Đề án PHÂN TÍCH NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ DỰ BÁO NGUỒN VỐN ODA CỦA Việt Nam ĐẾN NĂM 2010

Qua bảng 3 ta thấy sai số bình phương là rất nhỏ, dự báo cho khoảng thời gian ngắn (3 năm 2008,2009,2010). Kết quả trong bảng trên có thể tin cậy. Kết hợp phân tích định tính và phân tích định lượng ta thấy kết quả dự báo khá khả quan. Hơn nữa, chính phủ đã ban hành những cơ chế chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư như luật đầu tư, nghị định 17/CP về quản lý và sử dụng ODA, tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện để nâng cao năng lực cán bộ trong lĩnh vực ODA, chuẩn bị dự án chi tiết, tăng cường khả năng đàm phán cùng với việc mở rộng quan hệ đối ngoại với hơn 160 nước trên thế giới đã đang và góp phần làm cho lượng vốn ODA vào Việt Nam trong thời gian qua tăng lên đáng kể.Mục tiêu mà chính phủ đặt ra cho giai đoạn 2006-2010 là nguồn vốn ODA đạt khoảng 20,35 - 23,75 tỷ USD có thể thực hiện được.

doc29 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2914 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án PHÂN TÍCH NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ DỰ BÁO NGUỒN VỐN ODA CỦA Việt Nam ĐẾN NĂM 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC PHÂN TÍCH NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ DỰ BÁO NGUỒN VỐN ODA CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010. A. MỞ ĐẦU. Vấn đề huy động và tích lũy vốn cho Công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước mang tính cấp thiết hiện nay và lâu dài.Chiến lược lâu dài là phải tối đa huy động nguồn vốn trong nước để nguồn vốn này chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư. Tuy nhiên những năm đầu của thời kỳ công nghiệp hóa đòi hỏi nguồn vốn lớn mà vốn trong nước còn hạn chế nên nguồn vốn bên ngoài đóng một vai trò rất quan trọng. Để đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, mà phần lớn là chậm thu hồi vốn, chúng ta phải khai thác nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA (Official Development Asistance). Trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm từ năm 2001 đến 2010 và định hướng kế hoạch 5 năm 2006-2010, chính phủ Việt Nam khẳng định: “ tiếp tục nâng cao khả năng cạnh tranh về thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) và ODA. Thực tế việc sử dụng ODA trong thời gian qua đã phù hợp với ưu tiên phát triển của chính phủ, đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển của kinh tế, xã hội của Việt Nam. Trong bối cảnh của nước ta, vẫn tiếp tục có nhu cầu cao về ODA để bổ sung nguồn lực cho sự phát triển, đồng thời cạnh tranh thu hút nguồn vốn này trên phạm vi toàn cầu đang ngày càng gay gắt.Viếc phân tích những nhân tố ảnh hưởng đên việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA và công tác dự báo nguồn vốn này vào Việt Nam trong thời gian tới để giúp cân đối vốn đầu tư toàn xã hội, định hướng đầu tư và có biện pháp quản lý, sử dụng hiệu quả… là hết sức cần thiết và cấp bách. Chính vì vậy mà đề án môn hoc này sẽ phân tích những nhân tố ảnh hưởng đó kết hợp với phương pháp dự báo mang tính chất khái quát để đưa ra kết quả dự báo đáng tin cậy về nguồn vốn ODA vào Việt Nam đến 2010. Nội dung của đề án môn học gồm 3 phần chính: CHƯƠNG 1:Giới thiệu chung về nguồn vốn ODA. CHƯƠNG 2: Tình hình thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua. CHƯƠNG 3.Dự báo và phân tích kết quả. B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: ODA VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THU HÚT, SỬ DỤNG ODA. I. Những vấn đề chung về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA. 1.Khái niệm Nguồn vốn ODA là nguồn vốn tài chính do các cơ quan chính thức ( chính quyền nhà nước hay địa phương) của một nhà nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của nước này. 2. Đặc điểm ODA mang tính ưu đãi: - ODA có thời gian cho vay( hoàn trả vốn) dài,có thời gian ân hạn dài(chỉ trả lãi, chưa trả nợ gốc).Đây cũng là sự ưu đãi dành cho nước vay, vốn là nước nghèo. Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại( tức là cho không). Đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Thành tố cho không được xác đinh dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh mức lãi suất viện trợ với lãi suất tín dụng thương mại. Cho vay ưu đãi hay còn gọi là cho vay mền. - ODA mang tính ràng buộc: ODA có thể ràng buộc ( hoặc ràng buộc một phần hoặc không rằng buộc) nước nhận về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra, mỗi nước cung cấp cũng có những ràng buộc khác và nhiều khi những ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật Bản ( hoàn lại hoặc không hoàn lại) đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật Bản.ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước nhận và lợi ích của nước viện trợ.Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị, mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị của nước tài trợ.Vì vậy, khi nhận viện trợ, các nước cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của nhà tài trợ. Không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. - ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ: Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA, do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần thường chưa xuất hiện ngay. ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu, trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp các loại nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu. 3.Phân loại: Theo tính chất: - Viện trợ không hoàn lại:các khoản cho không, không phải trả lại. - Viện trợ có hoàn lại: các khoản vay ưu đãi ( tín dụng với lãi suất thấp và thời gian ân hạn dài). - Viện trợ hỗn hợp:gồm một phần cho không, phần còn lại thực hiện theo hình thức tín dụng ( có thể là ưu đãi hoặc thương mại). Theo mục đích: - Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường. Đây là những khoản cho vay ưu đãi. - Hỗ trợ kỹ thuật: là những nguồn lực dành cho chuyển giao trí thức, công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư, phất triển thể chế và các nguồn lực…laoị hỗ trợ này chủ yếu là hỗ trợ không hoàn lại. Theo điều kiện: - ODA không ràng buộc nước nhận: việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng. - ODA có ràng buộc nước nhận. - Theo đối tượng sử dụng: - Hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể. Nó có thể hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu đãi. - Hỗ trợ phi dự án bao gồm các loại hình như sau: hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ trả nợ và viện trợ chương trình. 4.Nguồn gốc lịch sử của ODA: ODA ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II, cùng với kế hoạch Marshall để giúp các nước Châu Âu phục hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Để tiếp nhận viện trợ của kế hoạch Marshall, các nước Châu Âu thành lập tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Ngày nay, tổ chức này không chỉ có thành viên là các nước Châu Âu mà còn có Mỹ, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc… Trong khuôn khổ hợp tác phát triển, các nước OECD lập ra những ủy ban chuyên môn, trong đó có ủy ban phát triển (DAC) nhằm giúp các nước đang phát triển. ODA được thực hiện trên cơ sở đa phương hoặc song phương. Các nước và các tổ chức cung cấp ODA. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu: - Các nước thành viên của DAC. - Liên Xô và các nước Đông Âu. - Một số nước Ả Rập. - Một số nước đang phát triển. Trong các nguồn này ODA từ các nước thành viên của DAC là lớn nhất. Năm 1992 DAC cung cấp 62,711 tỷ USD chiếm 0,34% tổng GNP của các nước này. Năm 1997 DAC cung cấp 48,324 tỷ USD bằng 0,225% tổng GNP. Bên cạnh việc cung cấp ODA trực tiếp( viện trợ song phương), các nước cung cấp ODA còn chuyển giao ODA cho các nước đang phát triển thông qua các tổ chức viện trợ đa phương. Các tổ chức đó là: - Các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp quốc như: chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc, Quỹ Nhi Đồng Liên hợp Quốc, chương trình lương thực thế giới, quỹ dân số Liên Hợp Quốc, Tổ chức Y tế thế Giới, tổ chức nông nghiệp và lương thực v.v.. - Liên minh Châu Âu (european Union-EU). - Các tổ chức phi chính phủ (NGO). - Các tổ chức tài chính quốc tế: IMF, WB, ADB, Quỹ viện trợ của các tổ chức OPEC, quỹ CÔ-OET, ngân hàng phát triển Châu Phi… 5.Vai trò của ODA với các nước đang phát triển: ODA là một nguồn vốn quan trọng đối với các nước đang và chậm phát triển. Vốn đầu tư cùng với tài nguyên thiên nhiên, lao động và kỹ thuật là bốn nguồn lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tất cả các nước khi tiến hành công nghiệp hóa đều cần có vốn đầu tư lớn. Đó là trở ngại lớn nhất để thực hiện công nghiệp hóa đối với nước nghèo. Trong điều kiện hiện nay, với những thành tựu mới của công nghệ các nước có thể tiến nhanh ko chỉ bằng khả năng tích lũy trong nước mà còn phải kết hợp tận dụng xu thế thời đại. Bên cạnh nguồn vốn trong nước còn có thể huy động nguồn vốn nước ngoài, nhiều khi với khối lượng lớn. tuy nhiên vốn trong nước có vai trò quan trọng, vốn nước ngoài có khả năng thúc đẩy sự phát triển. đối với các nước đang phát triển ODA là nguồn vốn tài chính quan trọng. nhiều nước đã tiếp thu một lượng ODA khá lớn như một bổ sung quan trọng cho phát triển. sau chiến tranh thế giới thứ 2, nhiều nước ở châu á đã thiếu vón để khôi phục và phát triển kinh tế. đầu tư vào cơ sở hạ tầng đòi hỏi một lượng vốn khá lớn, lãi suất thấp thời gian thu hồi vốn lâu, nhiều rủi ro. Vì vậy các nước gặp nhiều khó khăn trong việc thu hồi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực này. Nhiều nước đã tranh thủ được nguồn vốn ODA từ các nước giàu. Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, đài loan đã nhận viện trợ từ hoa kì tới 1,482 tỷ USD. Vốn viện trợ đã góp phần rất đáng kể cho quá trình đi lên của Đài Loan. Từ một nước nhận viện trợ, những năm gần đây Đài Loan đã trở thành một nước cung cấp viện trợ. Hiện nay Nhật Bản là nhà viện trợ hàng đầu trên thế giới, nhưng trước đây cũng là một nước nhận viện trợ. Năm 1945, ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Nhật Bản đã gặp rất nhiều khó khăn và đã nhận được giúp đỡ của Hoa Kỳ cùng các nước khác trên thế giới, quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) và các tổ chức của Liên Hợp Quốc bằng thực phẩm, thuốc men, các dịch vụ y tế và một số hình thức khác. Trong nhưng năm 50 nhật bản đã phục hồi với một tốc đọ thần kì. Với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, các tổ chức tài chính quốc tế như WB, nhiều dự án lớn đã được thực hiện: các dự án đường xe lửa cao tốc Shinkansen, những dự án đường cao tốc, các dự án xây dựng đập nước… nền kinh tế Nhật Bản đã phát triển nhanh chóng với sự giúp đỡ của vốn ODA. Đầu những năm 60 nhật bản là nước nhận viện trợ từ WB nhiều thứ 2 trên thế giới. năm 1990 Nhật Bản đã trả nợ xong cho ngân hàng thế giới. ODA giúp các nước nghèo tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực. Những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho các nước nhận tài trợ là công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý tiên tiến hiện đại các nhà tài trợ còn ưu tiên đầu tự cho nguồn nhân lực vì họ tin tưởng rằng việc phát triển của một quốc gia quan hệ mật thiết với sự phát triển của nguồn nhân lực. đây mới chính là những lợi ích căn bản, lâu dài đối với nước nhận viện trợ. Những lợi ích này thật khó mà có thể lượng hóa được. hộ tác kỹ thuật của Nhật Bản là một ví dụ rất sinh động về vai trò của hỗ trợ phát triển chính thức trong việc giúp các nước đang phát triển tiếp thu những thành tựu khoa học hiện đại công nghệ tiến tiến và phát triển nguồn nhân lực. ODA giúp các nước đang phát triển điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Do dân số tăng nhanh hơn sản xuất và cung cách quản lý kinh tế tài chính kém hiệu quả các nước đang phát triển mà đặc biệt là các nước Châu Phi đang vấp phải nhiều khó khăn kinh tế như nợ nước ngoài và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ngày càng tăng. Để giải quyết các vấn đề này, các quốc gia đang cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với ngân hàng thế giới, quỹ tiền tệ quốc tế và các tổ chức quốc tế khác tiến hành điều chỉnh cơ cấu. chính sách này dự định chuyển chính sách kinh tế nhà nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách khuyến khích nền kinh tế phát triển theo định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Thế giới đã thừa nhận sự cần thiết của loại hình viện trợ này đối với các nước đang phát triển và nhật bản cũng chú trọng loại hình này. Nhật Bản đã tích cực tham gia hỗ trợ cho những cuộc cải cách này. Trong giai đoạn 3 năm từ 1993 đến 1995, Nhật Bản đã giành một khoản viện trợ tổng cộng khoảng gần 700 triệu USD để hỗ trợ điều chỉnh kinh tế của các nước đang phát triển. ODA góp phần tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư trong nước và các nước đang và chậm phát triển. Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầ tự vào một nước, trước hết họ quan tâm đến khả năng sinh lợi của vốn đầu tự tại nước đó. Họ cảnh giác với nguy cơ làm tăng các phí tổn của đầu tư. Một cơ sở hạ tần yếu kém như giao thông chưa hoàn chỉnh thiếu thốn và lạc hậu hệ thống cung cấp năng lượng ko đủ sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư về những chi phí mà họ phải trả cho việc sử dụng những tiện nghi hạ tầng sẽ lên cao, chưa kể đến thiệt hại như hoạt động của nhà máy, xí nghiệp phải dừng vì mất điện công trình xây dựng phải bỏ dở vì ko có nước… Như vậy, đầu tư của chính phủ vào việc nâng cấp cải thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho môi trường đầu tư trở lên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựngcơ sở hạ tầng là rất lớn nhiều trường hợp các nước đang phát triển cần dựa vào nguồn vốn ODA để bổ sung cho đầu tư hạn hẹp từ ngân sách nhà nước. một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI. Rõ ràng, ngoài việc bản than ODA là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước đang và chậm phát triển, nó còn làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước góp phần thực hiện thành công chiến lược đối ngoại. Tất cả các nước theo đuổi chiến lược đối ngoại đều có nhịp độ tăng trưởng kinh tế rất nhanh và biến đổi kinh tế trong nước mạnh mẽ để chuyển từ nước nông công nghiệp thành nước công nông nghiệp hiện đại,có mức thu nhập bình quân đầu người cao . II. Những nhân tố ảnh hưởng. Điều kiện để các nước có thể nhận được nguồn vốn ODA: Vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận được viện trợ: - Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc ( gross domestic product – GDP) bình quân đầu người thấp. Nước có bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn. khi các nước này đạt trình độ phát triển nhất định qua ngưỡng đói nghèo thì sự ưu đãi này sẽ giảm đi. Việt Nam sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình( dự kiến đến năm 2010, GDP bình quân đầu người của Việt Nam sẽ đạt 1.050 USD), các nhà tài trợ sẽ tăng lượng ODA cho vay thay vì ODA ưu đãi như hiện nay. Do đó, Việt Nam cần phải sử dụng tốt hơn nguồn vốn ODA hiện nay. Điều kiện thứ hai: mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận ODA. Thông thường, các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn (về công nghệ, kinh nghiệm quản lý…). Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy phải nắm được hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết. Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong những điều kiện nhất định, một phần GNP từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Như vậy, nguồn gốc thực chất của ODA chính là một phần tổng sản phẩm quốc dân của các nước giàu được chuyển sang các nước nghèo. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp nhận ODA. Vì vậy, chúng ta phải hài hoà quy trình và thủ tục ODA giữa Chính phủ và các nhà tài trợ. Để thu hút được nguồn vốn ODA từ nhà tài trợ thì Việt Nam phải sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA, có như vậy mới tạo được niềm tin từ phía người cung cấp. Về phía nhà tài trợ cũng đánh giá cao hiệu quả và hiệu suất sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam nói chung và từng nhà tài trợ nói riêng. Việt Nam cũng được đánh giá là quốc gia thành công nhất trong số các nước nhận IDA. Trên cơ sở này, ngân hàng thế giới đã đánh giá cao hệ số tin cậy tín dụng của Việt Nam và đã quyết định mở kênh tín dụng mới của ngân hàng tái thiết và phát triển dành cho Việt Nam Xu hướng vận động của nguồn vốn ODA: Trong thời đại ngày nay, dòng vốn ODA đang vận động với nhiều sắc thái mới. Đây cũng là một trong nhiều nhân tố tác động đến việc thu hút nguồn vốn ODA.Bởi vậy, nắm bắt được những xu hướng vận động mới này là rất cần thiết đối với các nước nhận viện trợ. Về số lượng: Tổng khối lượng của ODA trên thế giới tăng chậm trong những năm 1960. trong những năm 1970 và 1980 viện trợ từ các nước thuộc OECD vẫn tăng liên tục. Đến giữa thập niên 80 khối lượng viện trợ đạt mức gấp đôi đầu thập niên 70. cuối những năm 1980 đến những năm 1990 ODA vẫn tăng nhưng với tỷ lệ thấp. năm 1991, viện trợ phát triển chính thức đã đạt tới con số đỉnh điểm là 69 tỷ USD theo giá năm 1995. Năm 1996, 21 nước tài trợ OECD đã dành 55,114 tỷ USD cho viện trợ, bằng 0,25% tổng GDP của họ và bằng 1,71% tổng chi ngân sách của chính phủ các nước này. Cũng trong năm này tỷ lệ ODA/GNP của các nước DAC chỉ là 0,25%. So với năm 1995, viện trợ của OECD đã giảm 3,768 tỷ USD, tức khoảng 4,2%. Năm 1995, tại hội nghị cấp cao thế giới về phát triển xã hội, chính phủ các nước đã tự nguyện cam kết thực hiện “ thỏa thuận 2020”. Các nước viện trợ cam kết dành 20% nguồn viện trợ và các nước viện trợ dành 20% chi tiêu công cộng cho các dịch vụ cơ bản. Năm 1969, DAC đã xác định mục tiêu là các nước phát triển dành 0,7% GNP của nước mình cho viện trợ phát triển của nước ngoài. Tháng 6/1997, tại phiên họp đặc biệt của đại hội đồng Liên Hợp Quốc (UNGASS), các nước thành viên DAC một lần nữa khẳng định cam kết dành 0,7% GNP cho viện trợ. Mặc dù từ đó tới nay có rất ít đạt được mục tiêu này và đã có một số nước giảm khối lượng viện trợ trong những năm qua. Các nước thành viên DAC trừ Hoa Kỳ vẫn tiếp tục khẳng định cam kết này. Năm 1996, DAC đã công bố một công trình có tiêu đề “kiến tạo thế kỷ 21: cống hiến của hợp tác phát triển”. trong công trình này, các nước thành viên DAC cam kết phấn đấu đạt mục tiêu cụ thể đã dược nhất trí tại hội nghị của Liên Hợp Quốc. Đó là: - Giảm một nửa tỷ lệ những người đang sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực vào năm 2015 - Phổ cập giáo dục tiểu học ở tất cả các nước vào 2015. - Xóa bỏ sự phân biệt giới tính trong giáo dục tiểu học và trung học vào năm 2005, coi đây là một sự tiến bộ bình đẳng về giới và tăng quyền lực của phụ nữ. - Giảm 2/3 tỷ lệ tỷ vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 5 tuổi và giảm 3/4 tỷ lệ tỷ vong ở tuổi trưởng thành vào năm 2015. - Thực hiện các chiến lược quốc gia và toàn cầu vào năm 2000 vì sự phát triển bền vững của tất cả các nước. Tuy ngày càng nhiều cam kết quan trọng trong quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức nhưng nguồn vốn ODA tăng chậm. Liên hợp quốc kêu gọi các nước phát triển phấn đấu đạt tỷ lệ ODA/gnp là 1% trong tương lai nhng các nước phát triển vẫn còn cách xa mục tiêu 0,7% GNP cho viện trợ. Nhật Bản và Hoa Kỳ, hai nhà tài trợ hàng đầu thế giới, từ trước tới nay chưa bao giờ dành 0,35%GNP cho ODA. Nhiều nước đang phải đối mặt với những vấn đề mang tính toàn cầu như dịch bệnh, khủng bố…khiến cho ODA tăng chậm. Tình trạng tài chính của các nghèo mắc nợ nhiều, khả năng hấp thụ ODA còn hạn chế, thiếu chủ động trong thu hút viện trợ… cũng là nguyên nhân “làm nguội” nhiệt tình của nhà tài trợ. Ngoài ra trên thế giới xuất hiện những quan điểm mới, tiến bộ và hiệu quả ODA. Hiêu quả sử dụng ODA được quan tâm hơn bao giờ hết chứ không phải chú trọng vào số lượng. bởi vậy them một lý do để các nước giàu mở hầu bao của mình một cách thận trọng hơn. Hơn nữa, hiện nay ở nhiều nước, người dân muốn chính phủ giảm bớt ngoại viện để tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội môi trường trong nước. Cơ cấu: - ODA không hoàn lại: không quá 25% tổng vốn ODA cam kết - ODA ưu đãi: cho vay tín dụng với lãi suất thấp và thời gian ân hạn dài có xu hướng tăng. - ODA thường ưu tiên các lĩnh vưc:bảo vệ môi trường,vấn đề phụ nữ, giáo dục, y tế, giao thông, xóa đói giảm nghèo… Mục tiêu và yêu cầu của các nhà tài trợ ngày càng cụ thể, tuy nhiên ngày càng có sự nhất trí cao giữa nước tài trợ và nước nhận viện trợ về một số mục tiêu và yêu cầu ngầy càng cụ thể hơn. Mục tiêu và yêu cầu ngày cụ thể khiến cho nước nhận viện trợ nhanh chóng xác định khả năng thỏa mãn những vấn đề mà nhà tài trợ đặt ra, đồng thời không lệch hướng trong quá trình thực hiện. Các mục tiêu đạt được sự nhất trí ngày càng cao giữa nhà tài trợ và nước nhận viện trợ là: - Tạo tiền đề tăng trưởng kinh tế. - Xóa đói giảm nghèo. - Bảo vệ môi trường. - Hỗ trợ khai thác tiềm năng và sử dụng chúng một cách hiệu quả. Cạnh tranh giữa các nước đang phát triển trong thu hút ODA đang tăng lên: ODA đang là đối tượng cạnh tranh gay gắt trong các ưu tiên phân phối ngân sách. Nguyên nhân thứ nhất: Do các nước Đông Âu và các nước Cộng Hòa thuộc Liên Xô (cũ) mới trở thành các nước nhận viện trợ. Riêng các nước Trung Á với quy mô khoảng 50 triệu dân và thuộc các nước đang phát triển đã cần đến một khối lượng ODA lớn. nguyên nhân thứ hai là quốc tế đang đặt ra trách nhiệm giúp đỡ các nước đang phát triển giải quyết những vấn đề môi trường toàn cầu như sự thay đổi khí hậu, bảo vệ tầng Ozon, bảo vệ sinh thái, bảo vệ nguồn nước. các nước đang phát triển phải cạnh tranh để nhận được sự giúp đỡ này vì cung cấp ODA nhỏ hơn nhu cầu về vốn ODA rất nhiều. Hơn nữa, vốn ODA dành cho các vấn đề môi trường có một tỷ trọng lớn thường là viện trợ không hoàn lại, các nước đều muốn nhận sụ ưu đãi này. Nguyên nhân thứ ba, gần đây trên thế giới đã xuất hiện một loạt các vấn đề mà giải quyết chúng cần đến những khoản ODA khẩn cấp như: khắc phục chiến tranh, giải quyết mâu thuẫn sắc tộc ở Châu Phi… Trong nhiều năm tới sự cạnh tranh thu hút nguồn vốn bên ngoài vào các nước đang phát triển tiếp tục căng thẳng vì mức cầu dòng vốn này sẽ tăng mạnh trong khi mức cung có thể thu hẹp. tuy nhiên, Việt Nam đang dành được sự quan tâm, ủng hộ của tài trợ quốc tế. theo đánh giá của các nhà tài trợ, trong nhóm có thu nhập thấp, Việt nam đang tiến hành cải cách và bước đầu có những thành công. Việt Nam cần phải tranh thủ khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TRONG THỜI GIAN QUA. I.Thực trạngODA trong giai đoạn 1975- 1993:nguồn vốn ODA. Chủ yếu từ các nước Xã Hội Chủ Nghĩa mà lớn nhất là Liên Xô(cũ). Tính đến năm 1990, Việt Nam nhân được12,6 tỷ rúp chuyển nhượng của Liên Xô dưới hình thức tín dụng ưu đãi và viện trợ không hoàn lại. Từ năm 1990, nguồn viện trợ từ các nước thành viên CMEA giảm đột ngột và chấm dứt do Đông Âu tan rã và Liên Xô sụp đổ, giải thể CMEA. Một số công trình đã được xây dựng và phát huy hiệu quả như: nhà máy thủy điện Hòa Bình, nhà máy thủy điện Trị An, nhiệt điện Phả Lại, xi măng Bỉm Sơn, mỏ Apatit Lào Cai, cầu Thăng Long. II.Thực trạng ODA ở Việt nam từ năm 1993 trở lại đây Kể từ khi quan hệ tài chính giữa Việt Nam và các tổ chức tiền tệ quốc tế như: IM,ADB,WB( bắt đầu từ khi sự kiện chiến tranh biên giới VIệt Nam – Campuchiaxayr ra năm 1968) lượng vốn ODA cam kết tăng liên tục qua các năm. Đơn vị: tỷ USD. Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 ODA cam kết 1,81 1,94 2,26 2,43 2,4 2,7 2,91 2,4 2,4 ODA giải ngân 0,41 0,72 0,74 0,9 1,0 1,24 1,35 1,65 1,5 Năm 2002 2003 2004 2005 Tổng 2006 2007 Tổng ODA cam kết 2,6 2,83 3,4 3,5 33,58 3.745 4.445 41,77 ODA giải ngân 1,55 1,42 1,6 1,7 15,78 1,9 2,0 19.68 Nguồn: bộ kế hoạch- đầu tư. Mặc dù nguồn vốn ODA của thế giới có xu hướng giảm mạnh nhưng nguồn ODA các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam trong những năm từ 2001 đến 2007 vẫn tăng. Kể từ khi nối lại quan hệ với các nhà tài trợ (tháng 11-1993), Việt Nam đã đón nhận được sự cam kết và viện trợ vốn ODA của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Tổng kết 12 năm chính thức tiếp nhận nguồn vốn ODA, bên cạnh những mặt thành công, thì báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nhấn mạnh rằng, vai trò cũng như lợi ích mà nguồn vốn ODA đem lại chưa như mong muốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội mà nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Theo số liệu thống kê, từ năm 1993 đến hết 2005, số vốn các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam (vốn ODA) là 33,58 tỷ USD, trong đó số vốn đã giải ngân là 15,78 tỷ USD. Đặc biệt trong 5 năm gần đây, nguồn vốn ODA mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam tăng khá đều, năm 2001 đạt 2,4 tỷ; năm 2002 là 2,6 tỷ; 2003 là 2,83 tỷ, 2004 là 3,4 tỷ và năm 2005 là 3,5 tỷ. Những kết quả này cho thấy sự tin tưởng, đồng tình và ủng hộ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc đổi mới và các chính sách phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Hơn nữa, các nhà tài trợ quốc tế đánh giá rất cao về môi trường phát triển kinh tế-xã hội của nước ta đang ngày một hấp dẫn, thông thoáng với những tiêu chí của một nền kinh tế thị trường.  Thời kỳ 1993-2006 tổng cộng đã có 37 tỷ USD được các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam, chiếm 2% tổng ODA toàn cầu. Trong đó, có 22,6 tỷ USD đã được ký kết, bình quân mỗi năm Việt Nam thu hút được 2,5 tỷ USD. Tổng cam kết vốn ODA cho hai năm 2006-2007 lên 8,19 tỷ USD, đạt khoảng 40% dự báo cam kết vốn ODA cho cả hai thời kỳ 2006-2010. Năm 2007 cũng là năm thứ 3 liên tục kế hoạch giải ngân vốn ODA được thực hiện và vượt kế hoạch đề ra. Dự kiến tổng vốn ODA trong năm 2007 sẽ giải ngân đạt khoảng 2 tỷ USD, vượt khoảng 5% so với kế hoạch đề ra. Mặc dù giải ngân đạt và vượt kế hoạch nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ giải ngân 11,9 tỷ USD vốn ODA của kế hoạch 5 năm 2006-2010 thì trong 2 năm 2006-2007 mới giải ngân được khoảng 3,9 tỷ USD, đạt khoảng 32%. Thực tế này đặt ra bình quân cần giải ngân 2,6-2,7 tỷ USD/năm cho 3 năm còn lại và cần tập trung nhiều biện pháp quyết liệt để đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ giải ngân đã đề ra. Chính phủ dự kiến, tổng vốn ODA được ký kết từ năm 2006-2010 sẽ đạt khoảng từ 20,35- 23,75 tỷ USD. Đặc biệt, chính phủ có kế hoạch mở rộng đối tượng thụ hưởng ODA kể cả các thành phần kinh tế tư nhân 4 năm tới vay thêm 23,7 tỷ USD. Có khoảng 8 tỷ USD là vốn ODA chuyển tiếp từ thời kỳ 2001 – 2005 và từ 12,35 – 15,75 tỷ USD là ký kết mới trong giai đoạn 2006 – 2010. Trong khi đó, tổng nguồn vốn ODA sẽ giải ngân trong thời kỳ 2006 – 2010 dự báo đạt khoảng từ 11,46 – 12,41 tỷ USD. Trong số ODA đã được ký kết, phần lớn tập trung cho các dự án đầu tư (41%), các dự án hỗ trợ kỹ thuật (23%) và phi hỗ trợ kỹ thuật (20%). Chỉ có 13% vốn giải ngân năm 2005 là dành cho các chương trình viện trợ ngân sách và trợ giúp cán cân thanh toán. Do thu hút tốt nguồn vốn quan trọng này, nên giai đoạn 2001-2005, ODA đã bổ sung khoảng 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 17% tổng vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước. Nhờ vậy đã góp phần xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy kinh tế phát triển. Nguồn vốn ODA với những ưu điểm như: Quy mô lớn, lãi suất thấp (dưới 3%, trung bình từ 1-2%/năm); thời gian cho vay dài (25-40 năm); có một phần viện trợ không hoàn lại khá lớn, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA... Thông qua nguồn vốn ODA, nhiều công trình, chương trình đã được xây dựng, triển khai. Đặc biệt có nhiều dự án vốn ODA đã được ký kết thực thi đem tới nhiều ý nghĩa kinh tế-xã hội quan trọng đối với quá trình phát triển đi lên của cả nước, như: góp phần vào sự thành công của chương trình dân số và phát triển; chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em... nhiều công trình lớn được xây dựng từ nguồn vốn ODA: cầu Mỹ Thuận, cầu Sông Gianh, dự án nâng cấp quốc lộ 1A, dự án thủy lợi Cửa Đạt-Thanh Hóa... Tuy nhiên, qua những năm thực hiện tiếp nhận nguồn vốn ODA đang nổi lên một hạn chế lớn, đó là: Tỷ lệ giải ngân còn chậm, nên chưa phát huy được hiệu quả tốt nhất lợi thế mà nguồn vốn ODA có được. Chỉ tính riêng trong 5 năm (2001-2005) giải ngân vốn ODA ở nước ta mới đạt khoảng 87% so với kế hoạch đã đề ra.  Được biết, không kể các phần chi phí tại các nước tài trợ và chi cho chuyên gia, năm 2001 chỉ giải ngân được 1,5 tỷ USD, năm 2002 giải ngân được 1,55 tỷ USD, năm 2003: 1,42 tỷ USD, năm 2004: 1,6 tỷ USD, năm 2005: 1,7 tỷ USD. III.Tồn tại Bên cạnh những thành tựu đạt được cung còn nhiều yếu kém trong công tác sử dụng ODA. Thứ nhất , chậm trễ trong việc giải ngân, làm giảm hiệu quả sử dụng và giảm lòng tin của các nhà tài trợ đối với năng lực tiếp nhận của ta. Thứ hai, thiếu quy hoạch vận động và sử dụng ODA, các văn bản pháp quy về quản lý và sử dụng ODA còn thiếu tính đồng bộ, nhất quán, minh bạch, nhất là trong các vấn đề liên quan đến quản lý đầu tư và xây dựng, thực thi các văn bản pháp luật về quản lý ODA chưa nghiêm. Thứ ba, công tác theo dõi và đánh giá dự báo bị buông lỏng. Nhiều cơ quan chủ quan ở Trung ương và các tỉnh chưa quản lý được các dự án của mình. Kỷ luật báo cáo về tình hình thực hiện các chương trình, dự án thực hiện thiếu nghiêm túc. Thứ 4, năng lực cán bộ ở các cấp còn nhiều bất cập và thiếu tính chuyên nghiệp trong quản lý và sử dung ODA những yếu kém nêu trên còn có nguyên nhân sâu xa là cơ quan thụ hưởng ODA chưa phát huy đầy đủ vai trò làm chủ trong việc khai thác nguồn lực này phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với đặc thù của ODA. Điều này thể hiện trong nhiều khâu như: công tác quy hoạch, kế hoạch và điều phối, chuẩn bị và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án ODA công tác huấn luyện và đào tạo về ODA chưa được chú ý đúng mức cũng như trong việc theo dõi, đánh giá dự án. Nguyên nhân c ủa tình trạng giải ngân chậm.: + Nguyên nhân khách quan: - Thủ tục phức tạp từ phía nhà tài trợ. - Trình độ và hiểu biết hạn chế của tư vấn nước ngoài: Một số không nhỏ các dự án đầu tư bằng vốn ODA gặp phải tình trạng tuyển dụng các tư vấn quốc tế thiếu kinh nghiệm hiểu biết về các đièu kiện của Việt Nam nên chất lượng thiết kế không đảm bảo dẫn đến hậu quả phải kéo dài thời gian để chỉnh sửa, làm chậm dự án. + Nguyên nhân chủ quan: - Chậm giải phóng mặt bằng. - Sự khác biệt về quy trình thủ tục giữa các nhà tài trợ và phía Việt Nam. - Mức quản lý và giám sát thực hiện Dự án của các ban quản lý dự án còn hạn chế. IV, Tổng kết các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thu hút và sử dụng ODA. 1.Công tác đàm phán và chuẩn bị dự án: Thông qua các hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ thường niên ( vào cuối năm), việc đàm phán được diễn ra giữa nước nhận viện trợ là Việt Nam và nước tài trợ được diễn ra, khả năng đàm phán cùng với việc chuẩn bị dự án tốt phù hợp với mong muốn và đáp ứng yêu cầu của nhà tài trợ sẽ góp phần thu hút ODA. 2.Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA. Trong thời gian qua Việt Nam đã sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA. Cơ sở hại tầng kinh tế - xã hội được cải thiện rõ rệt.. Các nhà tài trợ tin tưởng thì mới tài trợ cho nước mình. 3.Thành tựu trong công cuộc đổi mới. Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã hỗ trợ ODA bởi nhiều nhân tố thuận lợi. Đảng ta và nhân dân ta đã kiên trì thực hiện đường lối đổi mới do đại hội Đảng Cộng Sảng Việt Nam lần thứ VI đề ra và Đại hội VII của Đảng năm 1991 quyết định chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1991 – 2000. Đại hội VIII năm 1996 quyết định phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1996 – 2000. Đại hội IX đánh giá việc thực hiện chiến lược đó và quyết định chiến lược phát triển 10 năm 2001- 2010: Chiến lược đẩy mạnh Công nghiệp hóa- hiện đại hóa theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, xây dựng nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới Việt Nam có truyền thống ngân sách thận trọng với thâm hụt ngân sách tương đối thấp và tỷ lệ nợ(trong và ngoài nước) trên GDP thấp. Điều này được phản ánh trong mức chi trả nợ lãi trong ngân sách vào khoảng 3% tổng chi tiêu.luật Ngân sách chỉ cho vay nợ cho chi đầu tư phát triển và quốc hội giới hạn thâm hụt ngân sách dưới 5% GDP. Những thành tựu kinh tế và xã hội đạt được trong sự nghiệp đổi mới đã tạo ra những điều kiện có tính chất nhất định để thu hút ODA trong thời gian qua .Những thành công này của Việt Nam đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với các nhà tài trợ Quốc tế tin tưởng và ủng hộ công cuộc phát triển kinh tế -xã hội của Việt Nam . Từ năm 1993 trở lại đây ,khối lượng vốn ODA liên tục năm sau cao hơn năm trước. 4.Đường lối đối ngoại đúng đắn Thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bình đẳng cùng có lợi” ta đã từng bước phá thế bao vây , cấm vận , mở rộng các quan hệ hợp tác với bên ngoài , đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước. 5. Những thay đổi trong bối cảnh quốc tế và khu vực. - Tháng 10 năm 1993 , sau gần 15 năm ngưng trệ , quan hệ tài chính giữa Việt Nam và IMF,WB, ADB được khai thông. - Tháng 11/1993, Hội nghị các nhà tài trợ Việt Nam lần đầu tiên đã được tổ chức tại Pari mở ra giai đoạn hợp tác phát triển mới giữa nước ta và các nhà tài trợ Quốc tế . - Tháng 12/1993, hội nghị các nước thành viên câu lạc bộ Paris ra khuyến nghị xóa và giảm nợ cho Việt Nam. - Ngày 03/02/1994 , Hoa Kỳ bỏ cấm vận chống Việt Nam . - Tháng 8/1994, Thượng viện Mỹ bãi bỏ cấm viện trợ cho Việt Nam. -Tháng 7/1995 , Việt Nam ra nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). - Tháng 7/1995, bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam- Hoa Kỳ . - Tháng 7/1995 Việt Nam đã ký Hiệp định hợp tác khung với Cộng đồng Châu Âu. - 13/7/2000 , Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký . - Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO vào đầu năm 2006. Các sự kiện trên đã tạo ra một môi trường quốc tế thuận lợi cho việc vận động và phối hợp những sự hợp tác Quốc tế cho công cuộc phát triển ở nước ta . Chúng ta đã từng bước khắc phục tư tưởng thụ động trông chờ viện trợ , nâng cao bản lĩnh chính trị và tinh thần độc lập tự chủ , thận trọng trong tính toán hiệu quả , tăng cường công tác quản lý và điều phối , phát huy sáng tạo trong quá trình thực hiện các chương trình dự án ODA . V.Tính quy luật , mối quan hệ phổ biến. 1.ODA gắn liền với tình hình kinh tế , chính trị ổn định trong nước và khu vực. Cá nhà tài trợ sẽ tin tưởng va tài trợ cho đất nước có nền kinh tế và tình hình chính trị ổn định . Nếu ngược lại , nhà tài trợ sẽ thấy rất rủi ro vì khả năng đòi được nợ sẽ rất khó và nguồn ODAsẽ bị hạn chế. Nếu một đất nước có nền kinh tế ổn định nhưng trong khu vực lại mất ổn định thì nguồn ODA cũng bị ảnh hưởng vì rằng các nước cũng sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều với tình hình trong khu vực , nhất là trong điều kiện hội nhập hiện nay ảnh hưởng dây truyền là rất lớn . 2.ODA gắn liền với hiêu quả sử dụng Nếu sử dụng hiệu quả ODA thì các nhà tài trợ sẽ tin tưởng và khả năng được viện trợ sẽ cao hơn và ngược lại . 3.Đường lối đối ngoại đúng đắn. Đó chính là chính sách mở cửa và tăng cường hội nhập về kinh tế , xã hội và môi trường . Thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập dân tộc , chủ quyền quốc gia , binh đẳng cùng có lợi’’ ta đã từng bước phá thế bao vây , cấm vận , mở rộng các quan hệ hợp tác với bên ngoài, đã thiêt lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước . Trên cơ sở đó , chúng ta đã đa dạng hóa và đa phương hóa loại hình và nguồn viện trợ với nhiều nước và nhiều tổ chức . V. Thu thập số liệu và phương pháp dự dáo. 1. Mục tiêu của dư báo. Có thể nói, những tiến bộ đạt được trong việc triển khai thực hiện các chương trình, dự án ODA và phát triển quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ song phương và đa phương trong thời gian qua tiếp tục khẳng định việc thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam về cơ bản có hiệu quả, đóng góp thiết thực cho tăng trưởng và giảm nghèo. Chính phủ Việt Nam đánh giá cao nguồn lực này và kỳ vọng ODA sẽ tiếp tục đóng góp cho việc tạo lập nền tảng phát triển bền vững trong thời gian tới. Mục tiêu chính phủ đặt ra cho giai đoạn 2006- 2010 là nguồn vốn ODA ký kế đạt từ 20,35 - 23,75  tỷ USD tổng vốn ODA ký kết trong hai năm 2009 - 2010 phải đạt từ 10.924 - 14.326 triệu USD. Kết hợp việc phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút nguồn vốn ODA (phương pháp định tính) và việc dự báo nguồn vốn ODA dựa trên việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA những năm qua (phương pháp định lượng) sẽ cho ra kết quả dự báo đáng tin cậy. Dựa vào đó, chúng ta sẽ có chính sách thu hút và sử dụng ODA có hiệu quả để đạt được mục tiêu đã đề ra. Về cơ cấu: Cùng với nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài,vốn vay nợ nước ngoài tiếp tục tăng lên, chủ yếu vẫn là luồng vốn ODA là những nguồn vốn vay có thời hạn dài, có thời gian ân hạn và lãi suất thấp (chiếm khoảng 70-80% tổng vốn vay nợ nước ngoài). 2. Thu thập số liệu. Cách thức thu thập số liệu:nguồn số liệu: từ bộ kế hoạch và đầu tư và các báo cáo của chính phủ, các số liệu này phù hợp và thống nhất với nhau, độ chính xác cao. Bảng giá trị cam kết và giải ngân ODA giai đoạn 1993-2004. Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 ODA cam kết 1,81 1,94 2,26 2,43 2,4 2,7 2,91 2,4 2,4 ODA giải ngân 0,41 0,72 0,74 0,9 1,0 1,24 1,35 1,65 1,5 Năm 2002 2003 2004 2005 Tổng 2006 2007 Tổng ODA cam kết 2,6 2,83 3,4 3,5 33,58 3.745 4.445 41,77 ODA giải ngân 1,55 1,42 1,6 1,7 15,78 1,9 2,0 19.68 Đơn vị:USD.(Bảng 1) Qua bảng số liệu trên ta thấy nguồn vốn ODA cam kết từ năm 1993 đến nay nhìn chung là tăng nhưng giai đoạn 2001- 2005, và hai năm đầu giai đoạn 2006 – 2010 tăng liên tục và ổn định. Thời kỳ 2001-2005, các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam nguồn vốn ODA gần 14,9 tỷ USD, trong đó 80% là nguồn vốn vay ưu đãi. Tuy nhiên, ODA giải ngân trong thời kỳ này đạt hơn 7,9 tỷ USD. Lựa chọn mô hình mô hình dự báo. Từ bảng 1 ta thấy nguồn vốn ODA cam kết tăng ổn định từ năm 2001-2007, ta lấy số liệu từ năm 2001-2007 làm cơ sở để dự báo và dự báo theo hàm xu thế thời gian. Ưu điểm : của phương pháp nay là:kết quả dự báo khái quát, quy trình đơn giản. Nhược điểm:do tích chất của nguồn vốn ODA nên kết quả dự báo chỉ mang tính tham khảo. CHƯƠNG III: DỰ BÁO VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ. 1.Xây dựng mô hình. Bảng 2: Năm t Xt Sai phân bậc 1 Sai phân bậc 2 2001 1 2.4 2002 2 2.6 0.2 2003 3 2.83 0.23 0.03 2004 4 3.4 0.57 0.34 2005 5 3.5 0.1 -0.47 2006 6 3.745 0.245 0.125 2007 7 4.445 0.7 0.455 Tổng 28 22.92 Qua bảng 2 ta nhận thấy: t tăng theo cấp số cộng. Xt cũng tăng theo cấp số cộng, nên ta sử dụng hàm xu thế. Sai phân bậc 1 ổn định hơn nên hàm xu thế có dạng: X= a + bt. Phương pháp tính của hàm này cũng đơn giản, ta có thể tính theo cách tính thủ công hoặc sử dụng excell cũng cho kết quả chính xác. Bảng 3: Năm t Xt t2 Xt*t Xt^ (Xt-Xt^)2 2001 1 2.4 1 2.4 2.3 0.01 2002 2 2.6 4 5.2 2.625 0.000625 2003 3 2.83 9 8.49 2.95 0.0169 2004 4 3.4 16 13.6 3.275 0.015625 2005 5 3.5 25 17.5 3.6 0.01 2006 6 3.745 36 22.47 3.925 0.0324 2007 7 4.445 49 31.115 4.25 0.038025 2008 8 4.575 2009 9 4.9 2010 10 5.225 Tổng 0.123575 Sai số bình phương trung bình:MFE=0.123575/7=0.176535. Tổng nguồn vốn dự báo cho 3 năm còn lại là: 14,7 tỷ USD. 2.Đánh giá kết quả dự báo: Qua bảng 3 ta thấy sai số bình phương là rất nhỏ, dự báo cho khoảng thời gian ngắn (3 năm 2008,2009,2010). Kết quả trong bảng trên có thể tin cậy. Kết hợp phân tích định tính và phân tích định lượng ta thấy kết quả dự báo khá khả quan. Hơn nữa, chính phủ đã ban hành những cơ chế chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư như luật đầu tư, nghị định 17/CP về quản lý và sử dụng ODA,… tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện để nâng cao năng lực cán bộ trong lĩnh vực ODA, chuẩn bị dự án chi tiết, tăng cường khả năng đàm phán cùng với việc mở rộng quan hệ đối ngoại với hơn 160 nước trên thế giới đã đang và góp phần làm cho lượng vốn ODA vào Việt Nam trong thời gian qua tăng lên đáng kể.Mục tiêu mà chính phủ đặt ra cho giai đoạn 2006-2010 là nguồn vốn ODA đạt khoảng 20,35 - 23,75 tỷ USD có thể thực hiện được. 3.Phân tích đánh giá kết quả dự báo 3.1.Phân tích đánh giá ý nghĩa của kết quả, điềukieen vân dụng Kết quả dự báo ở trên cho cái nhìn khá khả quan về khả năng thu hút vốn ODA vào Việt Nam trong thời gian tới song chúng ta không vì thế mà chủ quan vì tích chất của nguồn vốn này đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cố gắng thu hút bằng biện pháp linh hoạt và sử dụng có hiệu quả, tránh sử dụng lãng phí. Điều kiện vân dụng: vì kết quả dự báo đưa ra trên cơ sở giả định xu thế lượng ODA cam kết tiếp tục tăng lên trong thời gian tới nên điều kiện vận dụng phải thỏa mãn: - Môi trường trong nước và quốc tế không có những biến động mạnh, - Các nhân tố ảnh hưởng đên việc thu hút được duy trì. - Không có tác động mạnh gây lên bước nhảy trong sự phát triển ODA. 3.2. Kiến nghị và giải pháp. Công tác dự báo ở Việt Nam khá phát triển song chưa thức sụ phát huy hiệu quả vì thế nhà nước cần quan tâm đầu tư hơn nữa. các kết quả cần được đưa ra để nhiều tổ chức và cá nhân cùng tham gia góp ý và nhất trí vào sử dụng trong việc hoạch định chính sách. C/ KẾT LUẬN ODA là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta nhưng không phải là nguồn vốn quyết định, nguồn vốn quyết định chỉ là nguồn vốn trong nước. Do tính chất ưu đãi của nguồn vốn ODA nên các nước nhận viện trợ cần tính toán đến khả năng trả nợ. đặc biệt do tính chất ràng buộc về kinh tê, đặc biệt chính trị, phải kiên trì với nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Tăng cường thu hút va sử dụng có hiệu quả là vấn đề đặt ra đối với Việt Nam đòi hỏi nỗ lực của chính phủ và các bên liên quan. Đề án này đã trình bày những nội dung có liên quan đến nguồn vốn ODA tại Việt Nam từ năm 1975, đặc biệt từ năm 1993 trở lại đây khi mà nhiều nhà tài trợ nối lại quan hệ viện trợ với Việt Nam, đồng thời mạnh dạn đưa ra kết quả dự báo nguồn vốn ODA vào Việt Nam đến 2010 với mong muốn nâng cao một bước trong việc tiếp cận vấn đề và áp dụng kiến thức đã học, nhất là môn dự báo.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24889.doc