân với nhau ngày càng chiếm ưu thế và cuối cùng trở thành hình thức trao đổi duy nhất. Nhưng vật phẩm chủ yếu mà các bộ lạc du mục trao đổi với những bộ lạc lân cận là gia súc; gia súc đã trở thành hàng hoá dùng để đánh giá tất cả các hàng hoá khác... – tóm lại, gia súc đã nhận được chức năng tiền tệ...”, “ ... sự phân công lớn lần thứ hai đã diễn ra: thủ công nghiệp đã tách ra khỏi nông nghiệp... Vì nền sản xuất bị tách ra thành hai ngành chính, nông nghiệp và thủ công nghiệp, nên đã ra đời nền sản xuất trực tiếp nhằm trao đổi, - đó là nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá xuất hiện thì đồng thời thương nghiệp cũng xuất hiện, không những trong mội bộ và ở biên giới của bộ lạc, mà cỏ với những nước ở hải ngoại nữa. Tuy nhiên, tất cả tình hình đó vẫn còn ở hình thái chưa phát triển; những kim loại quý bắt đầu trở thành thứ hàng hoá - tiền tệ phổ biến và chiếm ưu thế, nhưng người ta chưa đem đúc thành tiền, mà chỉ đem trao đổi theo trọng lượng”.
Những ý kiến nêu trên của C. Mác và Ph. ăngghen cho phép chúng ta khẳng định rằng: Kinh tế thị trường (kinh tế hàng hoá) không phải chỉ gắn với chế độ sở hữu tư nhân mà còn gắn với chế độ sở hữu công cộng thuộc các cộng đồng khác nhau như đã từng diễn ra trong lịch sử. Hay nói cách khác, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.
c. Kinh tế thị trường tồn tại dưới chủ nghĩa xã hội với hai cơ sở là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt nhất định về kinh tế.
Do mô hình cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa có những điểm khác nhau cơ bản về: chế độ sở hữu, tính chất giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà nước, cơ chế vận hành, mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội, phân phối thu nhập.
Do đó, để phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần phải có cơ sở vững chắc về phân công lao động xã hội và về vai trò của từng thành phần kinh tế. Cần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế, có khả năng điều tiết, hướng dẫn sự phát triển kinh tế hàng hoá nhỏ và tư bản chủ nghĩa. Kinh tế Nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh quốc phòng, ở các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết... mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không có hoặc ít lãi. Vì vậy kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải kết hợp hài hoà ba vấn đề sau:
- Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội, với mục đích vừa đảm bảo cho các chủ thể của kinh tế thị trường có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế.
- Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc phân phối của kinh tế hàng hoá, như phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội... Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là chính.
- Điều tiết phân phối thu nhập, một mặt Nhà nước phải có chính sách giảm bớt chênh lệch giàu nghèo...; mặt khác, phải có chính sách, biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng của người giàu và người nghèo của toàn xã hội.
ố Từ những ý đã nêu trên ta thấy, ở nước ta, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo: tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giải phóng và phát triển toàn diện con người. Phát triển kinh tế cao dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu, thành phần kinh tế Nhà nước là chủ đạo, cùng kinh tế hợp tác là nền tảng của kinh tế quốc dân.
ii. đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam.
1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế khái quát trong thời kì quá độ ở Việt Nam.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội con thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Những đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Trải qua nhiều kì Đại hội với cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tới Đại hội IX của Đảng (tháng 4 – 2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội đã khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
a. Kinh tế thị trường ở Việt Nam thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nó vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta như Đại hội IX của Đảng chỉ rõ, bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể với những hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Các thành phần kinh tế đó dựa trên những hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí có lúc đối lập nhau về bản chất kinh tế – xã hội, vừa hợp tác cùng có lợi, vừa cạnh tranh phát triển trong một chỉnh thể, tạo thành những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, do đó cuộc đấu tranh “ai thắng ai’ giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa vẫn diễn ra hằng ngày, hằng giờ nhưng có nhiều hình thức biểu hiện khác nhau. Nền kinh tế thị trường vận hành theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở các nhân tố cơ bản về kinh tế, chính trị sau:
- Về kinh tế: trong các thành phần kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Dưới sự lãnh đạo của đảng, Nhà nước đang tìm cách hoàn thiện hệ thống pháp chế, xây dựng một hành lang pháp lý bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển hết khả năng của mình trong sự hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Để củng cố và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, Nhà nước cần chú trọng trước hết đến việc làm cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng và bền vững, trong đó phải sớm khắc phục tình trạng kém hiệu quả của một bộ phận doanh nghiệp nhà nước bằng cách đẩy mạnh đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, phải củng cố tổ chức của Đảng trong doanh nghiệp, lựa chọn cán bộ, Đảng viên am hiểu về kinh tế để tăng cường đội ngũ cán bộ lãnh đạo của các tổ chức Đảng.
Về chính trị: vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là hai nhân tố chính trị căn bản bảo đảm sự thành công của đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hai nhân tố này thể hiện tính tự giác, khắc phục tính tự phát của kinh tế thị trường và mặt trái toàn cầu hoá kinh tế đang do chủ nghĩa tư bản chi phối, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả phân công lao động quốc tế.
b. Kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam không phải là kinh tế thị trường tư bản, cũng chưa phải là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Nói đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường trong thời kỳ này cũng vẫn chứa đựng những cái chung của kinh tế thị trường, các quy luật vốn có và các phạm trù vốn có của kinh tế thị trường như hàng hoá, giá trị. Tuy nhiên, chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn lọc văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hoá lao động, cải tiến kỹ thuật – công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân hoá giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội.
c. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những cái riêng mang tính chất đặc thù của chủ nghĩa xã hội:
Một đặc trưng tiêu biểu để phân biệt nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta với các nền kinh tế khác chính là về mục tiêu, về chính trị, kinh tế, xã hội mà chúng ta đã lựa chọn như đã nêu ở các phần trên.
Hướng chi phối vận động của nền kinh tế trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định “xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ, có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, cuộc sống ấm no hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, các dân tộc bình đẳng đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, có quan hệ hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới”.
Cương lĩnh cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát cần đạt được khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Với định hướng xã hội chủ nghĩa trên thì mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội.
Là một đất nước đa sở hữu và đa thành phần kinh tế, vì vậy để giữ vững con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, như đã nêu ở các phần trước, ta cần phải phát triển thành phần kinh tế nhà nước, coi đó là nền tảng, trên cơ sở đó hình thành nên nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
2. Quan hệ phân phối.
Quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khác với quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa:
Mỗi chế độ xã hội chủ nghĩa đều có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối được quyết định bởi quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu. ở nước ta do đa dạng hoá về quan hệ sản xuất trong nền kinh tế nên nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại, mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc phân phối tương ứng với nó. Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa và nguyên tắc của kinh tế thị trường, ở nước ta tồn tại các hình thức phân phối thu nhập, phân phối theo lao động, phân phối theo vốn, theo tài năng, phân phối qua phúc lợi xã hội... Sự khác biệt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và quan hệ phân phối theo lao động đóng vai trò chủ đạo.
3. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự tiến bộ, công bằng xã hội cùng với việc phát triển văn hoá, giáo dục.
Nếu như trong kinh tế thị trường tư bản cùng với sự tăng trưởng kinh tế, để giải quyết những mâu thuẫn của xã hội, nhà nước tư bản cũng đã có những chính sách: Bảo hiểm, trợ cấp thất nghiệp... nhưng sự tăng trưởng và phát triển kinh tế lại dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập: một số ít người giàu và đa số người nghèo. ở nước ta, sự tăng trưởng, phát triển kinh tế là điều kiện cho sự tiến bộ, công bằng xã hội. Công bằng xã hội là mục đích, là nhu cầu của xã hội cho nên nó là động lực cho sự tăng trưởng, phát triển kinh tế. Công bằng xã hội là sự phân phối công bằng, là xã hội tạo ra nhiều điều kiện cần thiết để cho người lao động thực thi được khả năng lao động của mình, là việc xã hội tạo ra điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
Nhà nước phát triển chính sách xoá đói giảm nghèo, chủ trương phát triển văn hoá, giáo dục, xây dựng một nền văn hoá mới tiếp thu tinh hoa của nhân loại, giữ lại nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển giáo dục để nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực.
Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ công bằng xã hội. Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Một mặt có chính sách giảm sự chênh lệch giữa lớp người giàu và người nghèo, không để diễn ra sự chênh lệch qua mức giữa các vùng, miền, các dân tộc, các tầng lớp dân cư, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Mặt khác phải có chính sách biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng hợp pháp cho người giàu, khuyến khích người có tài. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội không chỉ dựa vào phân phối thu nhập mà còn phải thực hiện tốt các chính sách xã hội nhằm giải quyết hài hoà các mối quan hệ xã hội phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc các chính sách ấy bao gồm :
- Chính sách lao động việc làm. Nó có nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng nguồn lao động có kiến thức, kỹ năng và lương tâm nghề nghiệp ngày càng cao, tạo ra nhiều việc làm mới, sử dụng hiệu quả nguồn lực ấy, giảm dần tỷ lệ thất nghiệp. Đó chính là biện pháp quan trọng vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa nâng cao dân trí, đào tạo được nhân lực.
- Chính sách xoá đói giảm nghèo không chỉ là chính sách từ thiện mà còn là hệ thống chính sách kinh tế, xã hội, văn hoá, xoá bỏ nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng đến trong xã hội. Đó là chính sách giao quyền sử dụng đất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát huy quyền làm chủ của người nghèo, giúp họ tự vươn lên, thu hẹp khoảng cách về thu nhập, trình độ phát triển mức sống giữa các tầng lớp dân cư, các vùng.
- Chính sách an sinh xã hội: phát triển phong phú về hình thức bảo hộ, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm cuộc sống xứng đáng cho người về hưu, người tàn tật, trẻ mồ côi, người có công…
- Chính sách phòng chống tệ nạn xã hội: kết hợp nhiều biện pháp giáo dục hành chính, pháp luật để giữ vững ổn định, an toàn xã hội, xây dựng lối sống lành mạnh, theo quy phạm đạo đức, chuẩn mực xã hội tiến bộ văn minh.
4. Kinh tế thị trường là kinh tế mở.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Đây là xu hướng của nền kinh tế trên thế giới hiện nay, ở đây muốn nhấn mạnh sự khác biệt nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới. Trong điều kiện kinh tế hiện nay chỉ có mở của nền kinh tế hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát triển kinh tế trường hiện đại theo kiểu rút ngắn.
Thực hiện mở cửa kinh tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, thị trường trong nước gắn với thị trường khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại hiện nay, phải đẩy mạnh xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, điều chỉnh cơ cấu thị trường để hội nhập khu vực và thế giới, bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra. Cần có sự điều chỉnh trong chính sách và hoạt động kinh tế đối ngoại cho phù hợp với tình hình trong thời kỳ.
Để hội nhập đầy đủ vào khu vực mậu dịch đông nam á (APTA) và tổ chức thương mại quốc tế (WTO), cần có sự chuẩn bị tích cực ngay từ bây giờ không chỉ ở cấp trung ương mà con ở cả các cấp cơ sở, các doanh nghiệp phải tính đến điều kiện hoạt động khi hội nhập đầy đủ để có biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh, nhờ đó tồn tại và phát triển.
5. Kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Nền kinh tế thị trường nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, bản thân cơ chế thị trường có rất nhiều mặt tích cực: Kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh chóng, thúc đẩy phân công lao động xã hội, làm cho quá trình chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao, do đó các mối quan hệ ngày càng phát triển, tính xã hội hoá ngày càng cao tạo động lực cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng, thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn sản xuất và do đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nhưng cơ chế thị trường lại không thể tránh được các khuyết tật của bản thân nó. Trong cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến độc quyền, làm cạnh tranh trở nên không hoàn hảo, làm ảnh hưởng đến lợi ích người tiêu dùng và xã hội. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường dẫn đến khai thác kiệt quệ tài nguyên, tạo ra và làm tăng thêm sự ô nhiễm môi trường. Cơ chế thị trường khủng hoảng, lạm phát, tạo ra sự giả dối, gian trá trong kinh doanh. Cơ chế thị trường làm tăng thêm sự bất bình đẳng trong xã hội, phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng, làm cho sự bất công bằng tăng thêm. Do đó cơ chế thị trường dễ bị chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy phải có sự điều tiết của nhà nước để phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Mặt khác nhà nước là đại diện của xã hội, đại diện cho sở hữu của toàn dân do đó phải có điều tiết ở tầm vĩ mô thông qua các chức năng cơ bản sau:
- Chức năng pháp luật: Nhà nước định ra các khuôn khổ pháp luật buộc mọi tầng lớp dân cư, mọi thành phần kinh tế phải tuân theo.
- Chức năng hiệu quả: Nhà nước có những tác động đến nền kinh tế để nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Đưa ra các chính sách để chống lại những thất bại của thị trường (luật chống độc quyền, luật chống canh tranh không lành mạnh).
- Chức năng ổn định: Nhà nước tác động đến nền kinh tế để nền kinh tế hoạt động một cách ổn định. Nhà nước định hướng và hướng dẫn sự phát triển kinh tế xã hội bằng việc soạn thảo, ban hành các kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế, đặt biệt là chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng để hướng các chủ thể kinh tế theo hướng đặt ra.
- Chức năng công bằng: Nhà nước tác động đến quá trình phân phối thu nhập để thực hiện sự công bằng xã hội, thực hiện chức năng này nhà nước có chính sách phân phối lại thông qua ngân sách nhà nước nhằm nâng cao mức sống của những người có mức thu nhập thấp như: trợ cấp xã hội, thuế thu nhập với những người có thu nhập cao.
Để thực hiện các chức năng này nhà nước thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như: pháp luật, kế hoạch, chính sách, và các công cụ khác. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch. Thị trường là một bộ phận cấu thành nền kinh tế, nó tồn tại khách quan theo quy luật vốn có. Kế hoạch là hình thức thực hiện của tính kế hoạch nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Kế hoạch và thị trường cần được kết hợp với nhau trong cơ chế vận hành của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự kết hợp này được thực hiện trên cơ sở tầm vĩ mô và vi mô, đảm bảo kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao và công bằng xã hội.
iii. thực trạng nền kinh tế việt nam, mục tiêu đén năm 2010 và giải pháp thực hiện.
1. Thực trạng kinh tế Việt Nam.
a. Một số thành tựu.
Mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức gay gắt, nhưng nhìn chung, việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể:
- Sau mấy năm đầu thực hiện chiến lược kinh tế – xã hội 1991 – 2000, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng hơn gấp đôi (2,07 lần). Tích luỹ nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng để, đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Từ tình trạnghh khan hiếm nghiêm trọng, nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1%.
- Quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại một bước, thích nghi dần với cơ chế mới, hình thành những tổng công ty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt. Kinh tế tập thể có bước chuyển đổi và phát triển đa dạng theo phương thức mới. Kinh tế hộ phát huy tác dụng rất quan trọng trong nông nghiệp; kinh tế cá thể, tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh. Cơ chế quản lý và phân phối có nhiều đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
- Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế với hầu khắp các nước, gia nhập và có cai trò ngày càng tích cực, chủ động từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu gần gấp ba nhịp độ tăng GDP. Thu hút được một khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên đáng kể. Đã hoàn thành mục tiêu xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước; bắt đầu phổ cập trung học cơ sở ở một số thành phố, tỉnh đồng bằng. Số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gấp 6 lần. Đào tạo nghề được mở rộng. Năng lực nghiên cứu khoa học được tăng cường, ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến. Các hoạt động văn hoá, thông tin phát triển rộng rãi và nâng cao chất lượng. Mỗi năm tạo thêm hơn 1,2 triệu việc làm mới. Tỷ lệ hộ nghèo từ trên 30% giảm xuống 10%. Người có công với nước được quan tâm chăm sóc. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm từ 2,3% giảm xuống 1,4%. Tuổi thọ bình quân từ 65,2 tuổi tăng lên 68,3 tuổi. Việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em, chăm lo sức khoẻ cộng đồng, phòng, chống dịch bệnh có nhiều tiến bộ. Phong trào thể dục rèn luyện sức khoẻ phát triển; thành tích thi đấu thể thao trong nước và quốc tế được nâng lên.
b. Một số mặt còn hạn chế.
Những thành tựu và tiến bộ đạt được chưa đủ để Việt Nam vượt qua tình trạng của một nước kém phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thế giới và kém nhiều nước xung quanh. Thực trạng kinh tế – xã hội vẫn còn những mặt yếu kém, bất cập, chủ yếu là:
- Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu. Tích luỹ nội bộ và sức mua trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn sản xuất với thị trường; cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Tình trạng bao cấp và bảo hộ còn nặng. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát và lãng phí. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm mạnh. Tăng trưởng kinh tế những năm gần đây giảm sút, năm 2000 tuy đã tăng lên nhưng còn thấp hơn mức bình quân của thập kỷ 90.
- Quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể phát triển chậm, việc chuyển đổi các hợp tác xã theo Luật ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Các thành phần kinh tế khác chưa phát huy hết năng lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chưa thúc đẩy tiết kiệm, tăng năng suất, kích thích đầu tư phát triển; chênh lệch giàu nghèo tăng nhanh.
- Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống tài chính, ngân hàng, kế hoạch đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế; môi trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ tốt cho các thành viên kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Giáo dục đào tạo còn yếu về chất lượng, cơ cấu đào tạo chưa phù hợp, có nhiều tiêu cực trong dạy, học, và thi cử… Khoa học và công nghệ chưa thật sự trở thành động lực phát triển kinh tế – xã hội. Cơ sở vật chất của các ngành y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thông tin, thể thao còn nhiều thiếu thốn. Việc đổi mới cơ chế quản lý và thực hiện xã hội hoá trong các lĩnh vực này triển khai chậm.
- Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở cùng núi, vùng sâu, vùng thường bị thiên tai. Số lao động chứa có việc làm và thiếu việc làm còn lớn. Nhiều tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, nạn ma tuý, mại dâm, lây nhiễm HIV/AIDS có chiều hướng lan rộng. Tai nạn giao thông ngày càng tăng. Môi trường sống bị ô nhiễm ngày càng nhiều.
Những mặt yếu kém, bất cập nói trên có một phần là do điều kiện khách quan, nhưng chủ yếu là do những hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và bộ máy quản lý Nhà nước còn yếu kém:
+ Công tác tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước chưa nghiêm, kém hiệu lực, hiệu quả. Sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành có phần thiếu nhanh nhạy, chưa thật chủ động tranh thủ thời cơ. Vai trò lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý, điều hành của Nhà nước ở các cấp chưa được phân định rành mạch và phát huy đầy đủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được thực hiện tốt, trách nhiêm tập thể chưa được xác định rõ ràng, vai trò cá nhân phụ trách chưa được đề cao; kỷ luật không nghiêm.
+ Một số vấn đề về quan điểm như sở hữu và thành phần kinh tế, vai trò của Nhà nước và thị trường, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, hội nhập kinh tế quốc tế… chưa được làm rõ, chưa có sự thống nhất trong nhận thức và thông suốt trong thực hiện, làm cho việc hoạch định chủ trương, chính sách và thể chế hoá thiều dứt khoát, thiếu nhất quán, chậm trễ, gây trở ngại cho công cuộc đổi mới và công tác tổ chức thực hiện.
+ Công tác cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết vả về xây dựng và hoàn thiện thể chế, kiện toàn bộ máy, nâng cao năng lực và làm trong sạch đội ngũ cán bộ công chức.
+ Công tác tư tưởng, công tác lý luận, công tác tổ chức cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập. Việc tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận không theo kịp yêu cầu. Tổ chức bộ máy cồng kềnh, chồng chéo, kém hiệu lực và hiệu quả. Một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức thoái hoá biến chất, thiếu năng lực. Tình trạng mất dân chủ, tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu dân, lãng phí còn nặng, đang là lực cản của sự phát triển và gây bất bình trong nhân dân.
2. Mục tiêu phấn đấu.
Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải phát huy cao độ tinh thần cách mạng tiến công, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, đưa đất nước tiến nhanh và vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, Đại hội IX của Đảng đã đưa ra mục tiêu tổng quát của Chiến lược 10 năm 2001 – 2010 là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất , văn hoá, tinh thần cảu nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của đất nước trên trường quốc tế được năng cao.
Mục tiêu cụ thể của Chiến lược là:
- Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu. ổn định kinh tế vĩ mô; cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp 16 – 17%, công nghiệp 40 – 41%, dịch vụ 42 – 43%. Tỷ lệ lao động nông nhiệp còn khoảng 50%.
+ Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta. Tốc độ tăng dân số đến năm 2010 còn khoảng 1,1%. Xoá hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo. Giải quyết việc làm ở cả thành thị và nông thôn (thất nghiệp ở thành thị dưới 5%, quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn khoảng 80 – 85%); nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%. Trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Người có bệnh được chữa trị; giảm tỷ lệ trẻ em (dưới 5 tuổi) suy dinh dưỡng xuống còn khoảng 20%; tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi. Chất lượng đời sống vật chất, năn hoá, tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện.
+ Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển trên một số lĩnh vực, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá.
+ Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững chắc; hệ thốg thuỷ nông phát triển và phần lớn được kiên cố hoá. Hầu hết các xã được sử dụng điện, điện thoại và các dịch vụ bưu chính - viễn thông cơ bản, có trạm xá, trường học kiên cố, nơi sinh hoạt văn hoá, thể thao. Bảo đảm cơ bản cơ sở vật chất cho học sinh phổ thông học cả ngày tại trường. Có đủ giường bệnh cho bệnh nhân.
+ Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; doanh nghiệp nhà nước được đổi mới, phát triển, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều phát triển mạnh và lâu dài. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả.
3. Các giải pháp thực hiện.
Để nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đạt được mục tiêu Chiến lược đã đề ra, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra các giải pháp:
a. Thực hiện đa dạng hoá sở hữu, đa thành phần kinh tế để khai thác mọi tiềm năng Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa; từng bước hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh.
Về kinh tế nhà nước, tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật.
Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng; xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ bao cấp của nhà nước đối với doanh nghiệp. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, kiên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật cho phép. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được tạo điều kiện phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Kinh tế tư bản nhà nước phát triển đa dạng dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
b. Hình thành đồng bộ hệ thống thị trường, đặc biệt là thị trường vốn, hàng hoá sức lao động, thị trường bất động sản.
Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tư, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Có giải pháp hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung hạn và dài hạn. tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường trứng khoán, thị trường bảo hiểm, từng bước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn nước ngoài. Hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư. Phát triển thị trường lao động; người lao động được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự tham gia của các thành phần kinh tế. Phát triển các loại thị trường dịch vụ khoa học, công nghệ, sản phẩm trí tuệ, dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ tư vấn và phục vụ sản xuất kinh doanh…
Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thị trường, tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường. Nhà nước tập trung làm tốt chức năng hoạch định chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển, thực hiện những dự án trọng điểm bằng nguồn lực tập trung; đổi mới thể chế quản lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; điều tiết thu nhập hợp lý; xây dựng pháp luật và kiểm tra giám sát việc thực hiện; giảm mạnh sự can thiệp trực tiếp bằng biện pháp hành chính và hoạt động sản xuất kinh doanh. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính; công khai hoá và thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong quan hệ với doanh nghiệp và nhân dân; kiên quyết xoá bỏ những quy định và thủ tục mang nặng tính hành chính quan liêu, bao cấp, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, gây phiền hà, sách nhiễu cho doanh nghiệp và nhân dân.
c. Công nghiệp hoá khắc phục sự lạc hậu về cơ sở vật chất, kỹ thuật, gắn với nó là đào tạo nguồn nhân lực.
Để khắc phục sự lạc hậu về cơ sở vật chất, kỹ thuật, cần phải phát triển khoa học và công nghệ, tăng cường tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển đất nước. Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực hoạt động khác, thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực. Đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với các ngành mũi nhọn, đồng thời lựa chọn các công nghệ thích hợp, không gây ô nhiễm và khai thác được lợi thế về lao động. Chú trọng nhập khẩu công nghệ mới, hiện đại, thích nghi công nghệ nhập khẩu, cải tiến từng bộ phận, tiến tới tạo ra những công nghệ đặc thù Việt Nam. Hiện đại hoá công nghệ trong quản lý.
Về đào tạo nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghệp hoá, hiện đại hoá, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo. Phát triển đội ngũ giáo viên, coi trọng chất lượng và đạo đức sư phạm, cải thiện chế độ đãi ngộ. Tăng cường cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hoá nhà trường. Phấn đấu đến năm 2010 phần lớn các trường phổ thông có đủ điều kiện cho học sinh học tập và hoạt động cả ngày tại trường. Đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục. Tăng cường quản lý và giúp đỡ người đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài.
d. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như: AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, tiến tới gia nhập WTO…
Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản. Khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hoá sản xuất trong nước. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn, có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước. Đẩy mạnh các lĩnh vực dịch vụ thu ngoại tệ: du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, bưu chính – viễn thông, tài chính – tiền tệ, dịch vụ kỹ thuật, tư vấn, thu hút kiều hối… Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới. Từng bước hiện đại hoá phương thức kinh doanh phù hợp với xu thế mới của thương mại thế giới. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia các hoạt động môi giới, khai thác thị trường quốc tế.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Giảm mạnh, tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Cải tiến nhanh các thủ tục hành chính để đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, thực hiện từng bước cơ chế đăng ký đầu tư. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực hiện cổ phần hoá những doanh nghiệp có điều kiện. Triển khai từng bước vững chắc các hình thức đầu tư gián tiếp của nước ngoài ở nước ta. Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư kinh doanh, doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và có chính sách hỗ trợ công dân Việt Nam kinh doanh hợp pháp ở nước ngoài. Tiếp tục tranh thủ các nguồn tài trợ của các chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức phi chính phủ.
e. Đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước, giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Chúng ta phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xoá bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển, bằng chiến lược quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của nhà nước để định hướng phát triển kinh tế, xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, đảm bảo cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập, kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó, đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hoá, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường công tác thông tin kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán thống kê, ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
Ngoài ra, sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển. Nó là điều để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và ngoài nước yên tâm đầu tư. Muốn giữ vững ổn định chính trị ở nước ta hiện nay cần phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nó tạo ra hành lang luật pháp cho các hoạt động kinh tế, buộc các doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết của nhà nước.
C. kết luận
Sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát triển về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực tiền mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt nam. Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp lâu dài, bởi nó rất mới mẻ chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ, mở rộng. Chẳng hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế, về lao động và bóc lột, về quản lý doanh nghiệp nhà nước ra sao để thực hiện được tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiền bộ, công bằng xã hội, tăng trưởng, phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, vấn dề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng…
Tìm hiểu những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam góp phần củng cố thêm kiến thức cho mỗi sinh viên về nền kinh tế của đất, thực trạng và những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra đồng thời sử dụng những kiến thức đó vào trong cuộc sống, góp phần vào việc xây dựng đất nước.
d. tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin - NXB Chính trị quốc gia năm 2002.
2. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX. - NXB Chính trị quốc gia.
3. Tìm hiểu về kinh tế thị trường - NXB Chính trị quốc gia.
4. Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta - NXB Chính trị quốc gia năm 2002.
5. Tạp chí triết học. – Viện triết học, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia.
6. Tạp chí cộng sản. – Cơ quan lí luận và chính trị, Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
7. C. Mác - Ph. ăngghen.
8. V. I. Lênin toàn tập.
Mục lục
a. đặt vấn đề.
b. nội dung.
I. sự cần thiết khách quan phải phát triển kinh tế thị trường.
1. Quan niệm về kinh tế thị trường nói chung.
2. ở Việt Nam cần phát triển kinh tế thị trường.
ii. đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam.
1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế khái quát trong thời kì quá độ ở Việt Nam.
2. Quan hệ phân phối.
3. Tăng trưởng kinh tế gắn liền sự tiến bộ, công bằng xã hội cùng với việc phát triển văn hoá, giáo dục.
4. Kinh tế thị trường là kinh tế mở.
5. Kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
iii. thực trạng nền kinh tế Việt Nam, mục tiêu đến năm 2010
và giải pháp thực hiện.
1. Thực trạng kinh tế Việt Nam.
2. Mục tiêu phấn đấu.
3. Các giải pháp thực hiện.
c. kết luận.
d. tài liệu tham khảo.
Trang
1
2
2
2
4
8
8
12
12
14
14
16
16
19
21
27
28
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28063.doc