LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hàng ngày, bất cứ người nào cũng phải mua bán một thứ gì đó, những thanh toán thường xuyên diễn ra như trả tiền điện thoại, trả tiền nước, trả tiền Internet, trả tiền bảo hiểm, tiền gas, hóa đơn mua hàng, Để thực hiện các hoạt động thanh toán này các nhân viên của bưu điện, nhân viên bảo hiểm, hàng tháng phải đến từng hộ gia đình viết hóa đơn, ghi số tiền mà mỗi hộ phải trả. Đối với các doanh nghiệp thì thường có tài khoản ở ngân hàng, mỗi lần thanh toán tiền cho khách hàng hay nhận tiền từ khách hàng thì doanh nghiệp phải cử nhân viên đến ngân hàng của mình để làm các thủ tục như rút tiền, chuyển tiền, Một ngày, một tuần, một tháng doanh nghiệp có rất nhiều hợp đồng hay giao dịch diễn ra vì vậy nhân viên phải đi đi lại lại giữa ngân hàng và doanh nghiệp tốn rất nhiều thời gian và công sức. Mặt khác doanh nghiệp không theo dõi được các thông tin về tài khoản, lãi suất, tỷ giá một cách thường xuyên vì sự liên lạc giữa doanh nghiệp với ngân hàng không phải lúc nào cũng thuận lợi.
Ngân hàng điện tử đã trở thành xu thế phổ biến trên thế giới và tất nhiên, Việt Nam không thể nằm ngoài guồng quay này. Ngân hàng điện tử sẽ giúp khách hàng thanh toán những khoản tiền trên một cách nhanh chóng, thuận tiện hơn, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian, chi phí và công sức.
Xuất phát từ điều đó em đã lựa chọn đề tài: “ Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”. Đề tài này nghiên cứu những vấn đề tổng quát về các dịch vụ ngân hàng điện tử, sự phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam, cuối cùng là một số giải pháp cũng như kiến nghị để nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử ở nước ta trong thời gian tới.
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1568 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uả hơn. Ngoài ra, các dịch vụ ngân hàng điện tử cũng góp phần gián tiếp cải thiện tình hình giao thông đi lại.
Với mô hình ngân hàng hiện đại là kinh doanh đa năng thì khả năng phát triển, cung ứng các dịch vụ cho nhiều đối tượng khách hàng, nhiều lĩnh vực kinh doanh là rất cao. Đặc biệt ngân hàng điện tử có thể cung cấp dịch vụ chéo. Các ngân hàng có thể liên kết với các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty tài chính khác để đưa ra các sản phẩm tiện ích nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng về các dịch vụ liên quan: ngân hàng, bảo hiểm, đầu tư, chứng khoán...
Việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng điện tử giúp các ngân hàng tăng cường sự tín nhiệm của khách hàng. Một khi khách hàng có thể truy nhập và nhận được mọi thông tin, thực hiện được tất cả các giao dịch bất kể họ đang ở đâu thì họ không có lý do gì để phải chuyển sang giao dịch với các ngân hàng khác. Đồng thời, các dịch vụ ngân hàng điện tử có thể góp phần nâng cao hình ảnh của ngân hàng, ngân hàng ngày càng có công nghệ hiện đại, tiên tiến.
Ngân hàng điện tử cung cấp cho khách hàng nhiều sự lựa chọn hơn, nhiều dịch vụ chất lượng cao hơn để thực hiện công việc làm ăn kinh doanh của mình. Khách hàng được ngân hàng cung cấp mọi thông tin ngân hàng cần thiết. Do đó, khách hàng có thể thu được nhiều lợi ích nhờ tiết kiệm thời gian và thực hiện các giao dịch thuận tiện hơn.
Các dịch vụ ngân hàng điện tử chủ yếu là: dịch vụ ngân hàng qua điện thoại (Phone Banking), dịch vụ ngân hàng qua Internet (Internet Banking), dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động (Mobile banking), dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home Banking).
2. Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại (Phone Banking)
2.1 Khái niệm
Phone Banking là một tiện ích ngân hàng mà khi sử dụng nó khách hàng chỉ cần dùng hệ thống điện thoại thông thường. Đây là hệ thống trả lời tự động, hoạt động 24/24 giờ trong ngày, 7 ngày trong một tuần, 365 ngày trong một năm nên khách hàng hoàn toàn chủ động sử dụng khi cần thiết.
Khách hàng được cấp một mật khẩu và số PIN để có thể truy cập kiểm tra tài khoản, xem báo cáo các khoản chi tiêu chỉ đơn giản thông qua các phím trên điện thoại. Các chi phí cho dịch vụ này sẽ được gửi đến cho khách hàng thông qua các hoá đơn điện thoại thông thường.
2.2 Chức năng
Phone Banking có các chức năng sau:
- Giúp khách hàng kiểm tra các thông tin về tài khoản của mình như số dư tài khoản, các giao dịch trên tài khoản trong một khoảng thời gian nhất định (được quy định tùy theo từng ngân hàng - có ngân hàng cho phép khách hàng kiểm tra được các giao dịch trong vòng ba tháng gần nhất).
- Chuyển tiền giữa các tài khoản khác nhau của cùng khách hàng trong cùng ngân hàng (một số ngân hàng còn cho phép khách hàng chuyển tiền từ tài khoản của mình sang tài khoản của các thành viên khác trong gia đình nếu như họ cũng có tài khoản trong ngân hàng đó).
- Qua Phone Banking khách hàng có thể thanh toán các hoá đơn định kỳ như tiền điện, tiền điện thoại, phí truy cập internet, thanh toán hoá đơn thẻ tín dụng, …
- Thanh toán định kỳ (Standing Orders) và Lệnh Thanh toán trực tiếp (Direct Debits). Với chức năng này của Phone Banking, khách hàng sẽ không phải nhớ các khoản thanh toán định kỳ với số tiền cố định như phí bảo hiểm, phí hội viên, tiền mua trả góp,… mà vẫn đảm bảo thanh toán đúng hạn.
- Rút thấu chi (overdraft): khách hàng có thể yêu cầu rút thấu chi tới một hạn mức xác định của ngân hàng
- Đặt mua ngoại tệ hoặc séc du lịch (travellers cheques)
- Chuyển tiền ra nước ngoài - tới một hạn mức xác định của ngân hàng
- Đặt mua hối phiếu (bank drafts) - tới một hạn mức xác định của ngân hàng
Ngoài ra, khi sử dụng Phone Banking khách hàng có thể thực hiện các giao dịch sau :
- Thông tin về số dư lưu ký chứng khoán
- Thông tin kết quả khớp lệnh của các phiên giao dịch gần nhất
- Thông tin về các lệnh đặt mua, đặt bán chứng khoán gần nhất
- Thay đổi địa chỉ liên lạc
- Thoả thuận các yêu cầu mới hoặc bổ sung về thế chấp
- Yêu cầu phát hành lại thẻ hoặc PIN (mã số nhận dạng cá nhân)
- Yêu cầu báo cáo tài khoản, sổ séc…
- Yêu cầu ngân hàng fax bản tỷ giá, giá chứng khoán, bản lãi suất tiền gửi…Khi dùng dịch vụ này, khách hàng cần liên hệ trước với ngân hàng để đăng ký số fax của mình.
Đặc biệt, đối với những khách hàng chưa có tài khoản hoặc chưa sử dụng dịch vụ của ngân hàng cũng có thể sử dụng Phone Banking để nghe giới thiệu về các dịch vụ ngân hàng, thông tin về tỷ giá hối đoái, lãi suất tiết kiệm, lãi suất vay, giá chứng khoán, …
3.3 Tác dụng của Phone Banking
Với hệ thống Phone Banking, khách hàng sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian, không cần đến ngân hàng vẫn giám sát được các giao dịch phát sinh trên tài khoản của mình mọi lúc kể cả ngoài giờ hành chính, mọi nơi trong phạm vi cả nước và quốc tế. Dù khách hàng đang ở bất cứ nơi đâu (ở nhà, ở cơ quan hay đang đi công tác nước ngoài) cũng có thể kiểm soát được các giao dịch trên tài khoản của mình, cập nhật thông tin về sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng vào bất cứ thời điểm nào thích hợp nhất với họ.
3. Dịch vụ ngân hàng qua Internet ( Internet Banking)
3.1 Khái niệm
Internet Banking là một loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại cho phép khách hàng có thể giao dịch ngân hàng thông qua mạng Internet vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu mà khách hàng cho là phù hợp nhất. Do đó, khách hàng có thể làm giao dịch 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần tại nhà riêng hoặc ở văn phòng, khi đang trong nước hay đi nước ngoài.
Để sử dụng dịch vụ Internet Banking khách hàng cần có máy tính, modem, đường điện thoại truy cập. Khi sử dụng dịch vụ này, khách hàng không cần cài đặt thêm một phần mềm đặc biệt nào mà chỉ cần truy cập trực tiếp vào trang web của ngân hàng.
3.2 Chức năng
Internet Banking giúp khách hàng có thể:
- Xem thông tin về các giao dịch đã thực hiện trên tài khoản
- Kiểm tra số dư
- Chuyển tiền giữa các tài khoản trong cùng hệ thống ngân hàng
- Xem thông tin về tài khoản như số dư hiện tại (current balances) và số dư có thể sử dụng (available balances); lãi suất …
- Tìm kiếm thông tin về một giao dịch cụ thể nào đó, ví dụ: số séc, số tiền và ngày séc đó được thanh toán…
- Làm lệnh thanh toán
- Thanh toán hoá đơn
- Xem số dư và các giao dịch trên thẻ tín dụng
- Yêu cầu ngừng thanh toán séc
- Xem chi tiết và sửa đổi các lệnh thanh toán định kỳ (standing orders) và lệnh ghi nợ trực tiếp (Direct Debit)
- Thông báo thay đổi địa chỉ liên lạc…
- Thông báo định kỳ bằng e-mail khi số dư tài khoản đạt đến mức tối đa hay tối thiểu mà khách hàng đặt ra từ trước.
- Chuyển các thông tin dữ liệu từ internet banking xuống phần mềm kế toán riêng của mình như Quicken hay Microsoft Money …
3.3 Tác dụng của Internet Banking
Đây là một loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại và còn khá mới mẻ. Sự ra đời của Internet Banking thực sự là một cuộc cách mạng, nó thúc đẩy các giao dịch xảy ra nhanh hơn, tiết kiệm được rất nhiều thời gian và tiền của cho cả khách hàng lẫn ngân hàng và cho xã hội nói chung.
4. Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động (Mobile Banking)
4.1 Khái niệm
Mobile Banking là một loại hình dịch vụ của ngân hàng điện tử cho phép khách hàng có thể nắm bắt được thông tin về tài khoản của mình và các thông tin ngân hàng khác qua hệ thống tin nhắn trên điện thoại di động.
4.2 Chức năng
- Thông tin về tài khoản: khách hàng sẽ nhận được thông tin về tài khoản ngay sau khi tài khoản được chính thức ghi Có (hoặc ghi Nợ).
- Thông tin về giao dịch cuối cùng gần nhất: khách hàng có thể yêu cầu thông tin về giao dịch cuối cùng mà mình thực hiện (trong khoảng thời gian 06 tháng)
- Thông tin về tỉ giá hối đoái, lãi suất, giá cả...(khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng gửi tin theo tần suất hàng ngày, hàng tuần,...)
- Thực hiện các giao dịch chứng khoán, nhà đất,...
- Thực hiện thanh toán tiền điện thoại, tiền điện, nước...
4.3 Tác dụng của Mobile Banking
Với Mobile Banking, khách hàng sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí, có thể biết thông tin về tài khoản của mình mọi lúc, mọi nơi, thực hiện các giao dịch một cách nhanh chóng chỉ cần thông qua hệ thống tin nhắn trên điện thoại di động. Thông tin mà khách hàng nhận được rất phong phú và có tiện ích cao.
5. Dịch vụ ngân hàng tại chỗ (Home Banking)
5.1 Khái niệm
Home Banking là một loại dịch vụ ngân hàng điện tử cho phép khách hàng có thể chủ động kiểm soát hoạt động giao dịch ngân hàng từ văn phòng của mình thông qua các phương tiện : website, thư điện tử, điện thoại di động hay điện thoại cố định.
Để sử dụng dịch vụ này, khách hàng cần có máy tính với cấu hình phù hợp, modem, đường điện thoại truy cập và một chương trình phần mềm đặc biệt do ngân hàng cung cấp. Khi sử dụng dịch vụ, khách hàng sẽ quay số trực tiếp để kết nối với ngân hàng qua đường điện thoại thông thường. Sau khi nhập mã số sử dụng (username) và mật khẩu (password), khách hàng sẽ có quyền thực hiện các giao dịch ngân hàng từ máy tính cá nhân đặt tại văn phòng mình.
5.2 Chức năng
Home Banking có thể cho phép thực hiện 3 chức năng chính sau:
- Chuyển tiền: Chức năng này cho phép khách hàng có thể lập lệnh chuyển tiền thanh toán cho bên thứ ba có tài khoản tại bất cứ một ngân hàng nào trên thế giới hoặc làm lệnh chuyển tiền giữa các tài khoản của chính mình.
- Xem số dư và các giao dịch trên tài khoản: Chức năng này cung cấp cho khách hàng các thông tin cập nhật về số dư tài khoản cũng như các giao dịch trên tài khoản của mình. Với chức năng này khách hàng còn có thể tự in báo cáo tài khoản bất cứ lúc nào và thậm chí còn có thể chuyển thông tin, dữ liệu sang các phần mềm ứng dụng khác như Excel, Word,…
- Thư tín dụng: chức năng này cho phép khách hàng có thể điền vào mẫu thư tín dụng và chuyển tới ngân hàng.
5.3 Tác dụng của Home Banking
Với Home Banking, khách hàng tiết kiệm được rất nhiều thời gian, tiền bạc và nắm bắt thông tin ngân hàng nhanh hơn vì họ không cần phải đến giao dịch trực tiếp tại ngân hàng, có thể cập nhật thông tin về tài khoản của mình ngay sau khi có giao dịch mới phát sinh dù họ ở bất kỳ nơi đâu. Do đó, khách hàng sẽ có nhiều thời gian hơn để tập trung vào các hoạt động kinh doanh của mình. Khách hàng cũng không còn phải lo lắng về các loại giấy tờ sổ sách phức tạp. Với sự trợ giúp của dịch vụ này, việc giao dịch ngân hàng đối với khách hàng giờ đây chỉ còn là việc bấm vài phím máy tính, vào thời điểm thuận tiện nhất với mình.
II. PHÁT TRIỂN VÀ ỨNG DỤNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
1. Sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam
1.1 Nhà cung cấp dịch vụ
Xuất phát từ thực tế nền kinh tế hội nhập và ngày càng phát triển trong những năm gần đây, các ngân hàng Việt Nam bắt đầu cung cấp một số dịch vụ ngân hàng điện tử như: dịch vụ ngân hàng qua web, PC Banking, Phone Banking, Mobile Banking, Internet Banking, ...
Đối với dịch vụ Phone Banking có các nhà cung cấp như ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), ngân hàng kỹ thương Techcombank, ngân hàng nước ngoài ANZ, Citibank,…
Đối với dịch vụ Internet Banking có các nhà cung cấp như ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), ngân hàng công thương Việt Nam (Incombank), ngân hàng ACB, Techcombank, ANZ, Citibank, Sacombank,…
Đối với dịch vụ Mobile Banking có các ngân hàng cung cấp như: ngân hàng ACB, Incombank, Techcombank,…
Đối với dịch vụ Home Banking có các ngân hàng Techcom bank, ACB, ngân hàng đầu tư và phát triển( BIDV) cung cấp.
Cụ thể, ngân hàng Techcombank cung cấp nhiều sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao đặc biệt là các sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ thương mại điện tử. Techcombank là ngân hàng đầu tiên cung cấp sản phẩm giao dịch ngân hàng qua Internet- F@st I-Bank, góp phần thay thế các giao dịch trực tiếp tại quầy bằng giao dịch trực tuyến qua Internet. Đồng thời cũng là ngân hàng cổ phần đầu tiên cung cấp sản phẩm quản lý tài khoản tiền của nhà đầu tư chứng khoán mang tên F@st S-Bank và Cổng thanh toán điện tử cung cấp giải pháp thanh toán trực tuyến cho các trang web thương mại điện tử F@stVietPay ...
F@st MobiPay là dịch vụ thanh toán qua tin nhắn điện thoại di động do Techcombank cung cấp từ ngày 27/12/2006. Đây là một hình thức uỷ nhiệm chi. Theo đó, khách hàng có thể thực hiện thanh toán cho các hoá đơn, cước phí hàng tháng, các khoản mua sắm của mình mọi lúc, mọi nơi một cách đơn giản chỉ bằng cách nhắn tin lên số dịch vụ 19001590 của Techcombank để yêu cầu ngân hàng trích tiền từ tài khoản trả cho nhà cung ứng dịch vụ là đối tác của Techcombank. Khách hàng có thể sử dụng dịch vụ để thực hiện các thanh toán sau:
- Thanh toán cước phí ADSL của nhà cung cấp FPT
- Mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc xe cơ giới tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Minh
- Mua hàng ngàn loại mặt hàng đa dạng: đồ điện tử, đồ gia dụng, mỹ phẩm, sách báo… trên trang web www.chotroi.com.vn
- Mua hàng ngàn loại mặt hàng đa dạng: đồ điện tử, đồ gia dụng, mỹ phẩm, sách báo… trên trang web www.chodientu.vn
- Mua hàng ngàn loại mặt hàng đa dạng: đồ điện tử, đồ gia dụng, mỹ phẩm, sách báo… trên trang web www.golmart.com.vn
- Mua Vcoin cho tài khoản Game tại VTC
Techcombank cung cấp dịch vụ này miễn phí cho các khách hàng thanh toán qua SMS hoặc khách hàng chỉ phải trả phí tin nhắn theo biểu phí của nhà cung cấp dịch vụ viễn thông.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cũng đã triển khai và cung cấp các dịch vụ ngân hàng mới nhưng chủ yếu tập trung vào hai dịch vụ chính là Homebanking và vấn tin tài khoản bằng điện thoại di động –BSMS. Dịch vụ Home Banking của BIDV được đánh giá là dịch vụ ngân hàng điện tử có chất lượng tốt. Đối tượng sử dụng là các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp hoạt động tại các khu công nghiệp lớn, các doanh nghiệp có mạng lưới hoạt động rộng. Các giao dịch dược thực hiện ở dịch vụ Home Banking là:
- Vấn tin số dư tài khoản tiền gửi, tình trạng khoản vay
- Xem liệt kê giao dịch trên tài khoản tiền gửi
- Thực hiện các giao dịch chuyển tiền là VND từ tài khoản tiền gửi
- Và xem các thông tin ngân hàng khác
Tiện ích của hệ thống BIDV Home Banking là vấn tin thanh toán, trao đổi thông tin giữa ngân hàng và khách hàng, báo cáo thống kê, nhóm thông tin về ngân hàng. Trong thời gian tới dịch vụ BIDV- Home Banking được triển khai đến các chi nhánh trên khắp cả nước và đa dạng hóa các tiện ích như mở thư tín dụng( LC), các sản phẩm bảo lãnh, tiện ích về thanh toán hóa đơn, tiện ích về trả lương tự động,…
Với BSMS của BIDV, khách hàng có thể biết thông tin về tài khoản của mình tại BIDV và các thông tin ngân hàng khác (như tỉ giá hối đoái, lãi suất tiền gửi của BIDV) qua hệ thống nhắn tin trên điện thoại di động.
Ngân hàng thương mại cổ phần ACB cũng là một ngân hàng tiên phong trong việc triển khai các ứng dụng thương mại điện tử vào thanh toán qua ngân hàng. Có khá nhiều dịch vụ đã được giới thiệu như: Phone Banking, Mobile Banking, Internet Banking và Home Banking. Ngân hàng đã phối hợp với công ty Phần mềm và truyền thông VASC giới thiệu với khách hàng một công cụ mới để thanh toán trực tuyến trên mạng - "chữ ký điện tử". Theo đó dịch vụ Home Banking sẽ giúp cho khách hàng thực hiện tất cả các giao dịch với ngân hàng thông qua mạng kết nối tại văn phòng hoặc nhà riêng.
Dịch vụ Internet Banking của Ngân Hàng Á Châu (ACB) là một kênh phân phối các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Ở bất kỳ nơi nào, khi nào khách hàng cũng có thể biết được thông tin về sản phẩm, dịch vụ của ACB. Chỉ cần 1 máy tính có kết nối với Internet, khách hàng có thể truy cập vào trang www.acb.com.vn để:
- Kiểm tra số dư tài khoản, số dư thẻ.
- Xem và in những giao dịch từng tháng.
- Tham khảo những thông tin về sản phẩm mới của ACB.
- Tham khảo lãi suất tiết kiệm, tỉ giá ngoại tệ.
Ngân hàng ACB cũng đã liên kết với công ty Quốc tế Minh Việt và eMobile - một nhà cung cấp giải pháp di động của Singapore, cho ra đời dịch vụ mATM vào tháng 4/2006. Với dịch vụ này, khách hàng của ACB có dùng Vinạphone (cả thuê bao trả trước và trả sau) đều có thể kiểm tra tài khoản bằng điện thoại di động, ghi nợ tài khoản để thanh toán tiền mua hàng hoặc rút tiền mặt từ tài khoản ở các điểm bán lẻ, mua một số dịch vụ trực tuyến hay không trực tuyến chấp nhận thanh toán bằng mATM, các điểm bán lẻ cũng có thể thực hiện dịch vụ chuyển và nhận tiền điện tử mà không nhất thiết người gửi và người nhận tiền nhất thiết phải có tài khoản ở ngân hàng.
Ngoài các ngân hàng trên thì còn rất nhiều ngân hàng khác, không kể là ngân hàng quốc doanh hay ngoài quốc doanh cũng đã và đang cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử. Và các ngân hàng này đều có website riêng, các sản phẩm dịch vụ được giới thiệu quang bá trên website của ngân hàng với rất nhiều tiện ích nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng được nhanh chóng, tiện lợi.
Bên cạnh các ngân hàng cung cấp các dịch vụ ngân hàng điện tử còn có một số công ty làm dịch vụ kết nối trung gian cũng ra đời, cung ứng các dịch vụ kết nối điện tử như Paynet, VinaPay, VASCPayment, VietPay…Các công ty này hướng tới vai trò làm trung gian kết nối và xử lý thông tin giữa các tổ chức cung ứng các dịch vụ đang cần phát triển mạng luới thanh toán điện tử đến khách hàng (đặc biệt là các ngân hàng có phát triển ngân hàng điện tử). Tiêu biểu trong số đó là Paynet với mạng lưới phân phối điện tử, có thể xử lý các hoá đơn thanh toán điện tử cho một số ngân hàng. Thông qua các trung gian này, các dịch vụ ngân hàng điện tử được thực hiện một cách thuận tiện hơn.
1.2 Khách hàng
1.2.1 Doanh nghiệp
Doanh nghiệp sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử thường là những nhà cung cấp sản phẩm. Ví dụ như người bán đồ điện tử, đồ gia dụng, mỹ phẩm trên website www.chodientu.vn, www.chotroi.com.vn,... Khi họ cung cấp sản phẩm cho khách hàng thì họ cần phải thu tiền bán hàng hoá từ đó doanh nghiệp mới có lợi nhuận. Doanh nghiệp có thể tự tạo website rồi đưa sản phẩm của mình lên đó hoặc là đưa sản phẩm lên website chợ điện tử mà ở đó doanh nghiệp cũng có thể bán được sản phẩm của mình. Người mua và người bán chỉ gặp nhau qua không gian ảo. Do đó doanh nghiệp phải xây dựng cổng thanh toán cho khách hàng để họ có thể thuận tiện trong việc chi trả tiền. Một trong những giải pháp hữu hiệu là trả tiền qua Internet, qua điện thoại di động hay điện thoại cố định. Hiện nay đã có một số ngân hàng cung cấp dịch vụ này như đã nói trên. Nhung thực tế hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam chưa mấy mặn mà với các loại dịch vụ này. Một phần là do các ngân hàng chưa chú ý đến công tác marketing cho các doanh nghiệp. Vì vậy các khái niệm như Home Banking, Phone Banking, Internet Banking, Mobile Banking còn khá mới lạ đối với nhiều doanh nghiệp.
Hiện nay, một số doanh nghiệp cũng đã nhận thức được lợi ích của dịch vụ ngân hàng điện tử và ứng dụng nhằm nâng cao hiệu quả trong giao dịch, đặc biệt là vấn đề thanh toán. Có thể nhận thấy sự phát triển của thương mại điện tử làm thay đổi nhận thức của các doanh nghiệp. Ứng dụng thương mại điện tử làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhanh chóng hơn, tiết kiệm chi phí và thời gian, đem lại hiệu quả cao hơn.
Theo Báo cáo Thương mại điện tử năm 2006, tỉ lệ đầu tư cho Thương mại điện tử tăng lên rõ rệt. Nếu năm 2005 chỉ có khoảng 17,5% doanh nghiệp dành trên 5% tổng chi phí thường niên để đầu tư cho thương mại điện tử thì năm 2006 số doanh nghiệp này đã chiếm trên 51,7%. Cụ thể có 48,3% doanh nghiệp cho biết tỉ lệ đầu tư cho thương mại điện tử dưới 5%, 38,1% doanh nghiệp có tỉ lệ đầu tư từ 5 – 15%. Đáng chú ý là trong năm 2006 đã có tới 13,6% doanh nghiệp có mức đầu tư trên 15%.
Cũng theo báo cáo thương mại điện tử 2006, hiệu quả của việc triển khai ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp là khả quan. Trong khi 48,3% doanh nghiệp đầu tư cho thương mại điện tử dưới 5% tổng chi phí đầu tư thì chỉ 33,3% doanh nghiệp có tỉ lệ doanh thu từ thương mại điện tử so với tổng doanh thu ở mức dưới 5%; 38,1% doanh nghiệp đầu tư cho thương mại điện tử từ 5% đến 15% thì một con số xấp xỉ (34,6% doanh nghiệp) có doanh thu thương mại điện tử từ 5% đến 15%; 13,6% doanh nghiệp dành cho thương mại điện tử trên 15% tổng chi phí đầu tư nhưng có tới 33,3% doanh nghiệp có doanh thu trên 15% từ các hoạt động thương mại điện tử. Như vậy, trong khi chỉ 13,6% doanh nghiệp có tỷ lệ đầu tư cho thương mại điện tử chiếm trên 15% tổng chi phí, thì có tới 33,3% doanh nghiệp báo cáo có tỷ lệ doanh thu từ hoạt động bán hàng sử dụng các phương tiện điện tử chiếm trên 15% tổng doanh thu. Ngược lại, gần một nửa doanh nghiệp đầu tư ít cho thương mại điện tử (dưới 5%) thì các doanh nghiệp này vẫn có thể có doanh thu ở nhóm cao hơn 5%. Tương quan này cho thấy ngày càng nhiều doanh nghiệp thu được hiệu quả cao hơn so với chi phí bỏ ra cho hoạt động thương mại điện tử.
Về doanh thu từ thương mại điện tử của năm 2006 so với các năm trước, có tới 95,7% doanh nghiệp cho biết doanh thu từ TMĐT của họ tăng lên. Trong số 4,3% doanh nghiệp bị giảm doanh thu từ TMĐT, nhiều doanh nghiệp cho rằng sự giảm sút này là do các nguyên nhân về quản trị doanh nghiệp, các rủi ro từ an ninh, an toàn mạng, v.v...
Kết quả điều tra trên phù hợp với tình hình phát triển thương mại điện tử chung của thế giới: thương mại điện tử đem lại hiệu quả cao.
Vì vậy để hoạt động thương mại điện tử thực sự phát triển, doanh nghiệp cần có một cơ sở hạ tầng tốt như hệ thống mạng nội bộ, bảo mật thông tin, đội ngũ nhân viên giỏi chuyên môn. Mặt khác phát triển thương mại điện tử cũng là xu hướng phát triển của thương mại toàn cầu. Thương mại điện tử không giới hạn không gian, thời gian, làm cho thế giới trở thành một thị trường thống nhất. Hoạt động kinh doanh nhanh chóng phát triển kéo theo đó là sự phát triển của thanh toán điện tử. Trong đó ngân hàng vẫn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thanh toán của doanh nghiệp. Các dịch vụ thanh toán như Mobile banking, Phone banking, Internet banking và Home banking dần đi vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như là một giải pháp thanh toán mới và hiện đại, góp phần đẩy nhanh quá trình kinh doanh và tiết kiệm chi phí.
Các ngân hàng điện tử ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều khách hàng là doanh nghiệp. Ngân hàng cung cấp dịch vụ và hỗ trợ về mặt kỹ thuật cũng như một số tiện ích để doanh nghiệp sử dụng hiệu quả của hoạt động thanh toán điện tử. Ngân hàng điện tử của ACB hiện nay có khoảng 140 doanh nghiệp tham gia giao dịch qua Home Banking, trong đó 50 doanh nghiệp là khách hàng thường xuyên. Nhưng dịch vụ Home Banking của ACB hiện nay mới chỉ cung cấp một số dịch vụ như chuyển khoản, chuyển tiền cho người không có tài khoảng ở ngân hàng, thanh toán hóa đơn tiền điện, tiền nước và tiền điện thoại. Doanh số giao dịch hàng tuần qua Home Banking khoảng từ hai đến ba tỉ đồng. Số khách hàng cũng như doanh số giao dịch qua Home Banking hiện chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ so với số khách hàng của ACB có hơn 10.000 doanh nghiệp và 200.000 cá nhân.
Cụ thể công ty TNHH Medicare - TP HCM hoạt động trong lĩch vực thương mại hiện đang sử dụng dịch vụ Home Banking của ACB. Giao dịch chuyển khoản của công ty lên tới 30 - 40 lần một tuần. Trước đây mỗi lần chuyển khoản như vậy Medicare phải cử nhân viên đến tận các điểm giao dịch của ACB để thực hiện. Nhưng kể từ khi doanh nghiệp sử dụng dịch vụ Home Banking của ngân hàng thì công việc thanh toán trở nên nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Kế toán của công ty chỉ cần khởi động chiếc máy tính để bàn và thực hiện một số lệnh như chuyển tiền từ tài khoản của Medicare sang tài khoản của đối tác. Sau khi giám đốc công ty truy cập vào mạng Intranet của ngân hàng ACB ký bằng chữ ký điện tử là lệnh chuyển tiền có hiệu lực pháp lý… Việc sử dụng Home Banking còn giúp các nhà quản lý của Medicare theo dõi hoạt động tài chính, nắm bắt tình hình thu chi của công ty thông qua dịch vụ ngân hàng tại công ty. Hệ thống máy tính của công ty được kết nối với ngân hàng điện tử ACB thông qua một modem nhờ đó các hoạt động liên quan đến chuyển khoản, thanh toán cho nhà cung cấp, trả tiền lương cho nhân viên được quản lý chặt chẽ. Hơn nữa dịch vụ Home Banking của ACB khá an toàn nhờ hệ thống bảo mật, đảm bảo thông tin về tài khoản công ty không bị tiết lộ.
Ngoài ACB, nhiều ngân hàng khác cũng đang triển khai hệ thống ngân hàng điện tử, trong đó phải kể đến Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank), đơn vị triển khai giao dịch điện tử liên ngân hàng từ năm 1998 đến nay đã có 64 ngân hàng tham gia. Gần đây, Vietcombank chi nhánh ở TPHCM cũng đã triển khai dịch vụ giao dịch điện tử với tên gọi VCB money cho bốn doanh nghiệp ở TPHCM. VCBmoney mỗi ngày có khoảng 50 cuộc giao dịch cho dịch vụ chuyển khoản và chuyển lương cho nhân viên công ty.
Các dịch vụ ngân hàng điện tử của BIDV cũng được khá nhiều doanh nghiệp sử dụng. Hệ thống BIDV Home Banking có khoảng 100 khách hàng (chủ yếu là doanh nghiệp) sử dụng như Citibank Hà Nội, Bank of Tokyo Mitsubishi, Deutsche Bank, Lao Viet Bank Hà Nội, Trung tâm giao dịch Chứng khoán TPHCM, Công ty Sữa Vinamilk, Công ty Xi-măng Hoàng Thạch, Công ty Xi măng Bút Sơn,…
Ngân hàng ANZ cũng cung cấp một số dịch vụ ngân hàng điện tử phục vụ doanh nghiệp như: xem số dư tài khoản và các giao dịch, tải về lịch sử các giao dịch cho các sản phẩm tài chính, chuyển khoản giữa các tài khoản được liên kết với nhau tại ANZ; chuyển tiền cho các chủ tài khoản ở hầu hết các ngân hàng sử dụng tính năng Pay anyone; yêu cầu bảng kê các giao dịch của các tài khoản ANZ được liên kết với nhau; sử dụng máy tính tỷ giá tiền tệ chéo; sử dụng máy tính tỷ giá chéo; thay đổi mật khẩu ngân hàng điện tử của bạn; phê duyệt theo nhóm. eBiz giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian do doanh nghiệp có thể thực hiện các giao dịch ngân hàng 24 giờ/ngày và 7 ngày/tuần từ văn phòng của mình hay bất cứ nơi nào trên thế giới. Ngân hàng ANZ là ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Đây có thể là một đối thủ cạnh tranh của các ngân hàng trong nước nhưng với những tiện ích mà ngân hàng này mang lại thì nó được khá nhiều doanh nghiệp trong nước chấp nhận. Lý do là hạ tầng cơ sở của ngân hàng ANZ khá tốt và chất lượng dịch vụ cao hơn các ngân hàng trong nước. Doanh nghiệp có thể lựa chọn dịch vụ do ngân hàng nước ngoài hay ngân hàng trong nước cung cấp tuỳ theo chất lượng của các loại dịch vụ đó.
Có thể nói ''cầu'' đối với các dịch vụ ngân hàng điện tử thấp hơn rất nhiều so với ''cung'' như hiện nay. Vấn đề là ở nhận thức của xã hội về các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Mà nguyên nhân được xuất phát từ nhiều lý do khác nhau như: yếu kém trong khâu quảng cáo tiếp thị của các ngân hàng, chưa giới thiệu kỹ về các sản phẩm dịch vụ mới và chưa đưa ra được tầm nhìn cho khách hàng, đặc biệt là tầm nhìn, quan điểm của lãnh đạo ở tất cả các bộ ngành ...
1.2.2 Cá nhân
Cá nhân là một nhóm khách hàng đông đảo của các loại hình dịch vụ ngân hàng điện tử. Nhóm khách hàng này là những người có sử dụng internet, điện thoại di động, máy tính cá nhân, điện thoại cố định. Thông qua các phương tiện này khách hàng có thể tiến hành kiểm tra số dư tài khoản, xem lãi suất, tỷ giá hối đoái,….
Hiện tại, hầu hết ngân hàng đều có website và một số cung cấp dịch vụ online để khách hàng gửi thắc mắc, góp ý cũng như xem tỷ giá, lãi suất tiền gửi tiết kiệm, số dư tài khoản, liệt kê giao dịch phát sinh và hướng tới thực hiện chuyển khoản, thanh toán hoá đơn... chỉ với động tác click chuột hoặc nhấn phím Enter. Truy cập Internet để xem thông tin đầy đủ về tài khoản, chi tiết tiền gửi vào, rút ra, lãi phát sinh cũng như thời gian, địa điểm... giúp chủ thẻ không phải lưu hoá đơn đối chiếu với số dư tài khoản hoặc nhờ đến nghiệp vụ ngân hàng. Đặc biệt là những cư dân mạng được phục vụ 24/24 giờ và tiết kiệm khá nhiều thời gian. Nhóm khách hàng cá nhân sử dụng chủ yếu dịch vụ Mobile Banking. Với chiếc điện thoại di động và thẻ thông minh Sim Card, khách hàng có thể theo dõi các thông tin về tài khoản, các giao dịch được thực hiện trên tài khoản, thanh toán cước phí hàng tháng. Đặc biệt các khách hàng của VTC game còn có thể nhắn tin qua SMS để mua thẻ Vcoin, mua đồ,… rất tiện ích. Khách hàng cũng có thể truy cập Internet trả tiền cho những món hàng mà mình mua qua mạng thông qua mật khẩu và mã Pin được ngân hàng cung cấp.
Việt Nam hiện có khoảng hơn 20 triệu thuê bao di động bao gồm cả trả trước và trả sau. Ước tính đến năm 2010 con số này có thể lên đến gần 40 triệu người. Đa phần thuê bao di động là những người có thu nhập tương đối cao trong xã hội hoặc tầng lớp thanh niên, nhanh nhạy với công nghệ và cái mới. Số người dùng Internet vào khoảng 17,4 triệu người chiếm 21,24% dân số. Những con số này nói lên rằng khách hàng tiềm năng của ngân hàng điện tử là rất lớn. Nếu những khách hàng này mua sắm hàng hoá qua mạng thì giải pháp thanh toán của họ là nhắn tin qua điện thoại di động hoặc nhắn tin qua mạng lệnh chuyển tiền tới ngân hàng, ngân hàng sẽ nhận lệnh chuyển tiền và nhanh chóng gửi vào tài khoản của người bán. Như vậy có thể thấy là thanh toán qua điện thoại di động hay qua mạng giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí vì họ không phải mang theo tiền mặt và không phải chờ đợi trong khi thanh toán như ở một số siêu thị lớn ở Việt Nam hiện nay.
Ví dụ như hơn 800.000 chủ thẻ đa năng của Ngân hàng TMCP Đông Á (EAB) có thể chuyển tiền qua điện thoại di động từ ngày 1/8/2006. Ngoài ra khách hàng còn có thể thực hiện một số giao dịch khác như chuyển khoản, truy vấn thông tin, tạo tài khoản,… qua SMS Banking. Khách hàng cũng có thể thanh toán uỷ nhiệm chi thông qua F@stMobipay của ngân hàng Techcombank từ ngày 27/12/2006. Theo đó người mua có thể dùng điện thoại di động nhắn tin, thiết lập lệnh thanh toán để yêu cầu Ngân hàng trích tiền từ tài khoản trả cho nhà cung ứng dịch vụ là đối tác của Techcombank.
2. Những hạn chế của dịch vụ ngân hàng điện tử
2.1 Về dịch vụ Mobile banking
Các ngân hàng hiện nay mới chỉ cung cấp dịch vụ thanh toán qua tin nhắn cho các thuê bao trả sau, thuê bao trả trước chưa được chấp nhận rộng rãi. Nguyên nhân chủ yếu là do các thuê bao di động trả trước chưa có cơ chế quản lý cụ thể, chặt chẽ. Trong thời gian tới, việc quản lý thuê bao trả trước của các mạng di động được thực hiện thông qua việc đăng ký tại các điểm giao dịch, qua tin nhắn hoặc qua website. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các dịch vụ ngân hàng điện tử Mobile Banking phát triển.
Khách hàng sử dụng dịch vụ chỉ có thể thực hiện thanh toán mua qua SMS tại các điểm mà các doanh nghiệp đã kí hợp đồng thỏa thuận với phía ngân hàng. Nếu phía doanh nghiệp, đại lý, cơ quan… chưa tiến hành các thủ tục cần thiết với ngân hàng thì người sử dụng không thể tiến hành thanh toán mua bán hàng hóa.
2.2 Cơ sở hạ tầng mạng viễn thông
Theo số liệu thống kê của Bộ Công Thương tính đến thời điểm này đang có khoảng 38% số doanh nghiệp Việt Nam có website riêng, 100% doanh nghiệp có điện thoại, 100% doanh nghiệp có máy fax và hơn 93% doanh nghiệp kết nối Internet (trong đó, kết nối bằng băng thông rộng ADSL chiếm trên 81%) để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để phát triển thương mại điện tử trong các doanh nghiệp cũng như ứng dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến
Tuy nhiên, hạ tầng mạng viễn thông Việt Nam chưa thực sự tốt để đảm bảo tin nhắn gửi đi dược nhanh và thông suốt. Những ngày tập trung nhiều khách hàng mua sắm thì lượng thanh toán là rất lớn. Chỉ riêng các thuê bao sử dụng dịch vụ vào ngày lễ, tết thì lập tức bị nghẽn mạng. Điều này gây ảnh hưởng đến chất lượng của dịch vụ. Đường truyền internet của một số website cũng chưa đảm bảo cho việc thanh toán qua mạng được nhanh chóng, thuận tiện như khách hàng mong muốn. Ví dụ như khách hàng của Vietcombank khi truy cập website của ngân hàng thì chỉ nhận được thông báo rằng website đang nâng cấp sever, không truy cập được. Nếu các ngân hàng không có hạ tầng cơ sở tốt thì việc áp dụng mô hình e-Banking sẽ gặp nhiều khó khăn hơn và khó cạnh tranh được với các ngân hàng có hạ tầng cơ sở tốt.
2.3 Thói quen tiêu dùng
Thói quen tiêu dùng tiền mặt của người tiêu dùng Việt Nam không thể thay đổi trong ngày một ngày hai. Người mua hàng vẫn chủ yếu thanh toán trực tiếp cho người bán bằng tiền mặt vì họ cho rằng như vậy sẽ an toàn hơn. Mặt khác không phải khách hàng nào cũng có tài khoản ở ngân hàng.
Theo báo cáo thương mại điện tử 2006, tỉ lệ sử dụng các phương thức thanh toán của các doanh nghiệp như sau:
Phương tiện thanh toán
Tỉ lệ doanh nghiệp (%)
Tiền mặt khi giao hàng
75,0
Chuyển khoản qua ngân hàng
77,3
Chuyển khoản qua bưu điện
31,9
Thanh toán bằng thẻ tín dụng
14,3
Thanh toán trực tuyến
3,2
Ghi chú: Có những doanh nghiệp sử dụng nhiều phương tiện thanh toán
Tỉ lệ thanh toán bằng tiền mặt (chiếm 75%) và chuyển khoản qua ngân hàng (chiếm 77,3%) còn cao, cho thấy hệ thống ngân hàng của nước ta chưa theo kịp đà phát triển chung của thương mại điện tử.
Vì vậy việc thanh toán qua mạng hay qua di động còn hạn hẹp ở một vài khách hàng, chưa thực sự phát huy hết hiệu quả của ngân hàng điện tử. Giao dịch điện tử đang dần được ứng dụng ở Việt Nam. Khách hàng thường tham khảo hàng hoá trên website rồi tìm địa chỉ thực của cửa hàng để mua hàng chứ chưa thực hiện giao dịch ngay trên mạng. Vì vậy thanh toán điện tử chưa phổ biến ở Việt Nam. Hiện nay mới chỉ có một vài doanh nghiệp áp dụng dịch vụ Home Banking, Internet Banking để thực hiện giao dịch với khách hàng nước ngoài.
2.4 Thanh toán qua SMS tiện lợi nhưng thiếu an toàn
Sự phát triển quá nhanh của các hình thức giao dịch bằng tin nhắn khiến bảo mật không theo kịp, tạo kẽ hở cho những trò lừa đảo. Chẳng hạn như mẫu tin nhắn : “để được thưởng 20.000VND trong tài khoản bạn hãy soạn tin theo cú pháp: NAPTIEN TK 20000 và gửi đến 8778”. Sau khi gửi đi, người gửi sẽ mất 15000VND và chuyển thành 10000DEC cho người chơi trò chơi thế giới hoàn mỹ có sở hữu tài khoản e-bank, tên truy cập là TK20000. Mục đích của các tin nhắn kiểu như vậy nhằm lừa đảo chiếm đoạt tiền của người sử dụng dịch vụ thanh toán qua SMS. Trong khi đó Luật thương mại điện tử của Việt Nam sửa đổi năm 2006 chưa có biện pháp để quản lý và xử lý nghiêm các hành vi lừa đảo như vậy. Khách hàng sử dụng dịch vụ vẫn còn hiểu biết sơ khai về thanh toán điện tử vì vậy họ chưa ý thức được việc phải cảnh giác trước những tin nhắn như trên.
2.5 Các dịch vụ ngân hàng điện tử còn nhiều hạn chế
Mặc dù ngân hàng điện tử có thể cung cấp nhiều tiện ích cho khách hàng nhưng khách hàng mở tài khoản trong Internet Banking chỉ xem được số tiền hiện có, gửi thắc mắc, góp ý cũng như xem tỷ giá, lãi suất tiền gửi tiết kiệm, số dư tài khoản, liệt kê giao dịch phát sinh. việc thanh toán chi phí điện, nước, điện thoại đa phần vẫn chưa thực hiện được. Một số ngân hàng điện tử chỉ cung cấp dịch vụ trên trang web chứ chưa thực sự hoạt động. Chẳng hạn như ngân hàng trực tuyến Sài Gòn Thương tín, ngân hàng TMCP Phương Nam, … khi truy cập vào các dịch vụ ngân hàng điện tử thì không kích hoạt được. Như vậy ngân hàng điện tử vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thanh toán của khách hàng và chưa thực sự mang lại nhiều tiện ích cho họ ngoại trừ dịch vụ thanh toán qua SMS trả tiền cước điện thoại được sử dụng phổ biến hơn các dịch vụ khác.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
Dịch vụ ngân hàng điện tử là dịch vụ ngân hàng được giao dịch bằng phương tiện điện tử. Sự phát triển của nó tùy thuộc vào sự phát triển của các phương tiện điện tử, tức tùy thuộc vào thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn thông. Do đó, những thành tựu mới của khoa học công nghệ có ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử và đặt ra những vấn đề mới đối với môi trường pháp lý. Để phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới cần vấn đề cần quan tâm nhất là công nghệ và môi trường pháp lý.
1. Một số giải pháp phát triển dịch vụ thanh toán điện tử của ngân hàng
1.1 Đối với ngân hàng
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, để phát triển ngân hàng điện tử ở nước ta, các ngân hàng nên thực hiện một số giải pháp thích hợp, cụ thể:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện và phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng truyền thống: dịch vụ tín dụng, dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngoại hối, kho quỹ, tư vấn... và ứng dụng các dịch vụ mới (tư vấn, đầu tư, chứng khoán, bảo hiểm, quản lý tài sản…).
Hiện nay, ngân hàng điện tử tồn tại dưới nhiều hình thức, trong đó có hình thức ngân hàng trực tuyến, cung cấp dịch vụ 100% thông qua môi trường Internet, mô hình kết hợp giữa hệ thống ngân hàng thương mại truyền thống và điện tử hoá các dịch vụ truyền thống. Ngân hàng điện tử ở Việt Nam chủ yếu phát triển theo mô hình này. Vì vậy, dịch vụ ngân hàng truyền thống là cơ sở đảm bảo cho các ngân hàng đạt được trình độ nhất định, tạo tiền đề để phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng điện tử.
Thứ hai, phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ ngân hàng điện tử mà một số ngân hàng đã và đang phát triển theo hướng ngày càng tiện ích. Nâng cao chất lượng là vấn đề sống còn trong cạnh tranh của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính. Muốn làm được như vậy các ngân hàng cần chú trọng đến công nghệ, an toàn và bảo mật,các biện pháp nâng cao trình độ nghiệp vụ, kĩ năng khai thác dịch vụ, thái độ phục vụ cho đội ngũ cán bộ, nhân viên của mình; hoàn thiện các qui trình nghiệp vụ; đồng thời tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát và quản lý rủi ro; nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng. Trong đó, quan trọng nhất là vấn đề công nghệ và an toàn bảo mật. Có thể nói đây là “trái tim” của các dịch vụ ngân hàng điện tử.
Về công nghệ: các ngân hàng cần áp dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến,có sự điều chỉnh và đổi mới phù hợp để đáp ứng nhu cầu phát triển của ngân hàng điện tử. Nền tảng hạ tầng công nghệ thông tin với dòng tổng đài và giải pháp HiPath do Siemens cung cấp đang được hàng chục ngân hàng hàng đầu đang hoạt động tại Việt Nam ứng dụng như HSBC, Dutch Bank, Citibank, Vietcombank, Incombank, Agribank...Các ngân hàng có thể tìm kiếm, chia sẻ, lựa chọn những công nghệ tiên tiến thông qua các hội thảo, triển lãm…Ngày 6/12/2007 vừa qua, Cty IDG Việt Nam đã tổ chức hội thảo và triển lãm về "e-Banking" (ngân hàng điện tử). Nó đã thu hút nhiều đơn vị trong và ngoài nước tham gia. Hàng loạt đơn vị cung cấp giải pháp dịch vụ ngân hàng điện tử, các ngân hàng đã trình làng, giới thiệu các giải pháp mới tại triển lãm. Đó là cơ hội để các doanh nghiệp trao đổi, chia sẻ những công nghệ tiên tiến, góp phần phát triển ngân hàng điện tử.
Về an toàn bảo mật: với sự phát triển của khoa học công nghệ như hiện nay, ngân hàng có thể sử dụng nhiều công nghệ cao để nâng cao tính bảo mật thông tin cho khách hàng. Ngoài giải pháp mã hoá dữ liệu điện tử thì có thể bảo mật thông tin bằng chữ ký điện tử, mật mã hoá/giải mã trên mạng bằng thuật toán tiên tiến, quản lý khoá theo trật tự cấp bậc, áp dụng các chính sách an toàn dữ liệu,… Ngoài ra đội ngũ lãnh đạo và nhân viên của hệ thống ngân hàng điện tử cũng cần am hiểu về công nghệ thông tin và Internet để có thể quản lý và theo dõi thông tin về khách hàng qua các phương tiện truyền thông. Đồng thời các ngân hàng điện tử hiện nay còn khá mới mẻ ở Việt Nam cho nên có nhiều khách hàng chưa biết xử lý như thế nào khi gặp sự cố thì nhà cung cấp phải nhanh chóng hỗ trợ khách hàng thông qua những chuyên viên kỹ thuật. Mặt khác ngân hàng điện tử chưa được ứng dụng nhiều ở nước ta. Do vậy trong thời gian tới để dịch vụ ngân hàng điện tử được nhiều doanh nghiệp sử dụng thì nhà cung cấp nên triển khai các dịch vụ mới, thật sự đem lại tiện ích cho khách hàng.
Ngày 1/1/2008 là giai đoạn đầu tiến hành trả lương qua tài khoản, áp dụng cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước làm việc tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố lớn (theo Chỉ thị số 20/2007/CT-Tg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/08/2007 về việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước). Và ngày 1/1/2009 sẽ được thực hiện trên phạm vi cả nước. Đây là một chủ trương có ý nghĩa lớn không chỉ về mặt kinh tế mà cả xã hội, tạo thói quen sủ dụng thanh toán không dùng tiền mặt cho người dân. Đó là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng điện tử đồng nghĩa với việc vấn đề an toàn hệ thống cần được ưu tiên hơn lúc nào hết.
Đồng thời, các ngân hàng cần phối hợp với các doanh nghiệp, với các ngành, lĩnh vực kinh doanh để tiếp tục mở rộng hoạt động thanh toán qua mạng điện thoại di động - Mobile Banking.
Thứ ba, là sự phát triển ngân hàng điện tử mang tính chiến lược, tuy nhiên để phát triển vững chắc, các ngân hàng cần lựa chọn phương án tối ưu nhất để triển khai thực hiện. Trong điều kiện hiện nay, trước mắt các ngân hàng nên phát triển các hoạt động dịch vụ của ngân hàng điện tử ở mức độ nhất định, phù hợp với tình hình thực tế, trình độ phát triển của nền kinh tế; nhu cầu của khách hàng như: xây dựng và phát triển trang Web của ngân hàng; phát triển dịch vụ Mobile Banking, phát triển dịch vụ Home Banking. Các sản phẩm dịch vụ này sẽ phục vụ cho chính các đối tượng khách hàng của ngân hàng (khách hàng truyền thống), đồng thời thu hút khách hàng mới sử dụng bằng chính tiện ích và hiệu ứng thông tin về dịch vụ từ các khách truyền thống.
Thực hiện khai thác hiệu quả trang Web của ngân hàng mình để tổ chức hoạt động tiếp thị, quảng cáo, tư vấn... nhằm thu hút khách hàng quan tâm và chú ý đến các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và phát triển khách hàng tiềm năng, khách hàng mới. Bên cạnh đó không ngừng nâng cao chất lượng Web, tạo trang web có nội dung đa dạng, phong phú với lượng thông tin cung cấp có chất lượng và thường xuyên được cập nhật, đổi mới.
Để dịch vụ ngân hàng điện tử có thể thực sự phát huy tác dụng và hỗ trợ cho giao dịch thương mại điện tử cần có sự liên thông rất cao giữa các ngân hàng cũng như một cổng trung gian thanh toán (payment gateway) với năng lực hoạt động mạnh (hiện nay chỉ có ở ngân hàng Đông Á và ngân hàng ACB). Có như thế thì người mua và người bán có tài khoản ở những ngân hàng khác nhau có thể thực hiện được giao dịch chuyển tiền và các giao dịch trực tuyến khác.
1.2 Đối với khách hàng
Ở Việt Nam vẫn sử dụng chủ yếu là tiền mặt, ở mọi cấp độ của nền kinh tế từ kinh doanh thương mại, người tiêu dùng, doanh nghiệp vừa và nhỏ, công ty lớn, thậm chí cả các doanh nghiệp nhà nước và cấp chính phủ, rất nhiều giao dịch trước đây và hiện nay vẫn được thực hiện bằng tiền mặt. Các đối tượng tham gia ngân hàng điện tử chưa nhiều. Cần tuyên truyền, nâng cao nhận thức về những tiện ích và tầm quan trọng của các dịch vụ ngân hàng điện tử.
Đối với những khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, cần thực hiện những biện pháp để đảm bảo tính bảo mật về thông tin của mình. Cụ thể là:
- Tìm hiểu xem ngân hàng hay công ty thương mại này đã cung cấp các dịch vụ trực tuyến được bao lâu và kiểm tra về mức độ tin cậy của nó.
- Xác minh sự bảo đảm của ngân hàng này sẽ bao gồm bất kỳ mất mát nào liên quan đến sự gian lận có thể xảy ra khi sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử
- Tìm hiểu xem các khách hàng khác nói gì về ngân hàng hoặc công ty giao dịch này trên các trang web so sánh như là Epinions.com. Mặc dù những ý kiến này sẽ không phải là thực tế khách quan về một tổ chức, nhưng bạn có thể ý thức về cách thức mà tổ chức này đối xử khách hàng, giải quyết các khiếu nại của khách hàng, v.v...
- Tìm hiểu cách thức ngân hàng thu thập thông tin tài chính của mình và cách thức mà họ dự định sử dụng nó.
Trên đây là một số giải pháp ở tầm vi mô, áp dụng trong hệ thống ngân hàng điện tử và một số giải pháp dành cho người sử dụng. Để dịch vụ ngân hàng điện tử thực sự phát huy tác dụng và hỗ trợ hiệu quả cho giao dịch thương mại điện tử, đặc biệt là giao dịch B2C thì cần có sự liên thông giữa các ngân hàng và sự thay đổi nhận thức của khách hàng. Điều quan trọng là người mua và người bán phải có tài khoản ở cùng một ngân hàng thì việc thanh toán mới có thể thực hiện được. Vì vậy người mua và người bán qua mạng chính là những khách hàng cần được quan tâm nhiều nhất và đáp ứng nhu cầu thanh toán của họ chính là thành công của dịch vụ thanh toán của ngân hàng điện tử.
2. Một số kiến nghị
2.1 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần có chính sách hỗ trợ về mặt kỹ thuật như: tư vấn, thông tin về công nghệ, tình hình và định hướng phát triển công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng, giảm bớt các chi phí trung gian, chi phí khác liên quan đến quá trình tìm hiểu, lựa chọn công nghệ… qua đó đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá hệ thống thanh toán của các tổ chức tín dụng trên địa bàn và của cả hệ thống Ngân hàng.
- Hỗ trợ nguồn vốn để đầu tư phát triển công nghệ dưới hình thức cho vay đầu tư phát triển công nghệ với lãi suất thấp hoặc tạo điều kiện hơn nữa cho các tổ chức tín dụng tiếp cận được nguồn vốn từ các tổ chức tài chính nước ngoài.
- Thường xuyên có những tập huấn về công nghệ thông tin, về quá trình hiện đại hoá nhằm cập nhật thông tin cho các tổ chức tín dụng, có kế hoạch và phương hướng đầu tư vào công nghệ đúng đắn.
2.2 Đối với Cơ quan quản lý nhà nước
Đến thời điểm hiện nay, với Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại sửa đổi, Nghị định Thương mại điện tử và ba nghị định mới được ban hành gồm Nghị định Chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số, Nghị định Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính, Nghị định Giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng đã đủ cơ sở pháp lý để thương mại điện tử hoạt động.
Các cơ quan quản lý nhà nước, bên cạnh việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử, cần quan tâm đến việc rà soát các văn bản đã ban hành. Các hoạt động liên quan đến thương mại điện tử đã được quy định tại một số văn bản pháp quy, nhưng khi ban hành chưa tính đến những đặc thù của môi trường mạng nên không đáp ứng được yêu cầu trong thương mại điện tử và trở thành lực cản cho doanh nghiệp. Vì vậy, cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của thương mại điện tử.
2.3 Đối với các Bộ, ngành khác
Các ngành như cấp nước, điện, bưu điện… nên phối hợp với ngân hàng thực hiện thanh toán các khoản dịch vụ qua tổ chức tín dụng. Trả tiền điện, nước, điện thoại, truyền hình cáp… qua thẻ, qua ngân hàng có lợi cho cả hai bên và người dân. Bên cạnh đó, dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính quan hệ mật thiết, nên cũng phải có đề án phát triển mảng tài chính như thị trường tín phiếu, trái phiếu, cổ phần hóa doanh nghiệp. Nên tạo điều kiện cho một số ngân hàng nước ngoài được mở chi nhánh trên địa bàn, lựa chọn một số tổ chức tài chính nước ngoài, ngân hàng nước ngoài được góp vốn vào các ngân hàng cổ phần.
Những kiến nghị trên đây là đề xuất đối với quản lý vĩ mô của Nhà nước. Một hoạt động kinh doanh hay dịch vụ mới có thể thực hiện thành công được phải nhờ đến sự điều tiết và quản lý của Nhà nước. Những chính sách và quy định của Nhà nước về giao dịch thương mại điện tử nhanh chóng đi vào thực tiễn sẽ hỗ trợ và thúc đẩy dịch vụ ngân hàng điện tử phát triển, nhanh chóng hội nhập với thương mại điện tử của thế giới.
2.4 Đối với doanh nghiệp
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các doanh nghiệp Việ Nam không những phải cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước mà còn phải đối mặt với sự cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghiệp nước ngoài. Do vậy, ngày càng nhiều doanh nghiệp nhận thấy thương mại điện tử là một phương thức giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Doanh nghiệp cần tìm hiểu, quan sát các mô hình thành công và cân nhắc, tính toán để tìm ra phương thức ứng dụng thương mại điện tử thích hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình. Từ đó có kế hoạch đầu tư hợp lý cho thương mại điện tử.
Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (Vecom) được thành lập là một trong những sự kiện thương mại điện tử tiêu biểu năm 2007 (được 17,3% người tiêu dùng và doanh nghiệp bình chọn). Đây là tổ chức đại diện cho quyền lợi và tiếng nói của doanh nghiệp, đồng thời là nơi gặp gỡ, chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong hoạt động kinh doanh. Trong thời gian tới, Vecom cần phát huy tốt vai trò của mình, góp phần vào sự phát triển của thương mại điện tử Việt Nam.
Ngoài ra, việc thành lập các viện nghiên cứu, trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử cũng rất cần thiết để làm cầu nối giữa cơ quan lập chính sách và doanh nghiệp, đồng thời là nơi triển khai các chính sách cụ thể trong cuộc sống.
2.5 Đối với người tiêu dùng
Sự thay đổi tập quán mua sắm của hàng triệu người tiêu dùng trên cả nước sẽ góp phần thúc đẩy thương mại điện tử phát triển nhanh và đa dạng, tạo ra thị trường mới cho các doanh nghiệp và kích thích các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới. Từ đó, thúc đẩy việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến.
KẾT LUẬN
Ngân hàng điện tử ở Việt Nam bước đầu đã đạt được những thành công nhất định. Nó đang làm thay đổi thói quen của người tiêu dùng Việt Nam, nhờ E – bank mà các hoạt động thanh toán diễn ra một cách thuận lợi hơn. Các tiện ích mà E bank mang lại cho các doanh nghiệp cũng rất to lớn, nó thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, góp phần hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Quan trọng hơn là ngành ngân hàng Việt Nam đã có sự hội nhập, hứa hẹn nhiều tiện ích mang lại cho khách hàng. Ngân hàng điện tử Việt Nam đang có sự khởi sắc mặc dù phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng quốc tế khi thị trường dịch vụ tài chính ngân hàng mở cửa. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực của hệ thống ngân hàng trong việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ ngân hàng và khoa học truyền thông- thông tin. Có như vậy mới phát huy hết những lợi ích, tính tiên tiến và hiện đại mà các dịch vụ ngân hàng điện tử mang lại.
Những giải pháp đưa ra để phát triển hệ thống ngân hàng điện tử Việt Nam được thực hiện đồng bộ và có sự hỗ trợ quản lý của nhà nước, các ban ngành có liên quan để ngân hàng không chỉ là người bạn của các doanh nghiệp mà thật sự gần gũi với tất cả mọi người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam năm 2006
Tạp chí ngân hàng số 20 tháng 10/2007
Tạp chí ngân hàng số 22 tháng 11/2007
Tạp chí kinh tế và phát triển
Website:
www.abc.com
www.anz.com
www.bidv.com
www.dongabank.com
www.mot.gov.vn
www.techcombank.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M1189.DOC