Đề án Phân tích các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Trong thực tiễn đất nước ta, từ một nước mà nền kinh tế yếu kém cả về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và kiến trúc thượng tầng, chưa trải qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản nên việc xây dựng nền kinh tế thị trường gặp không ít khó khăn. Sự nhận thức đúng đắn bản chất của kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội còn mờ nhạt chưa rõ ràng. Cho nên để xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần phải nghiên cứu sâu bản chất của kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đê từ đó rút ra các giải pháp xây dựng và phát triển một mô hình kinh tế đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta.

doc28 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phân tích các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có những chính sách thích hợp để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đúng mức, đúng hướng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế: có nhu cầu xã hội thì tất yếu có người đáp ứng nhu cầu đó và ai trong cuộc cạnh tranh vươn tới thoả mãn tốt hơn và tốt nhất nhu cầu của xã hội thì người đó sẽ tồn tại và phát triển. Ưu điểm của kinh tế hàng hoá. Thúc đẩy quá trình xã hội hóa xản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất càng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ. Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong kinh tế hàng hoá sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc người sản xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu xã hội, tìm cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng… Kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, gắn sản xuất với thị trường. Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất. Mở rộng giao lưu kinh tế trong nước và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất khép kín đã từng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo những điều kiện cần thiết cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao thực hiện dưới hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ. Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nước ta đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với những đặc điểm sau; Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự cấp, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường. Đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nước ta thiếu cái “cổt vật chất” của một nền kinh tế phát triển. Thực trạng của nền kinh tế được biểu hiện ở những mặt cơ bản như: cơ cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém; trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiêp lạc hậu, kém khả năng cạnh tranh; sản xuất phân tán, nhỏ lẻ, kỹ thuật thủ công, mang nặng tính bảo thủ, trì trệ; phân công lao động chưa sâu sắc, các mối liên hệ kinh tế kém phát triển, thị trường còn sơ khai; thu nhập của dân cư quá thấp, sức mua thấp, nhu cầu tăng chậm dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh là khó tránh khỏi; thiếu một đội ngũ những người quản lý sản xuất, kinh doanh có khả năng tham gia cạnh tranh trong và ngoài nước. Ngoài ra, kiểu quản lý nền kinh tế chỉ huy đã làm xơ cứng các mối liên hệ kinh tế, điều đó biểu hiện: Từ năm 1986 trở về trước dù trên thực tế vẫn thừa nhận sản xuất hàng hoá, thừa nhận quan hệ hàng hoá – tiền tệ, nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá một thành phần – thành phần xã hội chủ nghĩa, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể. Với tên gọi “ kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa”, về thực chất là kinh tế chỉ huy, đã làm cho các phạm trù của kinh tế hàng hoá vốn sống động mềm dẻo như giá trị, giá cả, lợi nhuận… bị hình thức hoá đến cao độ: không phản ánh các quy luật của thị trường, không còn nội dung kinh tế hàng hoá nữa. Quy luật trung tâm chi phối sự vận động của kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa là quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân, đã biến nền kinh tế thực tế là “ Kinh tế chỉ huy”.Mục đích hoạt động kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp không phải vì lợi nhuận như vốn có của nền kinh tế hàng hoá mà là tuân thủ một cách nghiêm ngặt hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh được phát ra từ một trung tâm. Các quy luật kinh tế hàng hoá hoặc do ý chí chủ quan bị “ thu hẹp phạm vi hoạt động”, xem như “ không hợp pháp” hoặc có thừa nhận cũng chỉ đóng vai trò hết sức thứ yếu trong sự vận động của nền kinh tế. Các loại hàng hoá đặc biệt hoặc phi hàng hoá, các thị trường có tổ chức, có kế hoạch chi phối các lĩnh vực quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất xã hội. Đối lập với kinh tế có kế hoạch đó được coi kinh tế thị trường tự do bất hợp pháp. Những quan niệm “ ấu trĩ” trên đây về xây dựng và phát triển kinh tế là biểu hiện sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không tuân theo “ quá trình lịch sử tự nhiên” trong sự phát triển xã hội nói chung và trong kinh tế nói riêng. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho sự trì trệ kéo dài, đồng thời làm xuất hiện yêu cầu cấp bách là phải “ chấn hưng” nó phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan, phù hợp với các xu thế thời đại ngày nay là chuyển sang cơ chế thị trường. Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta lấy giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu. Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Đại hội Đảng VII đã khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đó là: kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa và kinh tế tư bản Nhà nước.Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và xâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình đẳng. Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi tình trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp. Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc “ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước về kinh tế xã hội”. Để hạn chế và khắc phục những hạn chế của mặt trái kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế – xã hội bằng luật phap, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền, giáo dục và các công cụ khác. Trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta, kinh tế Nhà nước là nhân tố quy định và bảo đảm tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường. Kinh tế Nhà nước tạo cơ sở kinh tế cho xã hội mới, nó là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Xây dựng hệ thống kinh tế Nhà nước mạnh chính là tăng cường thực lực kinh tế của Nhà nước, để làm chỗ dựa, bảo đảm ổn định kinh tế và định hướng cho thị trường XHCN. Buông lỏng khu vực kinh tế nhà nước là buông lỏng định hướng XHCN đối với nền kinh tế thị trường. Kinh tế Nhà nước là nơi thể hiện đầy đủ nhất tính ưu việt của CNXH: đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tất cả phục vụ con người trên tầm vĩ mô. Nhà nước vừa là đại biểu cho toàn bộ nền kinh tế, vừa là chủ thể của kinh tế Nhà nước. Do đó nhà nước phải vừa tôn trọng tính bình đẳng của các chủ thể kinh tế, vừa phải có ý thức đầy đủ đến việc phát triển kinh tế nhà nước để nó thực sự có vai trò chủ đạo. Để giữ được vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm giữ những khâu, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước phải là kiểu mẫu về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật để lôi cuốn các thành phần kinh tế khác theo quỹ đạo của CNXH. Kinh tế Nhà nước phải có giá trị tổng sản lượng hàng hoá ngày càng tăng, đóng góp tỷ lệ cao trong ngân sách nhà nước, không ngừng nâng cao trình độ và đời sống của mọi người lao động… Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cơ chế thị trường là gì? Mọi nền kinh tế đều được tổ chức bằng cách này hay cách khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu xã hội. Việc sản xuất ra hàng hoá gì, việc sản xuất theo phương pháp nào là tốt nhất, việc phân phối hàng hoá được sản xuất ra sao cho đáp ứng tố nhu cầu của xã hội. Lực lượng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó do các cơ quan của Nhà nước quyết định. Còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có cuả nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ… và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó. Các quy luật đó đều biểu hiện sự tác động của mình thông qua thị trường, thông qua sự vận động của giá cả thị trường. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội. Như vậy, có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung cầu và giá cả thị trường. Vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là rất quan trọng. Vai trò đó được thực hiên qua các chức năng kinh tế của nó. Có thể nêu nên các chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường dưới đây. Một là, đảm bảo ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Về nhiều mặt, chức năng này vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhà nước tạo ra hành lanh pháp luật cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra bằng cách đặt ra những điêu luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con người và cả bản thân Chính phủ cũng phải tuân theo. Hai là, điều tiết kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi bị chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế, đều phải trải qua các chu kỳ kinh doanh, tức là giao động lên xuống của GDP hoặc GNP, kèm theo các giao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và lạm phát. Nhà nước cần cố gắng làm dịu những giao động lên xuống chu kỳ kinh doanh thông qua chương trình hoá kinh tế, chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chẳng hạn, chính phủ có thể giảm thuế trong cơn suy thoái với hy vọng tăng chi tiêu của dân chúng, nhờ đó sẽ nâng cao GDP. Ngân hàng Trung ương là người kiểm soát khối lượng tiền tệ có thể áp dụng các biện pháp “nới lỏng tiền tệ” trong cơn suy thoái; Khi lạm phát cao, ngân hàng Trung ương áp dụng các biện pháp “thắt chặt tiền tệ” nhằm giảm lạm phát. Như vậy, thông qua chính sách tài chính và chính sách tiền tệ Nhà nước cố gắng ổn định nền kinh tế duy trì nền kinh tế càng sát càng tốt đối với tình trạng có đầy đủ việc làm và lạm phát thấp. Ba là, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của cả hoạt động thị trường là những tác động, mà các nhà kinh tế gọi là tác động bên ngoài, mà các nhà kinh tế gọi là tác động bên ngoài. Các doanh nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu. Chẳng hạn, một doanh nghiệp sản xuất hoá chất, tống chất thải ra hồ gây ô nhiễm nguồn nước địa phương, làm chết cá, Chính phủ có thể buộc các doanh nghiệp phải trả tiền cho những thiệt hại do ô nhiễm, mà doanh nghiệp đã gây ra. Sự can thiệp của Chính phủ nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu quả. Một nguyên nhân khác dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trường là sự xuất hiện của độc quyền. Các tổ chực độc quyền có thể không tăng thậm chí giảm số lượng hàng hoá mà chỉ tăng giá để tăng lợi nhuận. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nhưng cạnh tranh làm hạn chế khả năng đạt lợi nhuận độc quyền nên các doanh nghiệp thường giảm bới cạnh tranh. Vì vậy, Nhà nước có một nhiệm vụ rất cơ bản bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trường. Bốn là, đồng thời để đảm bảo tính hiệu quả thì Nhà nước phải sản xuất ra hàng hoá công cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Sự hoạt động của cơ chế thị trường có thể làm cho nền kinh tế đạt hiệu quả cao. Nhưng cơ chế thị trường hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến các khía cạnh nhân đạo và xã hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng vươn tới. Việc phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một sự phân phối thu nhâp cao. Sự can thiệp của Nhà nước nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ các thành viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất. Điều đó được thực sự thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội. Dựa trên chế độ phân phối đa dạng bao gồm các nguyên tắc phân phối theo kiểu CNXH với phân phối theo kiểu KTTT. Trong đó, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân phối qua phúc lợi tập thể và xã hội làm chủ đạo. Phân phối theo lao động Tính tất yếu của việc phân phối theo lao động. Đối với nước ta, trong bước quá độ hiện nay, hình thức phân phối theo lao động là hình thức phân phối că bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất. Trong thành phần kinh tế này, tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng đối với tư liệu sản xuất, thì chỉ có thể thực hiện phân phối giữa những người lao động với nhau thông qua việc lấy lao động làm thước đo. Đối với thành phần này phân phối theo lao động là một sự tất yếu, bởi nhiều nguyên nhân: Một là: Do dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ. Quyền làm chủ của người lao động về mặt kinh tế được xác lập. Lao động đang trở thành cơ sở quyết định địa vị xã hội và phúc lợi vật chất của mỗi người. Chính vì những lý do đó mà phân phối theo lao động là phù hợp với quan hệ sản xuất của các thành phần kinh tế này. Hai là: Hiện tại ở nước ta vẫn còn có sự khác biệt giữa các loại lao động như lao động trí óc, lao động chân tay, lao động phức tạp, lao động giản đơn… Do vậy mà cùng một đơn vị thời gian, những lao động khác nhau đưa lại những kết quả ít nhiều, tốt xấu khác nhau. Do đó, cần phải dựa vào kết quả lao động để phân phối. Mặt khác, trong xã hội nước ta vẫn còn có những người “muốn trút bỏ gánh nặng lao động cho người khác”, trong tình hình đó phân phối theo lao động là phù hợp với tình hình kinh tế xã hội ở trên. Ba là: Trong điều kiện của nước ta hiện nay, nền kinh tế vẫn còn ở tình trạng lạc hậu, nghèo nàn chưa đạt đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu. Trong điều kiện lượng sản phẩm xã hội có hạn, để phân phối công bằng cần phải dựa vào kết quả lao động của từng người. Hơn nữa lao động chưa trở thành nhu cầu tự nhiên của con người, nó còn là “ phương kế sinh nhai” của mỗi người. Trong tình hình đó phân phối theo lao động là phù hợp với điều kiện nước ta. Tóm lại, phân phối theo lao động là phù hợp với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, phù hợp với trạng thái sản xuất và trình độ phát triển kinh tế của đất nước. Chính vì vậy thực hiện phân phối theo lao động có tác dụng thúc đẩy sản xuất ngày càng phát triển vì nó là hình thức phân phối cơ bản và chủ yếu ở nước ta. Phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác. Nền kinh tế nước ta đang trong bước quá độ định hướng nên chủ nghĩa xã hội. Với cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần, nên tất yếu có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và cũng sẽ xuất hiện nhiều hình thức sản suất kinh doanh khác. Một đặc điểm khá rõ nét trong quá độ định hướng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ là tình trạng thiếu vốn và phân tán vốn, quá trình sản xuất, tich tụ và tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn sản xuất hiện nay vẫn còn nằm rải rác, phân tán trong tay người lao động tư hữu nhỏ, tư sản nhỏ, trong đó có cả dưới dạng tư liệu sản xuất, vàng bạc, ngoại hối và tiền mặt v.v.. Để có thể sử dụng được nguồn vốn đó cho sản xuất xã hội chúng ta không thể sử dụng các chính sách áp đặt như trưng thu, trưng mua hay đóng góp cổ phần một cách bình quân. Vì cả các cách làm đó đều dẫn đến kết quả là làm suy yếu lực lượng sản xuất vốn có của xã hội. Từ sau nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương (khoá VI) ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn như một số đơn vị quốc doanh và tập thể đã huy động vốn của dân cư dưới các hình thức vay vốn, hùn vốn và góp vốn cổ phần không hạn chế với mức lãi hợp lý .. Cách làm như vậy đã có tác dụng đưa được vốn nhàn rỗi đi vào chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nắm quyền sử dụng một nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn hiện có. Như vậy, mặc dù sở hữu vốn là tư nhân, nhưng việc sử dụng vốn đã mang tính xã hội. Thích ứng với điều kiện cụ thể của nước ta trong bước quá độ, xét trên các mặt lợi ích kinh tế, trính trị và nhiệm vụ phát triển đất nước, cần tạo đủ điều kiện pháp lý để các thành phần kinh tế, tư nhân cá thể và tất cả mọi thành viên xã hội yên tâm và mạnh dạn đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh. Đại hội lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh: cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế. Những quy định đó có tính chất nguyên tắc phải trở thành pháp luật để mọi thành viên xã hội yên tâm và mạnh dạn đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh. Với quan điểm đổi mới đó, cần phải xem việc phân phối kết quả kinh doanh sản xuất theo vốn và tài sản của mỗi cá nhân đóng góp và quá trình sản xuất xã hội dưới hình thức “lợi tức” và “ lợi nhuận”, là một hình thức phân phối hợp pháp đối với những thu nhập hợp pháp đó. Phân phối ngoài thu lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản và vốn đều là tất yếu khách quan trong quá độ hiện nay ở nước ta, vì các hình thức phân phối đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển và tạo lập sự công bằng xã hội giữa mọi thành viên trong xã hội. Nhưng trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, ngoài những người có sức khoẻ đang làm việc và được trả công theo lao động, những người có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất để được nhận lợi tức và lợi nhuận, thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này lẽ khác, không thể tham gia vào lao động được trả công của xã hội. Đời sống số đông người này là do gia đình họ hoặc xã hội đảm bảo. Mặt khác, ngay mức sống của cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế cũng không phải chỉ dựa vào tiền công cá nhân, mà còn dựa vào một phần các quỹ phúc lợi công cộng của Nhà nước, cuả doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác. Với đặc điểm đó ở nước ta hiện nay ngoài phân phối theo lao động, theo tài sản và theo vốn thì xã hội còn áp dụng hình thức phân phối ngoài thu lao lao động, thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Đây không phải là phân phối theo lao động, nhưng cũng chưa phải phân phối theo nhu cầu nhu giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản mà C.Mác đã dự đoán. Đây là mô hình phân phối quá độ, nó phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Hình thức phân phối này là một sự bổ sung cần thiết và quan trọng đối với nguyên tắc phân phối theo lao động. Nó thích hợp nhất với việc thoả mãn những nhu cầu công cộng xã hội. Nó có lợi trước hết cho những gia đình mà thu lao lao động tính theo đầu người tương đôi thấp. Nó chẳng những bảo đảm cho tất cả mọi thành viên xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội. Bằng những tác dụng to lớn của hình thức phân phối này, nó khẳng định việc xây dựng các quỹ phúc lợi xã hội là việc làm rất cần thiết và ngày càng có ý nghĩa to lớn Kết hợp hài hoà văn hoá dân tộc truyền thống với văn hoá hiện đại có chọn lọc. Trong, đó lấy văn hoá dân tộc truyền thống làm gốc. Không dựa trên cơ cấu kinh tế khép kín, mà dựa trên cơ cấu kinh tế mở, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, song phải đảm bảo độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Kinh tế “khép kín” thường gắn với nền kinh tế phong kiến, gắn với sản xuất nhỏ, với tình trạng “bế quan toả cảng” tự cung tự cấp và với nền kinh tế “chỉ huy”. Nhìn chung, đó là một nền kinh tế kém phát triển, bảo thủ, trì trệ. Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá đã làm phá vỡ các mối quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín. Đặc biệt đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa, sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã làm cho thị trường dân tộc gắn bó với thị trường thế giới. Chính sự giao lưu và các mối liên hệ kinh tế được mở rộng ra nước ngoài đã làm cho nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa có những bước phát triển nhanh chóng. Mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài là tất yếu vì sản xuất và trao đổi hàng hoá tất yếu vướt khỏi phạm vi quốc gia mang tính chất quốc tế, đồng thời đó cũng là tất yếu của phát triển nhu cầu. Biệt lập trong sự phát triển kinh tế tất yếu dẫn đến đói nghèo. Do đó việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau đối với nước ta như là một dạng tất yếu trong sự phát triển, khi trình độ khoa học kỹ thuật thế giới cho phép đáp ứng nhu cầu về cả sản xuất lẫn tiêu dùng. Thông qua mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong. Điều đó tạo điều kiện cho quá trình phát triển rút ngắn ở nước ta. Mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài bằng nhiều hình thức như tăng cường hoạt động ngoại thương, hợp tác, liên doanh, liên kết để thu hút vốn đầu tư vào nước ta. Gia nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực. Tranh thủ nắm bắt những ngành, những mặt hàng “mũi nhọn” có tương lai gắn với công nghệ mới, tiến tới có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập vào nhịp điệu của kinh tế thế giới. Việc “mở cửa” nền kinh tế, đòi hỏi phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, đảm bảo chủ quyền và cùng có lợi. Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua bản chất và vai trò quản lý của Nhà nước. Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết hết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản chất đời sống kinh tế - xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, phân hoá bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như các hiện tượng khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm căn cản trở sự phát triển “bình thường” của một xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Vì vậy sự tác động của Nhà nước - một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan – vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế -xã hội. Thiếu sự “can thiệp” của Nhà nước vào kinh tế để cho nền kinh tế thị trường tự do hoạt động, thì việc điều hành nền kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả, cũng giống như người ta muốn vỗ tay mà chỉ dùng một “bàn tay”. Sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế hàng hoá ở nước ta được thực hiện bằng luật pháp và các công cụ chính sách vĩ mô khác. Nhà nước sử dụng những công cụ đó để quản lý các hoạt động kinh tế làm cho nền kinh tế “lành mạnh” hơn, giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển của nó, khắc phục được tình trạng phân hoá bất bình đẳng, bảo vệ được tài nguyên môi trường của đất nước. Như vậy, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta là một sự vận động được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường – “bàn tay vô hình”, và sự quản lý của Nhà nước – “bàn tay hữu hình”. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ở nước ta có các chức năng quản lý vĩ mô sau đây; Một là: tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như đảm bảo ổn định chính trị, xã hội, thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn có hiệu quả. Hai là, định hướng cho sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẩn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như chống lạm phát, chống khủng hoảng, ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế. Ba là; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đảm bảo yêu cầu của phát triển kinh tế. Bốn là; quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Các Bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ của các doanh nghiệp. Năm là; khắc phục, hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Các giải pháp hình thành và phát triển kinh tế thị trường ở việt nam Trước hết cần đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu, tạo điều phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Như chúng ta đã biết, cơ sở tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Vì vậy để phát triển kinh tế thị trường, trước hết phải đa dạng hoá sở hữu trong nền kinh tế. Đối với nước ta, quá trình đa dạng hoá được thể hiện bằng việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII đã chỉ ra. Đó là phát triển kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước. Đối với kinh tế Nhà nước. Đây là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta. Vai trò này được thể hiện ở chỗ nó chi phối được các thành phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc điểm, tính chất của nó. Thành phần kinh tế Nhà nước phải mở đường, dẫn dắt cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nó tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hàng hoá, hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng; nó chiếm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, đảm bảo sản xuất và cung ứng những dịch vụ công cộng và sản phẩm thuộc các lĩnh vực có ý nghĩa quốc tế dân sinh. Để đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, trong những năm tới cần thiết phải củng cố lại hệ thống kinh tế Nhà nước, thực hiện sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, cải tiến quản lý, nâng cao tính hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của chúng thông qua việc nghiên cứu và phát triển một cách phù hợp các hình thức tổ chức kinh doanh. Đối với kinh tế hợp tác. Cần thiết phải có sự tổng kết, rút kinh nghiệm về bài học hợp tác xã kiểu cũ và xây dựng mô hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã kiểu mới đang được phát triển hiện nay, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đổi mới phương thức quản lý, đẩy nhanh sự phát triển của các thành phần kinh tế trong các lĩnh vực của nền kinh tế để huy động nguồn lực vào phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường ở nước ta. Đối với loại hình sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ.Một mặt thông qua cơ chế, chính sách và hướng dẫn phát triển của Nhà nước khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế này. Mặt khác cần tăng cường công tác quản lý để xây dựng nề nếp sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Cần có chính sách khuyến khích thành phần kinh tế này để các nhà tư bản yên tâm và mạnh dạn đầu tư vào nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất hàng hoá tiêu dùng và xuẩt khẩu. Đối với kinh tế tư bản Nhà nước. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển kể cả với tư bản Nhà nước trong nước và tư bản Nhà nước với nước ngoài. Muốn vậy, phải có các chính sách và các hình thức đa dạng để thu hút vốn đầu tư của các nhà tư bản trong và ngoài nước thông qua phát triển các khu công nghiệp tập trung, các hình thức chế xuất, các hình thức liên doanh, liên kết. Ngoài ra, hiện nay ở nông thôn và đặc biệt ở vùng núi còn tồn tại khá nặng tính chất của nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Vì vậy, cần có chính sách thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hoá ở các vùng này, đặc biệt chú ý tới việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh lưu thông hàng hoá với các vùng phát triển trong nước. Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta Như đã nói, phân công lao động xã hội là của sản xuất hàng hoá, của phát triển kinh tế thị trường. Vì vậy quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta đòi hỏi phải đẩy mạnh phân công lại lao động xã hội. ở nước ta, đẩy mạnh phân công lao động xã hội cũng đồng nghĩa với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, CNH ở nước ta phải kết hợp chặt chẽ hai chiến lược CNH theo hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu. Để thực hiện chiến lược này, cần phải phân công lại lao động để phát triển những ngành, những lĩnh vực mà đất nước có lợi thế so sánh trong việc sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu. Trước mắt đó là các ngành nông nghiệp, công nghiệp dệt may, công nghiệp chế biến nông lâm, hải sản, công nghiệp lắp ráp điện tử và một số lĩnh vực khác. Thông qua việc phát triển và xuất khẩu những hàng hoá này, cần tranh thủ nhập được những công nghệ thích hợp để cải thiện trình độ công nghệ và kỹ thuật sản xuất hiện nay. Điều đó cho phép vừa đa dạng hoá ngành nghề, vừa từng bước đổi mới trình độ lao động trong nước phù hợp với trình độ quốc tế và khu vực. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường Đốí với thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ. Như đã biết, thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ là thị trường trên đó người ta mua bán vật phẩm tiêu dùng và dịch vụ. Hàng hoá tiêu dùng là những vật phẩm tiêu dùng như lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà ở, thuốc chữa bệnh, đồ dùng học tập … các loại hàng hóa dịch vụ như sửa chữa, du lịch, chữa bệnh .. Loại hàng hoá này không phải là sản phẩm vật chất nhưng có ý nghĩa hoàn thiện sản phẩm vật chất và thoả mãn nhu cầu văn hoá, tinh thần cho con người. Nền kinh tế hàng hoá càng phát triển, thị trường dịch vụ ngày càng tăng lên. Thị trường hang tiêu dùng và dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá. Vai trò đó thể hiện trên hai mặt: Một mặt, nó thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của con người, qua đó tái sản xuất ra sức lao động – nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất. Mặt khác, sản phẩm tiêu dùng và dịch vụ là kết quả, là “đầu ra” của quá trình sản xuất. Việc thực hiện nó là điều kiện để quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục. Hàng hoá bán được người sản xuất thu hồi vốn và có lợi nhuận để tiếp tục quá trình tái sản xuất. Ngược lại, hàng hoá không bán được, lúc đó tình trạng trì trệ, khủng hoảng diễn ra. Để phát triển thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ, cần giải quyết tốt hai vấn đề cơ bản sau đây: Một là, phải tăng quy mô hàng tiêu dùng và dịch vụ với chủng loại ngày càng phong phú và chất lượng ngày càng nâng cao. Nhu cầu hàng tiêu dùng và dịch vụ cho một đất nước có 70 triệu dân và mỗi năm tăng thêm hơn một triệu dân là rất lớn. Một mặt, đó là sức ép lớn đối với sản xuất trong điều kiện sản xuất thấp kém, sản phẩm tiêu dùng, dịch vụ chưa đủ đáp ứng tiêu dùng tối thiểu là vấn đề căng thẳng cho đất nước. Mặt khác, nhu cầu lớn về hàng tiêu dùng và dịch vụ là động lực phát triển kinh tế hàng hoá. Vì nhu cầu lớn tạo ra khả năng tăng cầu, mà tăng cầu là vấn đề trọng yếu trong kinh tế hàng hoá. Vì vậy, việc phát triển thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ đòi hỏi phải tăng dung lượng thị trường, tăng khối lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu về ăn, ở, mặc, đi lại, học tập, chữa bệnh … cho nhân dân. ở đây cần khai thác thế mạnh của đất nước về đất đai, rừng, biển, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng, chế biến để có nguồn hàng ngày càng lớn đáp ứng nhu cầu. Đồng thời, cùng với số lượng cũng phải chú ý tới chủng loại phong phú và nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao. Hai là, từng bước giảm giá cả hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ. Vì với một lượng thu nhập nhất định, nếu giá cả hàng hoá thấp, khả năng mua sản phẩm sẽ tăng lên, làm tăng dung lượng thị trường và ngược lại. Song đối với người sản xuất, người bán, việc giảm giá cả hàng hóa đặt ra một yêu cầu khác. Đối với họ, cái quan tâm là lợi nhuận. Điều đó có nghĩa là, giá cả hàng hoá phải bù đắp được chi phí và có lãi. Vì vậy giảm giá cả hàng hoá và có lợi nhuận là một mâu thuẫn đối với người sản xuất. Để giải quyết mâu thuẫn này, cần phải lựa chọn một trong hai phương án sau: Phương án thứ nhất là giảm chi phí sản xuất để làm cơ sở cho việc giảm giá. Trong trường hợp này, giá cả hàng hoá và chi phí đều giảm, nhưng chi phí sản xuất phải giảm nhiều hơn, do đó lợi nhuận vẫn đảm bảo. Phương án thứ hai là tăng khối lượng sản phẩm cung ứng trên thị trường để trong trường hợp giảm giá, lợi nhuận của một đơn vị hàng hoá bán ra ít hơn, nhưng tổng số hàng hóa bán nhiều hơn thì tổng lợi nhuận vẫn đảm bảo. Đương nhiên, tốt nhất là kết hợp cả hai phương án trên. Khi đó kết hợp được cả yêu cầu của người sản xuất và người tiêu dùng. đối với thị trường các yếu tố sản xuất. Như đã nói, thị trường các yếu tố sản xuất bao gồm thị trường vốn, thị trường sức lao động và thị trường các điều kiện vật chất khác cho quá trình sản xuất. Có thị trường này mới có các yếu tố để sản xuất ra hàng hoá, mới có hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ, hay mới có thị trường đầu ra. Số lượng, chất lượng, tính đa dạng của thị trường đầu ra do thị trường đầu vào quy định. Tuy nhiên, thị trường đầu ra cũng có ảnh hưởng tới thị trường đầu vào, kích thích tính tích cực của thị trường đầu vào. Hàng hoá đem bán ra trên thị trường yếu tố sản xuất có giá cả của nó. Tư liệu sản xuất có giá cả tư liệu sản xuất. Tiền vốn có giá cả là lợi tức. Muốn thực hiện tái sản xuất mở rộng thì vốn và tư liêu sản xuất cần nhận được một phần bổ sung từ giá trị sản phẩm thặng dư, tài sản phải được tham gia vào phân chia lợi nhuận. Hiện nay ở nước ta đang hình thành thị trường sức lao động. Người lao động có quyền chọn việc làm và nơi làm việc. Đảm bảo quyền làm chủ sức lao động của người lao động và thực hiện quyền tuyển chọn nhân công của người sử dụng sức lao động yêu cầu phải tính đúng, tính đủ giá trị sức lao động làm cơ sở cho việc xác đinh tiền lương. Tiền lương chính là giá cả sức lao động, có nhận được giá cả đó, người lao động mới đủ tiền mua hàng tiêu dùng và dịch vụ để đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Phải trả theo giá cả đó mới sử dụng sức lao động có hiệu quả. Sự hình thành rộng rãi thị trường sức lao động là đòi hỏi tất yếu của sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta. Một vấn đề quan trọng là thực hiện sự cân bằng giữa các loại thị trường Rõ ràng sự cân bằng chung giữa các loại thị trường là yêu cầu tất yếu trong quá trình phát triển thị trường. Nó cho phép xác lập mối quan hệ cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu, giữa hàng và tiền. Để tạo lập sự cân bằng giữa các loại thị trường cần giải quyết các vấn đề cơ bản sau: Thứ nhât: Cân xoá bỏ chế độ bao cấp trong phân phối sử dụng các yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng, dịch vụ chuyển chúng sang quan hệ hàng hoá - tiền tệ một cách hoàn toàn. điều này có nghĩa là toàn bộ nhân tố sản xuất, vật phẩm tiêu dùng dịch vụ đều được mua bán trên hai thị trường một cách tự do. Hiện nay ở nước ta, về cơ bản các yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng đã là hàng hoá. Tuy nhiên một số yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng, dịch vụ còn chưa được tính đúng, tính đủ giá trị của nó, đặc biệt là yếu tố đất đai. Đất đai thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, còn quyền sử dụng, chuyển nhượng, thừa kế giao cho người lao động. Chuyển nhượng đất đai từ người này sang người khác thực tế là bán quyền sử dụng đất. Do vậy, phải xác định giá cả ruộng đất. Cơ sở xác định giá cả ruộng đất là thu nhập do mảnh đất đó mang lại, đó chính là địa tô. Trong hoạt động kinh tế, địa tô có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Một mặt, nó làm cho người sở hữu ruộng đất có thu nhập. Mặt khác, nó yêu cầu người sử dụng ruộng đất có hiệu quả, tiết kiệm đất đai và áp dụng kỹ thuật thăm canh để tăng độ màu mỡ đất đai. Một vấn đề cấp bách hiện nay trong nông nghiệp là vấn đề tích tụ ruộng đất trong nông nghiệp. Những năm đổi mới, nông dân đã có quyền sử dụng, quyền chuyển nhượng, quyền thừa kế ruộng đất. Song, một mặt việc phân chia ruộng đất cho nông dân theo nguyên tăc bình quân:có gần, có xa, có tốt có xấu do ruộng đất trong nông thôn bị phân chia cho các hộ gia đình một cách manh mún. Điều đó gây trở ngại cho việc áp dụng tiến bộ khoa học trong nông nghiệp, thêm vào đó, quá trình phát triển ở nước ta trong những năm qua làm tăng trình độ của phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất, kinh doanh, xuất hiện xu hướng tích tụ ruộng đất. Tuy nhiên, xu hướng này đang gặp cản trở bởi mức hạn điền chật hẹp trong nông nghiệp. Vì vậy, bên cạnh tính tới vấn đề địa tô, cần có chính sách hợp lý tạo điều kiện cho sự vận động thông suốt của thị trường đất đai ở nước ta. Thứ hai: Phải tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả. Giá cả không thể áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính, mà nó được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người mua và người bán. Tự do giá cả không có nghĩa là cứ để mặc cho giá cả thị trường lên xuống mất ổn định. Sự mất ổn định giá một loại hàng nào đó, nhất là hàng hoá thuộc nhu cầu yếu phẩm sẽ tác động xấu đến cân bằng chung giữa các thị trường. Như vậy, tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả thì đồng thời phải bảo đảm sự bình ổn giá cả. Muốn bảo đảm sự bình ổn giá cả cần thiết phải đẩy mạnh sự phát triển sản xuất, tạo ra nguồn hàng dồi dào, phong phú; đồng thời, Nhà nước phải có lực lượng hàng hoá dự trữ và có biện pháp ổn định tiền tệ. Thứ ba: Phát triển thị trường ngoài nước,đẩy mạnh hoạt động ngoại thương Sẽ là sai lầm nếu muốn phát triển thị trường “đầu ra”, “đầu vào”, muốn đảm bảo sự cân bằng giữa các thị trường mà không chú ý đầy đủ tới thị trường nước ngoài, không chú ý tới ngoại thương. Đặc biệt trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật và thông tin, hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, thị trường ngoài nước càng có ý nghĩa quan trọng để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Thị trường ngoài nước, thông qua ngoại thương có tác động thúc đẩy và hỗ trợ thị trường trong nước phát triển. Ngược lại, thông qua ngoại thương, thị trường trong nước có thể nhanh chóng tiếp cận thị trường thế giới. Lịch sử phát triển kinh tế chỉ rõ là, ngoại thương dóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình chuyển kinh tế tự nhiên sang kinh tế thị trường. Không ngẫu nhiên mà các nhà kinh tế học thế kỷ XV – XVII lại đánh giá cao vai trò của ngoại thương. Họ ví ngoại thương như máy bơm, nội thương như ống truyền dẫn trong quá trình lam tăng của cải xã hội. Ngoại thương sẽ đảm bảo tái sản xuất mở rộng và nâng cao chất lượng của thị trường đầu vào và đầu ra. Thông qua nhập khẩu, nền kinh tế có được hàng hoá, khoa học – kỹ thuật hiện đại, thông tin, vốn, chất xám, những hàng tiêu dùng, dịch vụ để đáp ứng quá trình tái sản xuất trong nước. Thông qua hoạt động xuất khẩu, mà bán được hàng hóa ra nước ngoài, thu tiền về để phục vụ những nhu cầu phát triển kinh tế. Để phát triển thị trường ngoài nước, tạo điệu kiện mở rộng thị trường trong nước, đảm bảo sự thông suốt giữa các thị trường, cần thiêt phải thực hiện các nguyên tắc sau đây: Một là, phải thực hiện xuất siêu. Để có tiền cho tái mở rộng thị trường, hàng năm phải bán ra một số hàng lớn hơn số hàng mà ta mua vào. Muốn vậy cần phải xuất thành phẩm chứ không suất nguyên liệu. Phải chú ý khuyến khích phát triển nông nghiệp, công nghiệp tiểu thủ công nghiệp chế biến, đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để thu được giá trị cao của hàng xuất khẩu. Thực hiện thương nghiệp trung gian, cho phép mang tiền (vàng đôla và tiền mặt) đi lại tự do qua biên giớ để buôn bán ở các nước nhằm làm tăng nguồn tiền tệ của đất nước. Có chính sách bảo hộ hợp lý để khuyến khích các ngành kinh tế trong nước phát triển, thu hút công nghệ và khoa học kỹ thuật từ bên ngoài, ngăn chặn nhập những loại hàng hoá mà trong nước có thể sản xuất và đáp ứng được chu cầu tiêu dùng. Hai là, áp dụng nguyên lý lợi thế so sánh trong quan hệ trao đổi quốc tế. Các yếu tố tự nhiên thuận lợi phải được xem xét cụ thể trong mối quan hệ với các yếu tố kinh tế – xã hội và kỹ thuật ở cả trong nước và ngoài nước, từ đó có phương án tính toán chi tiết về từng mặt hàng và so sánh với trình độ quốc tế để xác đinh sản xuất và cung cấp cho thị trường thế giới loại hàng hoá nào đó của ta có lợi thế hơn. Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước. Để nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất thiết phải coi trọng vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước. Trong những năm đổi mới kinh tế vừa qua, ta đã dổi mới một bước vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, chuyển từ quản lý theo kế hoạch hoá tập trung sang sử dụng các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô để quản lý nền kinh tế. Những thành tựu mười năm đổi mới vừa qua về lĩnh vực này mới là bước đầu. Trong những năm tới, đặc biệt trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, cần thiết phải tiếp tục đổi mới các công cụ chính sách vĩ mô, đặc biệt là hệ thống tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ, chính sách phân phối thu nhập về kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội.Việc đổi mới này vừa phải theo nguyên tắc phù hợp với phương thức quản lý của nền kinh tế thị trường, đồng thời, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng mà đảng ta đã lựa chọn. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp và cải cách nền hành chính quốc gia. Nền kinh tế thị trường chỉ có thể hoạt động bình thường nếu có hệ thống luật pháp tương đối hoàn chỉnh và ngày càng được hoàn thiện. Trong điều kiện nước ta việc củng cố và tăng cường năng lực và hiệu lực của Quốc hội, ban hành các luật pháp còn thiếu, điều chỉnh bổ xung và hoàn thiện các luật pháp đã có sao cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và có tính đến sự phù hợp với thông lệ quốc tế, trên cơ sở quyền lực thống nhất, cần tăng cường tính độc lập tương đối và năng lực của các cơ quan tư pháp trong xử lý nghiêm minh và kịp thời những vi phạm pháp luật đối với các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội và dân cư. Những năm đổi mới nhà nước ta đã từng bước tập trung xây dựng hệ thống luật pháp. Tuy nhiên, đến nay hệ thống luật pháp vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ. Trong những năm tới, việc xây dựng hệ thống luật pháp đồng bộ và hoàn chỉnh có thể được coi như là một nhiệm vụ ưu tiên mà đất nước phải đầu tư. Đồng thời cần thiết phải đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia theo hướng đoạn tuyệt với các cơ chế bao cấp, thay thế bộ máy quản lý theo cơ chế tập trung, chuyển sang quản lý theo phương thức công nghiệp và cơ chế thị trường để đảm bảo sự phù hợp và tạo điều kiện cho việc tiếp tục đổi mới kinh tế ở nước ta. Xây dựng một Nhà nước vững mạnh thể hiện được các tiêu chuẩn sau: Trung thành với chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với lợi ích dân tộc; Trong sạch về phẩm chất đạo đức; cần kiệm liêm chính chí công vô tư; có năng lực chuyên môn, có uy tín đối với chủ doanh nghiệp và nhân dân trong việc thực hiện tốt các chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với KTTT. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, một điều kiện cho sự phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa Một nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa được coi là định hình khi nó đạt được trình độ KTTT hỗn hợp hay hiện đại, ngang với trình độ các nước có nền kinh tế phát triển. Một nền kinh tế như vậy chỉ có thể dựa trên cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, tương ứng với trình độ nền văn minh có sự giao thoa giữa văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Với tư cách là một điều kiện của KTTT định hướng XHCN, cơ sở vật chất kỹ thuật đó phải được thể hiện thông qua CNH, HĐH và tính hiện thực của nó chỉ có được khi sự nghiệp CNH, HĐH thành công ở nước ta c. kết luận Trong thời đại ngày nay, bất cứ một nền kinh tế nào đều là nền kinh tế thị trường được vận hành theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường có vai trò rất lớn khắc phục được những hạn chế của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu đồng thời có tac dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất và cải thiện đời sống. Cùng với xu thế mở cửa và hội nhập của nền kinh tế thế giới đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tìm cho mình một đường lối chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn để hoà nhập với nền kinh tế thế giới, khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế đưa nền kinh tế đất nước phát triển nhanh chóng và ổn định, nâng cao đời sống của nhân dân và vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. Do đó, Đảng và Nhà nước ta lưa chọn con đường phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất phù hợp. Nó vừa phát huy được ưu thế của nền kinh tế thị trường là chấp nhận cạnh tranh, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, đồng thời còn có sự điều tiết quản lý của Nhà nước để khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường và đưa nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thực tiễn đất nước ta, từ một nước mà nền kinh tế yếu kém cả về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và kiến trúc thượng tầng, chưa trải qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản nên việc xây dựng nền kinh tế thị trường gặp không ít khó khăn. Sự nhận thức đúng đắn bản chất của kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội còn mờ nhạt chưa rõ ràng. Cho nên để xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần phải nghiên cứu sâu bản chất của kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đê từ đó rút ra các giải pháp xây dựng và phát triển một mô hình kinh tế đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta. Tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin. – Tập I – NXB Giáo dục- 1998 Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin. – Tập II– NXB Giáo dục- 1998 Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX Tạp chí Kinh tế & Phát triển đề án kinh tế chính trị Đề cương sơ bộ Đề tài: Phân tích các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam Lời nói đầu Nội dung Sự cần thiết khách quan phải hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đặc điểm cơ bản của kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp Kinh tế thị trường không chỉ tồn tại dưới chủ nghĩa tư bản mà tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau cho nên CNXH vẫn có thể sử dụng KTTT Điều kiện tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá Ưu điểm của kinh tế thị trường Đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự cấp, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường. .Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Dựa trên chế độ phân phối đa dạng bao gồm các nguyên tắc phân phối theo kiểu CNXH với phân phối theo kiểu KTTT. Trong đó, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân phối qua phúc lợi tập thể và xã hội làm chủ đạo. Kết hợp hài hoà văn hoá dân tộc truyền thống với văn hoá hiện đại có chọn lọc. Trong, đó lấy văn hoá dân tộc truyền thống làm gốc. Không dựa trên cơ cấu kinh tế khép kín, mà dựa trên cơ cấu kinh tế mở, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, song phải đảm bảo độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua bản chất và vai trò quản lý của Nhà nước. Các giải pháp hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta Trước hết cần đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu, tạo điều phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trườngh phân công lại lao độngTiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước. xã hộXây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, một điều kiện cho sự phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp và cải cách nền hành chính quốc gia. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, một điều kiện cho sự phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34598.doc
Tài liệu liên quan