Nói tóm lại, phân tích môi trường kinh doanh là một yếu tố khách quan đối với mọi doanh nghiệp nói chung và đối với các doanh nghiệp thuộc ngành may mặc nói riêng, bởi nếu một doanh nghiệp chỉ biết sản xuất mà không quan tâm đến việc phân tích môi trường kinh doanh thì sớm hay muộn cũng đi đến phá sản bởi lẽ nó sẽ không chớp được những cơ hội thuận lợi và ngược lại, không tránh được các rủi ro của thương trường mà chúng có thể đến bất cứ lúc nào.
Ngoài môi trường tổng quát và môi trường ngành, Doanh nghiệp còn cần quan tâm đến môi trường nội bộ doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp có sự phân công lao động hợp lý, một cơ chế quản lý thích hợp, phát huy được tiềm năng của mỗi cá nhân, một không khí làm việc thân ái, đoàn kết chắc chắn doanh nghiệp sẽ thu được nhiều kết quả trong sản xuất và kinh doanh.
25 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2253 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phân tích môi trường kinh doanh cho ngành Dệt - May Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường kinh doanh của doanh nghiệp. Tác động của khủng hoảng kinh tế, các chính sách kinh tế .... của các nước khác nhau sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá đồng tiền của các quốc gia. Điều đó có thể tạo ra khó khăn hoặc thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Nền kinh tế thế giới đang chuyển từ trạng thái lưỡng cực sang trạng thái đa cực với sự hình thành nhiều trung tâm kinh tế và các mối liên kết kinh tế mới, xu hướng đối thoại và hợp tác thay cho xu hướng đối đầu và biệt lập. Do đó các doanh nghiệp cần phải lưu ý đến xu hướng nàyđể tìm cho mình hướng đi hợp lý.
+ ảnh hưởng của các yếu tố kỹ thuật - công nghệ:
Kỹ thuật - công nghệ là yếu tố tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh trạnh của mọi doanh nghiệp. Các tiến bộ công nghệ có thể sẽ xuất hiện nếu một sản phẩm mới thay thế hoặc làm cho sản phẩm hiện tại có sự cạnh tranh lớn hơn. Các doanh nghiệp cần phải theo rõi, nắm bắt để học hỏi, chuyển giao công nghệ hoặc có những giải pháp thị trường hợp lý.
+ ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá - xã hội:
Các yếu tố văn hoá - xã hội bao gồm: Trình độ học vấn, tỷ lệ các cấp giáo dục trong lực lượng lao động, tình trạng sức khoẻ, khả năng cung cấp các loại dịch vụ văn hoá cho cộng đồng, những nhân tố này có thể ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Mặt khác, văn hoá dân tộc của một nước tác động trực tiếp đến hành vi của các nhà kinh doanh, chính trị, chuyên môn... của nước đó. Điều này buộc các doanh nghiệp kinh doanh với họ phải thích nghi.
2.2 Môi trường kinh tế trong nước.
+ Nhân tố kinh tế :
Các nhân tố kinh tế bao gồm: trạng thái phát triển nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi xuất ngân hàng. Các nhân tố này ảnh hưởng mạnh đến các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành.... Do đó các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu, tận dụng cơ hội, hạn chế những đe doạ mà môi trường kinh tế trong nước đem đến cho doanh nghiệp.
+ Các nhân tố chính trị luật pháp:
Trong môi trường kinh doanh các yếu tố chính trị - luật pháp là nền tảng quy định các yếu tố khác. Có thể nói không có môi trường kinh doanh thoát ly khỏi quan điểm chính trị và nền tảng luật pháp - các quan điểm, đường nối chính trị nào, hệ thống luật pháp, chính trị nào sẽ có môi trường kinh doanh đó. Các quan điểm, đường lối chính trị, hoạt động của các cơ quan nhà nước có thể tạo ra thời cơ hoặc cản trở đối với hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.
+ Các nhân tố kỹ thuật - công nghệ:
Trong phạm vi môi trường kinh tế quốc dân các yếu tố này đóng vai trò ngày càng quan trọng. Nếu các doanh nghiệp muốn đứng vững trên "sân nhà" cũng như vươn ra thị trường nước ngoài thì cần phải nâng cao khả năng nghiên cứu và phát triển, không chỉ là chuyển giao, làm chủ công nghệ mua về mà phải có khả năng sáng tạo được kỹ thuật công nghệ tiên tiến.
Kỹ thuật - công nghệ mới thúc đẩy hoạt động kinh doanh của của các doanh nghiệp phát triển nhanh và ổn định. Nhưng xu thế ảnh hưởng của nó đối với các ngành, các doanh nghiệp khác nhau là khác nhau phải phân tích tác động trực tiếp của nó đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thuộc ngành cụ thể nhất định.
+ Các nhân tố văn hoá - xã hội:
Các nhân tố này có ảnh hưởng một cách chậm chạp, song cũng sâu sắc đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự xung đột về văn hoá, xã hội, lợi ích trong quá trình hội nhập.... đã đặt các yếu tố này ở vị trí quan trọng có tác động đến môi trường kinh doanh hiện nay. Các vấn đề phong tục tập quán, lối sống, trình độ dân trí... có ảnh hưởng sâu sắc đến nhu cầu thị trường...
+ Các nhân tố tự nhiên:
Các nhân tố này có thể tạo ra thuận lợi hoặc khó khăn ban đầu đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, của một ngành hoặc thậm chí của cả một quốc gia. Tuy nhiên, các cơ hội do các yếu tố này tạo nên hay cản trở do nó gây ra có giới hạn, thời gian và không gian cụ thể vượt quá giới hạn đó các yếu tố này sẽ không gây ảnh hưởng lớn. Tuy vậy, doanh nghiệp vẫn cần phải tìm cho mình một hướng đi đúng đắn để tồn tại và phát triển.
2.3 Môi trường cạnh tranh trong nội bộ ngành.
Người cung ứng
Những người gia nhập tiềm năng
Các đối thủ cạnh tranh trong ngành. (Sức cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp đang tồn tại.
Khách hàng
Các sản phẩm thay thế
Cung ứng
Sức mạnh của người
Sức mạnh của
người cung ứng
Mối đe doạ gia nhập
Mối đe doạ thay thế
H2: Mô hình năm lực lượng
Mô hình "năm lực lượng" của Michael Porter là một bức tranh toàn cảnh mô tả về cơ cấu cạnh tranh của một ngành bằng " năm lực lượng" chính như sơ đồ trên. Mỗi một trong năm lực lượng này lại chịu nhiều yếu tố khác mà bản thân các yếu tố đó cần được nghiên cứu để tạo ra bức tranh đầy đủ về sự cạnh tranh trong một ngành.
2.3.1 Mức độ căng thẳng của sự cạnh tranh giữa các đối thủ.
Sự cạnh tranh giữa các đối thủ được đo bằng "mức độ căng thẳng". Đây không phải là biến số dễ dàng đo được. Trong một số ngành thì cạnh tranh có thể gọi là "gay gắt", nhưng một số ngành khác thì "có trật tự, tự do hơn". Do đó Porter đã chỉ ra các yếu tố xác định mức độ cạnh tranh.
+ Tăng trưởng của ngành: Đây là yếu tố then chốt. Nếu ngành đang tăng trưởng nhanh thì mỗi doanh nghiệp có thể tăng trưởng mà không cần phải chiếm thị phần của các đối thủ, do đó thời gian quản lý sẽ để duy trì sự tăng trưởng của doanh nghiệp cùng với sự tăng trưởng của ngành, chứ không để tấn công các đối thủ. Do đó sự cạnh tranh trong ngành tăng trưởng sẽ ít căng thẳng hơn. Ngược lại, nếu ngành đang phát triển chậm hoặc suy giảm thì sự cạnh tranh sẽ mạnh và gay gắt hơn.
+ Các yếu tố chi phí cố định hoặc chi phí lưu kho: Nếu chi phí này càng cao mà doanh nghiệp không duy trì được lượng bán thì có thể làm giảm lợi nhuận. Do đó để cứu vãn tình hình đó, các doanh nghiệp sẽ quan tâm đến việc duy trì lượng bán và có xu hướng giảm giá, khi đó mức độ cạnh tranh sẽ căng thẳng hơn. Như thế sự cạnh tranh có liên quan trực tiếp đến tầm quan trọng của chi phí.
+ Sự vượt công suất liên tục: Nếu một ngành trải qua những thời kỳ: Vựơt công suất, cầu giao động, tính kinh tế của quy mô.... Đòi hỏi sự bổ sung cho công suất lớn thì sự cạnh tranh có xu hướng căng thẳng hơn.
+ Những khác biệt sản phẩm, sự xác định của nhãn hàng và chi phí chuyển của khách hàng: Nếu sản phẩm của một ngành là giống nhau và không có sự xác định của nhãn hàng và khách hàng không phải mất chi phí khi mà chuyển từ người này sang người khác thì khách hàng sẽ rất nhạy cảm đối với giá, họ sẽ chọn mua ở người nào bán giá thấp nhất. Vậy để bán được hàng các doanh nghiệp phải hạ giá và sự cạnh tranh có xu hướng căng thẳng. Ngược lại, nếu các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm khác nhau có sự xác định của nhãn hàng, khách hàng chịu chi phí chuyển đổi. Do vậy mà khách hàng có sở thích và lòng trung thành với nhãn hàng. Do đó sự cạnh tranh sẽ ít căng thẳng hơn.
+ Số Doanh nghiệp và quy mô tương đối của chúng: Nếu các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm thay thế là tương đối lớn thì khó giám sát được hoạt động của nhau. Do đó sẽ dẫn đến nguy cơ một số doanh nghiệp tin rằng mình có thể cạnh tranh mà không bị phát hiện. Vì thế cạnh tranh có xu hướng căng thẳng hơn. Số lượng doanh nghiệp ít thì sự cạnh tranh sẽ ít căng thẳng hơn.
+ Sự đa dạng của đối thủ cạnh tranh: Đây là một biến số rất khó đánh giá cho các ngành. Nếu các đối thủ cạnh tranh có cùng một mục đích, có văn hoá công ty giống nhau và quan hệ với công ty mẹ giống nhau thì rất có thể họ suy nghĩ giống nhau. Do đó chúng có thể cùng nhau ký kết thoả thuận một "luật chơi ngầm" do đó cạnh tranh sẽ bớt căng thẳng hơn.
+ Lợi ích công ty: Nếu sự thành công của ngành có tầm quan trọng đặc biệt đối với các doanh nghiệp trong ngành, hoặc vì sự đóng góp của thành công đó cho lợi nhuận của các doanh nghiệp... thì sự cạnh tranh có xu hướng căng thẳng hơn.
+ Hàng rào rút khỏi: Nếu rút khỏi ngành phải chịu chi phí cao thì các doanh nghiệp sẽ thận trọng ở lại ngành và cạnh tranh sẽ có xu hướng căng thẳng.
2.3.2 Mối đe doạ của người ra nhập mới.
Lực lượng này được đo bằng " độ cao của hàng rào gia nhập". Nếu các hàng rào gia nhập rất cao thì các doanh nghiệp ở trong ngành không cần quan tâm quá mức tới khả năng là giá hoặc lợi nhuận cao có thể dẫn đến sự cạnh tranh từ phía những người gia nhập mới. Ngược lại, nếu các hàng rào gia nhập thấp thì sự gia nhập diễn ra dễ dàng bất cứ lúc nào khi các doanh nghiệp ở trong ngành tạo ra lợi nhuận đáng kể. Hàng rào gia nhập phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Tính kinh tế của quy mô: Nếu có tính kinh tế của quy mô đáng kể thì một doanh nghiệp đang cân nhắc xem có gia nhập ngành hay không hoặc là gây dựng một thị phần lớn ngay để tạo được quy mô cần thiết để đảm bảo chi phí thấp hoặc có thể chịu chi phí cao hơn các doanh nghiệp đang tồn tại. Do đó tính kinh tế của quy mô là nguồn gốc quan trọng của hàng rào gia nhập.
+ Sự khác biệt của sản phẩm và lòng trung thành với nhãn hàng: Nếu doanh nghiệp đang tồn tại trong ngành đã gây dựng được lòng trung thành của người mua đối với sản phẩm của họ thì người gia nhập mới sẽ phải đầu tư rất nhiều và phải mạo hiểm vào việc quảng cáo và xúc tiến bán hàng để vượt qua lòng trung thành đó. Lúc này hàng rào gia nhập là rất cao.
+ Đòi hỏi về vốn: Trong một số ngành, nếu muốn gia nhập đòi hỏi phải có vốn rất lớn. Khi thị trường vốn hoạt động tốt, vốn sẵn có thì việc gia nhập xem là việc mạo hiểm và chịu rủi ro cao.
+ Chi phí chuyển đổi với người mua: Nếu khách hàng muốn chuyển từ người cung ứng này sang người cung ứng khác, nhưng họ lại phải chịu chi phí cao thì họ sẽ không sẵn sàng thay đổi người cung ứng. Hàng rào ra nhập trong trường hợp này là khá cao muốn vượt qua để có được thành công thì phải đầu tư nhiều để giúp khách hàng vượt qua những chi phí chuyển này.
Có được các kênh phân phối: Nếu các doanh nghiệp trong ngành đã xây dựng được mối quan hệ tốt với các kênh phân phối thì người gia nhập mới khó mà đạt được các kênh đó hoặc đạt được với chi phí cao. Như vậy hàng rào gia nhập là khá cao nếu các doanh nghiệp đang tồn tại đã có mối quan hệ tốt với các kênh phân phối.
+ Lợi thế chi phí tụyệt đối: Đó là một trong những nguồn gốc quan trọng nhất của hàng rào gia nhập. Nghĩa là các doanh nghiệp đang ở trong ngành có chi phí thấp hơn người mới gia nhập. Nếu có lợi thế này các doanh nghiệp đang ở trong ngành sẽ có khả năng giảm giá của mình tới mức mà người gia nhập mới không thể tồn tại được.
Nguồn gốc của lợi thế chi phí tuyệt đối:
- Độc quyền công nghệ.
- Có các đầu vào (lợi thế).
- ảnh hưởng rút kinh nghiệm.
- Có vị trí thuận lợi.
- Sự trả đũa dự kiến.
Trong nhiều ngành, sự trả đũa của các doanh nghiệp đang ở trong ngành đối với sự gia nhập mới là yếu tố then chốt quyết định sự thành công hay thất bại của người mới gia nhập. Sự trả đũa này là hàng rào quan trọng đối với việc gia nhập.
+ Chính sách của chính phủ: ở một số nước, chính sách của chính phủ tạo ra hàng rào gia nhập. Đó là các giấy phép mà doanh nghiệp được cấp bởi chính phủ. Thông thường điều đó khó được phát hiện và ít được chú ý đến .
2.3.3 Mối đe doạ của các sản phẩm thay thế.
Đây là một lực lượng thị trường quan trọng tạo ra giới hạn đối với các mức giá mà các doanh nghiệp trong ngành đặt ra. Bởi vì nếu các sản phẩm thay thế sản phẩm của ngành là sẵn có thì khách hàng có thể chuyển sang các sản phẩm thay thế này khi mà các doanh nghiệp đang tồn tại đặt giá cao tầm quan trọng của mối đe doạ này phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Chi phí chuyển đổi đối với khách hàng: (đã trình bày ở phần nguồn gốc của hàng rào ra nhập). Đây là nhân tố xác định mối đe doạ thay thế.
+ Giá và công dụng tương đối của sản phẩm thay thế: Nếu các sản phẩm thay thế mà sẵn có và công dụng tương tự ở cùng một mức giá thì mối đe doạ của các sản phẩm thay thế là rát mạnh
+ Khuynh hướng thay thế của người mua: Nếu như khách hàng lỗ lực tìm kiếm sản phẩm thay thế và luôn có xu hướng muốn thay đổi người cung ứng thì mối đe doạ thay thế sẽ tăng.
2.3.4 Sức mạnh của người mua
Sức mạnh của người mua phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản: Mức độ của độ nhạy cảm của họ đối với giá và việc mặc cả nợ của họ.
+ Độ nhậy cảm đối với giá, nó là hàm số của:
- Lượng mua của ngành là một phần của tổng lượng mua
- Những sự khác biệt của sản phẩm và sự xác định nhãn hàng
- ảnh hưởng của sản phẩm của ngành đến chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ của khách hàng.
-Tỷ lệ lợi nhuận của khách hàng.
- Động cơ của người ra quyết định.
+ Việc mặc cả chịu của khách hàng: Nó phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Sự tập trung của rngười mua và dung lượng người mua: Số lượng người mua mà càng tập trung và mua dung lượng càng lớn thì sẽ có nhiều khả năng mua chịu hơn
- Chi phí chuyển nhượng của người mua
-Thông tin của người mua
- Mối đe doạ của người mua liên kết dọc ngược trở lại nguồn nguyên liệu: Nếu người mua có khả năng đe doạ gia nhập ngành bằng việc liên kết dọc ngược thì khả năng chịu càng lớn.
Tóm lại, khách hàng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kinh doanh của doanh nghiệp, khách hàng là thị trường của doanh nghiệp số lượng kết cấu của khách hàng, nhu cầu, động cơ mua hàng, thị hiếu, yêu cầu của họ là yếu tố rất quan trọng trong hoạch định kinh doanh. Vì vậy sức mạnh người mua là yếu tố quan trọng trong việc phân tích cơ cấu ngành.
2.3.5 Sức mạnh người cung ứng.
Lực lượng cuối cùng này được xác định bởi các yểu tố sau:
+Sự khác biệt của đầu vào: Nếu các doanh nghiệp trong một ngành phụ thuộc vào những dạng khác nhau của một đầu vào do những người cung ứng riêng lẻ sản xuất ra thì những người cung ứng này tương đối mạnh.
+ Chi phí việc chuyển sang người cung ứng khác: Nếu chi phí này cao thì sức mạnh của người cung ứng là khá cao vì muốn chuyển sang người cung ứng khác doanh nghiệp phải chịu chi phí cho việc chuyển đổi này.
+ Sự sẵn có của các đầu vào thay thế: Nếu các đầu vào thay thế là sẵn có thì sức mạnh của người cung ứng sẽ giảm.
+ Sự tập trung của người cung ứng: Mức độ tập trung hoá cao giữa những người cung ứng sẽ có xu hướng tạo cho họ sức mạnh đặc biệt là những người cung ứng tập trung hơn những người mua.
+ Tầm quan trọng của dung lượng đối với những người cung ứng: Nếu những nhà cung ứng theo đuổi mục đích lợi nhuận hoặc để tồn tại hoặc vì một mục đích khác mà cần duy trì một dung lượng lớn thì sức mạnh của họ sẽ giảm.
+ Chi phí tương đối so với tổng chi phí của ngành: Nếu chi phí của các đầu vào mua của một người cung ứng cụ thể là một phần quan trọng của tổng chi phí của ngành thì người cung ứng nhận thấy rằng doanh nghiệp đó khó có thể mua chịu được.Ngược lại, nếu một ngành cung ứng các đầu vào chỉ là một phần nhỏ trong tổng chi phí của người sử dụng thì nó khó có thể đặt giá cao.
+ảnh hưởng của các đầu vào đến chi phí hoặc sự khác biệt sản phẩm: Sức mạnh của người cung ứng phụ thuộc rất nhiều vào tầm quan trọng của các đầu vào trong khả năng duy trì chi phí thấp hoặc để làm cho sản phẩm khác biệt. Nếu số lượng các đầu vào hoặc chi phí của nó là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành thì người cung ứng sẽ có sức mạnh mặc cả đáng kể.
+ Mối đe doạ của việc liên kết suôi giữa những người cung ứng: Nếu việc liên kết suôi giữa những người cung ứng trong một ngành là dễ dàng thì những người cung ứng sẽ có sức mạnh mặc cả đáng kể. Bất kỳ sự cố gắng nào từ phía các doanh nghiệp trong ngành để có được mức giá đầu vào thấp cũng có thể được đáp lại bằng việc làm đó là những người cung ứng xây dựng thiết bị cho riêng họ.
3. ý nghĩa của việc nghiên cứu môi trường kinh doanh.
- Nhìn nhận một cách tổng thể về môi trường kinh doanh nó là cơ sở để doanh nghiệp phân tích toàn bộ các tác nhân ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh. Để từ đó có thể khai thác, tận dụng được các lợi thế, các cơ hội và ngăn ngừa, hạn chế các rủi ro đe doạ có thể xảy ra.
- Kết quả của việc nghiên cứu môi trường kinh doanh là một nghiên cứu cực kỳ quan trong cho việc xác định các chiến lược và các chính sách kinh doanh sao cho phù hợp với môi trường kinh doanh. Đặc biệt là các chiến lược và các chính sách dài hạn của doanh nghiệp.
- Mô hình "năm lực lượng" cung cấp cho các nhà quản lý một danh mục đầy đủ có thể sử dụng để xác định những đặc điểm quan trọng nhất của sự cạnh tranh trong ngành.
- ứng dụng của kỹ thật "năm lực lượng" đòi hỏi một nghiên cứu đáng kể về ngành đang xem xét, đòi hỏi phân tích một loạt các yếu tố ảnh hưởng đến mỗi lực lượng. Dưới đây em xin mạnh dạn phân tích một số yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp dến cơ cấu cạnh tranh của ngành Dệt - May Việt Nam.
II. Môi trường kinh doanh ngành Dệt - May Việt Nam.
1. Môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến ngành Dệt - May Việt Nam
1.1 Tình hình chính trị luật pháp và chính phủ.
Đây là những yếu tố thuộc môi trường trong nước ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành Dệt - May Việt Nam. Nó là nền tảng quy định các yếu tố khác. Ta biết rằng Việt Nam là một nước thuộc khối XHCN cũ đang chuyển sang quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN tình hình chính trị ở Việt Nam là khá ổn định, định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam phù hợp với xu thế của thời đại, có sức thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.... Như vậy sự ổn định về chính trị ở Việt Nam đã giúp chính phủ nước ta thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia trên thế giới, giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp ngành may nói riêng có cơ hội quan hệ thương mại với nước ngoài đổi mới công nghệ sản xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá chính vì vậy các doanh nghiệp ngành Dệt - may Việt Nam phải đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
+ Về luật pháp: ở nước ta các cơ quan luật pháp đã ban hành các hệ thống luật pháp nhằm giúp chính phủ có công cụ quản lý đất nước về các mặt. Nhiều bộ luật đã được ban hành như: Luật hiến pháp, luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, luật thương mại...trong đó nhiều điều khoản tạo cơ hội để phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Khoản 3 - điều 9 - chương 3 - luật khuyến khích đầu tư trong nước có ghi: "các dự án đầu tư sau đây được ưu đãi: ... đầu tư thành lập cơ sơ sản xuất sử dụng công nghệ hiện đại , cơ sở sản xuất nhiều lao động...". Đây là thuận lợi cho các doanh nghiệp trong ngành Dệt - May Việt Nam thì họ sẽ được hưởng những ưu đãi như: được giảm 50% tiền sử dụng đất, được miễn tiền thuế đất từ 3 đến 6 năm, được hưởng thuế suất thu nhập Doanh nghiệp 25% so với mức thuế chung là 32%...
Luật đầu tư nước ngoài cũng có những thay đổi có tác dụng khuyến khích xuất khẩu và đầu tư cho ngành Dệt - May. Như trong nghị định của chính phủ số 10/1998/NG-CP ngày 23/1/1998 về một số biện pháp khuyến khích đầu tư và đảm bảo hoạt động đầu tư tại Việt Nam: Các dự án thuốc nhuộm hoá chất chuyên dùng tơ sợi các loại, hàng dệt để xuất khẩu nguyên liệu cao cấp để sản xuất quần áo xuất khẩu thuộc các danh mục các dự án được khuyến khích đầu tư.... Như vậy về mặt luật pháp các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp ngành Dệt - May nói riêng chịu tác động của nhiều văn bản pháp lý có điều khoản thuận lợi hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển vững chắc, có điều khoản là thách thức mà các doanh nghiệp phải đương đầu, có những điều khoản làm doanh nghiệp phải lo âu như luật thuế GTGT (VAT) được áp dụng ở Việt Nam từ ngày 1/1/1999 (hiện tượng thuế trồng lên thuế mà ngành Dệt - May than vãn một thời gian dài).... Mặt khác hệ thống luật pháp của Việt Nam đang được hoàn chỉnh, bổ sung, sửa đổi. Tuy nhiên, việc vận dụng luật pháp hiện nay chưa đầy đủ thiếu văn bản hướng dẫn dưới luật nên việc áp dụng gặp nhiều khó khăn chính sách hỗ trợ các ngành nghề ưu tiên phát triển như ngành sử dụng nhiều lao động chưa thích đáng, chưa công bằng... nên các doanh nghiệp cần phải đầu tư nhiều công sức và tiền của để có thông tin môi trường pháp lý thường xuyên nhằm có biện pháp quản lý kinh doanh thích hợp.
+ Về hoạt động của chính phủ: Hoạt động của chính phủ Việt Nam và chính phủ các quốc gia có quan hệ mua bán với Việt Nam đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp ngành Dệt - may nói riêng có cơ hội hoà nhập vào thị trường thế giới. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp Việt Nam càng phải đương đầu với nhiều đối thủ cạnh tranh mới dưới nhiều hình thức, rủi ro trong kinh doanh nhiều hơn, cần có nhiều thông tin môi trường kinh doanh, chịu sức ép về kinh tế trên phạm vi khu vực và toàn cầu.... Các hoạt động của chính phủ Việt Nam có ảnh hưởng trực tiếp đến ngành Dệt - may Việt Nam có thể kể đến là:
- Cơ quan ngoại giao của chính phủ đã phối hợp với các phái đoàn thương mại quốc gia thực hiện các cuộc viếng thăm hữu nghị để thiết lập mối quan hệ thương mại với các nước, giúp các doanh nghiệp Vệt Nam có cơ hội trang bị công nghệ mới và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá.
- Thành viên của chính phủ là Bộ công nghiệp (cơ quan quản lý ngành Dệt - May Việt Nam) đã có các chương trình hành động nhằm thực hiện chiến lược phát triển hàng tiêu dùng đến năm 2005, 2010, trong đó nhấn mạnh việc phát triển ngành Dệt - May trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá đất nước.
- Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển ngành Dệt - May, ngày 29/4/1995 thủ tướng chính phủ đã phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của tổng công ty Dệt - _May Việt Nam _ tạo vốn và điều hoà vốn, tạo nguồn nguyên liệu để từng bước chủ động sản xuất, tạo ra thị trường mới cho các đơn vị thành viên cũng như ngành Dệt - May của cả nước.
...
Có rất nhiều hoạt động của chính phủ Việt Nam đã có tác động tích cực và tạo thuận lợi cho ngành Dệt - May phát triển, cũng có hoạt động gây khó khăn và cản trở cho sự phát triển của ngành này như việc cấp phép đầu tư các dự án dệt - may, đặc biệt là may xuát khẩu do Bộ, Sở Kế hoạch đầu tư , UBND tỉnh, thành phố... thực hiện đã gây nhiều khó khăn cho chiến lược phát triển của ngành Dệt - may nước ta. Đây là một trong những nguyên nhân khiến ngành may xuất khẩu phát triển dư thừa, dẫn đến lãng phí năng lực sản xuất trên phạm vi cả nước, cạnh tranh nội bộ gia tăng...
1.2 Tình hình kinh tế.
Sau những năm 1990, nền kinh tế nước ta đi vào giai đoạn sản xuất ổn định, chỉ số giá cả biến động hàng năm không đáng kể so với mức tăng thu nhập bình quân. Đây cũng là yếu tố thuận lợi đối với việc chi tiêu và đầu tư sản xuất vào các ngành kinh tế nói chung và ngành Dệt - may nói riêng.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở một số nước trong khu vực Châu á đã ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam. Trong đó có cả nguy cơ lẫn cơ hội. Về nguy cơ, các ngành và doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá tương tự với các doanh nghiệp của các nước có đồng tiền bị sụt giá thì hiệu quả giảm vì phải giảm giá để cạnh tranh. Một số khách hàng đặt gia công hàng may xuất khẩu đã chuyển sang đặt hàng ở các nước đó.
Bảng 1: Cơ cấu chi tiêu của dân cư.
ĐVT: %
STT
Năm
Cơ cấu chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1
Chi ăn uống
66,1
65
64,8
64,7
2
Chi may mặc
6,5
6,7
6,8
6,8
3
Chi đi lại
7,2
7,3
7,5
7,5
4
Chi học hành
4,6
4,7
4,8
4,9
5
Y tế sức khoẻ
8,4
8,5
8,5
8,6
6
Vui chơi giải chí
3,7
3,8
3,7
3,8
7
Các khoản khác
3,8
4
3,9
3,7
Tổng
100
100
100
100
Theo bảng cơ cấu chi tiêu của dân cư qua một số năm ta thấy xu hướng chi cho ăn mặc ngày càng tăng. Đây là cơ hội thuận lợi cho ngành may Việt Nam.
Qua một số sự kiện kinh tế như trên, ta thấy rằng yếu tố kinh tế trong môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến ngành Dệt - may thay đổi liên tục vừa tạo cơ hội vừa gây nguy cơ hay rủi ro trong quá trình kinh doanh. Cấc doanh nghiệp cần phải có sự giám sát chặt chẽ đến những thay đổi này.
1.3 Tình hình phát triển Khoa học - Kĩ thuật:
Sự Phát triển nhanh chóng của KH - KT trong hơn hai thập kỉ qua đã tác động đến nhiều ngành kinh tế. Ngành Dệt - may có cơ hội hiện đại hoá máy móc thiết bị, có nhiều chủng loại thiết bị mới phục vụ nhu cầu đa dạng của dệt và may. Ngoài ra, tiến bộ về công nghệ thông tin giúp cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung tiếp cận với thông tin thị trường nhanh chóng, phục vụ hữu hiệu hoạt động Marketing của các doanh nghiệp. Đặc biệt hệ thống thương mại điện tử có xu hướng phát triển mạnh mẽ trong thế kỉ 21, vừa là cơ hội vừa là thách thức cho các doanh nghiệp Dệt - may nói chung. Nhu cầu về quần áo bảo hộ ngày càng tăng do KH - KT mới ứng dụng trong các ngành càng phổ biến dẫn đến việc phát sinh ô nhiễm môi trường. Đây là cơ hội để các Doanh nghiệp Dệt - may tìm hiểu, nghiên cứu, phát triển đa dạng hoá mặt hàng may mặc.
1.4 Tình hình Văn hoá - Xã hội:
Ngày nay, trình độ học vấn của dân ta ngày càng cao, tri thức về thẩm mỹ, về cái đẹp ngày càng hoàn thiện, mối giao lưu giữa thành thị và nông thôn, giữa các cộng đồng dân tộc ngày càng mở rộng... nên con người quan tâm nhiều hơn đến bề ngoài. Đặc biệt, phụ nữ tham gia vào cấc hoạt động xã hội ngày càng tăng... những yếu tố này đã thúc đẩy nhu cầu sản phẩm dệt may ngày càng đa dạng về chủng loại, đòi hỏi kiểu mẫu mã có tính thẩm mỹ cao, chất lượng dệt may cần hoàn hảo hơn...
Các doanh nghiệp Dệt - may muốn nắm bắt cơ hội, đáp ứng nhu cầu khách hàng cần phải gắn liền với công nghiệp thời trang. Thời trang trong may mặc đã trở thành nhu cầu cần thiết và ngày càng phát triển ở nước ta, nó giúp cho con ngưới khẳng định được mình.
Tóm lại, ngành Dệt - may Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp may mặc nói riêng muốn đạt được hiệu quả trong kinh doanh lâu dài cần quan tâm đúng mức sự phát triển Văn hoá - Xã hội trong từng thời kì để tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu khách hàng trong và ngoài nước.
2. Môi trường nội bộ ngành Dệt - may Việt Nam.
2.1 Sự cạnh tranh của các Doanh nghiệp Dệt - may Việt Nam.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến "Mức độ cạnh tranh" _ thước đo sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, cụ thể là:
+ Sự tăng trưởng của ngành: Ngành Dệt - may Việt Nam trong những năm gần đây có tỷ lệ tăng trưởng khá cao (trên 6,5%). Hơn nữa, hàng may mặc Việt Nam đã thay đổi thị trường chuyển dần sang các nước tư bản phát triển và giá trị sản lượng may mặc xuất khẩu ngày càng tăng. Do đó, các doanh nghiệp Dệt - may nước ta sẽ chú trọng hơn đến việc mở rộng qui mô, tăng năng suất một cách phu hợp và duy trì sự tăng trưởng của mình hơn là đi chiếm thị phần của các "đối thủ".Sự cạnh tranh trong ngành là ít căng thẳng.
+ Các yếu tố chi phí cố định hoặc chi phí lưu kho: Các chi phí này của các oanh nghiệp Dệt - may là không cao. Chi phí cho máy móc và nhà xưởng thấp, các doanh nghiệp ít vốn có thể thuê mấy móc từ các nhà cung cấp nước ngoài với giá cả hợp lý. Còn chi phí lưu kho của các doanh nghiệp này là rất thấp. Nên các doanh nghiệp không phải hạ giá để duy trì lượng bán nhằm bù đắp cho những chi phí này và mức độ cạnh tranh là không cao.
+ Sự khác biệt về sản phẩm, sự xác định của nhãn hàng, chi phí chuyển của khách hàng: Các sản phẩm hàng may mặc Việt Nam nhìn chung không có sự khác biệt, khách hàng có thể lựa chọn một sản phẩm bất kì tại một cửa hàng bất kì mà không cần quan tâm đến sản phẩm đó là của công ty nào sản xuất hay mang nhãn hiệu gì miễn là giá rẻ. Ngoại trừ một số hàng cao cấp của một số công ty may lớn như: May_10, May Thăng Long, Việt Tiến, Thắng Lợi...Trên thị trường thế giới chưa có sự xuất hiện của các nhãn hiệu Việt Nam chủ yếu là nhãn hiệu của các công ty đến gia công tại nước ta. Điều này làm cho các Doanh nghiệp phải hạ giá để cạnh tranh, xu thế cạnh tranh trở nên căng thẳng hơn.
+ Số doanh nghiệp, qui mô tương ứng của các doanh nghiệp và sự đa dạng của chúng: Các dạng doanh nghiệp may chủ yếu ở nước ta hiện nay gồm:
ã Các công ty xí nghiệp may công nghiệp sản xuất hàng may sẵn:
Đây là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ vừa và lớn cung cấp hàng may sẵn xuất khẩu theo số lượng lớn cho thị trường các nước như khối EU, Nhật Bản, Canada, úc.... Các doanh nghiệp này trải đều từ Bắc đến Nam và tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất, các thị xã.
Hiện nay có khoảng 200 Doanh nghiệp may quốc doanh trung ương và địa phương, 100 Doanh nghiệp sợi, dệt nhuộm, khoảng 460 công ty TNHH, cổ phần tư nhẩntên 200 Doanh nghiệp liên doanh và 100% vốn đầu tư nước ngoài.
ã Các Doanh nghiệp nhỏ sản xuất hàng may sẵn bằng máy may gia đình:
Các Doanh nghiệp thuộc loại này có quy mô sản xuất nhỏ, việc tổ chức sản xuất phân tán gia công ở các hộ gia đình. Chất lượng sản phẩm đạt mức thấp, trung bình và khá tương ứng với giá cả bán cho khách hàng nội địa. Các doanh nghiệp này ở nước ta khá nhiều đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay vẫn chưa có con số chính thức về quy mô của lực lượng này.
ã Hệ thống các nhà máy:
Đây là các cơ sở sản xuất hàng may đo nằm rải rác khắp nơi từ thành thị đến nông thôn. Hệ thống này gồm các nhà may nổi tiếng, sản xuất hàng cao cấp đòi hỏi kỹ thuật và nghệ thuật may mặc cao, đáp ứng được nhu cầu hàng may mặc của giới thượng lưu và khách hàng khó tính. Ngoài ra, hệ thống các nhà may bình dân ở khắp mọi nơi sản xuất hàng may đo cho các tàng lớp dân cư trong cả nước.
Các doanh nghiệp ngành may Việt Nam gồm nhiều loại hình, nhiều quy mô cách thức tổ chức sản xuất đa dạng, nằm rải rác trên khắp mọi miền đất nước, chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng công ty Dệt - May Việt Nam. Họ kinh doanh với những mục đích khác nhau, có văn hoá công ty khác nhau và quan hệ với Tổng công ty cũng khác nhau do đó mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp này là rất căng thẳng.
+ Hàng rào rút khỏi: Ngành Dệt _ may là một ngành đòi hỏi phải sử dụng nhiều lao động, khi các doanh nghiệp trong ngành muốn rút khỏi ngành thì họ sẽ phải chịu chi phí để giải quyết cho số lao động mà họ sử dụng theo đúng luật pháp. Chi phí này là khá cao đối với các doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn chịu sự ràng buộctừ những quia định của chính phủ và cơ quan quản lý kinh tế nhà nước về Dệt - may _ Bộ công nghiệp.... Khi rút khỏi ngành mà gặp phải những khó khăn như vậy các doanh nghiệp sẽ thận trọng ở lại ngành và sự cạnh tranh sẽ càng gay gắt hơn.
Tóm lại, trong môi trường nội bộ ngành Dệt - may nước ta có những nhân tố làm cho mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp trở nên căng thẳng hơn như: Không có sự khác biệt sản phẩm, sự xác định của nhãn hàng và chi phí chuyển của khách hàng; Số doanh nghiệp lớn với qui mô đa dạng của chúng; hàng rút khỏi cao. Nhưng cũng có những nhân tố như: Sự tăng trưởng của ngành; chi phí cố định và lưu kho thấp lại làm giảm mức độ căng thẳng của sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Từ những phân tích trên cho thấy, nếu đứng từ phía các doanh nghiệp trong ngành mà đánh giá thì đây là một ngành có mức độ cạnh tranh khá cao, các doanh nghiệp cần có những chính sách phù hợp để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Và đây cũng là những căn cứ cơ bản ban đầu để một doanh nghiệp ngoài ngành quyết định có nên gia nhập ngành hay không.
2.2 Mối đe doạ của các doanh nghiệp sẽ tham gia thị trường.
Mối đe doạ của các doanh nghiệp sẽ tham gia thị trường _ Người gia nhập mới được đánh giá bằng "Độ cao của hàng rào gia nhập". Nếu hàng rào gia nhập cao thì mối đe doạ của người mới gia nhập là không đáng kể, ngược lại nếu hàng rào thấp thì người mới gia nhâp sẽ có sức mạnh đáng kể. Độ cao của hàng rào gia nhập của ngành Dệt - may phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau:
+ Tính kinh tế của qui mô: Đây là nguồn gốc quan trọng của hàng rào gia nhập, nó là cơ sở để các doanh nghiệp quyết định có nên gia nhập ngành hay không. Ngành Dệt - may Việt Nam là một ngành có tính kinh tế của qui mô không cao, nên một doanh nghiệp khó có thể xây dựng ngay một thị phần lớn để tạo được qui mô cần thiết đảm bảo chi phí thấp. Đặc biệt, các doanh nghiệp mới gia nhập muốn có được lợi thế này sẽ phải chịu chi phí cao hơn các doanh nghiệp trong ngành, như vậy hàng rào gia nhập của ngành là khá cao.
+ Sự khác biệt của sản phẩm và lòng trung thànhvới nhãn hàng: Như đã phân tích ở trên hàng may mặc của Việt Nam nhìn chung là không có sự khác biệt, nhãn hàng chủ yếu là của các doanh nghiệp nước ngoài gia công tại nước ta. Nên các doanh nghiệp mới gia nhập không cần phải đầu tư nhiều vào quảng cáo, xúc tiến bán hàng thì sản phẩm của họ cũng vẫn có thể bán chạy. Do đó, hàng rào gia nhập đánh giá theo yếu tố này là rất thấp.
+ Đòi hỏi về vốn: Để thành lập một doanh nghiệp may mặc có qui mô vừa và nhỏ không đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn, có được ưu tiên về vay vốn, việc huy động vốn dễ dàng từ nhiều nguồnkhác nhau... Như vậy, đòi hỏi về vốn đối với một doanh nghiệp khi gia nhập ngành là không cao, mọi doanh nghiệp có thể gia nhập mà không phải quá quan tâm về vốn.
+ Chi phí chuyển đổi đối với người mua: Trong ngành Dêt - may khách hàng sẵn sàng thay đổi người cung ứng, bởi vì họ không phải mất chi phí cho sự chuyển đổi này của họ. Nên người mới gia nhập không phải bù đắp cho khách hàng chi phí này mà vẫn có được khấch hàng. Hàng rào gia nhập trong trường hợp này là khá cao.
+ Có được kênh phân phối; Các doanh nghiệp trong ngành Dêt - may nước ta hiện nay có quan hệ khá tốt với các kênh phân phối, các doanh nghiệp mới gia nhập khó có được các kênh phân phối này hoặc phải có với chi phí cao. Sự đe doạ của người mới gia nhập là không đáng kể.
+ Lợi thế chi phí tuyệt đối: Các doanh nghiệp trong ngành không có lợi thế nhiều về công nghệ, các đầu vào so với các doanh nghiệp mới gia nhập và sự trả đũa của các doanh nghiệp trong ngành Dệt - may là hầu như không có với sự gia nhập mới. Nghĩa là các doanh nghiệp trong ngành không có khả năng giảm giá tới mức mà người gia nhập mới không thể tồn tại được. Các doanh nghiệp đang tồn tại trong ngành chỉ có lợi thế là họ có kinh nghiệm hơn những người mới gia nhập, điều đó không đủ để họ có thể hạ giá nhằm ngăn chặn sự gia nhập mới. Do đó, hàng rào ngăn chặn sự gia nhập là không cao.
+ Chính sách của chính phủ Việt Nam: Chính phủ nước ta đã có rất nhiều hoạt động tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngành may như:
- Cơ quan ngoại giao của chính phủ đã phối hợp với các phái đoàn thương mại quốc gia thực hiện các cuộc viếng thăm hữu nghị để thiết lập mối quan hệ thương mại với các nước, giúp các doanh nghiệp Vệt Nam có cơ hội trang bị công nghệ mới và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá.
- Thành viên của chính phủ là Bộ công nghiệp (cơ quan quản lý ngành Dệt - May Việt Nam) đã có các chương trình hành động nhằm thực hiện chiến lược phát triển hàng tiêu dùng đến năm 2005, 2010, trong đó nhấn mạnh việc phát triển ngành Dệt - May trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá đất nước.
- Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển ngành Dệt - May, ngày 29/4/1995 thủ tướng chính phủ đã phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của tổng công ty Dệt - May Việt Nam _ tạo vốn và điều hoà vốn, tạo nguồn nguyên liệu để từng bước chủ động sản xuất, tạo ra thị trường mới cho các đơn vị thành viên cũng như ngành Dệt - May của cả nước.
...
Tuy nhiên, cũng có những hoạt động gây khó khăn và cản trở cho sự phát triển của ngành này như việc cấp phép đầu tư các dự án dệt may, đặc biệt là may xuát khẩu do Bộ, Sở Kế hoạch đầu tư , UBND tỉnh, thành phố... thực hiện đã gây nhiều khó khăn cho chiến lược phát triển của ngành dệt - may nước ta. Đây là một trong những nguyên nhân khiến ngành may xuất khẩu phát triển dư thừa, dẫn đến lãng phí năng lực sản xuất trên phạm vi cả nước, cạnh tranh nội bộ gia tăng...
Như vậy, qua phân tích các nhân tố của môi trường nội bộ ngành Dệt - may Việt Nam ảnh hưởng đến " Sự đe doạ của người mới gia nhập", có thể thấy sức mạnh của những "người mới gia nhập" là rất đáng kể đối với các doanh nghiệp trong ngành. Còn đối với các doanh nghiệp ngoài ngành thì đây là một ngành khá "hấp dẫn" để đầu tư.
2.3 Sức ép của các sản phẩm thay thế hàng Dệt - may Việt Nam
Các sản phẩm thay thế của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường chủ yếu gồm các nhóm sau đây:
- Hàng dệt may nhập khẩu chính thức và không chính thức từ nhiều nguồn khác nhau trong đó hàng dệt may Trung Quốc đã xâm nhập mạnh cả thị trường Miền Bắc lẫn Miền Nam, nguồn hàng này có mẫu mã đa dạng nhiều chủng loại, giá cả phù hợp với túi tiền của đa số khách hàng có thu nhập trung bình và thấp, nhưng chất lượng thấp và không chiếm được lòng trung thành của khách hàng.
- Các nguồn hàng dệt may của Hàn Quốc xâm nhập vào Việt Nam với chủng loại và mẫu mã đa dạng cùng chiến lược Maketing qua phim ảnh khá hiệu quả, đã thu hút được đông đảo khách hàng thanh niên.
- Hàng may mặc SIDA đã tràn ngập thị trường nước ta với giá cả thấp.
- Sản phẩm của các doanh nghiệp dệt may có 100% vốn đầu tư nước ngoài đã và đang phát triển tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Các doanh nghiệp này có vốn đầu tư lớn, máy móc thiết bị hiện đại có kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh, thu hút lao động giỏi từ các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, thị trường tiêu thụ chủ yếu của họ là các nước không bị khống chế bởi "quota".... Đây là lợi thế của họ so với sản phẩm của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới.
Mối đe doạ thay thế của các sản phẩm thay thế cho hàng dệt may Việt Nam là rất lớn vì các lý do sau đây:
- Khách hàng có thể tuỳ ý lựa chọn người cung ứng và chuyển đổi từ người cung ứng này sang người cung ứng khác mà không phải chịu bất kì một khoản chi phí nào.
- Các sản phẩm thây thế có mẫu mã rất đa dạng, giá cả lại phù hợp với phần đông khách hàng nước ta. Trên thị trường thế giới các sản phẩm thay thế của các công ty nước ngoài cũng có lợi thế đáng kể so với các sản phẩm dệt may Việt Nam.
- Khách hàng Việt Nam đa phần có thu nhập thấp và trung bình họ luôn có xu hướng tìm kiếm những nơi bán các sản phẩm thay thế có công dụng tương ứng với giá rẻ hơn.
Các doanh nghiệp Dệt - may Việt Nam cần có các giải pháp cụ thể như: phải luôn chú ý đến khâu đầu tư đổi mới kĩ thuật - công nghệ, luôn chú ý đến các giải pháp khác biệt hoá sản phẩm và những chính sách sản phẩm phù hợp để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ thấp giá thành tăng sức cạnh tranh với các sản phẩm thay thế hết sức đa dạng đang tràn ngập thị trường nước ta.
2.4 Sức ép từ phía khách hàng.
Khách hàng là một bộ phận cấu thành của ngành sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định trong môi trường Marketing. Sự tín nhiệm của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp là tài sản vô giá. Khách hàng của ngành Dệt - may Việt Nam bao gồm:
+ Khách hàng trong nước: là tất cả mọi người đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
+ Khách nước ngoài: Chủ yếu là các thị trường EU, Nhật, Mỹ...
họ là những người có nhiều ưu thế trong việc lựa chọn nhà cung cấp trên thị trường Dệt- may Việt Nam hiện nay. Họ nhất nhạy cảm đối với giá của hàng Dệt - may bởi lẽ chi cho may mặc chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi tiêu của dân cư, nên họ sẽ thận trọng hơn với giá, và một yếu tố quan trọng khác nữa là hàng Dệt - may Việt Nam chưa có sự khác biệt cao cũng như sự xác định của nhãn hàng.... Việc mặc cả chịu của khách hàng trong thị trường Dêt - may Việt Nam là rất khó đánh giá. Bởi vì số lượng người mua hàng dệt may là lớn nhưng phân tán và mua với lượng nhỏ, khách hàng là các công ty thương mại ít điều này làm cho họ ít có khả năng mặc cả chịu. Nhưng họ có thể chuyển sang mua của người khác mà không phải chịu bất cứ chi phí gì thông tin về giá cả của người mua lại rất tốt... những yếu tố này lại làm cho khách hàng có khả năng mua chịu cao.
Tóm lại sức mạnh của người mua đối với các Doanh nghiệp ngành Dệt - may là đáng kể. Tuy nhiên, trên thực tế nhu cầu về quần áo may sẵn cho trẻ em, quần áo lót phụ nữ, quần áo ngủ phụ nữ... trên thị trường nội địa hiện tại và tiềm năng còn rất lớn. Các doanh nghiệp ngành may có nhiều cơ hội để phát triển kinh doanh , khi đầu tư nghiên cứu thiết kế các mặt hàng may sẵn. Đây là một yếu tố cho thấy ngành Dệt - may là khá "hấp dẫn" đối với các doanh nghiệp trong và ngoài ngành.
Sức mạnh của người mua là yếu tố quan trọng trong việc phân tích cơ cấu ngành, cần có một nghiên cứu đáng kể.
2.5 Sức ép từ phía người cung ứng.
Các nhà cung cấp hình thành các thị trường cung cấp các yếu tố đầu vào khác nhau bao gồm cả người bán thiết bị, nguyên vật liệu, người cấp vốn và người cung cấp lao động cho doanh nghiệp.
Sức lao động trong các doanh nghiệp ngành may gồm: lao động quản lý, lao động kỹ thuật bậc cao và lao động kỹ thuật sản xuất. Các doanh nghiệp có lợi thế trong việc lựa chọn lao động quản lý bởi vì lực lượng này là những sinh viên của những trường ĐH, CĐ mới ra trường rất đông. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng gặp phải những khó khăn nhất định, bởi lượng sinh viên mới ra trường này khá phong phú song do họ thiếu hiểu biết và thực hành về chuyên môn trong quá trình đào tạo nên không đáp ứng được ngay những yêu cầu của doanh nghiệp. Đối với lao động kỹ thuật chuyên môn và lao động kỹ thuật sản xuất thì các doanh nghiệp khá thuận lợi trong việc tuyển dụng. Khó khăn họ gặp phải là phải đầu tư chi phí để đào tạo mới liên tục khi có sự di chuyển lao động hoặc tuyển dụng mới trong kỳ.
Các doanh nghiệp có thể huy động vốn từ các nguồn chính như: các ngân hàng thương mại trong cả nước, các doanh nghiệp làm ăn có uy tín còn có thể huy động nguồn vốn trong dân dưới hình thức cổ phiếu. Nhìn chung là các doanh nghiệp ngành Dệt - may gặp nhiều thuận lợi trong việc huy động vốn, những khó khăn gặp phải chỉ là tạm thời và trước mắt.
Các doanh nghiệp ngành Dệt - may Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc trang bị máy móc thiết bị mới, hiện đại hoá dây chuyền may công nghiệp. Các nhà cung cấp từ các nước: Đức, Nhật, Hàn Quốc.... chào bán cho các doanh nghiệp Việt Nam. Một số công ty nước ngoài kết hợp với các Ngân hàng thương mại thực hiện chính sách cho thuê, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có đủ vốn.
Nguồn cung ứng vải và nguyên liệu phụ chủ yếu từ các công ty Dệt Việt Nam một số khác nhập khẩu từ nước ngoài. Nhìn chung, khả năng cung ứng nguyên liệu vải và các phụ liệu ngành may của các công ty Việt Nam còn nhiều. Điều cơ bản để biến khả năng tiềm tàng thành hiện thực là cần có chính sách hỗ trợ từ các cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước, trong đó chủ yếu là thuế và các chính sách khuyến khích sử dụng nguyên liệu nội địa.... Tiếp theo là phải kể đến mối quan hệ giữa các công ty Dệt và công ty May phải gắn bó chặt chẽ với nhau để sản phẩm dệt luôn phù hợp với nhu cầu ngành may.
Nhìn chung, các doanh nghiệp ngành Dệt - may Việt Nam có nhiều thuận lợi trong hoạt động mua sắm và dự trữ cũng như tuyển dụng lao động. Các yếu tố tạo ra sức ép từ phía nhà cung ứng mà M. Porter đưa ra như: Số lượng người cung ứng trong ngành nhiều, chi phí chuyển sang người cung ứng khác thấp, tính chất thay thế các yếu tố đầu vào là dễ... và các yếu tố khác của môi trường nội bộ ngành Dệt - may Việt Nam, tất cả đều cho thấy các doanh nghiệp Dệt - may Việt Nam khá thuận lợi trong việc lựa chọn người cung ứng, Nghĩa là sức ép từ phía các nhà cung ứng là không đáng ngại.
Tóm lại, ứng dụng kỹ thuật 5 lực lượng vào phân tích cơ cấu cạnh tranh của ngành Dệt - may Việt Nam cho chúng ta thấy được bức tranh toàn cảnh về cơ cấu cạnh tranh của ngành này. Nó đặc biệt có ý nghĩa với các doanh nghiệp trong và ngoài ngành. Đối với các doanh nghiệp trong ngành thì đây là một ngành có mức độ cạnh tranh khá cao, sức mạnh của các doanh nghiệp sẽ gia nhập là rất đáng kể, sức ép từ phía các sản phẩm thay thế là rất mạnh... những khó khăn này đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành cần có những chính sách phát triển doanh nghiệp cụ thể như: chính sách sản phẩm,chính sách giá cả... một cách phù hợp, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo cho mình một thế đứng vững chắc trên thương trường.... Còn đối với các doanh nghiệp ngoài ngành thì đây là một ngành khá "hấp dẫn" khi gia nhập.
III. Một vài biện pháp tạo Môi trường kinh doanh thuận lợi cho ngành Dệt - may Việt Nam.
1. Từ phía Doanh nghiệp .
- Một là tận dụng điểm mạnh để nắm bắt cơ hội và hạn chế nguy cơ.
+ Tận dụng kĩ thuật sản xuất của doanh nghiệp nhằm khai thác hết nhu cầu hiện tại và tiềm năng và đa dạng hoá mặt hàng phục vụ nhu cầu khách hơn.
+Tận dụng lợi thế so sánh để phục vụ tốt hơn nhu cầu khách hàng và cung cấp sản phẩm may sẵn cho khách hàng với giá cả hợp lý.
- Hai là cần phải giảm thiểu những điểm yếu.
+Gia tăng mặt hàng thay đổi mẫu mã để khai thác thị trường có nhu cầu.
+Liên kết chặt chẽ giữa các Doanh nghiệp Sợi - Dệt - May, tăng hiệu quả quản lý nhà nước ngành Dệt - may.
+sản xuất sản phẩm với nhãn hiệu Việt Nam theo phương thức tụ doanh và tranh thủ sự hỗ trợ của chính phủ để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
- Ba là trên cơ sở nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp cần phải xác định được qui mô sản xuất sao cho phù hợp phát huy hiệu quả trong sản xuất.
- Bốn là tạo sự tín nhiệm đối với Doanh nghiệp
Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường các Doanh nghiệp thường quan tâm đến uy tín và ảnh hưởng của mình trên thị trường.
+Tín nhiệm về chất lượng sản phẩm.
+Tín nhiệm về sự phục vụ của Doanh nghiệp.
- Năm là nâng cao các nghiệp vụ kinh doanh : Nó là toàn bộ những biện pháp và phương pháp giao dịch nhằm kích thích nhu cầu thị trường trong khi tiêu thụ hàng hoá, đảm bảo nhu cầu thị trường. Có thể sử dụng những biện pháp sau:
+ Sử dụng hệ thống cửa hàng để tiêu thụ sản phẩm
+ Tiêu thụ sản phẩm thông qua trưng bày mẫu
+ Tiêu thụ sản phẩm thông qua quảng cáo bán thử...
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng thông qua đại lý
-Sáu là tăng cường, mở rộng mối quan hệ cầu nối giữa Doanh nghiệp và xã hội:
+ Giải quyết mối quan hệ với khách hàng: là mục đích, ý đồ chủ yếu của doanh nghiệp, khách hàng là người quyết địnhu sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp.
+ Giải quyết mối quan hệ với các đơn vị tiêu thụ, mở rộng thị trường tiêu thụ mà trước hết hãy chuẩn bị đầy đủ điều kiện để đáp ưngá tiến trình hoà nhập khu vực, tăng cường sự hợp tác giữa các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Giải quyết mối quan hệ với các tổ chức quảng cáo, cấc cơ quan lãnh đạo doanh nghiệp
- Bẩy là sử dụng tối ưu các cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp, xác định đúng vai trò của khoa học công nghệ trong công ngiệp may để vươn tới tự chủ trong khoa học công nghệ.
Tích cực kêu gọi vốn đầu tư từ tất cả các nguồn: vốn tự có, tự vay, tự trả tín dụng, vốn của dân thông qua cổ phần và phát hành cổ phiếu, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, tranh thủ sự hỗ trợ của nhà nước về vốn dưối mọi hình thức. Thực hiện các giải pháp nhanh, mạnh hơn nữa để phát triển nguồn nhân lực có trình độ trách nhiệm.
2. Từ phía nhà nước.
Chính phủ cần hoàn thiện cơ cấu tổ chức Tổng công ty và có giải pháp hỗ trợ cùng với sự nỗ lực của tổng công ty để đảm bảo vai trò chủ đạo trong ngành Dệt - may.
Điều chỉnh chính sách cho phù hợp, đặc biệt là thời hạn vay vốn đầu tư.
Để bảo hộ sản xuất trong nước, nhà nước cần phải có biện pháp kiên quyết và có hiệu quả ngăn chặn hàng nhập lậu từ Trung Quốc, đồng thời có biện pháp hỗ trợ ngành Dệt - may trong việc tìm kiếm thị trường mới.
Ngoài ra cũng cần cải tiến môi trường kinh tế - xã hội,... tiếp tục đảm bảo ổn định chính trị trong nước, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh.
Nâng cao vai trò chỉ đạo của nhà nước đối với ngành Dệt - may, có những chính sách hỗ trợ thoả đáng cho mặt hàng Dệt - may xuất khẩu. Nhà nước nên có cách thức chỉ đạo các địa phương thực hiện dầu tư phát triển ngành Dệt - may theo đúng hướng và đúng qui vùng, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành thực hiện mục tiêu phát triển, tránh đầu tư tràn lan kém hiệu quả.
IV. Kết luận
Như vậy mô hình 5 lực lượng mà Porter đưa ra đã cung cấp một cái nhìn toàn diện về tình hình cạnh tranh của một doanh nghiệp. Và nó cho phép doanh nghiệp tập trung vào những yếu tố quan trọng nhát và đánh giá một cách tổng thể sự hấp dẫn của một ngành kinh doanh từ giác độ của một doanh nghiệp trong ngành đó.
Tuy nhiên mô hình 5 lực lượng cũng còn nhiều hạn chế như:
- Nó đòi hỏi một nỗ lực lớn trong việc nghiên cứu toàn diện các nhân tố quyết định mỗi lực lượng.
- Mô hình 5 lực lượng là một mô hình tĩnh để mô tả về thế giới động.
- Mô hình 5 lực lượng quá xem nhẹ các yếu tố đặc thù của từng doanh nghiệp, mà thực tế các yếu tố đặc thù này có vai trò quan trọng trong việc hình thành và duy trì lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp trong ngành.
Ngoài ra, việc phân tích môi trường ngành cần chú trọng hơn đến vai trò của các "đối tượng hữu quan khác" và xem nó như một "lực lượng thứ 6" tác động đến tình hình cạnh tranh của ngành (các đối tượng hữu quan này có thể là các tổ chức chính quyền, hiệp hội các cổ đông, cộng đồng địa phương). Chính vì vậy khi phân tích môi trường của ngành cần phân tích cả "lực lượng thứ 6" nữa. Và điều đó cũng không loại trừ khi phân tích môi trường kinh doanh cho ngành Dêt - may Việt Nam. Để từ đó có thể giúp cho ngành tiếp tục thu hút nhiều lực lượng lao động hơn, có tốc độ tăng trưởng cao hơn phát huy được nhiều hơn về: nhân công, kinh nghiệm sản xuất, tổ chức quản lý, phối hợp hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các đơn vị, tìm kiếm thị trường. Giúp cho ngành Dệt - may là ngành có nhiều triển vọng trong những năm tới.
Nói tóm lại, phân tích môi trường kinh doanh là một yếu tố khách quan đối với mọi doanh nghiệp nói chung và đối với các doanh nghiệp thuộc ngành may mặc nói riêng, bởi nếu một doanh nghiệp chỉ biết sản xuất mà không quan tâm đến việc phân tích môi trường kinh doanh thì sớm hay muộn cũng đi đến phá sản bởi lẽ nó sẽ không chớp được những cơ hội thuận lợi và ngược lại, không tránh được các rủi ro của thương trường mà chúng có thể đến bất cứ lúc nào.
Ngoài môi trường tổng quát và môi trường ngành, Doanh nghiệp còn cần quan tâm đến môi trường nội bộ doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp có sự phân công lao động hợp lý, một cơ chế quản lý thích hợp, phát huy được tiềm năng của mỗi cá nhân, một không khí làm việc thân ái, đoàn kết chắc chắn doanh nghiệp sẽ thu được nhiều kết quả trong sản xuất và kinh doanh.
Tài liệu tham khảo
1- Chiến lược kinh doanh và phát triển Doanh nghiệp
Nhà xuất bản Giáo dục - 1999
2- Môi trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh
Nhà xuất bản Giáo dục - 1997
3- Phát triển môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghiệp và chế biến thực phẩm.
Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật
4- Kinh tế Quản lý
Chủ biên: GS-TS Ngô Đình Giao
5- Những giải pháp chiến lược nhằm nâng cao hiêu quả ngành may mặc Việt Nam - Phạm Thị Thu Hương
Nhà xuất KHKT
6- Tạp chí Phát triển Kinh tế số 144/2000
7- Thời báo kinh tế số 62/99
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35471.doc