Ngày nay con người đang được sống và làm việc trong một môi trường có nền khoa học kỹ thuật phát triển. Con người được sống và làm việc trong một môi trường tôt hơn trước rất nhiều. Trong thế kỷ XXI này con người cần phải xây dựng cho mình một nền kinh tế phát triển hơn để ngày càng cải thiện hơn điều kiện sống và làm việc của mình. Do vậy Đảng và nhà nước ta cần phải có một chính sách kinh tế hợp lý để nền kinh tế nước ta có khả năng phát triển cao hơn và nhanh hơn. Từ đó nước ta trở thành một nước có tiềm lực kinh tế và chính trị ổn định. Đảng và nhà nước ta đã xác định rằng nước ta đi theo hướng nền KTTT theo định hướng XHCN là hoàn toàn đúng đắn. Do đó trong thế kỷ này nước ta cần xây dựng một nền KTTT XHCN thật phát triển để trở thành một nước phát triển của thế giới.
Muốn xác định được hướng đi cho nền kinh tế nước nhà chúng ta cần phải nghiên cứu đầy đủ và định hướng đi cho nền kinh tế nước ta. Có nghiên cứu cặn kẽ như vậy chúng ta mới thấy hết được những ưu điểm và nhược điểm của nền KTTT định hướng xã hội chủ nhgiã từ đó mới có thể phát huy hết những ưu điểm và hạn chế tối đa những nhược điểm của KTTT.
Vậy qua đây ta thấy việc nghiên cứu đề tài “phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của KTTT định hướng XHCN ở nước ta và các giải pháp để phát triển nó ỏ nước ta hiện nay”là vô cùnh cần thiết. Việc nghiên cứu này giúp ta có thể xây dựng được một nền KTTT định hướng XHCN hoàn hảo hơn.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g hóa (KTHH) vẫn còn nhưng không được thừa nhận một cách chính thức. Nền KTKHHTT đã từng thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Và đã đóng góp vào thành công của cách mạng Việt Nam. Nhưng kể từ khi kết thúc chiến tranh do hậu quả nặng nề của nó để lại, và do cấm vận của các nước đế quốc và do không còn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa nữa cho nên nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn. Sản xuất không đáp ứng được tiêu dùng. Nền kinh tế bị sơ cứng năng xuất chất lượng bị giảm sút nghiêm trọng. Do duy trì quá lâu nền kinh tế này mà kinh tế nước ta lâm vào tình trạng suy thoái kéo dài. Tiếp đó lại có sai lầm về chính sách kinh tế. Càng làm cho nền kinh tế bị suy thoái nặng nề. Từ suy thoái về kinh tế dẫn đến suy thoái về xã hội. Làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của đảng. Trước bối cảnh đó đảng và nhà nước ta chủ chương chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986.
Trong quá trình chuyển đổi từ đó đến nay kinh tế nước ta đã thu được rất nhiều thành tựu to lớn và bước đầu thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo. Và lần lượt qua các kỳ đại hội nó đã được bổ xung và ngày càng được hoàn thiện đối với nền kinh tế nước ta. Nhưng nó cũng không tránh khỏi những sai xót trong việc áp dụng.
Trong phạm vi bài tiểu luận này em muốn nêu lên một quan điểm, một nhận xét khách quan về nền kinh tế thị trường ở nước ta. Vì vậy em đã chọn đề tài “Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã trực tiếp giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này.
PHầN GIảI QUYếT VấN Đề:
I. Sự cần thiết và tính khách quan phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Kinh tế kế hoạch hoá tập trung, những ưu và nhược điểm của nó.
a. Ưu điểm:
Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa cũ, cả nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức rộng rãi ở nông thôn cũng như thành thị. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa cũ mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tê nông nghiệp lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá. Ta đã tập trung được vào tay một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản, tiền vốn để phát triển ổn định về kinh tế. Vào những năm đầu của thập kỷ ở miền Bắc đã có những chuyển biến về kinh tế xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế tự cung tự cấp vốn có của ta lúc đó, đồng thời cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến lúc đó.
b. Nhược điểm:
Sau ngày giải phóng, miền Nam bức tranh về hiện trạng kinh tế đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế tự cấp tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá.
Đó là thực tế khách quan, tồn tại sau năm 1975, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ chương xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trong phạm vi cả nước. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của các cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đât nước, trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế “gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt năng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay, viện trợ của nước ngoài. Đến cuối nhưng năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao, làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số đại phương nạn đói đang rình dập. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là:
Ta đã thực hiên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, trên một quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày một gia tăng.
Thực hiện việc phân phối lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép: Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vữa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực phát triển.
Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lưa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao động.
2. Sự cần thiết khách quan phải chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội ở nước ta.
Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: thời kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tăng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa người lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiên vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu.
Kinh tế hàng hoá, bắt nguồn từ kinh tế hàng hoá đơn giản, ra dời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan giã, dựa trên hai tiền đè cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hóa là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hoá cũng dần được đổi thay: Từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội không phổ biến, không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nông dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trọng xã hội phong kiến, và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển.
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường (còn gọi là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai giã man).
Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn phát triển kinh tế thi trường tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phá triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế.
Giai đoạn thứ ba, là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc của giai đoạn này là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng kinh tế với nước ngoài. Sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ. . . để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trường trong một nền hinh tế hỗn hợp nhằm đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh.
Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá (sản xuất hàng hoá nhỏ) tự phát sẽ “hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” (nói theo cách nói của V. I. Lê-Nin) và sự phát triển của KTTT trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên, KTTT không phải là một chế độ kinh tế-xã hội. KTTT là một hình thức và phương pháp vận hành kinh tế các qui luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, qui định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo qui luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất-kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, nâng cao năng xuất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng qui mô của sản xuất-kinh donh. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học-công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất-kinh doanh. Sự phát triển của KTTT gắn liền với quá trình phát triển của văn minh nhân loại, của khoa học-kỹ thuật, của lực lượng sản xuất. Nhiều học giả đã khái quát rằng: Giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công; Giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ, kỹ thuật vi điện tử-tin học. . .
Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung, tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ mục tiêu số một đối với toàn đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là sự phát triển kinh tế thị trường, cùng với nó là công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3. Sự cần thiết tất yếu phải chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trước sự suy thoái nghiêm trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đưa nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hội VI của đảng đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đến đại hội VII đảng ta đã xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực trạng diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế của thời đại.
Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng, tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Xét về tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của nền kinh tế thị trường. Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều nước cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị đã hình thành và phát triển đạt những mức phát triển khác nhau, ở hầu hết các đô thị và vùng hẻo lánh đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn và thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp.
Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với thị trường thế giới. Tương quan giá cả các loại hàng hoá trong và giá cả hàng hoá quốc tế.
Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của một nước không tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Sự cạnh tranh giữi các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách của các quốc gia tạo được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp, tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền.
Tuy vậy, nền kinh tế thị trường hướng tới của nước ta sẽ không phải là nền kinh tế thị trường thuần tuý. Lý thuyết “để mặc” cho thị trường tự do cạnh tranh là không tồn tại. Ngoài bàn tay “vô hình”, vai trò của chính phủ để điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường tạo cho nền kinh tế ổn định và phát triển. Đói với nước ta vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ rất quan trọng.
Sự phát triển kinh tế –xã hội nào rút cuộc cũng nhằm mục tiêu xãhội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng (tăng trưởng kinh tế) còn bao hàm những thay đổi về chất(những biến đổi về mặt xã hội). “Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khoẻ và bình đẳng về cơ hội là tất cả những yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn ”. Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của C. Mác là một thành tựu khoa học của loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng quát của lịch sử nhân loại, và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không đói lập với phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ-xã hội của sự phát triển. Nó là cach thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân lao động, của toàn tể xã hội, là sự thiết lập một trật tự xã hôi với mục tiêu công bằng văn minh. Sự phát triển chỉ đem lại sự giàu có và sự thống trị của tư bản, của một số ít người trong xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất tư bản chủ nghĩa là sự phát triển cổ điển. Sự phát triển đem lại sự giàu có, phồn vinh, hạnh phúc cho đại đa số nhân dân lao động cho toàn thể xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là chủ tịch HCM nhằm giải phóng nhân dân lao động, đem lại hạnh phúc và giàu sang cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc của nhân dân lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của cả xã hội, của toàn xã hội, của toàn dân tộc, là sự phát triển mang tính chất xã hội chủ nghĩa, sự phát triển hiện đại. Nghiã là, chúng ta phải phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Điều đó không chỉ đơn thuần là sự phát triển kinh tế nhằm đạt được mục tiêu dân giàu nước mạnh, mà còn bao hàm vấn đề quan trọng mang tính hiện đại, là thiết lập một kiểu tổ chức xã hội, một trật tự xã hội với nộng dung công bằng và văn minh. Nhà nước XHCN, “của dân, do dân và vì dân” dưới sự lãnh đạo của Đảng Cọng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện sự định hướng đó.
II. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đặc điểm kinh tế thị trường của các nước trên thế giới.
Để hiểu rõ hay có một cách nhận xét khách quan nền kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ta phải xem xét các đặc điểm kinh tế thị trường thế giới.
1. Đặc điểm chung:
Kinh tế thị trường là hoạt động kinh tế của con người đã trải qua nhiều thời đại. Kinh tế thị trường đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử kinh tế nhưng KTTT chỉ phát triển mạnh mẽ, phong phú trong vài trăm năm trở lại đây. Gần như hầu hết các nước trên thế giới ngày nay đều theo mô hình KTTT với những đặc trưng màu sắc riêng của từng nước. KTTT của các nước Tây Âu có những nét đặc trưng riêng không giống mô hình của Mĩ, Nhật, Trung. Nước Nga ngày nay cũng đã rẽ hẳn theo hướng kinh tế thị trường của các nước phương Tây nhưng mấy năm qua nền kinh tế của nước này điêu đứng, lao đao, có lúc lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội sâu sắc đến nay chưa định hình trong việc lựa trọn mô hình kinh tế Mỹ, Tây Âu, hay Nhật
Song trên bình diện tổng quát, KTTT của các nước đều có điểm tương đồng vừa có “bàn tay vô hình” của thị trường tác động, tự điều chỉnh vừa có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước, cái gọi là “bàn tay hữu hình” là sự quản lý của nhà nước là không thể thiếu được dù nền kinh tế ở bất kỳ trình độ phát triển nào. hiện nay trên thế giới thì mọi nền kinh đều có sự tham gia quản lí, điều tiết của nhà nước tuy ở các mức độ khác nhau. Nền KTTT đó là một nền kinh tế phát triển, có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên nền kinh tế nào cũng có những mặt trái của nó. Và ở đây, mặt trái của KTTT là tình trạng bất công trong xã hội còn cao, sự phân hoá giai cấp trong xã hội còn diễn ra sâu sắc, tệ nạn xã hội ngày càng nhiều, đồng thời cùng với sự phát triển kinh tế thì tình trạng lạm phát sẽ bị đẩy nên cao.
Tại châu âu mô hình kinh tế của Thuỵ Điển rất đáng chú ý. Vốn là một quốc gia nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu nhưng chỉ trong một thơì gian ngắn thì thuỵ điển đã trở thành một nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới, ở Châu á Trung Quốc cũng là một nước đã chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường và đã có sự tăng trưởng kinh tế đáng kể. Còn đối với Nga đầu tiên là một nước đi theo định hướng XHCN và đã có một nền kinh tế vào loại phát triển của thế giới . Nhưng từ khi đi theo hướng phát triển của các nước TBCN thì nền kinh tế của nước này đã lâm vào khủng hoảng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này đã giảm sút rất nhiều. Hiện nay nước Nga tuy đã thoát khỏi khủng hoảng nhưng nền kinh tế vẫn còn ở tình trạng chậm phát triển.
KTTT ở Mỹ có những đặc trưnglà:do tiềm lưc kinh tế của Mỹ rất lớn và khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế là rất lớn nên mức độ can thiệp của nhà nước vào các thành phần kinh tế là thấp hơn so với các nước khác trên thế giới. Tuy nhiên nhà nước ở đây lại tham gia rất mạnh mẽ vào khu vực kinh tế đối ngoại. Không chỉ có vậy nhà nước ở đây đã hỗ trợ rất mạnh mẽ cho các công ty của Mỹ xâm nhâp vào thị trường kinh tế của các nước khác. Từ đó đem lại các nguồn lợi cho Mỹ. .
Nền KTTT ở các nước Châu á và các nước Đông Nam á cũng có những nét đặc trưng đáng lưu ý, ở các nước này sự tham gia vào điều tiều tiết nền kinh tế là rất mạnh mẽ như Hàn Quốc, Inđônêxia. Tại Hàn Quốc sự tham gia của chính phủ đã thúc đẩy và tạo mọi điều kiện cho KTTT ở nước này phát triển.
2. Đặc điểm của KTTT hiện đại.
Tuy nền KTTT đã ra đời từ rất lâu nhưng nền KTTT hiện đại mới ra đời từ những năm 60 của thế kỷ XX với đặc trưng là nhà nước can thiệp tích cực, mạnh mẽ vào kinh tế và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Với nền KTTT đã ra đời trước đó nó chỉ vận động theo cơ chế thị trường chứ không có sự tham gia quản lí của nhà nước. Nhà nước khi đó chỉ có chức năng truyền thống của nhà nước pháp quyền. Đó là:
Bảo vệ quuyền sở hữu của các nhà kinh doanh.
Nhà nước bảo đảm an ninh, chính trị, quốc phòng, an toàn xã hội tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh.
Sử lí các vụ tranh chấp trong kinh doanh và vi phạm pháp luật.
Đến thời kỳ KTTT hiện đại thì nhà nước tham gia vào điều tiết nền kinh tế mạnh mẽ. Và công cụ điều tiết chủ yếu là các chính sách tài khoá, sách chính tài chính, tiền tệ, kinh tế đối ngoại như:thuế, lãi suất chiết khấu. . .
Trên thế giới hiện nay, nền kinh tế nước nào cũng có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước tuy mức độ mạnh yếu có khác nhau. Và với sự quản lí của nhà nước thì nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự phát triển vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rất nhiều. Với sự kết hợp giữa “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” nền kinh tế của các nước đều đã có những bước phát triển lớn.
Trong nền KTTT hiện đại sự can thiệp của nhà nước được thể hiện ở các mặt sau:
Tại một số nước, hàng hoá công cộng do lượng vốn đầu tư lớn, lợi nhuận ít nên các nhà đầu tư tư nhân không quan tâm. Song do các loại hàng hoá này rất quan trọng cho nên nhà nước phải đứng ra đầu tư sản xuất các loại hàng hoá này. Đồng thời đối với những công trình lớn mang tầm cỡ quốc gia như sở cơ hạ tầng, cầu đường, bến cảng thì nhà nước phải trực tiếp đầu tư vì kinh doanh vào các khu vực này nguồn vốn phải rất lớn chỉ có nhà nước mới đáp ứng được. Khi nhà nước tham gia điều tiết nền kinh tế thì các vấn đề công bằng xã hội được nhà nước quan tâm hơn.
Với sự phát triển của KTTT đã làm thay đổi nền kinh tế nhưng những mặt trái của nó cũng đã bắt đầu nảy sinh. Những mặt trái đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát gia tăng, các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều hơn. Với vai trò của mình nhà nước nhà nước tham gia vào điều tiết kinh tế nhằm ổn định nền kinh tế để hạn chế tình trạng lạm phát và thất nghiệp. Nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng các chính sách kinh tế phù hợp. Bằng các chính sách xã hội nhà nước nhằm giảm các tệ nạn xã hội, xây dựng một xã hội lành mạnh.
Ngày nay trong kinh tế đối ngoại vai trò của nhà nước là rất lớn. Nhà nước sẽ đứng ra ngoại giao đem lại nhiều nguồn lợi cho đất nước. Vai trò này được thể hiện rất rõ của nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật. . .
Tỷ trọng của khu vực dịch vụ ngày càng tăng nên trong nền KTTT hiện nay,
Đặc điểm này thể hiện bằng sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Nó đánh dấu sự gia tăng của khu vực dịch vụ trên cơ sở của một nền tảng khoa học công nghệ phát triển. Nó thay thế cho xu hướng gia tăng công nghiệp chế biến của thời kỳ công nghiệp hoá trước đây. Với tỷ trọng cao của khu vực dịch vụ đã làm cho nó đang trở thành loại hình “kinh tế dịch vụ ”. Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán đã hình thành nên các trung tâm tài chính như Luân Đôn, Tôkyô. . . đã khiến cho hoạt động của thị trường vượt quá phạm vi trao đổi thông thường.
Đối với các nước đang phát triển ở châu á và Đông Nam á có một đặc điểm khác biệt đó là sự tham gia mạnh mẽ của nhà nước vào nền kinh tế. Nhờ sự tham gia của nhà nước vào nền kinh tế mà nền kinh tế của những nước này đã có những bước phát triển lớn.
Đối với những nước này còn có một đặc điểm nữa đó là trong quá trình phát triển kinh tế đã hình thành nên khu vực kinh tế thuộc sở hữu của nhà nước. Đối với các nước này đây là một khu vực tất yếu cần phải có. Đây là khu vực mà nhà nước trực tiếp đầu tư vào. Song nhìn chung khu vực này hoạt động không có hiệu quả. Kết quả này là do bộ máy quản lý còn cồng kềnh, kém năng động. Và đây là khu vực của nhà nước đầu tư nên chúng không phải chịu sức ép cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời sự kém hiệu quả đó còn do có sự tham nhũng trong bộ máy quản lý. Trước tình trạng hoạt động không có hiêu quả này thì nhà nước phải có sự điều chỉnh thì nền kinh tế mới phát triển được. Sự điều chỉnh phải bằng cách giao cho tư nhân quản lý khu vực kinh tế này. Nhà nước chỉ nên đầu tư vào một số lĩnh vực thực sự quan trọng như xây dựng cơ sở hạ tầng, thông tin và một số nghành công nghiệp quan trọng, quốc phòng.
3. Những ưu điểm và nhược điểm của nền KTTT.
Bất cứ một nề kinh tế nào cũng có những ưu điểm và nhược điểm. Nền KTTT cũng vậy nó bao gồm những ưu và nhược điểm sau.
Những mặt tích cực của nền KTTT thể hiện bằng sự phát triển kinh tế vượt bậc. Từ sự phát triển vượt bậc đó khoa học công nghệ cũng có những bước phát triển lớn, khoa học công nghệ phát triển từ đó các công cụ sản xuất ngày một phát triển hơn, con người được sản xuất trong những điều kiện tốt hơn. Năng xuất lao đông được nâng cao hơn rất nhiều so với trước. Một nền kinh tế phát triển đã làm cho mức sống chung của các nước trên toàn thế giới được nâng cao hơn trước. . . Trên đây là một số mặt tích cực của nền KTTT mà chúng ta cần phải phát huy để nền kinh tế ngày càng phát triển hơn.
Những mặt tiêu cực của nền KTTT là: Do quá trình hoạt động sản xuất cần phải khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhưng do năng xuất lao động cao cộng với việc nhu cầu của người dân ngày càng lớn đã dẫn đến khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức cho phép từ đó tài nguyên thiên nhiên đã dần bị cạn kiệt.
Các hoạt động sản xuất chỉ chú ý tới vấn đề sản xuất mà không chú ý tới vấn đề môi trường. các hoạt động sản xuất đã gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Một mặt tiêu cực nữa đó là vấn đề đạo đức, lối sống trong dân. Ngày nay do mức sống của con người được nâng cao, con người dễ tiếp xúc đối với những loại văn hoá độc hại làm ảnh hưởng tới tình trạng đạo đức trong dân. . .
Từ những mặt tích cực và tiêu cực trên ta phải tìm ra những phương pháp để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực để nền kinh tế được phát triển toàn diện hơn, từ đó cuộc sống của người dân được nâng cao hơn mà không bị ảnh hưởng của những mặt tiêu cực.
4. KTTT định hướng XHCN.
Để nghiên cứu đầy đủ hơn về KTTT ta nghiên cứu nghiên cứu nền KTTT theo định hướng XHCN.
Nền KTTT định hướng XHCN nó cũng là nền KTTT với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Nhưng nền KTTT theo địng hướng XHCN nó có điểm khác biệt hơn với nền KTTT TBCN và cũng có thể đây là mặt tích cực hơn của nền KTTT theo định hướng XHCN. Mặt tích cực đó là trong nền KTTT theo định hướng XHCN có sự phân công lao động công bằng hơn. Những thành phần trong nền KTTT theo định hướng XHCN được hưởng sự công bằng hơn trong các hoạt động kinh tế. Từ đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn. Đồng thời ở các nước XHCN sự tham gia của nhà nước vào nền kinh tế mạnh hơn. Nền KTTT theo định hướng XHCN ra đời đầu tiên ở Liên Xô. Từ sau khi nền KTTT theo định hướng XHCN ra đòi ở Liên Xô dần nó đã phát triển ra nhiều nước. Quá trình phát triển của nền KTTT theo định hướng XHCN đã có những bước phát triển lớn đem lại nhiều thành tựu giúp thúc đẩy nền kinh tế của các nước đang phát triển. Nền kinh tế phát triển đã xây dựng nên các khu công nghiệp lớn, xây dựng nên cơ sở hạ tầng tốt. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế đến nay các nước nhà đã xây dựng được một nền kinh tế phát triển vượt bậc. Từ những nước có nền kinh tế phát triển thấp hơn rất nhiều so với các nước TBCN đến nay các nước này gần như đã đuổi kịp các nước TBCN. Không chỉ đuổi kịp mà nền kinh tế của các nước này còn có sự phát triển kinh tế ổn định hơn so với các nước TBCN. Sự ổn định đó đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vào thị trường của các nước này từ đó thu hút được nhiều nguồn đầu tư hơn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn.
Nền KTTT theo định hướng XHCN có định hướng xây dựng một nền kinh tế có sự công bằng cao, tạo sự an toàn cho các nhà đầu tư muốn đầu tư vào nền kinh tế của mình. Từ mục đích đó các nhà kinh tế đã xây dựng được một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và an toàn.
Qua sự nghiên cứu trên ta thấy nền KTTT TBCN và nền KTTT theo định hướng XHCN đều tương đối giống nhau, nó chỉ có một số khác biệt mà đó là những đặc điểm riêng của mỗi nền kinh tế.
B. Kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1. Đặc điểm, bản chất của nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung- hành chính- quan liêu- bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nướctheo định hướng xã hội chủ nghĩa là nội dung kinh tế nước ta tronh hiện tại và tương lai. Đặc biệt, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được Đại Hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VII thông qua vào năm 1991, cũng đã nêu lên 6 đặc trưng bản chất của XHCN và những quan điểm phương hướng tổng quát về phát triển kinh tế xã hội theo định hướng XHCN ở nước ta. Tuy nhiên cũng cần phải phân tích sâu thêm bản chất, đặc điểm đã được khái quát nói trên, để hiểu rõ và thống nhất hơn trong nhận thức và hành động.
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã hội xã hội chủ nghĩa). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi chúng ta chuyển sang phát triển hàng hoá, kinh tế thị trường, thì kinh tế thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại (do những khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do). Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn nền kinh tế thị trường tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới vẫn nằm trong thời đại quá độ từ TBCN lên CNXH, cho nên, sự phát triển kinh tế-xã hội nước ta phải theo định hướng XHCN là cần thiết, khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh ” vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có giàu thì nước mới mạnh, nhưng dân giàu phải làm cho nước mạnh, bảo đảm độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Thứ hai, nền kinh tế chúng ta là nền kinh tế nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền KTTT mà chung ta xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi “bàn tay hữu hình” của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời chính nó sẽ đảm bảo sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của nhà nước là thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa là “đài chỉ huy”, là “mạch máu”của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó, hữu cơ, thống nhất, không tách rời, biệt lập.
Thứ ba, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với nhà nước của nhiều nền KTTT trên thế giới, Nhà nước ta là Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, Nhà nước công nông, Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền KTTT hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất nhà nước là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình KTTT ở nước ta so với nhiều mô hình KTTT khác hiện có trên thế giới.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt đông sản xuất-kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các qui luật kinh tế hàng hoá, KTTT sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Qui luật giá trị qui định mục đích theo đuổi trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị không ngừng tăng lên), qui định sự phân bố các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất-kinh doanh khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng các lực lượng kinh tế của mình, Nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung-tổng cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy cơ chế hoạt động của nền kinh tế là: thị trường điều tiết nền kinh tế, Nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ Nhà nước-thị trường-các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất.
Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nền KTTT ở nước ta. Quá trình phát triển của KTTT đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xãhội hoá trên cơ sở phát triển của KTTT là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặt trưng quan trọng của kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu với nước ngoài. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta phải giao lưu trên nguyên tắc “hoà nhập chứ không hoà tan ”. Nền kinh tế nước ta phải có những bước đi riêng của mình không nên để phụ thuộc vào nền kinh tế của các nước khác.
Thứ sáu: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc công tác đảm bảo công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong KTTT ở nước ta. Phải có một chế độ công bằng thì mới tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Với một chế độ công bằng sẽ tạo điều kiện cho mọi người dân đều có điều kiện tham gia vào các hoạt động kinh tế, đều có khả năng phát huy hết năng lực của mình. Với một chế độ công bằng như vậy nó sẽ giảm bớt khoảng ngăn cách giàu nghèo giữa các người dân trong xã hội. Chế độ công bằng đối với mọi nền kinh tế đều cần phải có vì nó đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế, nó đảm bảo cho sức mạnh kinh tế của mỗi quốc gia.
Thứ bảy: Cần giải quyết mối quan hệ giữa tư bản (vốn) và lao động thông qua phân phối thu nhập trong KTTT định hướng XHCN. Cần có sự phân phối hợp lý để thúc đẩy hết khả năng lao động của mọi người dân trong xã hội.
Trên đây là những đặc điểm chủ yếu của nền KTTTtheo định hướng XHCN ở Việt Nam. Bất kỳ một tác động nào tới chúng đều có sao để tạo điều kiện tốt nhất cho nền kinh tế nước ta phát triển.
Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta phải là “quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc ”.
2. So sánh kinh tế thị trường định hướng XHCN và KTTTcủa tư bản chủ nghĩa:
Kinh tế thị trường XHCN ngoài những nét chung với KTTT tư bản chủ nghĩa như: một nền sản xuất hàng hoá với sự liên kết và trao đổi trên quy mô rộng lớn ở phạm vi quốc gia và quốc tế, với sự phát huy đầy đủ những quy luật như quy luật giá trị, quyluật cung cầu. . . kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa còn có những đặc trưng riêng của nó:
Nếu nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất(TLSX) thì trái lại nền KTTT XHCN tuy cũng là một nền kinh tế nhiều thành phần nhưng nó dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, tức là sự làm chủ của người lao động đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Nền kinh tế thị trường TBCN lấy phân phối theo TLSX và theo vốn làm hình thức phân phối chủ yếu, thì trong nền KTTT XHCN, quy luật phân phối theo lao động mới có điều kiện phát huy một cách đầy đủ.
Nếu nền KTTT TBCN phát triển theo hướng bất bình đẳng xã hội ngày càng sâu sắc hơn, thì KTTT XHCN phát triển theo hướng ngày càng khắc phục tình trạng phân cực một cách bất hợp lý của xã hội do nền KTTT TBCN tạo ra.
Nếu nền KTTT TBCN dựa trên sự khai thác của các quốc gia, của các khu vực phát triển, đối với tài nguyên và lao động của các vùng, các nước kém phát triển, thì nền KTTT XHCN dựa trên sự hợp tác và trao đỏi một cách bình đẳng và cùng có lợi giữa các vùng dân cư trong nước và giữa các dân tộc, các quốc gia trên thế giới.
3. Những thành tựu đạt được sau khi nước ta chuyển đổi sang nền KTTT XHCN.
3. 1. Kinh tế tăng trưởng khá.
T ổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm 7%.
Nông nghiệp phát triển liên tục góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng chung và giữ vững ổn định kinh tế xã hội. Giá trị sản xuất nông, lâm ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 5, 7%.
Công nghiệp và xây dựng đã vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được nhiều tiến bộ. Nhịp độ sản xuất công nghiệp bình quân 13, 5%
Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển trong điều kiện khó khăn hơn trước, góp phần tích cực cho tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống. Giá trị các nghành dịch vụ tăng 6, 8%/năm.
Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch tích cực. Các cơ cấu ngành kinh tế đã từng bước dịch chuyển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3. 2. Văn hoá -xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Giáo dục và đào tạo có bước phát triển về quy mô, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Quy mô giáo dục và đào tạo tiếp tục tăng ở tất cả các bậc học, ngành học, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn của nhân dân. Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường được nâng cấp cải thiện Mạng lưới các trường cao đẳng đại học đang từng bước được tổ chức, sắp xếp lại.
Khoa học và công nghệ có bước chuyển biến tích cực. Khoa học xã hội và văn đã bước đầu cung cấp được các luận cứ khoa học phục vụ yêu cầu hoạch định chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội và đỏi mới các cơ chế chính sách. Khoa học công nghệ có những bước phát triển cao. Cơ sở vạt chất – kỹ thuật đã được cải thiện rất nhiều. Đội ngũ cán bộ khoa học đã đươc nâng cao hơn về trình độ.
Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, báo chí, xuất bản góp phần tích cực động viên toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao kiến thức và chất lượng cuộc sống. Từ đó đời sống của nhân dân đã được cải thiện rất nhiều. Dân trí trong toàn dân đã được nâng cao hơn rất nhiều.
3. 3. Tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường.
3. 4. Công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củnh cố. Vai trò lãnh đạo của đội đã được nâng cao. Nhà nước tiếp tục xây dựng và hoàn thiện, nền hành chính được cải cách một bước. Quyền làm chủ của nhân dân được nâng cao hơn.
3. 5. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt. Nước ta đã quan hệ hữu nghị với nhiều nước trên thế giới thúc đẩy hợp tác cùng có lợi. Do đó kinh tế nước ta đã có những bước nhảy vọt.
Từ mhững thành tựu trên đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đát nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc đọc lập dân tộc và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín nước ta trên trường quốc tế.
Những thành tựu trên nước ta đã đạt được là do:
Một là, Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng và đường lối lãnh đạo đúng đắn.
Hai là, Nhà nước có cố gắng lớn trong điều, hành quản lý.
Ba là, Toàn dân và toàn quân phát huy lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần cù, năng động, sáng tạo, tiếp tục thực hiện đổi mới, ra sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
4. Những yếu kém khuyết điểm còn tồn tại trong nền kinh tế nước ta.
4. 1. Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả sức cạnh tranh thấp. Ví dụ tình hình kinh tế nước ta trong những năm qua tăng trưởng chậm dần. Năm 1995 tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta là 9, 5%, năm 1997 còn 8, 2%, năm 1998còn 5, 8%. . . năng suất lao động giảm, chát lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành còc cao. Từ đó dẫn tới tình trạng sản phẩm nước ta không cạng tranh được với các mặt hàng nước ngoài. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị xâm hại nghiêm trọng. Hẹ thống nhân hàng nước ta còn yếu kém. . .
4. 2. Một số vấn đè văn hoá - xã hội bức xúc và găy gắt chậm được giải quyết.
Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao.
Công tác giáo dục còn nhiều bất cập. Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu. Còn có nhiều trẻ em không được đến trường vì nhiều lý do.
Công tác khoa học và công nghệ cũng còn nhiều bất cập. Các hoạt động chưa thực sự gắn kết với nhu cầu hoạt động của ngành kinh tế, xã hội. Các khoa học công nghệ chưa được đưa vào ứng dụng trong thực tiễn.
Công tác quản lý báo chí, văn hoá, xuất bản nhiều mặt buông lỏng để nảy sinh những khuynh hướng không lành mạnh.
Một số giá trị văn hoá và đạo đức suy giảm. Mê tín hủ tục phát triển.
4. 3. Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động sức mạnh để phát triển. Các chính sách chưa đi sát vào thực tế với cuộc sống hàng ngày. Một số chính sách có xu hướng trở lại bao cấp. Một số quy định không phù hợp không được sửa đổi.
4. 4. Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. tình trạng tham nhũng còn nhiều.
Những nguyên nhân của yếu kém đó là do cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nhưng trong đó nguyên nhân chủ quan là chính. Đại hội Đảng I X đã chỉ ra đầy đủ những nguyên nhân và nó bao gồm những nguyên nhân chính sau:
Một là, việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.
Hai là, một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành.
Ba là, cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp.
Bốn là, công tác tư tưởng, công tác lý luận, công tác tổ chức, cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập.
5. Những thách thức cho nền KTTT XHCN ở Việt Nam.
Từ những thành tựu và khó khăn trên đã đặt ra cho kinh tế Việt Nam những thách thức sau:
Cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua đang gay ra những tác đọng bất lợi cho chúng ta. Luồng đầu tư nước ngoài đã giảm khoảg 60%, xuất khẩu đình trệ, 9 tháng đầu năm 1998 chỉ tăng 7, 5% Sự sụt giảm của đầu tư trực tiép nước ngoài và sự đình trệ của xuất khẩu được đánh giá tương ứng với 12% của GDP tức 3tỷ U S D. Tỷ trọng đàu tư trong GDP giảm từ 27 xuống còn 20%. Cuộc khủng hoảng khu vực làm khả năng cạnh tranh của Việt Nam yếu đi Tỷ giá thực tế của tiền đồng Việt nam giảm cao hơn khoảnh 10%, tốc độ tăng trưởng GDP đã chậm lại.
III. Các giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Về lâu dài, những lỗ lực cải cách cần tiếp tục tập trungvào bốn trọng điểm sau:(1) Cải cách các doanh nghiệp nhà nước và thúc sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân;(2) Tạo một hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả;(3) Phát triển kinh tế khu vực nông thôn;và (4) Nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng.
Thứ nhất, các doanh nghiệp nhà nước vẫn là một khu vực kinh tế hết sức quan trọng. Đây là một khu vực kinh tế sử dụng một phần rất lớn các nguồn lực của nền kinh tế nhưng tạo ra ít việc làm và có hiệu quả rất thấp trong việc góp phần giảm tỉ lệ đói nghèo. Ví dụ như năm 1998 trong khi khu vực kinh tế này nhận hơn phân nửa số vốn của nguồn viiện trợ và một phần lớn ngân sách nhà nước. Song nhiều nhà kinh tế tin rằng, để đạt được mục tiêu đề ra, chinh phủ cần có những biện pháp mạnh mẽ hơn cho toàn bộ khu vực kinh tế này. ở đây, Sự hình thành một khung pháp lý hoàn chỉnh, các chính sách cơ chế đối với doanh sau khi cổ phần hoá, xoá bỏ sự can thiệp của các cơ quan quản lý nhà nước, trong hoạt động của các doanh nghiệp này tôn trọng quyền lực của đại hội cổ đông sẽ góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá.
Bên cạnh đó, việc cải cách các doanh nghiệp nhà nước phải gắn liền với việc hỗ trợ và phát triển của kinh tế tư nhân. Một khu vực kinh tế tư nhân năng động sẽ không chỉ giúp tạo ra một môi trường kinh doanh cạnh tranh hơn cho các doanh nghiệp nhà nước, mà còn rút hấp thụ nguồn lực lao động từ quá trình cải cách các doanh nghiệpnhà nước. Để tạo ra mục tiêu này, chính phủ cần tạo ra một sân chơi bình đẳng, và xoá bỏ những rào cản về hành chính và pháp lý không cần thiết.
Thứ hai, một hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả là nhân tố vô cùng quan trọng cho quá trình cải cách kinh tế của Việt Nam. Không có một hệ thống ngân hàng hoạt động hữu hiệu, các nguồn vốn sẽ không được sử dụng một cách có hiệu quả. Hệ thống ngân hàng yếu kém của Việt Nam càng trở nên suy yếu trong và sau khủng hoảng khu vực vừa qua. Tuy nhiên, cần nhận thấy rõ rằng cải cách hệ thống ngân hàng không phải là quá trình dễ dàng, cả về khía cạnh kỹ thuật lẫn chính trị. Việt Nam hiện nay cần tranh thủ nguồn tài trợ và chuyên môn về kỹ thuật của các tổ chức quốc tế để từng bước hiện đại hoá hệ thống ngân hàng.
Thứ ba, với hơn 80% số dân sống ở nông thôn, phát triển nông thôn trở thành ưu tiên hàng đầu trong chương trình cải cách kinh tế. ở nông thôn với tốc độ tăng dân số 2% mỗi năm, sự giảm sút trong quá trình phát triển nông thôn sẽ gây nên những hậu quả nặng nề. Hàng triệu người dân nông thôn đạt mức sống chỉ vừa qua ngưỡng nghèo đói, do đó suy thoái kinh tế có thể đẩy họ trở lại với nghèo đói. Để phát triển nông thôn, chính phủ cần có những chính sách cụ thể. Thứ nhất cần tạo ra công ăn việc làm giúp đảm bảo sự tăng trưởng thu nhập sẽ góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nông thôn. Thứ hai, trong khi trồng lúa vẫn là vụ mùa chính, cần khuyến khích đa dạng hoá nông nghiệp để giúp nông dân tăng thêm thu nhập. Và thứ ba, vì hầu hết 24000 doanh nghiệp ở các khu vực nông thôn là các cá thể nhỏ mang tính gia đình, họ cần được hỗ trợ để phát triển. Do đó, những thay đổi theo chiều hướng xoá bỏ những quy định thiên vị có lợi cho các doanh nghiệp nhà nước và cải thiện cơ sở hạ tầng, nếu làm được, sẽ mang lại những thành quả đáng kể.
Cuối cùng, cải tạo cơ sở hạ tầng, chủ yếu là phục hồi các cơ sở đang có, đã mang lại cho Việt Nam những thành tựu kinh tế xã hội quan trong thập kỷ qua. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều mặt chưa đáp ứng được nhu cầu. Nước ta, mức tiêu thụ điện vẫn còn ở mức thấp nhất thế giớ. Hệ thống giao thông đã quá cũ kỹ lạc hậu và trở nên quá tải. Hệ thống nước và hệ thống vệ sinh cống rãnh đòi hỏi nhiều vốn đầu tư nhiều hơn nữa để đáp ứng nhu cầu phát triển. Để phát triển cơ sở hạ tầng, chúng ta cần những hình thức tài trợ mới cần sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả hơn, và cần một chương trình ưu tiên đầu tư hợp lý, với việc nhấn mạnh về hiệu quả xã hội. Trong hình thức cung cấp vốn mới có bốn nguồn cần quan tâm, trog đó có hai nguồn vẫn thường sử dụng (vốn ngân sách và vốn ODA) và hai nguồn ít sử dụng hơn (vốn đầu tư nước ngoài và vốn cung ứng của các doanh nghiệp nhà nước tham gia trong trương trình). Thêm vào đó, cần có khung pháp lý hoàn chỉnh để khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tham gia trong việc nâng cấp cơ sở hạ tầng. Một hệ thống cơ sở hạ tầng được cải thiện sẽ thúc đẩy tăng năng suất và chia sẻ lợi ích phát triển giữa thành thị và nông thôn.
KếT THúC VấN Đề.
Ngày nay con người đang được sống và làm việc trong một môi trường có nền khoa học kỹ thuật phát triển. Con người được sống và làm việc trong một môi trường tôt hơn trước rất nhiều. Trong thế kỷ XXI này con người cần phải xây dựng cho mình một nền kinh tế phát triển hơn để ngày càng cải thiện hơn điều kiện sống và làm việc của mình. Do vậy Đảng và nhà nước ta cần phải có một chính sách kinh tế hợp lý để nền kinh tế nước ta có khả năng phát triển cao hơn và nhanh hơn. Từ đó nước ta trở thành một nước có tiềm lực kinh tế và chính trị ổn định. Đảng và nhà nước ta đã xác định rằng nước ta đi theo hướng nền KTTT theo định hướng XHCN là hoàn toàn đúng đắn. Do đó trong thế kỷ này nước ta cần xây dựng một nền KTTT XHCN thật phát triển để trở thành một nước phát triển của thế giới.
Muốn xác định được hướng đi cho nền kinh tế nước nhà chúng ta cần phải nghiên cứu đầy đủ và định hướng đi cho nền kinh tế nước ta. Có nghiên cứu cặn kẽ như vậy chúng ta mới thấy hết được những ưu điểm và nhược điểm của nền KTTT định hướng xã hội chủ nhgiã từ đó mới có thể phát huy hết những ưu điểm và hạn chế tối đa những nhược điểm của KTTT.
Vậy qua đây ta thấy việc nghiên cứu đề tài “phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của KTTT định hướng XHCN ở nước ta và các giải pháp để phát triển nó ỏ nước ta hiện nay”là vô cùnh cần thiết. Việc nghiên cứu này giúp ta có thể xây dựng được một nền KTTT định hướng XHCN hoàn hảo hơn.
Cuối cùng một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy PHạM THàNH đã giúp em hoàn thành đề án này.
TàI LIệU THAM KHảO
1. Báo nghiên cứu và trao đổi. Số 18 (10-1998).
2. Báo nghiên cứu và trao đổi. Số 19 (10-1998).
3. Triết học số 1(107). Tháng 2-1999.
4. Triết học số 6(102). Tháng 12-1999.
5. Giáo trình Kinh tế chính trị. Tập 2-NXB GD.
6. Kinh tế học của P. Samuellson.
7. Kinh tế học của David Begg.
8. Cơ chế thị trường & Vai trò kinh tế
của nhà nước ở Việt Nam(NXB_Thống Kê 1994).
9. Báo phát triển kinh tế, số 114/2000.
10. Các văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10232.doc