Đề án Phân tích cụ thể những giải pháp đầy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI

KẾT LUẬN Xuất khẩu hàng hoá có một vai trò vô cùng quan trong đối với một nền kinh tế thực hiện mạnh mẽ, góp phần đưa nền kinh tế quốc gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, phù hợp với xu thế chung về tính toàn cầu hoá nền kinh tế ngày nay. Xuất khẩu hàng hoá ngày càng khẳng định là hướng đi đúng là mục tiêu hàng đâu cảu một nền kinh tế mở. Do vậy Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá nên đã đề ra một loạt các giải pháp khuyến khichs mạnh xuất khẩu đối với các doanh nghiệp trong nước cũng như đối với các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Nước ta đã trải qua hơn 10 năm thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế và cũng thời gian này, hàng hoá nước ngoài ngày càng thâm nhập vào thị trường nước ta, hàng hoá của chúng ta cũng vươn mạnh ra thị trường bên ngoài. Để đạt được hiệu quả cao khi thời gian vào thương mại quốc tế, tất yếu đòi hỏi phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của nước nhà. Hơn 10 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chúng ta đã thu hút một nguồn vốn đáng kể từ bên ngoài vào xây dựng và phát triển kinh tế, các doanh nghiệp FDI có những ưu thế trội hơn so với các doanh nghiệp trong nước trong lĩnh vực phát triển xuất khẩu. Những ưu thế về vốn, thiết bị máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến, ưu thế về thâm nhập thị trường . Khi được kết hợp những chính sách ưu tiên khuyến khích mạnh xuất khẩu của Đảng và Nhà nước, sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Với những chủ trương, chính sách khuyến khích mạnh xuất khẩu của Đảng và Nhà nước với những tiềm năng sẵn có trong nước cùng với tiềm năng vôngân sách có của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, chúng ta hy vọng hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam sẽ đạt được những kết quả lớn hơn trong những năm tới, đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ta trong thế kỷ 21.

doc42 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phân tích cụ thể những giải pháp đầy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cao (trừ hai năm 1991và 1998 ) Bảng 2.1: Tình hình xuất khẩu thời kỳ 1991-2000 Năm Kim ngạch (triệu USD) Tốc độ tăng (%) 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2.087 2.580 2.985 4.054 5.448 7.255 9.185 9.361 11.523 15.308 -13,2 23,7 15,7 35,8 34,4 33,2 26,6 1,9 23,1 23,9 Nguồn: Niên giám thống kê 1998 và Báo cáo của bộ thương mại. Tính chung thời kỳ 1991-1999, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 20,4%, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế (đạt khoảng 7,5%). Kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu người tăng nhanh, năm 1991 mới đạt 30 USD, năm 1995 đạt 73USD, năm 1997 là 119 USD, năm 1999 là 150 USD và đến năm 2000 con số này đã tăng lên 148 USD, vượt qua ngưỡng một nước có nền ngoại thương kém phát triển (170 USD). Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có sự chuyển biến tích cực phù hợp theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Tỷ trọng của nhóm các mặt hàng đã qua chế biến tăng tỷ trọng của các mặt hàng thô và sơ chế giảm dần. Bảng 2.2. Cơ cấu hàng xuất khẩu thời kỳ 1991-1991(%) Mặt hàng 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Công nghiệp nặng và khoáng sản 33,4 37 34 28,8 25,3 28,7 28 23,8 25 Công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp 14,4 13,8 17,6 23,1 28,4 29 36,7 35,8 36,8 Nông, lâm, thuỷ sản 52,2 49,5 48,4 48,1 46,3 42,3 35,3 40,4 38,2 Nguồn: Niên giám thống kê 1998 và báo cáo Bộ thương mại Số liệu bảng 2.2 cho thấy, tỷ trọng nhóm hàng nông lâm – thuỷ sản, khoáng sản và hàng công nghiệp nặng bình quân từ 79% thời kỳ 1991-1995 xuuống còn 64,6% thời kỳ 1996-1999, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp từ 21% lên 35,4%. Điều đó phản ánh cơ cấu xuất khẩu Việt Nam đã được cải thiện theo hướng tăng dần từ chiều sâu và chuyên môn hoá theo phân công lao động xã hội, phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng kinh tế, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, phù hợp với tiến trình hội nhập và tăng trưởng ổn định, làm trụ cột cho chiến lược xuất khẩu của Việt Nam trong hiện tại cũng như trong tương lai, đó là Dầu thô, gạo, cà phê, cao su, hải sản, dệt may, giầy dép và than đá. (bảng 2). Thị trường xuất khẩu của nước ta đã chuyển biến kịp thời và không ngừng được mở rộng. Từ năm 1991, sau khi thị trường truyền thống là Liên Xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu tan rã, Chấu á là thị trường xuất khẩu chính của nước ta, chiếm trên 60% tổng kim ngạch. Tỷ trọng xuất khẩu sang các khu vực Âu – Mỹ đều tăng khá nhanh, nhất là thị trường các nước EU và Mỹ.trọng thị trường Tây Âu tăng từ 6% năm 1991 lên 24% năm 1999, còn tỷ trọng thị trường Châu Mỹ tăng 0,3% năm 1991 lên 5,3% năm 1999. Sự chuyển dịch cơ cấu thị trường này mang tính tích cực và phù hợp với chất lượng đa phương hoá thị trường đa dạng hoá các mặt hàng của ta. Điều này cũng cho thấy khả năng tham gia thị trường thế giới của ta đang tăng lên. Trong thời gian qua, sự đổi mới về chính sách, cơ chế xuất khẩu theo hướng tháo gỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh đã thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc mọi thành phàan kinh tế khác nhau tham gia hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tăng trưởng nhanh hơn các doanh nghiệp trong nước với kim ngạch từ 161 triệu USD năm 1994 lên 2,577 triệu USD năm 1999. Tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI cũng tăng dẫn, 4% năm 1994 lên 19% năm 1997 và 22,4% năm 1999 cũng tăng dần, 4% năm 1994 lên 19% năm 1997 và 22,4% năm 1999. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế, tỷ trọng chiếm tới 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, hàng hoá Việt Nam đã có mặt tại nhiều thị trường lớn, một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao như dệt may, dầu thô, da dày, cao sư… Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng không ổn định do phụ thuộc quá nhiều vào “thời tiết” của từng thị trường và do khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam vẫn còn yếu kém. 2. Những biện pháp được Nhà nước thực hiện nhằm thúc đẩy mạnh xuất khẩu. 2.1. Những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đã mở đường cho hoạt động xuất khẩu phát triển: Từ chủ trương đổi mới của Đảng vào năm 1996, một loạt các biện pháp và chính sách kinh tế đã được Nhà nước triển khai thực hiện theo thông qua các văn bản pháp luật và tiến hành tổ chức loại nền sản xuất trong nước, xây dựng các mối quan hệ quốc tế theo hướng nền kinh tế mở. Trong thời kỳ mở cửa, nhiều chủ trương của Đảng đã được Nhà nước ta thể chế bằng pháp luật, tạo ra hành lang pháp lý cho các thành phần kinh tế trong nước và quốc tế tham gia vào phát triển kinh tế nước nhà. Văn bản pháp luật này vừa mang tính thông thoáng, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế nên tích cực hỗ trợ hoạt động xuất khẩu phát triển. Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay,nnmootj mặt tổ chức lại các đơn vị kinh tế trong nước, theo hướng kinh tế thị trường và cho phép mọi thành phần của xí nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh, kêu gọi và khuyến khích FDI tại Việt Nam, từng bước nới lỏng quản lý xuất khẩu, cho đến nay đã cho phép các doanh nghiệp trong nước tham gia hoạt động xuất khẩu theo đăng ký kinh doanh của mình. Mặt khác, Nhà nước ta đã lần lượt tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển, tạo ra thị trường rộng lớn để đẩy mạnh xuất khẩu. 2.2, Nhà nước ta tăng cường đầu tư, phát triển sản xuất và nhân lực trong nước để làm cơ sở đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu: Thông qua các công trình kinh tế lớn như: Sản xuất lương thực và thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và công trình sản xuất hàng xuất khẩu, nhằm thực hiện một chiến lược dài hạn của Đảng và Nhà nước ta là công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. - Về chương trình lương thực và thực phẩm, do được Đảng và Chính phủ quan tam đầu tư phát triển từ hệ thống thuỷ lợi, đến cơ sở hạ tầng như đường giao thông, đường điện, khai hoang mở rộng diện tích gieo trồng… từ việc đầu tư để sử dụng các loại giống cho năng suất cao đến đầu tư cho gia công chế biến … những cố găng to lớn đó đã được đền đáp xứng đáng, kết quả chỉ sau 3 năm đổi mới, cả nước ta không những có đủ lương thực cho tiêu dùng trong nước mà còn có dư để xuất khẩu. - Về chủ trương sản xuất hàng tiêu dùng: Khi thực hiện đường lối đổi mới, đây là lĩnh vực được Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển trong một thời gian ngắn, do có nhiều doanh nghiệp triển khai thực hiện. Trong đó có cả các doanh nghiệp FDI cũng hưởng ứng nênhh cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng đa dạng và phong phú, giá cả hàng hoá ổn định thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội giúp cho đất nước tiết kiệm được nhiều ngoại tệ, giành ngoại tệ nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến để đầu tư cho sản xuất. - Chủ trương hàng xuất khẩu: Chủ trương đầy mạnh sản xuất hàng sản xuất để Việt Nam có điều kiện thuận lợi tham gia vào thương mại quốc tế ngày càng có hiệu quả hơn. Trải qua hơn 10 năm đầu tư và phát triển, chủ trương kinh tế này đã thu được những kết quả rất đáng phấn khởi, kim ngạch xuất khẩu ngày một gia tăng, giúp cho nước nhà thu về những khoản ngoại tệ lớn để phát triển đất nước. Trong bất kỳ lĩnh vực nào kinh tế nào, yếu tố con người vẫn giữ vai trò quan trọng trong quyết định đến thắng lợi của các chơng trình kinh tế được đặt ra, Việt Nam với dân số gần 80 triệu người, đây vừa là thị trường tiêu thụ, vừa là thị trường nhân lực quan trọng của khu vực và thế giới. Khi bước vào xây dựng một nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta gấp rút đầu tư cho việc đào tạo nhân lực, đào tạo nhân tài để đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế trong thời kỳ mở cửa và hội nhập. Cán bộ của chúng ta đã từng bước nắm vững được kiến thức, tôi luyện trên thương trường đã góp phần đắc lực vào việc phát triển kinh tế đất nước, phát triển hoạt động xuất khẩu của nước nhà. II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu trong doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. 1. Những thành công đã đạt được. 1.1. Tổng quan về kết quả hoạt động xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI. Kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đến nay đã được hơn 13 năm và trong khoảng thế giới này đã có hàng nghìn nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn ở nước ta, họ xây dựng cơ sở sản xuất tại nước ta và làm ra những sản phẩm để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu. Bảng 2.3: Số dự án đầu tư vào Việt Nam 1997-2000 1997 1998 1999 2000 Tổng số dự án cả nước (dự án) 345 275 278 321 Trong đó vốn đăng ký (triệu USD) 4.649,1 3.897,4 1.696 1.907 Và vốn pháp định (triệu USD) 2.334,1 1.795,2 820 953 Nguồn: Niên giám thống kê 1999 - Báo cáo tình hình thực hiện năm 2000- vụ đầu tư - Bộ thương mại. * Năm 1997, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt được những kết quả sau: Tổng dự án cả nước: 345 dự án Tổng số vốn đăng ký đạt: 4.649,1 triệu USD Trong đó vốn pháp định: 2.334,1 triệu USD Hoạt động xuất khẩu đạt: 2.700,0 triệu USD Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực có FDI năm 1997 so với năm 1996 tăng 42,4%, trong đó xuất khẩu tăng 103,56%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực có FDI chiếm 20,69% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước, trong đó xuất khẩu chiếm 17,41% xuất khẩu cả nước. Các chỉ số về hoạt động xuất nhập khẩu năm 1997 đều tăng so với năm 1997 và chủ trương kiểm soát nhập khẩu đã làm lành mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của nước nhà và góp phần ổn định nền kinh tế đất nước. Năm 1997 đánh dấu lần đầu tiên khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra tại khu vực Đông Nam á, nhưng tác động đáng kể tới nước ta. Xuất khẩu của khu vực FDI tiếp tục tăng trưởng mạnh đã góp phần quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu của nước nhà. * Năm 1998 đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt những kết quả sau: Tổng dự án cả nước: 275 dự án Tổng số vốn đăng ký đạt: 3.897,4 triệu USD Trong đó vốn pháp định: 1.795,2 triệu USD Theo báo cáo của Bộ thương mại ngày 20/3/1999 hoạt động xuất khẩu đạt 1.983,0 triệu USD. Chỉ số tăng trưởng của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài tăng 15,5%, trong đó xuất khẩu tăng gần 24% so với năm 1997. Qua số liệu nói trên cho thấy ảnh hưởng rất đáng kể của cơn bão tài chính tiền tệ trong khu vực đã tác đoọng đến nền kinh tế nước ta nói chung va hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta nói riêng, làm cho chỉ số tăng trưởng chỉ tăng ở mức thấp so với những năm vừa qua. Bên cạnh việc giảm sút trên thì khu vực FDI hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục tăng trưởng khá, trong đó nhập khẩu được kiểm soát và xuất khẩu tăng trưởng mạnh (gần 24%) . Đây là sự đóng góp đáng kể của đầu tư nước ngoài voà phát triển xuất khẩu nước nhà. * Năm 1999 là năm Nhà nước ta ban hành nhiều văn bản khuyến khích mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, từ việc đơn gainr các thủ tục hành chính đến việc cho phép các doanh nghiệp này có một điều kiện hoạt động rộng hơn như được phép mua hàng trong nước để chế biến hàng xuất khẩu, các điều kiện về lao động cũng không thoáng hơn,điều kiện về thuế cũng khuyến khích hơn đối với việc sản xuất hàng xuất khẩu. Năm 1999, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt được những kết quả sau: Tổng số dự án cả nước: 278 dự án Tổng số vốn đăng ký đạt: 1.696 triệu USD Trong đó vốn pháp định: 820 triệu USD Hoạt động xuất khẩu đạt: 2.590 triệu USD Sang năm 1999, số dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tuy có nhỉnh hơn đôi chút nhưng tổng số vốn đăng ký lại giảm đi rất nhiều, chưa được một nửa so với số vốn của năm 1998. Điều này chứng tỏ quy mô của dự án là nhỏ. Nhưng nếu nhìn vào kết quả của hoạt động xuất khẩu thì ta lại thấy một điều rằng kim ngạch xuất khẩu tăng lên tương đối nhiều. Điều này cho thấy sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á đã bắt đầu giảm bớt sự ảnh hưởng đến nền kinh tế của nước ta đặc biệt là khu vực FDI. * Năm 2000, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt được kết quả sau: Tổng dự án cả nước: 321 dự án Tổng số vốn đăng ký đạt: 1.907 triệu USD Trong đó vốn pháp định: 935 triệu USD Năm 2000, tổng số vốn dự án cả nước lại tiếp tục tăng so với năm 1999, kim ngạch xuất khẩu cũng tăng theo. Đây có thể là kết quả của việc ban hành một loạtcc văn bản khuyến khích mạnh mẽhd xuất khẩu củacc doanh nghiệp FDI được đưa ra vào năm 1999. Đồng thời năm 2000 cũng là năm sửa đổi luật đầu tư nước ngoài, có nhiều thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư nên kết quả có phần khả quan hơn. Biểu đồ: Kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam năm 1997-2000 8000 7000 6000 5000 4000 3000 2000 1000 0 1997 1998 1999 2000 1.2. Cơ cấu hàng xuất khẩu Theo thống kê của bộ kế hoạch và đầu tư, nếu xem xét về cơ bản nhóm hàng xuất khẩu trong khối FDI thì: + Hàng xuất khẩu chủ yếu là hàn công nghiệp nhẹ: 2.656,9 triệu USD chiếm 52,9% trị giá hàng công nghiệp xuất khẩu và chiếm khoảng 23,6% trị giá xuất khẩu chung của khối. + Hàng nông lầm, hải sản chế biến mà ta đang khuyến khích đầu tư sản xuất để xuất khẩu mới chỉ đạt 371,5 triệu USD chiếm tỷ lệ thấp, chỉ bằng 3,3% giá trị xuất khẩu của khối và bằng 7,4% trị giá xuất khẩu hàng công nghiệp. Trong khi đó hàng công nghiệp nhẹ xuất khẩu chiếm tới 52,9% và công nghiệp nặng xuất khẩu chiếm 17,7% trị giá xuất khẩu của khối. Theo số liệu ban đầu “Báo cáo tình hình thực hiện năm 2000 các doanh nghiệp FDI ”của vụ đầu tư - bộ thương mại về một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của khu vực có FDI năm 1999 và năm 2000 như sau: (cả khu chế xuất). Bảng 2.4: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của khu vực có FDI năm 1999 và 2000. Đơi vị tính: Triệu USD Mặt hàng TH 09 tháng /1999 TH 09 tháng /2000 Tỷ lệ 2000/1999 Tổng số 1.855.843 2.421.665 130,5 Trong đó Điện tử 447,060 528,401 118,1 Giầy các loại 449,069 494,792 110,2 May 158,852 201,193 126,4 Hàng dệt 76,261 92,117 120,8 Điện dân dụng 49,507 75,256 150 Ôtô và phụ tùng 47,530 67,081 139,6 Mì chính 42,207 44,515 107,1 Chế tác đá quý 24,385 37,831 155,1 Xe đạp 29,620 35,442 155,1 Túi xách 28,646 32,786 114,7 Gỗ chế biến 23,731 23,967 101,3 Văn phòng phẩm 20,566 22,350 108,2 Cao su chế biến 11,780 11,679 99,2 Gạo chế biến 3,912 10,792 119,6 Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam không làm tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước mà làm thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu, làm tăng tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghiệp, có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đã góp phần tạo ra những mặt hàng mới trong danh mục hàng xuất khẩu của Việt Nam như: ô tô và phụ tùng, chế tác đá quý, văn phòng phẩm, .. làm tăng kim ngạch những mặt hàng đã có trong danh mục hàng xuất khẩu của ta. 1.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan qua các năm 1998 và 1999: * Năm 1998 xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt 1.983 triệu USD (không kể dầu khí) thì xuất khẩu sang thị trường Châu á là lớn nhất, cụ thể là: - Xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và các nước ASEAN là 886,9 triệu USD chiếm 44,7%. Các nước ASEAN đạt 559,4 triệu USD, chiếm 28% Nhật Bản đạt 327,5 triệu USD, chiếm 16,5% EU đạt 456 triệu USD, chiếm 360% Nga đạt 4 triệu USD Hoa kỳ đạt 107,4 triệu USD, chiếm 5,4%. Các nước khác (bao gồm các châu lục) 528,4 triệu USD, chiếm 26%. * Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI (không kể dầu thô) là 2.590 triệu USD thì cơ cấu thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp cũng không thay đổi lớn so với năm 1998. Thị trường xuất khẩu chủ yếu vẫn là các nước Châu á mà chiếm lớn nhất vẫn là thị trường Nhật Bản và các nước ASEAN: + Nhật Bản và các nước ASEAN: 975 triệu USD, chiếm 37,6% kim ngạch của khối (không kể dầu thô). Trong đó: - Nhật Bản: 428 triệu USD, chiếm 16,5% - ASEAN: 547 triệu USD, chiếm 21,1% - Các nước EU: 684 triệu USD, chiếm 26,4% - Mỹ: 127 triệu USD, chiếm 5% - Các nước khác: 791 triệu USD, chiếm 30,5% Như vậy xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI sang Nhật Bản và các nước ASEAN kim ngạch tuy có tăng 10% về giá trị tuyệt đối so với năm 1998 ( 975 triệu /886 triệu) và chiếm phần lớn kim ngạch của khối (37,6%), nhưng thị phần lại giảm (từ 44% xuống 37,6%). Xuất khẩu sang Nhật Bản vẫn không thay đổi về thị phần (vẫn chiếm 16,6%). Kim ngạch xuất khẩu sang EU tăng gần 50%. Xuất khẩu sang Nga và Mỹ cũng tăng hơn năm trước, nhưng chậm. 2. Những biện pháp được doanh nghiệp FDI thực hiện đẩy mạnh xuất khẩu. 2.1. Các biện pháp về tổ chức hoạt động xuất khẩu. 2.1.1. Công tác nghiên cứu thị trường. Thứ nhất, phải thành lập bộ phận chuyên môn có chức năng nghiên cứu thị trường và tiếp thị. Nó có thể là một phòng độc lập hoặc là một tổ chức phòng kế hoạch tổng hợp. Nguồn nhân lực của bộ phận này có thể là tuyển mới hoặc là nhân viên của các phòng ban với yêu cầu là phải có những kiến thức cơ bản về công tác marketing đồng thời am hiểu và có kinh nghiệm trên thương trường quốc tế. Thứ hai, công tác lựa chọn thị trường nên giao trực tiếp cho bộ phận nghiên cứu thị trường hoặc phòng kế toán tổng hợp thực hiện với sự tham gia của các cán bộ bán hàng và các phòng kinh doanh. Thứ ba, mỗi bộ phận, mặt hàng, ngành hàng, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp cũng cần có những yêu cầu cụ thể đặc trưng trong việc nghiên cứu thị trường. 2.1.2. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, phương thức kinh doanh. Trong công tác xuất khẩu, các doanh nghiệp cần phải đa dạng hoá mặt hàng trên cơ sở mặt hàng chuyên môn. Đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu góp phần khai thác tôi đa nhu cầu, tăng khả năng kinh doanh và mở rộng thị trường. 2.1.3. Công tác cháo hàng, lựa chọn nhà cung ứng. Các doanh nghiệp cần chut động nghiên cứu nhu cầu thị trường trong nước để gọi chào hàng sớm hơn, từ đó có thể nhận được nhiều thư báo giá hơn là những nhà cung ứng tiềm năng, không nên thờ ở với họ để khi có kế hoạch nhập khẩu, doanh nghiệp có thể gọi chào hàng tới họ một cách nhanh nhất. 2.1.4. Công tác đàm phán giao dịch Đây là một công tác rất quan trọng, đòi hỏi cán bộ thực hiện vừa phải biết nghiệp vụ xuất khẩu vừa phải hiểu chuyên môn, giỏi ngoại ngữ, hiểu biết rộng nhanh nhạy. Trong đàm phán, sách lược chung là dấu kín bối cảnh bản thân, thăm dò, tìm hiểu hoàn cảnh đối phương, thời gian đàm phán cần được cân nhắc theo từng cuộc đàm phán, quan sát thái độ của đối phương và sử dụng phương pháp điểm chết để quyết định. 2.2. Các biện pháp hỗ trợ và phục vụ hoạt động xuất khẩu: 2.2.1. Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả: Một số biện pháp khái thác vốn có hiệu quả như: - Khai thác nguồn vốn từ liên doanh, liên kết. Đây là biên pháp tăng vốn rất nhanh. Với một số thương vụ lớn, doanh nghiệp có thể kêu gọi các doanh nghiệp thương mại, các tổ chức khác cùng góp vốn kinh doanh. Ngoài ra doanh nghiệp có thể kết hợp với các đối tác trong và ngoài nước, với các đơn vị tư nhân hay các doanh nghiệp Nhà nước. - Quan hệ chặt chẽ với các tổ chức tín dụng, tận dụng, tận dụng các điều kiện vay vốn với lãi suất ưu đãi của các tổ chức này. - Thực hiện mua chịu hoặc các biên pháp giãn thời nhanh chóng đối với những khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, các doanh nghiệp cần tăng vòng quay của vốn. Muốn vậy phải tổ chức tốt quá trình kinh doanh. Mặt khác cần tăng cường theo hướng tạo cơ chế, tạo nguồn vốn cho các hoạt động đồng thời tạo quy chế cho quản lý để đảm bảo thực hiện bảo toàn vốn, nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt động. Thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí, thu hồi nhanh công nợ để tăng sự linh hoạt của đồng vốn. 2.2.2. Củng cố, thiết lập mối quan hệ với bạn hàng, với các cơ quan có liên quan. Trong thời buổi cạnh tranh, có được bạn hàng là rất khó, duy trì mối quan hệ còn khó hơn. Điều cốt yếu giành chiến thắng trên thương trường hiện nay là có sự tin tưởng, sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các bạn hàng, làm ăn có uy tín. Muốn vậy thì phong cách kinh doanh, cách cư sử với bạn hàng và khách hàng cũng phải thể hiện chữ tín, giúp đỡ và đảm bảo lợi ích cho bạn hàng một cách sòng phẳng kể cả hy sinh một phần lợi ích của mình, không vì lợi ích trước mắt mà bỏ đi cả một mối quan hệ lâu dài, mất nhiều thời gian và công sức mới gây dựng được. Tuy nhiên cũng cần đánh giá tương lai triển vọng của các bạn hàng, khách hàng cũ từ đó cần tập trung coi trọng mối quan hệ voà nhất để đem lại hiệu quả trong hợp tác kinh doanh cả về hiện tại và lâu dài. 2.2.3. Nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Uy tín của doanh nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng tạo thuận lợi cho việc thiết lập các quan hệ kinh doanh lâu daì trong việc nhận được các đơn hàng hợp đồng uỷ thác, các hoạt động dịch vụ có liên quan. Muốn vậy, doanh nghiệp phải thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, ban lãnh đạo doanh nghiệp nên quan tâm hơn, chỉ đạo cụ thể hơn đến từng thương vụ kinh doanh, xử lý linh hoạt kịp thời các tình huống phát sinh. Mỗi cá nhân, mỗi bộ phận trong doanh nghiệp đều phải thấy rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình, phòng mình, gắn bản thân vào hoạt động của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường hiện nay, doanh nghiệp cần sử dụng các hoạt động quảng cáo, khuếch trương để tăng cường uy tín của mình, tổ chức quảng cáo về các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp, các thành tựu đã đạt được, tạo dựng hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước. 3. Một số hạn chế, nguyên nhân trong việc tiến hành xuất khẩu. 3.1. Về quản lý Nhà nước. * Về nhận thức: Chưa thấy hết tầm quan trọng của việc phải nâng cao nhanh chóng mức sống của nội dung lên có liên quan như thế nào đối với vận mệnh đất nước, nên không toàn tâm toàn ý lo cho mục tiêu này. Chưa thấy hết ý nghĩa của đầu tư (đi sâu hơn là xuất khẩu ) có quan hệ thế nào với việc nâng cao nhanh chóng mức sống của nhân dân, vẫn ỷ lại vào tiềm năng lao động, đất đai. Điều mà giờ đây không còn là lợi thế tuyệt đối nửa bởi sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, của nền kinh tế tri thức. Khi Khoa học công nghệ đã trở thành một yếu tố của lực lượng sản xuất thì chỉ có con người với hàm lượng khoa học cao mới là lợi thế lớn nhất của các quốc gia. * Về quản lý, điều hành: Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài chưa hoàn thiện, liên tục được bổ xung sửa đổi. Sự thay đổi của pháp luật và thể chế quản lý đã tạo ra tâm lý trông chờ, hoang mang cho các nhà đầu tư. Từ đó dẫn tới hoạt động sản xuất kinh doanh ở khu vực đầu tư nước ngoài giảm khó và kéo theo hoạt động xuất khẩu cũng giảm théo. * Về cơ chế điều hành xuất khẩu: Cơ chế điều hành xuất khẩu của Việt Nam còn rất nhiều điểm chưa hợp lý làm cản trởhd xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI. Một mặt, các chính sách đề cao việc đẩy mạnh xuất khẩu nhưng những hàng rào thuế quan lại bảo hộ sản xuất trong nước, thay thế hàng nhập khẩu và có phần mâu thuẫn với chiến lược hướng về xuất khẩu. * Về thủ tục hành chính hải quan: Vấn đề thủ tục hành chính vẫn còn nhiều rườm rà, vẫn luôn là vấn đề bức xúc chưa thể giải quyết một sớm, một chiều. Trong hoạt động xuất khẩu cũng vậy, vấn đề càng trở nên khó khăn hơn khi áp dụng với những nhà đầu tư nước ngoài, những người đã quen với tác phong công nghệp nhanh, gọn, đơn giản. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến cho tình hình xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI chưa tương xứng với tiềm năng của nó. * Cơ sở hạ tầng thấp kém: Trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, chỉ có viễn thông là ở mức tương đối hoàn thiện. Các yếu tố khác như đường bộ, đường sắt, sân bay, cầu cảng, các phương tiện vận tải… hầu như chưa đáp ứng được các nhà đầu tư thiếu thiện nghi và đắt đỏ vẫn là thực trạng của cơ sở hạ tầng Việt Nam. Những yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của nhà đầu tư cũng như ảnh hưởng đến giá thành của sản phẩm làm ra. * Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp đã ảnh hưởng không ít đến chính sách lựa chọn sản phẩm xuất khẩu. Những điều này phần nhiều là do cơ chế, chính sách của Việt Nam chưa hợp lý. 3.2. Về phía các doanh nghiệp. * Mặc dù có nhiều lợi thế so sánh so với các doanh nghiệp nội địa nhưng những năm qua, xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của nó. Điều này là do khó khăn cơ bản về cơ cấu thị trường. Cũng như cơ cấu thị trường xuất khẩu của các nước, cơ cấu thị trường của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay cũng đang mất cân đối nghiêm trọng. Thị trường xuất khẩu của khu vực có FDI có xu hướng mạnh các nước trong khu vực, các nước Châu á, ASEAN, Nhật, các nước NICs còn Châu ÂU và Châu Mỹ chiếm tỷ trọng nhỏ. Chính vì vậy khi cuộc khủng hoảng tài chính Châu á xảy ra, xuất khẩu ở khu vực có vốn FDI cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. * Các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam chưa phát huy được tiềm năng của doanh nghiệp mình, đó là tiềm năng về khoa học công nghệ, về lợi thế cạnh tranh… Phần III: Một số giải pháp trong việc đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam trong thời gian tới I. Các giải pháp từ phía Nhà nước. 1. Quán triệt quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế đối ngoại. Quan điểm chủ đạo về phát triển kinh tế đối ngoại đã được đại hội Đảng lần thứ VIII của Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá và đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển ”. Quan điểm chủ đạo này có thể cụ thể hoá thành những nội dung sau: * Đảm bảo nguyên tắc độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Nguyên tắc của sự hội nhập là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, giữa phát triển quan hệ kinh tế cùng có lợi và bảo vệ an ninh chính trị với độc lập chủ quyền quốc gia. Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII đã chỉ rõ: Mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, giải quyết các chanh chấp bằng thương lượng, bảo đảm ổn định bình đẳng và phát triển. * Khai thác có hiệu quả những lợi thế trong phân công lao động quốc tế, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. * Đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại phù hợp với cơ chế thị trường, trên nguyên tắc bình đẳng và các bên cùng có lợi. * Đa dạng hoácác hoạt động kinh tế đối ngoại, phù hợp với điều kiện cụ thể của nền kinh tế trong nước và quốc tế. * Nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trên cơ sở phát huy tác dụng kinh tế đối với nền kinh tế quốc dân và đời sống xuất khẩu. * Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Để giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế cần phải đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹ lãnh thổ và cùng có lợi. Công tác an ninh quốc phòng phải tạo thuận lợi cho viện mở rộng kinh tế đối ngoại. Ngược lại hoạt động kinh tế đối ngoại phải đảm bảo độc lập chủ quyền và an ninh quốc phòng. Mặt khác , hoạt động kinh tế đối ngoại chỉ được mở rộng và phát triển trên cơ sở quan tâm đầy đủ đến lợi ích chính đáng, hợp pháp của các bên đối tác. Trên cơ sở đó xác định được điểm dung hoà về lợi ích trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. 2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài. Bảo đảm một khuôn khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định, một hệ thống ưu đãi và khuyến khích cao hơn các nước trong khu vực. Luật hoá nâng cao chất lượng công tác làm luật, sao cho luật sau khi ban hành có sức sống trong thực tế và tương đối ổn định. Luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài phải phù hợp và đồng bộ với tiến trình xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật chung của nước ta, trước hết là luật doanh nghiệp, luật khuyến khích đầu tư trong nước…. Trước hết cần sửa đổi một số điều trong các văn bản pháp lý liên quan đến đầu tư nước ngoài nhằm tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động của các doanh nghiệp FDI: Nước ngoài đã cho phép các doanh nghiệp FDI được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất tại các Ngân hàng hoạt động tại Việt Nam (Điều 46, luật sửa đổi luật đầu tư nước ngoài, 2000 ), nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động và đây cũng là một giải pháp, là xu thế mà các nước trong khu vực đã áp dụng. Song cần sớm ban hành các nghị định và Thông tư hướng dẫn để chủ trương này sớm trở thành hiện thưCông ty, nhằm tạo độ hấp dẫn cho môi trường đầu tư tại Việt Nam. Các doanh nghiệp FDI được phép trực tiếp tuyển dụng lao động Việt Nam bởi lao động là một trong 3 yếu tố cấu thành một tố chức, quyết định sự thành công hay thất bại của tổ chức. Vì vậy cần phải sửa Điều 135 Bộ luật lao động cho phù hợp với yêu cầu mới trong cơ chế thị trường. Để tạo ddk thuận lợi cho các nhà đầu tư giảm bớt chi phí đầu tư, cần phải sửa đổi điều 4 luật thuế GTGT cho phép không tính thuế VAT đối với các thiết bị, máy móc dùng để tạo tài sản cố định cho các doanh nghiệp FDI. Muốn khuyến khích các doanh nghiệp FDI sử dụng người Việt Nam giữ các vị trí quản lý và chuyên môn chủ chốt cần sửa đổi pháp lệnh về thuế thu nhập cá nhân đối với người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp FDI. Mặc dù Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp trong nước mua lại cổ phần của doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, song trên thực tế điều này rất khó thực hiện vì sự hạn chế của công ty TNHN. Vì vậy nên bổ xung các hình thức đầu tư mới như: - Doanh nghiệp cổ phần có vốn Nhà nước. hình thức này giúp các nhà đầu tư có thể chủ động linh hoạt trong việc sử dụng vốn đầu tư và cung cấp thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán mới được hình thành ở nước ta. - Hai là cho phép thành lập chi nhánh Công ty Nhà nước tại Việt Nam thực hiện hoạt động đầu tư. Nó giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia đầu tư mà chưa cần phải chuyển toàn bộ hoạt động của mình đến một quốc gia khác ở quy mô nhỏ. - Ba là hình thức Công ty tự quản lý vốn. Hoạt động của Công ty này giúp cho nhà đầu tư nước ngoài điều phối và hỗ trợ hoạt động cho các dự án đầu tư khác nhau trên cùng một quốc gia một cách có hiệu quả, vừa tiết kiệm được chi phí, vừa nâng cao tính hiệu quả trong các dự án đầu tư của họ. - Bốn là hình thức Công ty hợp doanh, đây là hình thức được áp dụng rộng rãi trên thế giới, chủ yếu đối với một số lĩnh vực đòi hỏi uy tín, trình độ và trách nhiệm cá nhân cao của người cung cấp các dịch vụ như: Kiểm toán, kế toán tư vấn luật …. Sửa đổi, bổ xung một số điều của Luật Dầu khí và luật khoáng sản để tăng sức hấp dẫn các nhà đầu tư. 3. Hoàn thiện hệ thống chính sách cải thiện môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư. * Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư. Quyết định số 53/1999/QĐ -TTg của Thủ tướng Chính phủ là bước đi đầu tiên thực hiện lộ trình tiến tới tạo dựng một mặt hàng thống nhất giá hàng hoá dịch vụ đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI theo tinh thần nghị quyết Trung ương lần thứ IV. Muốn vậy cần tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hoá dịch vụ theo hướng quy định một mức giá, phí chung cho các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu. * Sửa đổi một số chính sách đang gây cản trở đầu tư nước ngoài. - Chính sách đất đai: Nhà nước cần soát xét lại giá cho thuê đất, mặc dù Nhà nước đã nhiều lần điều chỉnh giá cho thuê đất cho phù hợp với giá chung, xong cơ chế điều hành trong việc đền bù giải phòng mặt bằng vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, chưa thống nhất. Nhà nước cần thực hiện thu hồi đất và giao cho các tổ chức kinh tế có đội ngũ cán bộ đủ năng lực chuyên môn, chuyên ngành để liên doanh với nước ngoài. Có như vậy mới khắc phục được sự yếu kém của đội ngũ cán bộ hoạt động trong bộ máy điều hành của các liên doanh với Nhà nước hiện nay. - Chính sách tài chính, tài chính và ngoại hối: Giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xoá bỏ việc kết hối bắt buộc khi có điều kiện, từng bước thực hiện tự do hoá chuyên môn ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai. Các doanh nghiệp FDI được tiếp cận thị trường vốn, được vay vốn tín dụng cả trung hạn và dài hạn tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của dự án và có thể bảo đảm bằng ts của các Công ty mẹ ở nước ngoài. Xây dựng quy chế quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp FDI, ban hành chuẩn mực kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, tạo dựng một nền tài chính rõ ràng, lành mạnh. * Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích đầu tư: Hoàn thiện các chính sách đầu tư trước hết là chính sách thuế. Để nâng cao hiệu quả của công cụ thuế, hệ thống thuế đối với các doanh nghiệp FDI cần được cải tiến theo hướng. Dễ tính toán, đơn giản các mức thuế Đảm bảo lợi ích quốc gia Có tác dụng khuyến khích đầu tư Phù hợp với thông lệ quốc tế 4. Hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật kinh tế về xuất khẩu Nhà nước cần hoàn thiệncc chính sách và biên pháp nhằm thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu và ưu tiên, khuyến khích xuất khẩu đối với các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Chính sách kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu phải thể hiện những yếu tố thông thoáng về môi trường đầu tư, do vậy cần có chính sách khuyến khích hơn nữa nhằm thu hút FDI vào phát triển kinh tế đặc biệt là phát triển sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam. * Giảm tối đa sự phân biệt đối xử giữa chủ đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo một sân chơi bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đặc biệt phải bình đẳng trong các lĩnh vực ưu đãi về hỗ trợ xuất khẩu (quỹ hỗ trợ xuất khẩu quốc gia, hỗ trợ lãi suất…) cũng như cần phải xoá bỏ sự phân biệt gưữacc khoản chi phí gắn với xuất khẩu giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước. Cho phép dcc doanh nghiệp có thể đầu tư vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm. * Nhà nước cần có một chính sách thuế minh bạch, mềm dẻo và đồng thời quy định tỷ giá đồng nội tệ linh hoạt để đảm bảo khuyến khích phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp trong cả nước trong đó có doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Tỷ giá đồng nội tệ có tác dụng thúc đẩy hoặc hạn chế xuất khẩu hàng hoá, do vậy sử dụng công cụ tỷ giá là một việc làm của mọi Nhà nước và các Chính phủ trên toàn thế giới. Một tỷ giá tiền tệ hợp lý là hết sức cần thiết để phát triển xuất khẩu hàng hoá ở nước ta, góp phần xuất khẩu kinh tế đất nước. 5. Xây dựng hành lang pháp lý thống nhất, có hiệu lực. Trong thời gian qua, hệ thống pháp luật và quản lý Nhà nước của Việt Nam vẫn còn nhiều vướng mắc, phức tạp, chồng chéo, gây cản trở đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực đầu tư nước ngoài vốn quen với những thủ tục đơn giản, rõ ràng. Trong hệ thống pháp luật có nhiều văn bản không thống nhất, giải thích không rõ ràng dẫn đến việc đi vào thực tế gặp phải nhiều rắc rố do sự chồng chéo, do sự giải thích sai lệch, do nhwgx lỗ hổng pháp luật. Hơn nữa, nhiều khicc văn bản của Nhà nước đã không khẳng định được hiệu lực pháp lý của mình làm hình thành nên tâm lý coi thường pháp luật hoặc không tin tưởng với những gì pháp luật quy định cũng như khuyến khích. Trong quản lý Nhà nước cũng diễn ra sự chồng chéo, phủ định lẫn nhau, có những doanh nghiệp mỗi năm chịu đến 4,5 đợt kiểm tra, thanh tra của vài ba cơ quan Nhà nước thuộc những bộ ngành khác nhau. việc quản lý này không những không phát huy hiệu quả mà còn gây nên nhiều phiều hà, rắc rối, mất thời gian cho các doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng trên, trong thời gian tới Nhà nước cần chú ý các mặt. * Khẩn trương tiến hành tổng rà soát văn bản quy phạm pháp luật, loại bỏ các văn bản lỗi thời, hết hiệu ưực, khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chép làm nảy sinh nhiều thủ tục phiền hà ngay trong quy định của pháp luật, nghiên cứu đổi mới phương thức và quy trình xây dựng văn bản pháp quy của Chính phủ và cán bộ để nâng cao chất lượng tính thống nhất theo đường lối, chính sách đổi mới, không bị tri phối bởi lợi ích cục bộ. * Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và mối qua hệ giữa các cơ quan ở từng ngành, từng cấp, giữa Trung ương và địa phương trên cơ sở tách chức năng quản lý Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và hoạt động dịch vụ công ích của các đơn vị sự nghiệp. * Thực hiện kết hợp hai yếu cầu: tăng cường vai trò lãnh đạo và tập trung, thống nhất của Trung ương và pháp luật, thể chếm, mở rộng sự phân cấp, tăng quyền cho địa phương về quản lý kinh tế xã hội. Việc gì địa phương cơ sở làm được và làm tốt thì phân giao rạch ròi, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của địa phương, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp, khắc phục tình trạng quan liêu, cục bộ. * Cần có chế độ thưởng, phạt rõ ràng, kịp thời thì mới có tác dụng khuyến khích răn đe. Biên pháp sử dụng đòn bẩy kinh tế trong thời kỳ hiện nay thường được coi là biên pháp kích thích có hiệu quả nhất vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nếu vi phạm các quy định của pháp luật thì cũng sẽ bị phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên thời gian qua, việc thực hiện chế độ thưởng phạtcòn chưa linh hoạt kịp thời nen chưa thực sự mang lại hiệu quả cao. Điều chỉnh vấn đề này trong thời gian tới sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu nói chung và xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI nói riêng. 6. Ưu tiên FDI phục vụ cho xuất khẩu. * Tập trung FDI vào lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông lâm thuỷ sản, phát triển nông thôn nhằm tăng cường xuất khẩu của lĩnh vực này, góp phấn đẩy mạnh công tác hiện đại hoá nông nghiệp. Trong thời gian tới Nhà nước cần chú ý tiếp tục bổ xung các ưu đãi, khuyến khích đầu tư Nhà nước đối với các dự án chế biến nông, lâm, thuỷ sản như miễn tiền thuế đất trong khung (ở nước ta miễn thuế 8 năm còn ở Thái Lan miễn thuế 8 năm và giảm 50% trong 5 năm tiếp theo), ưu đãi đặc biệt cho các dự án tạo giống cây, giống con mới, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. * Hướng đầu tư nước ngoài voà xây dựng các ngành công nghiệp công nghệ cao để tạo ra hàng xuất khẩu có giá trị cao trong thời gian tới. Chính sách khuyến khích các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu cần xây dựng theo hướng sau: - Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp với mức cao hơn, thực hiện chế độ phân bố hạn ngạch xuất khẩu cho các doanh nghiệp FDI. - Thu hẹp danh mục các sản phẩm phải đảm bảo xuất khẩu từ 80% trở lên theo hướng chỉ áp dụng yêu cầu này đối với một số sản phẩm thật cần thiết phải bảo hộ, đối với những sản phẩm thực sự có lợi thế cạnh tranh, đồng thời xử lý linh hoạt bằng cách không bắt buộc các nhà đầu tư phải cam kết xuất khẩu ngay từ đầu mà có thể thực hiện từng bước. 7. Cải tiến thủ tục hành chính. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng tạo thuận lợi, giảm phiền hà, giảm thời gian đối với việc cấp giấy phép xuất khẩu, thủ tục hải quan, hàn thuế VAT, thuế nhập khẩu nguyên liệu đối với các sản phẩm xuất khẩu, cho tới nay, tổng cục Hải quan đã phối hợp với Bộ thương mại và Bộ tài chính rà soát lại toàn bộ quy trình làm thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất khẩu bao gồm quy trình kiểm hoá, quy trình thu và hoàn thuế, phương pháp áp mã tính thuế… để giảm bớt những khâu không cần thiết, tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động xuất khẩu. 8. Xây dựng cơ chế xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin hỗ trợ xuất khẩu. Xúc tiến thương mại đã thực sự thu hút được sự quan tâm của các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý Nhà nước cũng như giời kinh doanh và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu. Nhiều hoạt động được triển khai nhằm củng cố thêm nhận thức của xã hội, của các cấp ngành doanh nghiệp như toạ đàm viết bài trên báo chí, phóng sự truyền hình … đề cập đến vấn đề cấp bách là tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong bối cảnh của xu thế toàn cần hoá, tự do hoá về thương mại và đầu tư. Xúc tiến thương mại bao gồm một loạt các biên pháp về quảng cáo tiếp thị ở trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện trao đổi cho các doanh nghiệp xuất khẩu, nắm bắt được nhu cầu mới của thị trường thế giới để vạch ra những kế hoạch sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. 9. Công tác đào tạo cán bộ. Hiện nay, mặc dù lực lượng lao động rất động đảo nhưng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn của Việt Nam vẫn còn hạn chế. Đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài đòi hỏi rất nhiều kỹ năng chuyên môn như nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu, ngoại ngữ, hợp tác đầu tư…, số lượng những cán bộ có thể đáp ứng được là ít. Công tác cán bộ cũng là công tác yếu kém nhất của Việt Nam thời gian qua trong lĩnh vực đầu tư cũng như thương mại quốc tế. Điều này đã khiến cho Việt Nam chịu rất nhiều thua thiệt. Vì vậy, trong thời gian tới, công tác đào tạo cán bộ cần được chú trọng đặc biệt. * Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, xây dựng cơ chế chính sách cần được lựa chọn, bố trí những cán bộ thực sự am hiểu, có kinh nghiệm, có thể làm tham mưa tốt về mặt chủ trương, chính sách, chiến lược cho ngành, không nên bố trí những người thiếu kiến thức, nặng sự vụ hành qua liêu. * Tăng cường công tác cán bộ, kể cả ở các cơ quan quản lý Nhà nước. Tổ chức nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật của các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu để cung cấp đủ kinh nghiệm cũng như kiến thức đóng góp vai trò quyết định trong việc đấu tranh bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam. * Quản lý chặt chẽ và điều hành công tác xuất khẩu, phối hợp với các doanh nghiệp sản xuất, các cơ quan chức năng góp phần chỉ đạo quản lý có hiệu quả, tránh sự gian lận cũng như chồng chéo, góp phần giữ vững những cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân. II. Các giải pháp từ phía các doanh nghiệp FDI. 1. Cũng cố và phát huy tiềm năng của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể bổ xung vốn lưu động và vốn cố định của mình trích từ lợi nhuận hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản của Công ty vì nguồn vốn bên trong bao giờ cũng là vốn quyết định năng lực thực sự. Sẽ tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh của mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nếu kinh doanh tốt thì nhân viên này sẽ được bổ sung thêm và ngược lại. Ngoài ra các doanh nghiệp phải biết huy động và sử dụng vốn bên ngoài cũng là một cách kinh doanh khác, vừa là để bổ xung cho tổng vốn, vừa để tận dụng hiệu quả nguồn lực nhàn rỗi của xã hội. Một nhiệm vụ khác có thể huy động được là từ giá đối tác kinh doanh. Trong nhiều trường hợp, dm có thể yêu cầu hỗ trợ tín dụng từ phía đối tác. Cụ thể là đối với một số hợp đồng xuất khẩu (quá lớn hoặc độ rủi ro cao) doanh nghiệp nên yêu cầu người mua ứng trước một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng, doanh nghiệp có thể sử dụng số tiền ứng trước đó như vốn của mình. * Về kỹ thuật công nghệ: Các doanh nghiệp FDI có thể tận dụng tiềm lực vốn và công nghệ cao, các doanh nghiệp FDI vẫn cần hướng vào những ngành sử dụng nhiều lao động như nông, lâm, thuỷ sản phục vụ xuất khẩu. Không ngừng đầu tư vào công nghệ mới, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Các doanh nghiệp cần phải mạnh dạn đầu tư vào những công nghệ tiên tiến nhất, vượt trội nhất để đạt mục tiêu của mình. * Về vấn đề tổ chức hoạt động xuất khẩu: Chức hoạt động xuất khẩu không chỉ tập trung ở những khâu công việc cụ thể mà trước hết còn ở việc tổ chức hệ thống quản trị. Bởi vì để đối phó với một thị trường gay gắt, việc nâng cao công tác quản trị mang tính tất yếu. Việc đổi mới và hoàn chỉnh bộ máy tổ chức doanh nghiệp phải đảm bảo yêu cầu gọn nhẹ, hợp lý. Để đạt điều này, các doanh nghiệp cần thực hiện việc phân công đúng nhiệm vụ phù hợp với năng lực cho mỗi nhà quản trị, tổ chức sắp xếp lại thành viên trong các ban chức năng…. Sau khi đã có một tổ chức quản lý hợp lý, doanh nghiệp mới có thể tiến hành tổ chức hoạt động xuất khẩu có hiệu quả. Với doanh nghiệp chỉ đơn thuần sản xuất hàng xuất khẩu thì biên pháp cần thiết để đẩy mạnh xuất khẩu là đa dạng hoá loại hình kinh doanh, đan dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng xuất khẩu thông qua thu mua, tạo nguồn thì biên pháp cần thiết là mở rộng hình thức tạo nguồn và tổ chức tốt khâu bảo quản, dự trữ. 2. Chủ động tìm kiếm thị trường, bạn hàng. * Đẩy mạnh công tác marketing thương mại: chính sách marketing phù hợp sẽ là công cụ quan trọng để đạt mục tiêu của mỗi doanh nghiệp, đòi hỏi mõi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình chiến lược marketing có tính khả thi kết hợp hài hoà với các tham số của nó. - Về sản phẩm các doanh nghiệp phải xác định các sản phẩm đưa ra thị trường nào thì phải phù hợp với thị trường đó. - Về giá cả: các doanh nghiệp cần phải xây dựng hệ thống kênh phân phối để tận dụng tối đa các nguồn lực, đồng thời tiết kiệm tối đa các chi phí phát sinh. - Về xúc tiến: xúc tiến thương mại có thể được thực hiện thông qua hội chợ triển lãm, khuyến mại, quảng cáo…. Những hoạt động này cần phải được sử dụng một cách phù hợp trong mỗ điều kiện, mỗi hoàn cảnh, mỗi thị trường khác nhau. * Các doanh nghiệp nên chú trọng chuyển dịch cơ cấu thị trường theo hướng tăng nhanh các thị trường tiêu thụ trực tiếp và có sức mua lớn như EU, Nhật, Nhật, Mỹ …, giảm dần các thị trường trung gian, từng bước khôi phục lại các thị trường Liên Bang Nga, các nước Đông Âu, tích cực tìm kiếm các thị trường mới. 3. Đa dạng hoá loại hình kinh doanh – mặt hàng kinh doanh. * Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh. Các doanh nghiệp cần chú ý đầu tư vào những ngành quy mô vừa và nhỏ tạo điều kiện cho doanh nghiệp chuyển đổi linh hoạt cơ cấu mặt hàng kinh doanh, tạo lợi thế cạnh tranh về sản phẩm làm phong phú mặt hàng kinh doanh. Bên cạnh những mặt hàng có lợi thế, những mặt hàng mới sẽ giúp cho cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp phong phú hơn. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh là phải không ngừng nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu của mình. Chất lượng cũng không chỉ thể hiện ở sản phẩm mà còn thể hiện qua bao bì, qua giá cả… chính vì vây, việc nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là phải hoàn thiện đồng bộ các mặt trên. * Đa đạng hoá loại hình kinh doanh. Có thể có các hình thức kinh doanh xuất khẩu như hình thức xuất khẩu tư doanh. Với hình thức này, các doanh nghiệp tự tìm kiếm, giao dịch và thực hiện hợp đồng với bạn hàng. Điều này cũng có nghĩa là các doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo, chủ động hơn trong các hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó các doanh nghiệp còn tiến hành xuất khẩu uỷ thác cho dcc đơn vị sản xuất kinh doanh khác để thu phí dịch vụ uỷ thác. Với loại hình này thì khâu nghiệp vụ được rút ngắn lại, các doanh nghiệp chỉ phải thực hiện việc ký kết, thực hiện hợp đồng với Nhà nước và làm những thoả thuận cần thiết với các đơn vị sản xuất trong nước. Ngoài ra các doanh nghiệp còn có thế xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu, qua đó đáp ứng được nhu cầu của giá nước ngoài nếu họ đang tìm kiếm loại hàng hoá mà công ty kinh doanh bằng việc tiến hành trao đỏi hàng hoá có giá trị tương đối nhau. 4. Việt Nam vốn là nước có thiên nhiên ưu đãi: Có địa lý thuận tiện, có tiềm lực về lao động to lớn và có một chính sách khuyến khích sản xuất hướng mạnh xuất khẩu, do vậy đây là những cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tranh thủ, tận dụng vào việc phát triển sản xuất hàng xuất khẩu. 5. Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra thị trường bên ngoài: Đòi hỏi các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam cần quan tâm đúng mức yếu tố con người trong các khâu từ sản xuất đến xuất khẩu hàng hoá, quan tâm trong việc đào tạo bồi dưỡng tay nghề, quan tâm trong việc tăng thêm thu nhập về lượng và các chế độ chăm sóc sức khoẻ người lao động. Có như vậy mới phát huy được yếu tố con người trong chiến lược phát triển xuất khẩu. Kết luận Xuất khẩu hàng hoá có một vai trò vô cùng quan trong đối với một nền kinh tế thực hiện mạnh mẽ, góp phần đưa nền kinh tế quốc gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, phù hợp với xu thế chung về tính toàn cầu hoá nền kinh tế ngày nay. Xuất khẩu hàng hoá ngày càng khẳng định là hướng đi đúng là mục tiêu hàng đâu cảu một nền kinh tế mở. Do vậy Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá nên đã đề ra một loạt các giải pháp khuyến khichs mạnh xuất khẩu đối với các doanh nghiệp trong nước cũng như đối với các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Nước ta đã trải qua hơn 10 năm thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế và cũng thời gian này, hàng hoá nước ngoài ngày càng thâm nhập vào thị trường nước ta, hàng hoá của chúng ta cũng vươn mạnh ra thị trường bên ngoài. Để đạt được hiệu quả cao khi thời gian vào thương mại quốc tế, tất yếu đòi hỏi phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của nước nhà. Hơn 10 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chúng ta đã thu hút một nguồn vốn đáng kể từ bên ngoài vào xây dựng và phát triển kinh tế, các doanh nghiệp FDI có những ưu thế trội hơn so với các doanh nghiệp trong nước trong lĩnh vực phát triển xuất khẩu. Những ưu thế về vốn, thiết bị máy móc kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến, ưu thế về thâm nhập thị trường…. Khi được kết hợp những chính sách ưu tiên khuyến khích mạnh xuất khẩu của Đảng và Nhà nước, sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Với những chủ trương, chính sách khuyến khích mạnh xuất khẩu của Đảng và Nhà nước với những tiềm năng sẵn có trong nước cùng với tiềm năng vôngân sách có của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, chúng ta hy vọng hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam sẽ đạt được những kết quả lớn hơn trong những năm tới, đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ta trong thế kỷ 21. Danh mục tài liệu tham khảo Võ Thanh Thu, kinh tế đối ngoại, NXB thóng kê, Hà Nội năm 1994. PGS.TS. Bùi Xuân Lưu, Giao Trình kinh tế Ngoại thương, NXB Giáo dục Hà Nội năm 1997 Nghị định số 10/1998/NĐ-CP về một số biện pháp khuyến khích đầu tư Quyết định số 1921/QĐ-TM ngày 1/9/1999 về bãi bỏ việc duyệt XNK Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi năm 2000 Tập chí thương mại Việt Nam: số 21/2001 Làm gì để đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI Tạp chí thương mại Việt Nam: Số 4/2001 Một số biện pháp đẩy mạnh của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Tạp chí kinh tế và phát triển: Số 4/2001 Những biên pháp cần thực hiện để gia tăng xuất khẩu năm 2001 Văn kiện hội nghị Trung ương, khoá VII Nghị định 12 CP Niên gián thống kê 1999 Tạp chí thương mại: Số 6/2001 Hoàn thiện chính sách thuế để tăng cường thu hút FDI Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0697.doc
Tài liệu liên quan