Đề án Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay

Qua việc nghiên cứu các tài liệu để hoàn thành tiểu luận này, những nhận thức, hiểu biết của em về nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nước ta hiện nay đã được mở rộng nhiều. Nước ta đang trên con đường đổi mới và bước đi trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước là phải làm sao lãnh đạo đất nước phát triển mạnh trên con đường hiện đại hoá, công nghiệp hoá, khuyến khích phát triển mọi thành phần kinh tế, phát huy mọi tiềm năng của đất nước nhưng không bị chệnh hướng tư bản chủ nghĩa. Nghiên cứu đổi mới, xắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong một số ngành kinh tế quan trọng. Chỉ có như vậy, định hướng chủ nghĩa xã hội mới được giữ vững. Trong đề tài nhỏ này em đã nêu một số giải pháp, nhưng dù chọn giải pháp nào thì cũng phải giữ vững ổn định chính trị. Chỉ có ổn định chính trị mới tận dụng được tiềm lực của đất nước và cơ hội của thời kỳ mới. Trong mấy năm qua, nước ta đã giữ vững được sự ổn định chính trị, nền kinh tế đã qua khủng hoảng và đang có tốc độ phát triển khá nhanh, đời sống của nhân dân đã được cải thiện, nhiều người đã giàu nên chính đáng nhưng cũng có không ít phần tử thoái hoá biến chất tìm mọi cách bòn rút tiền của Nhà nước, của nhân dân, làm ăn phi pháp mà giàu lên nhanh chóng. Nhà nước cần nghiêm trị những phần tử này, có như vậy mới tạo niềm tin cho nhân dân, tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và ổn định. Nghiên cứ xong đề tài này, em đã nhận thức được nhiều điều mà trước đây em chưa nhận thức chưa đủ, chưa đúng.Giờ đây em đã hiểu biết thêm được nhiều điều về nền kinh tế đất nước đang trên đà đổi mới; hiện nay nước ta đang trong thời kỳ sản xuất nhỏ để chuyển lên sản xuất lớn thì việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một giải pháp cơ bản.

doc25 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điều kiện những công cụ lao động quá thô sơ lúc bấy giờ, một cá nhân không thể sống và lao động độc lập được, bởi vậy họ phải liên kết lao động tập thể để chống lại sự uy hiếp của thiên nhiên, của thú dữ và những cộng đồng người khác. Người nguyên thuỷ không có quan niệm tư hữu, tất cả tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt đều thuộc sở hữu công cộng, của thị tộc và bộ lạc. Đây là nền kinh tế tự cung tự cấp. Trong xã hội nô lệ và phong kiến, nền kinh tế cũng chưa phải là nền kinh tế hàng hoá. Khi đó nền kinh tế hàng hoá mới chỉ là mầm mống, là tiền đề, và nó vẫn bị nền kinh tế tự nhiên chi phối. Chỉ đến khi xã hội tư bản ra đời thì kinh tế hàng hoá mới giữ vai trò cho phối đời sống kinh tế xã hội và khi đó mới thật sự là nền kinh tế hàng hoá. Lý luận của Mác - Lênin về sự phát triển của sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá. a. Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá là hai hình thức tổ chức kinh tế - xã hội đã tồn tại trong lịch sử hai hình thức này được hình thành trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội,trình độ phân công lao động động xã hội, trình độ phát triển và phạm vi của quan hệ trao đổi. Trong nền kinh tế tự nhiên, người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Tự sản xuất, tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật của kinh tế tự nhiên. Mục đích của sản xuất là tạo ra những giá trị sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất, vì thế có thể nói quá trình sản xuất của nền kinh tế tự nhiên gồm hai khâu: sản xuất - tiêu dùng. Các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế tự nhiên đều mang hình thái hiện vật. Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích sản xuất là trao đổi hay để bán. Mục đích đó được xác định từ trước quá trình sản xuất và có tính khách quan. Trong kiểu tổ chức kinh tế này, toàn bộ quá trình sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng ; sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai đều thông qua việc mua - bán, thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định. Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử lâu dài. Đầu tiên là sản xuất hàng hoá giản đơn. Sản xuất hàng hoá giản đơn là sản xuất hàng hoá của nông dân, thợ thủ công dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân họ. Sản xuất hàng hoá giản đơn ra đời trong thời kì công xã nguyên thuỷ tan rã. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến, nó đóng vai trò phụ thuộc bổ sung. Đây là kiểu sản xuất hàng hoá nhỏ, dựa trên kỹ thuật thủ công và lạc hậu. Khi lực lượng sản xuất phát triển cao hơn, sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển thành sản xuất hàng hoá quy mô lớn. Quá trình chuyển biến này diễn ra trong thời kì quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản. b. Điều kiện ra đời nền kinh tế hàng hoá Quá trình xuất hiện vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn ra trên cơ sở của sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này với người sản xuất khác về tư liệu sản xuất quy định. Phân công lao động xã hội đã tạo ra những ngành nghề sản xuất khác nhau. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người chuyên sản xuất một loại hàng hoá nhất định. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu dùng của họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu này họ phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Làm nảy sinh quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất . Phân công lao động xã hội phát triển cũng dẫn tới sự ra đời của ngành thương nghiệp. Khi thương nghiệp ra đời quan hệ trao đổi đã có mầu sắc mới. Người sản xuất và người tiêu dùng quan hệ với nhau qua nhân vật thứ ba là thương nhân. Thương nghiệp phát triển làm cho sản xuất và lưu thông hàng hoá cùng với lưu thông tiền tệ được phát triển nhanh chóng. Quan hệ trao đổi ngày càng được mở rộng và phát triển đỏi hỏi hệ thống giao thông vận tải cũng phải mở rộng và phát triển đây là điều kiện vật chất làm tăng thêm các phương tiện trao đổi mở rộng thị trường. Điều kiện thứ hai của sản xuất hàng hoá là sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Dựa vào điều kiện này mà người chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định việc sử dụng tư liệu sản xuất và những sản phẩm do họ sản xuất ra. Như vậy quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, làm cho họ tách biệt với nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện đó, người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm lao động của người sản xuất khác thì phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau. Sản phẩm lao động trở thành hàng hoá. c. Ưu thế của sản xuất hàng hoá Lịch sử phát triển sản xuất của xã hội là sản xuất tự túc tự cấp tiến lên sản xuất hàng hoá (hay từ kinh tế tự nhiên hàng hoá). So với nền sản xuất tự túc tự cấp thì sản xuất hàng hoá có ưu thế hơn hẳn về nhiều mặt: Thứ nhất, do nhu cầu lớn và không ngừng tăng lên nên sản xuất hàng hoá là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Thứ hai, sự phát triển của sản xuất hàng hoá làm cho phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hợp tác hoá ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành các vùng ngày càng chặt chẽ. Từ đó nó xoá bỏ tính tự cấp, tự túc, bảo thủ trì trệ của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình xã hội hoá sản xuất và lao động. Thứ ba, sản xuất tự túc tự cấp là sản xuất trong một môi trường không có cạnh tranh, còn môi trường hoạt động của sản xuất hàng hoá là một môi trường cạnh tranh gay gắt. Tính tách biệt kinh tế đỏi hỏi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Muốn vậy họ phải ra sức cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến quy cách mẫu mã hàng hoá, tổ chức tốt quá trình tiêu thụ. Từ đó tăng năng suất lao động xã hội. Đây là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của xã hội. Thứ tư, sản xuất hàng hoá quy mô lớn có ưu thế so với sản xuất hàng hoá nhỏ về quy mô, trình độ kỹ thuật, khả năng thoả mãn nhu cầu. Vì vậy sản xuất hàng hoá quy mô lớn là cách thức tổ chức hiện đại để phát triển kinh tế - xã hội trong thời đại hiện nay. Thứ năm, sản xuất hàng hoá phát triển với vai trò động lực của nhu cầu, giao lưu văn hoá, kinh tế được phát triển nên đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của nhân dân được nâng cao ngày càng phong phú và đa dạng, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển quyền tự do, bình đẳng, độc lập cả mỗi cá nhân. Lịch sử các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã xuất hiện mô hình “kinh tế chỉ huy” hay mô hình kế hoạch hoá tập trung. Mô hình này về thực chất là xoá bỏ dần cơ sở kinh tế cụ tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá. Mặc dù hình thức trên vẫn thừa nhận sự tồn tại của sản xuất hàng hoá, của các phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất đó, những trong thực tế đã xa rời các nguyên tắc tổ chức hoạt động của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Sau này, Lênin đã nhận ra sai lầm của mình và đã rút ra kết luận quan trọng rằng: “Chính bản thân cuộc sống đã làm phá vỡ việc trao đổi trực tiếp va thay vào đó là việc mua bán”. Điều đó có nghĩa là cần phải phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, thay cho nền kinh tế giản đơn tự cung tự cấp trước kia. Điều kiện ra đời của nền kinh tế hàng hoá. Trước hết ta có khái niệm của nền kinh tế hàng hoá: Là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi, để bán trên thị trường, sản phẩm ở đây không phải là thoả mãn nhu cầu nội bộ của người sản xuất mà sản xuất ra để trao đổi. Kinh tế hàng hoá đối lập với kinh tế tự nhiên là loại hình kinh tế tiến hành sane xuất sản phẩm để thoả mãn nhu cầu bản thân người sản xuất. ở nền kinh tế tự nhiên thì người nông dân vừa phải tạo công cụ lao động như cuốc xẻng vừa trồng lúa còn trong nền kinh tế hàng hoá thì người nông dân chỉ phải trồng lúa còn người thợ rèn làm ra cuốc xẻng để đổi lấy lúa gạo của người nông dân. Việc người nông dân từ việc vừa phải sản xuất công cụ lao động vừa phải trồng lúa và chuyển sang chỉ trồng lúa còn trao đổi lấy công cụ cuốc xẻng của người thợ rèn chính là phân công lao động xã hội đó là sự chuyên môn hoá người sản xuất thành những ngành nghề khác nhau, mỗi người chỉ sản xuất một thứ hoặc một vài thứ sản phẩm, song nhu cầu của họ lại bao hàm nhiều thứ khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu họ cần có sự trao đổi sản phẩm với nhau. Nhưng nếu chỉ có sự phân công lao động thôi thì chưa đủ để có sản xuất hàng hoá, đây mới chỉ là điều kiện cần của sản xuất hàng hoá. Nếu chỉ có phân công lao động và tất cả tư liệu sản xuất đều là của chung như vậy mỗi người sản xuất cung cấp sản phẩm cho xã hội và xã hội cung cấp sản phẩm cho cá nhân tiêu dùng bởi vậy ở đây không có sự mua bán, trao đổi hàng hoá với nhau nên chỉ có sự phân công lao động xã hội thôi thì chứa đủ để có được nền sản xuất hàng hoá. Ngoài điều kiện phân công lao động xã hội thì để chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá cần phải xuất hiện chế độ tư hữu hoặc các hình thức sở hữu khác nhau của tư liệu sản xuất và sản phẩm, đây là điều kiện đủ để có được sản xuất hàng hoá. Ta đặt vấn đề ngược lại, nếu chỉ có điều kiện hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm thì có thể chuyển đươc từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh têa hàng hoá hay không? Câu trả lời là không vì nếu chỉ có điều kiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà không có sự phân công lao động sã hội thì chưa thể có sản xuất hàng hoá, người nông dân vừa dệt vải, vừa tự rèn lấy công cụ và trồng lúa. Tức là nền kinh tế vẫn mang tính tự cung tự cấp hoàn toàn thì sản xuất đó không phải là nền sản xuất hàng hoá. Như vậy phân công lao động xã hội là cơ sở để có thể xản xuất hàng hoá còn chế độ tư hữu làm cho việc trao đổi sản phẩm mang hình thức trao đổi hàng hoá. Thiếu một trong hai điều kiện đó thì không thể sản xuất hàng hoá. Ưu thế của sản xuất hàng hoá. Lịch sử phát triển sản xuất của xã hội là sản xuất tự túc tự cấp tiến lên sản xuất hàng hoá (hay từ nền kinh tế tự nhiên lên nền kinh tế hàng hoá). So với nền sản xuất tự túc tự cấp thì sản xuất hàng hoá có ưu thế hơn hẳn về nhiều mặt. - Thứ nhất, nền sản xuất tự túc tự cấp là nền sản xuất khép kín làm cho nên sản xuất bị hạn chế không phát triển, mặt khác sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán nên nhu cầu là rất lớn và không ngừng tăng lên bởi vậy nó là động lực để thúc đẩy sản xuất. - Thứ hai, sản xuất tự túc tự cấp là sản xuất trong một môi trường không có cạnh tranh, sản xuất với qui mô nhỏ, nhu cầu chủ yếu dựa vào nguồn lực tự nhiên nên không có động lực mạnh cho việc đổi mới kỹ thuật và phát triển sản xuất hơn nữa, những nguồn lực tự nhiên thì được sử dụng một cách rất lãng phí. Còn môi trường hoạt động của sản xuất hàng hoá là một môi trường cạnh tranh găy gắt, quy mô sản xuất lớn, nguồn lực tự nhiên ngày càng khan hiếm, điều này buộc những người sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, linh động trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, trái với sản xuất tự cấp tự túc, đây là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của xã hội. - Thứ ba, đối với sản xuất tự cấp tự túc do sản xuất phát triển thấp, sản xuất ít và nhu cầu thấp nên ở mỗi vùng và các vùng khác nhau, đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần rất nghèo nàn và thấp kém, không có sự giao lưu trao đổi văn hoá giữa các vùng. Nhưng sản xuất hàng hoá khắc phục được tình trạng này, do sản xuất hàng hoá phát triển với vai trò động lực của nhu cầu, giao lưu văn hoá, kinh tế được phát triển nên đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của nhân dân đều được nâng cao ngày càng phong phú và đa dạng, tạo điều kiện cho sự phát triển độc lập, tự do bình đẳng của mỗi cá nhân. - Thứ tư, nền sản xuất tự cấp tự túc khép kín đã cản trở sự phát triển của phân công lao động xã hội, trái lại do sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội, thúc đẩy sự chuyên môn hoá các ngành sản xuất, làm cho các ngành sản xuất ngày càng được chuyên môn hoá và phát triển mạnh mẽ, trình độ kỹ thuật ngày càng được nâng cao, trên thế giới hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển vô cùng nhanh chóng nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và điện tử ... Như vậy ta có thể thấy rằng, so với nền sản xuất tự cấp tự túc thì nền sản xuất hàng hoá tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn hẳn, và điều quan trọng la nó luôn kích thích cho sản xuất phát triển. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ. Ta thấy rằng từ khi chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển thành một hệ thống trên thế giới cho đến trước thập kỷ 80, vấn đề có hay không tồn tại của nền sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội luôn là đề tại tranh luận trong giới nghiên cứu lý luận Macxit. Nhìn chung, về phương diện lý luận, quan điểm chính thống chi phối trong suốt mấy thập kỷ qua là quan niệm cho rằng: kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế phát triển theo kế hoạch cân dối và có kế hoạch cùng với các quy luật kinh tế đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước có vai trò chủ yếu trong quá trình tái sản xuất và phân phối sản phẩm mà không cần đến các quan hệ trao đổi hàng hoá trên thị trường. Kinh tế hàng hoá bị coi nhẹ, được coi là đặc trưng riêng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cần phải hạn chế và đi tới xoá bỏ. Nhưng trên thực tế chính điều đó là nguyên nhân chủ yếu làm trì trệ, kìm hãm đưa nền kinh tế của các quốc gia XHCN đến khủng hoảng và tan vỡ. Từ những thực tế trên ta thấy quan điểm cho rằng “sản xuất hàng hoá là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản” là hoàn toàn sai lầm. Mặt khác theo Cacmac sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bởi vậy sản xuất hàng hoá tồn tại trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan vì: - Thứ nhất, khi mà phân công xã hội phát triển kéo theo chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, từ đó sẽ nảy sinh thêm những mối quan hệ kinh tế, những sự trao đổi hoạt động lao động trong xã hội. - Thứ hai, đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ đó là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Những chủ thể kinh tế này tách biệt, độc lập với nhau nhưng họ đều nằm trong một hệ thống phân công lao động xã hội do đó sản xuất và đời sống của họ vẫn có sự phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng con đường trao đổi hàng hoá tức là phải có sản xuất hàng hoá. - Thứ ba, quan hệ hàng hoá tiền tệ là hình thức cần thiết thuận lợi để đảm bảo sự công bằng trong quan hệ kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, vì hai đơn vị này tuy cùng là sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất nhưng nó vẫn có sự khác biệt nhất định và có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, cạnh tranh hay hợc tác với nhau, nó còn có sự khác biệt nhau về trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý, về hiệu quả sản xuất kinh tế, chúng ta không thể dùng phương pháp bình quân, cào bằng ở đây được. - Thứ tư, sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá tiền tệ còn chính là điệu kiện cần thiết và tất yếu trong quan hệ đối ngoại giữa các nước trên thế giới bởi vì mỗi nước vẫn là những quốc gia riêng biệt, là những chủ sở hữu khác nhau về sản phẩm hàng hoá. Từ những lý do trên đây ta nhận thấy trong thời kỳ quá độ sản xuất hàng hoá tồn tại là một tất yếu khách quan và không thể cưỡng lại được, không thể dùng mệnh lệnh để ngăn cấm, xoá bỏ sản xuất hàng hoá . II.Tính tất yếu khách quan phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam. Do yêu cầu của phát triển lực lượng sản xuất . Lực lượng sản xuất phát triển tỷ lệ thuận với tiến trình tập trung xã hội hoá quan hệ sở hữu mà đỉnh cao là sở hữu toàn dân. Sự hình thành các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần, công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia chính là những biểu hiện của quá trình xã hội hoá quan hệ sở hữu ở một trình độ nhất định. Khi mà lực lượng sản xuất đang ở mức thấp thì tương ứng với nó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu phân tán. Thế giới ngày nay do phát triển lực lượng sản xuất của khoa học, công nghệ mà giàu có rất nhanh; những đi liền với nó là bất công xã hội ngày càng tăng, sự giàu có phát triển không làm cho bất công xã hội giảm đi mà ngày càng phát triển, để giải quyết mâu thuẩn này không có cách nào khác là khi tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết công bằng xã hội, ở đây không có nghĩa là cào bằng sự siêng năng tích cực, sự biếng nhác; làm ăn có hiệu quả khác nhau đều được hưởng như nhau; làm như vậy sẽ triệt tiêu động lực phấn đấu của con người. ở đây cần phải dùng quan hệ hàng hoá tiền tệ để phân chia quyền lợi , chỉ có làm như vậy mới làm giảm sự bất công xã hội. Hơn nữa trình độ phát triển lực lượng sản xuất của nước ta còn ở mức rất thấp, sự phân công lao động xã hội gắn với sự tồn tại của nhiều chủ thể sở hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập, do vậy việc trao đổi sản phẩm không thể thực hiện bằng cách náo khác là thực hiện trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ. Trong thời kỳ quá độ của nước ta hiện nay muốn phát triển lực lượng sản xuất thì phải nâng cao xã hội hoá và chuyên môn hoá lao động mà điều này chỉ có thể diễn ra thuận lợi trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, trên thế giới, do sự phát triển của lực lựng sản xuất của khoa học công nghệ, đang có xu hướng quốc tế hoá đời sống nhân loại, xu hướng này mở ra cả chiều rộng và chiều nghịch, cả mặt tích cực lẫn tiêu cực tác động đến con người, đến các quốc gia. Xu thế này đòi hỏi sự giao lưu hợp tác, hiểu biết lẫn nhau giữa các vùng và các quốc gia. Do vậy cần phải phát triển sản xuất hàng hoá ở nước ta để việc giao lưu, hợp tác với các nước khác trên thế giới được dễ dàng thuận lợi. Mặt khác, sản xuất hàng hoá phát triển kéo theo lực lượng sản xuất phát triển làm cho sản phẩm xã hội ngày càng phong phú đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng của con người. Do tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Việc đổi mới quản lý kinh tế sử dụng đúng đắn mối quan hệ hàng hoá tiền tệ bằng phương pháp kinh tế là chủ yêú đã được đặt nền tảng tư tưởng bởi nghị quyết đại hội VI (1986) có tính quyết định cho việc lưạ chọn chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường nhanh chóng đưa nước ta thoát hỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Từ những quan điểm đó Chính phủ đã chủ trương chuyển việc mua bán tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng. từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang việc mua bán thông qua thị trường. Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần tương ứng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất là cơ sở gắn liền với nó là sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá. Đối với nền kinh tế nước ta với lực lượng sản xuất chưa đồng đều chúng ta đã nhận định được rằng chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành phần mới có khả năng khắc phục được tình trạng không đồng đều đó của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, tồn tại sáu thành phần kinh tế: Kinh tế Nhà nước. Kinh tế hợp tác. Kinh tế sản xuất nhỏ của nông dân và người buôn bán nhỏ. Kinh tế tư bản Nhà nước. Kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế có sự tham gia của người nước ngoài. Hiện nay, nước ta đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do sự sai lầm về đường lối, chính sách thời trước đổi mới, hậu quả chúng ta phải gánh chịu đó là nền kinh tế kém phát triển, làm mất khả năng cạnh tranh và những tác dụng tích cực của nền kinh tế hàng hoá. Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp về nhiều mặt ( huy đông được mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật và phát thy được mọi tiềm năng của con người Việt nam) có khả năng đưa nền kinh tế vượt qua được tình trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển ngay trong điều kiện nguồn vốn, ngân sách của Nhà nước còn hạn hẹp. Một điều có ý nghĩa khá lớn là chúng ta đã nhận định được đó là: do trong nền kinh tế hàng hoá chịu sự tác động của sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng, bởi vậy lao động dịch vụ có khả năng thu hút nguồn lao động không nhỏ, góp phần giải quyết được vấn đề công ăn việc làm ở nước ta hiện nay. Trong điều kiện đó các thành phần kinh tế có khả năng mở rộng, tác dụng làm cho nền kinh tế hàng hoá và dịch vụ phát triển. Vậy đối với nước ta hiện nay, việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xhcn là một nhu cầu khách quan, là xu thế tất yếu hợp thời đại. Do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân. Vào thời kỳ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX này, dân tộc ta bị sống đọa đầy dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Trong ách áp bức bọc lột, nhiều phong trào yêu nước đã kế tiếp nhau diển ra để chống lại bọn cướp nước và bè lũ bán nước, nhưng những phong trào đó lần lượt bị thất bại do không tìm được ra con đường cứu nước đúng đắn. Trong bối cảnh đó Hồ Chí Minh với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm con đường cứu nước tại bến cảng Nhà Rồng và Người đã tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc. Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng mới giành được, Người đã nêu bật một chân lý “ Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì” và Người thường căn dặn “thắng đế quốc và phong kiến là tương đối khó nhưng thắng nghèo nàn, lạc hậu còn khó khăn hơn nhiều”. Đối với nước ta trong thời kỳ trước đổi mới (1986) do những sai lầm trong nhận thức về mô hình XHCN, cho rằng kinh tế hàng hoá là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản, điều này đã làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng, lạm phát gia tăng một cách khủng khiếp (có thời kỳ lên tới 600 - 700%) đời sống nhân dân vô cùng khổ cực. Trước những thực trạng đó của đất nước, Đảng ta đã nhận ra sai lầm và đã đề ra phương hướng đổi mới đất nước đó là vận hành nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước kể từ sau Đại hội VI ( 1986). ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế hàng hoá và việc tăng tỷ lệ hàng hoá nông sản đã làm cho hàng hoá của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng một cách đáng kể. Thực tiễn nhữn năm đổi mới đã chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó mà những năm qua, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn kỹ thuật nước ngoài, phát triển lực lượng sản xuất . III.Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá. Thực trạng kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay. Những thành tựu đạt được khi có chính sách mới. Cho đến cuối những năm 80 về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn dựa vào nền văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Trong quá trình thực hiện những biện pháp cải cách, chúng ta đã phạm phải một số sai lầm mới nên khủng hoảng kinh tế – xã hội diễn ra ngày càng gay gắt, tỷ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986. Việt Nam vẫn là một nước ngèo nàn, lạc hậu và kém phát triển không những trên thế giới mà thậm chí ngay trong khu vực Đông Nam á. Từ khi có chính sách đổi mới, thành tựu nổi bật nhất là đẩy lùi lạm phát, chỉ trong một thời gian ngắn hàng loạt các đơn vị của thành phần kinh tế kinh doanh thương mại được hình thành, hoạt động trên mọi lĩnh vực từ xuất nhập khẩu đến kinh doanh thiết bị nhỏ lẻ trên cả nước. Các tổ chức này ra đời đã làm cho thị trường trở nên sôi động, khối lượng hàng hoá và tiền vốn từ nhiều nguồn lực được huy động vào lưu thông với mức mà trước đây chưa khi nào có được. Việc ngăn sông cấm chợ được xoá bỏ, việc lưu thông hàng hoá được dễ dàng, tình trạng khan hiếm hàng hoá được đẩy lùi, hiện tượng chênh lệch giá giữa các vùng, khu vực bị hạn chế, nạn độc quyền trong kinh doanh được giải quyết đáng kể, đời sống xã hội được nâng lên. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế nước ta phát triển tương đối nhanh và ổn định, lương thực từ chỗ thiếu thốn cho đến nay không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu. Đầu năm 1988 có nạn đói lớn ở nhiều vùng và lạm phát còn ở mức 393,8%, nhưng từ năm 1989 trở đi, nước ta đã bắt đầu xuất khẩu được mỗi năm 1- 1,5 tấn gạo; lạm phát giảm dần, đến năm 1990 chỉ còn 67,4%, và đến năm 1999 vừa qua nước ta đã trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, trên cả Mỹ. Nhiều công trình trọng điểm về kết cấu hạ tầng được xây dựng đã tạo thêm sức mạnh vật chất và thế cân đối cho những bước phát triển tiếp theo. Một thành tựu không nhỏ nữa đó là việc xuất hiện nhiều khu công nghiệp lớn, ngành nghề mơí đã tạo thêm nhiều việc làm cho lao động xã hội từ đó những tệ nạn xã hội cũng dần được kiềm chế, sự tăng trưởng kinh tế cũng đã góp phần nâng cao đời sống các tầng lớp dân cư, số hộ nghèo đói ở nước ta được giảm đi đáng kể, nhiều hộ gia đình từ chỗ không đủ ăn đến đủ ăn, đến nay thậm chí có những hộ gia đình từ khi có chính sách kinh tế mới đã mạnh dạn đầu tư sản xuất và trở thành những ông chủ giầu có. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể so với trước kia. Những khó khăn và thách thức mới. Tuy rằng trong những năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, mức sống của nhân dân được nâng lên một cách đáng kể, nhưng bên cạnh đó cũng đặt cho chúng ta những khó khăn và thách thức mới. Việc vực dậy nền kinh tế từ không đến có hay từ đói nghèo đến đủ ăn, đủ mặc tiến lên ăn ngon mặc đẹp ở mức cao hay một nền kinh tế từ “có” lên đến nhiều hơn nữa và tiến lên giàu mạnh hơn nữa. Nền kinh tế của nước ta tuy đang phát triển với tốc độ cao nhưng không vững chắc, nguồn lực phụ thuộc nhiều vào nước ngoài, huy động nguồn đầu tư từ dân thấp, chưa tạo được tâm lý yên tâm cho người dân mạnh dạn đầu tư phát triển. Việc lưu thông hàng hoá và hoạt động thương mại chủ yếu tập trung vào những vùng thành thị, khu đông dân và những thành phố lớn, chú ý nhiều đến kinh doanh, hai thác hàng nhập khẩu, thị trường nông thôn miền núi, hàng hoá sản phẩm trong nước nhất là hàng hoá nông sản thì ít được chú ý. Quá trình mua bán diễn ra nhanh chủ yếu chạy theo lợi nhuận trước mắt đã làm cho thị trường trong nước bị phân đoạn, tách rời, động lực thúc đẩy sản xuất bằng nguồn lực nội tại trong nước của thị trường không được phát huy. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội nước ta còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế được trang bị máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại thì bộ phận lao động thủ công vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Trong nhiều ngành kinh tế do máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu nên sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước còn rất yếu, số lượng, chất lượng hàng hoá làm ra còn thấp, chuyên môn hoá sản xuất chưa sâu, giao lưu hàng hoá còn nhiều hạn chế hơn nữa lại bị hàng nhập khẩu chèn ép, không xuất khẩu được nên nhiều doanh nghiệp khôn phát huy được hết năng lực sản xuất. Đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp thành thạo còn quá ít, chưa đáp ứng được nhu cầu to lớn của thực tiễn, số lượng lao động thì lớn nhưng số lượng được đào tạo kỹ thuật có khả năng đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của những công nghệ hiện đại trên thế giới còn chiếm tỷ lệ qúa nhỏ dẫn đến tình trạng tuy có nguồn lực dồi dào nhưng không thể khai thác được triệt để vì còn thiếu nhân lực có kỹ thuật có tay nghề. Hơn nữa, thu nhập của người làm công ăn lương cũng như của nông dân lao động còn thấp (khoảng 200 USD/người/năm, một trong những nước có thu nhập bình quân trên đầu người thấp nhất thế giới ), do đó sức mua hàng chưa cao làm cho dung lượng thị trường trong nước còn ở mức nhỏ hẹp, điều này khiến chúng ta không thể khai thác hết được những tiềm năng phát triển trong nước, và cũng hạn chế cả khả năng hấp dẫn với những nguồn đầu tư từ nước ngoài. Đứng trước vấn đề trên, chúng ta phải đưa ra những giải pháp hữu hiệu để giải quyết. 2. Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá Việt Nam 2.1. Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu tạo điều kiện phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Đối với kinh tế Nhà nước. Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, một vấn đề quan trọng cần nắm được đó là nền kinh tế Nhà nước phải nắm vai trò chủ đạo. Khi mà kinh tế Nhà nước đủ mạnh và giữ được vai trò chủ đạo thì dễ lôi cuốn được các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu không, thì không loại trừ khả năng thành phần kinh tế tư bản tư nhân sẽ lớn mạnh hơn và kéo nền kinh tế quốc dân theo định hướng tư bản chủ nghĩa, thêm nữa thành phần kinh tế tư bản tư nhân đã, đang và sẽ được sự hậu thuẫn rất lớn của quốc tế. Nhất là trong bối cảnh nước ta hiện nay mọi thế lực chống đối, phản động đang tìm mọi cách làm cho nền kinh tế tư bản tư nhân của nước ta thắng thế. Do vậy, để nền kinh tế Nhà nước thắng thế chúng ta cần phải thực hiện một số vấn đề: - Thành phần kinh tế Nhà nước phải được xác định đúng về mô hình tổ chức và định hướng phát triển, chọn đúng cán bộ tốt, có cơ chế chính sách phù hợp để thành phần kinh tế này không ngừng được củng cố và phát triển nhằm phát huy được vai trò chủ đạo. Để thực hiện và phát huy được vai trò chủ đạo thì doanh nghiệp Nhà nước cần phải phát triển trong những lĩnh vực có ý nghĩa mở đường, dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Nó phải đảm bảo phát triển sản xuất hàng hoá công cộng còn những lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lợi thì nên để các thành phần kinh tế khác phát triển. - Một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Nhà nước là doanh nghiệp Nhà nước phải phát triển trên đúng nguyên tắc năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao và phải bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác (vì chỉ trên cơ sở xác định được hiệu quả kinh tế xã hội rõ ràng, cụ thể mới có tiêu chuẩn tìm chọn nhân tài, có đạo đức tốt, khả năng quản lý giỏi để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế ) phải làm sao cho doanh nghiệp Nhà nước trở thành một công cụ để Nhà nước có thể khắc phục được những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường và có thể can thiệp vào nền kinh tế bất cứ khi nào cần thiết. - Hiện nay, trong cơ cầu thành phần kinh tế khu vực doang nghiệp Nhà nước chưa được quan tâm nhiều đến việc đầu tư đổi mới công nghệ, giải quyết vốn lưu động để phát huy năng lực sản xuất , hiện nay vẫn còn nhiều doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, còn quá nhiều doanh nghiệp nhỏ làm ăn thua lỗ kéo dài. Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng này chúng ta cần phải xắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng: Nắm ngành, khâu, mặt hàng then chốt, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh, tự chủ về mọi mặt. Việc xắp xếp lại có thể tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Để kinh tế Nhà nước hoạt động có hiệu quả cao hơn, phát huy được vai trò chủ đạo của mình chúng ta cần phải đổi mới theo hướng sau: + Thứ nhất, hoàn thành việc phân định doanh nghiệp hoạt động công ích và các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cũng như các doanh nghiệp kinh doanh giữ một vai trò vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có đủ số vốn lưu động cần thiết, được vay vốn ưu đãi để đổi mới thiết bị công nghệ, kiện toàn tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý. Còn đối với những doanh nghiệp kinh doanh chuyển sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần thật sự tự chủ thì phải tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình. + Thứ hai, xác định lại doanh nghiệp Nhà nước đầu tư 100% vốn, loại doanh nghiệp mà Nhà nước nắm số cổ phần khống chế và những doanh nghiệp Nhà nước chỉ cần giữ cổ phần ở mức độ thấp và đa dạng hoá sở hữu thông qua các biện pháp: cổ phần hoá, cho thuê kinh doanh, chuyển nhượng quyền sở hữu và sử dụng... trên cơ sở khắc phục mọi trở ngại khách quan và chủ quan để đẩy nhanh tiến độ phát triển. Hướng dẫn, đôn đốc việc cổ phần hoá doanh nghiệp theo những danh mục đã xác định, đảm bảo tiến độ triển khai và kịp thời rút kinh nghiệm để tiến hành một cách vững chắc, không để xẩy ra những sai lầm đáng tiếc. Đối với biện pháp tổng công ty hoá các doanh nghiệp cần được xem xét theo hướng thu hẹp các tổng công ty đến mức chỉ áp dụng trong những lĩnh vực phải đối diện cạnh tranh trực tiếp với nước ngoài, song song với việc xây dựng các công ty đa ngành, đa sở hữu và tạo cơ chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong tổng công ty Đối với kinh tế hợp tác. Thành phần kinh tế hợp tác ở nước ta hiện nay còn lúng túng, số hợp tác xã hoạt động kém còn nhiều. Đây là một vấn đề cần phải tháo gỡ kịp thời để đảm bảo cho nền kinh tế nhiều thành phần phát triển đúng hướng xã hội chủ nghĩa. Để tháo gỡ vấn đề hoạt động kếm của hợp tác xã chúng ta cần phải tổng kết kinh nghiệp phát triển hợp tác xã kiểu cũ trong nông nghiệp, thương nghiệp... để rút ra những bài học kinh nghiệm, phát triển hợp tác xã trong những năm tới. Hiện nay, mô hình hợp tác xã kiểu cũ không còn phù hợp với quy luật phát triển xã hội hoá nền sản xuất đối với nền sản xuất nhỏ của nước ta. Thực tế hơn 10 năm qua đã chứng tỏ các hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ là cần thiết trong các khâu dịch vụ sản xuất, các khâu đầu vào, đầu ra cho sản xuất nhỏ, bởi vậy cần có sự tổng kết, hướng dẫn phát triển hợp tác xã ở các khâu này và tạo điều kiện để kinh tế tập thể góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Đối với loại hình sản xuất nhỏ của người nông dân và người buôn bán nhỏ. Như trên đã nói trong những năm đổi mới của nước ta, kinh tế hộ giữ vai trò rất quan trọng nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Đối với loại hình sản xuất này nhà nước cần có những chính sách trợ giúp cung ứng nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, Nhà nước thông qua nhứng chính sách thuế để trợ giúp cho thành phần kinh tế này, khuyến khích những người sản xuất nhỏ phát triển làm sao để kinh tế hợp tác xã cùng với kinh tế Nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Hiện nay kinh tế tư bản tư nhân sản xuất lớn ở nước ta còn rất nhỏ bé, lại nặng về hoạt động thượng mại dịch vụ đời sống còn trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp tỷ trọng không đáng kể. Một điều khó khăn của thành phần kinh tế này là tâm lý e ngại đầu tư trong nhân dân. Do vậy, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích thành phần kinh tế tư bản tư nhân tự do phát triển theo luật định không hạn chế tư nhân, cá thể bỏ vốn đầu tư vào sản xuất những sản phẩm mà nhà nước cho phép nhất là Nhà nước cần có những chính sách để khuyến khích các nhà đầu tư kinh doanh phát triển nông nghiệp từng bước đưa nền sản xuất nông nghiệp nước ta tiến lên sản xuất lớn, cần phải có chính sách nghiên cứu lại hạn điền, chuyển dịch ruộng đất theo hướng tích tụ và tập trung ruộng đất, phát triển mô hình kinh tế trang trại thúc đẩy hàng hoá phát triển. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân này không tránh khỏi tính tự phát là chạy theo lợi nhuận đơn thuần nảy sinh những hiện tượng tiêu cực và làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội. Hiện nay, ở nước ta tình trạng buôn lậu, trốn thuế, và tiêu thụ hàng hoá giả còn phổ biến, bởi vậy những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này Nhà nước cần sử dụng nhiều biện pháp để hạn chế, ngăn chặn những khuynh hướng tự phát, những hiện tượng tiêu cực và hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế này theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với thành phần kinh tế tư bản Nhà nước. Đối với thành phần kinh tế này của nước ta hiện nay, số vốn đầu tư phát triển còn thấp, do vậy Nhà nước cần có nhưng chính sách thu hút vốn đầu tư của các nhà tư bản trong và ngoài nước, đối với các nhà tư bản nước ngoài để khuyến khích họ đầu tư Nhà nước cần tạo tâm lý yên tâm cho họ như bằng cách giữ vững ổn định về chính trị để họ nghĩ rằng những khoản đầu tư của họ được an toàn. Nhà nước cần có những chính sách khai phá những vùng đất còn bị bỏ hoang những vùng đất thuộc nông thôn, miền núi như có những ưu đãi đặc biệt cho những ai đi khai phá và phảt triển ở những vùng đất này, mặt khác cần phải nâng cấp hệ thống giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, giao lưu buôn bán giữa những vùng này với những vùng kinh tế phát triển trong nước. 2.2. Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội. Việc đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội cũng chính là quá trình đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nước cần phải phát triển mạnh theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu. Trong mấy năm vừa qua, tỷ lệ xuất khẩu của nước ta tăng lên đáng kể nhưng việc thúc đẩy xuất nhập khẩu gặp một số khó khăn như công nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu được hình thành trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, do vậy máy móc lạc hậu mấy thế hệ, các xí nghiệp, kho tàng bến bãi quá cồng kềnh nhưng công xuất lại thấp. Hiện nay tuy đã có sự thay đổi công nghệ lạc hậu bằng những công nghệ mới hiện đại và có sự chuyển biến theo hướng xuất khẩu nhưng những hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng ở dạng thô và nguyên liệu chưa qua chế biến nên tuy rằng tài nguyên rất lớn nhưng không thu được bao nhiêu, trong lĩnh vực này Nhà nước cần có biện pháp phát triển công nghiệp chế biến để làm sao cho xuất khẩu nước ta không phải là xuất khẩu hàng hoá dạng thô chưa qua chế biến mà xuất khẩu những hàng hoá đã qua chế biến, có như vậy việc xuất khẩu của nước ta mới phát triển mạnh và dần thay thế được nhập khẩu. Cần phân công lại lao động xã hội theo hướng chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng sản xuất kinh doanh, tăng cường và phát triển ngành sản xuất vật chất ( ngành kinh tế dịch vụ) coi trọng lao động trí tuệ đẩy mạnh sự nghiệp nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, phát triển những ngành có lợi thế như, nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông lâm hải sản. 2.3. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Thị trường là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì thị trường càng phát nghĩa là sản xuất quyết định thị trường, song bên cạnh đó thị trường cũng tác động trở lại đối với sản xuất hàng hoá, có tác động thúc đẫy sản xuất hàng hoá khi thị trường càng được mở rộng thì quy mô sản xuất cũng tăng lên và sự phân lớp trong sản xuất ngày càng sâu sắc hơn. Để khai thác có hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, công nghệ, tại nguyên, thực hiện mở rộng phân công lao động xã hội cần phải từng bước hình thành đồng bộ các loại thị trường: tiền tệ, sức lao động... điều này góp phần đảm bảo cho việc phân phối và sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất phù hợp với nhu cầu của sự phát triển kinh tế hàng hoá. Đối với thị trường hàng hoá dịch vụ. Thực hiện giao lưu hàng hoá thông suốt trong cả nước, phát triển thị trường công nghệ, các dịch vụ thông tin tư vấn, thiết bị kiểm tra, kiểm soát và sử lý nghiêm minh các trường hợp gian lận thương mại như: kinh doanh trái phép, trốn lậu thuế, tạo môi trường cạnh tranh không lành mạnh trong sản xuất kinh doanh. Thực hiện độc quyền Nhà nước trong một số ngành, một số lĩnh vực nhất định vì lợi ích chung của đất nước. Chỉnh đốn hoạt động của các tổ chức thương nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đổi mới hệ thống thương nghiệp Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo khắc phục tình trạng buông lỏng thị trường nông thôn miền núi. Cần phải có phương án kết hợp cả hai phương hướng: Giảm chi phí sản xuất để làm cơ sở cho việc giảm giá và tăng khối lượng sản phẩm cung ứng cho thị trường. Khi đó, sẽ kết hợp được cả hai yếu tố của người sản xuất và cả người tiêu dùng. Đối với thị trường các yếu tố sản xuất. Nhà nước cần phải kìm hãm nguy cơ thất nghiệp, cần chú trọng vào việc tạo thêm chỗ làm việc và tự tạo việc làm khuyến khích các cá nhân tổ chức tổ chức tốt việc giới thiệu việc làm và đào tạo nghề nghiệp. Tổ chức quản lý hướng dẫn tốt việc thuê mướn lao động nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động và bảo đảm sự công bằng, bỉnh đẳng của người lao động và người sử dụng người lao động trước pháp luật. Tổ chức quản lý tốt thị trường bất động sản Đất đai là quyền sở hữu của toàn dân, không phải của tư nhân, không cho phép mua bán đất đai, thực hiện tốt luật đất đai, xác định đúng giá các loại đất để dự dụng có hiệu quả. Chăm lo, giải quyết các vấn đề nhà ở cho nhân dân nhất là ở những vùng đô thị phát triển, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xây dựng và kinh doanh nhà ở theo sự quản lý và hướng dẫn của Nhà nước. Xây dựng thị trường vốn và từng bước hình thành thị trường chứng khoán. Hiện nay, nước ta đã hình thành thị trường chứng khoán, nhưng do thị trường mới được thành lập nên tổng giá trị một phiên giao dịch vẫn còn ở mức thấp, Nhà nước cần có những biện pháp chính sách thu hút các nguồn vốn trung dài hạn qua các ngân hàng và phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa thị trường chứng khoán phát triển phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của Việt Nam. Thực hiện sự công bằng giữa các loại thị trường. Sự công bằng thị trường là điều kiện tất yếu để xác lập mối quan hệ cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, để giải quyết vấn để cân bằng thị trường ta cần phải giải quyết các vấn đề cơ bản đây: Thứ nhất, cần phải xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp trong phân phối và sử dụng các yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng và chuyển chúng sang quan hệ tiền tệ, điều này có nghĩa là toàn bộ các nhân tố sản xuất, vật phẩm tiêu dùng đều được mua bán trên thị trường một cách tự do. Hiện nay, ở nước ta về cơ bản thì các yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng đã là hàng hoá song có những yếu tố vẫn chưa được tính đủ giá trị của nó đặc biệt là đất đai, địa tô chính là cơ sở để xác định giá trị ruộng đất nhưng bên cạnh việc tính tới vấn đề địa tô cần phải có những chính sách hợp lý tạo điều kiện cho sự thông suốt của thị trường bất động sản của nước ta. Thứ hai, tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả và thực hiện tốt sự bình ổn giá cả trong thị trường. Bình ổn giá trong cơ chế thị trường tức là dùng những giải pháp kinh tế hữu hiệu để giá cả vận động ở mức độ quá cao hoặc quá thấp trở về mức độ hợp lý của nó. Như vậy muốn bình ổn giá cả thì phải có sự can thiệp của Nhà nước và sự can thiệp này chủ yếu thông qua các giải pháp kinh tế vĩ mô phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan. Thứ ba, phát triển kinh tế thị trường hướng ngoại, đẩy mạnh hoạt động ngoại thương. Lịch sử phát triển kinh tế chỉ rõ là, ngoại thương đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong qua trình chuyển kinh tế tự nhiên sang kinh tế thị trường. Không ngẫu nhiên mà các nhà kinh tế học thế kỷ XV - XVII lại đánh giá cao vai trò của ngoại thương. Hó ví ngoại thương như máy bơm, nội thương như ống truyền dẫn trong quá trình làm tăng của cải xã hội. Ngoại thương sẽ đảm bảo tái sản xuất mở rộng và nâng cao chất lượng của sản phẩm đầu vào và đầu ra. Thông qua nhập khẩu, nền kinh tế có được hàng hoá, khoa học - kỹ thuật hiện đại, thông tin, vốn, chất xám, những hàng tiêu dung, dịch vụ để đáp ứng quá trình tái sản xuất trong nước. Thông qua hoạt động xuất khẩu, mà bán được hàng hoá ra nước ngoài, thu tiền về để phục vụ những nhu cầu phát triển kinh tế. Để phát triển thị trường ngoài nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường trong nước, đảm bảo sự thông suốt giữa các thị trường, cần thiết phải thực hiện các nguyên tắc sau đây: Một là, phải thực hiện xuất siêu. Để có tiền lãi cho tái sản xuất phát triển thị trường, hàng năm phải bán ra một số hàng lớn số hàng mà ta mua vào. Muốn vậy, cần phải xuất thành phẩm chứ không xuất nguyên liệu. Phải chú ý khuyến khích phát triển nông nghiệp, công nghiệp tiểu thủ công nghiệp chế biến, đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để thu được giá trị cao của hàng xuất khẩu. Thực hiện thương nghiệp trung gian, cho phép mang tiền đi lại tư do qua biên giới để buôn bán ở các nước nhằm làm tăng nguồn tiền tệ của đất nước. Có chính sách bảo hộ hợp lý để khuyến khích các ngành kinh tế trong nước phát triển, thu hút công nghệ và khoa học kỹ thuật từ bên ngoài, ngân chặn nhập những hàng hoá mà trong nước có thể sản xuất và đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Hai là, áp dụng nguyên lý lợi thế so sánh trong quan hệ trao đổi quốc tế. Các yếu tố tự nhiên thuận ;ợi phải được xem xét cụ thể trong mối quan hệ với các yếu tố kinh tế – xã hội và kỹ thuật ở cả trong nước và ngoài nươớ, từ đó có phương án tính toán chi tiết về từng mặt hàng và so sánh với trình độ quốc tế để xác định sản xuất và cung cấp cho thị trường thế giới loại hàng hóa nào đó của nước ta có lợi thế hơn. 2.4. Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước cần phải có định hướng vĩ mô, phát triển nền kinh tế bằng các kế hoạch, các dự án. Những kế hoạch mà Nhà nước đặt ra phải được kết hợp với thị trường đều được xem là những công cụ điều tiết kinh tế khách quan, mặc dù chúng là hai cơ chế hoạt động theo những nguyên tắc khác nhau. Trong mối quan hệ này, thị trường được coi vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch và phát triển theo sự điều tiết và định hướng của kế hoạch vĩ mô. Để giải quyết tốt các mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay cần phải đổi mới các hoạt động của kế hoạch hoá chứ không phải là từ bỏ nó. Phương pháp cơ bản để đổi mơí công tác kế hoạch hoá hiện nay là thực hiện kế hoạch hoá vĩ mô và vi mô trong đố kế hoạch vi mô lấy hiệu quả kinh tế ( lợi nhuận ) là mục tiêu chủ yếu và thị trường là căn cứ, đối tượng trựx tiếp. Phải đổi mới nội dung và chức năng của kế hoạch vĩ mô, cần phải xoá bỏ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, áp đặt chuyển sang thực hiện kế hoạch hoá định hướng gián tiếp coi trọng việc sử dụng rộng rãi các đòn bẩy kinh tế, công tác dự đoán, chương trình hoá, nâng cao năng lực của Nhà nước trong việc sử dụng các chính sách tài chính, tiền tệ, dùng các công cụ đó tác động gián tiếp vào tổng cung tổng cầu nền kinh tế đồng thời nâng cao chất lượng của các công trình dự án phát triển xã hội. Việc đổi mới các chính sách kế hoạch phải tuân theo nguyên tăc phù hợp với phương thức quản lý của nền kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.5. Đẩy mạnh việc sản xuất và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách nền hành chính quốc gia. Pháp luật xét từ nguồn gốc đến bản chất không chỉ là hình thức pháp lý phản ánh quan hệ giai cấp mà còn là hình thức pháp lý của các quan hệ kinh tế. Ngay từ khi mới xuất hiện, pháp luật đã gắn với nền kinh tế. Trên phương diện lý luận, pháp luật luôn là yếu tố quan trọng của thượng tầng chính trị, chi phối mạnh mẽ đời sống chính trị nhưng trên thực tế nhận thức quan niệm về vai trò của pháp luật của từng người, từng nhóm giai cấp và trong từng thời kỳ cũng rất khác nhau. Có giai đoạn vai trò của pháp luật khá mờ nhạt và trở nên thứ yếu trước sức mạnh của phương pháp điều chỉnh hành chính, mệnh lệnh. Điều này được thể hiện rõ nét trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Ngày nay với cơ chế thị trường nhiều thành phần ở nước ta pháp luật trở trở thành công cụ đặc biệt quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ kinh tế nói riêng. Vai trò của pháp luật không chỉ được xác lập, thừa nhận mà việc củng cố, tăng cường vai trò điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ kinh tế hiện nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Hơn mười năm qua, những thành tựu của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta đã gắn liền với những bước biến đổi quan trọng của hệ thống pháp luật, khẳng định vai trò to lớn của pháp luật trong việc mở đường cho các quan hệ kinh tế phát triển. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, dù đã được đổi mới cơ bản nhưng hệ thống pháp luật của nước ta, đặc biệt là các văn bản trong lĩnh vực kinh tế vẫn là hệ thống pháp luật của thời kỳ chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường nhiều thành phần. Tính chất chuyển đổi quá độ này làm cho pháp luật nước ta nằm trong quá trình có nhiều biến động và chưa thể hình thành hệ thống pháp luật hoàn chỉnh có tính ổn định lâu dài. Hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay vẫn chưa thật sự hoàn thiện và đồng bộ, còn nhiều thủ tục rườm rà gây nhiều khó khăn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, trong luật kinh tế vẫn còn nhiều bất cập còn có những khe hở tạo điều kiện cho một số những phần tử loợi dụng nhứng khe hở đó để làm ăn phi pháp, tham ô tài sản của Nhà nước. Để thực hiện có hiệu quả sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động của đời sống kinh tế mà không thương hại đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, bên cạnh việc xay dựng khung pháp luật kinh tế tạo môi trường thông thoáng và an toàn, cần phải xây dựng cơ chế pháp lý kiển tra, giám sát các hoạt động kinh tế thông qua việc ban hành các đạo luật về kế toán thống kê, kiểm toán theo các thuẩn mực kế toán thống kê quốc tế. Kết luận Qua việc nghiên cứu các tài liệu để hoàn thành tiểu luận này, những nhận thức, hiểu biết của em về nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nước ta hiện nay đã được mở rộng nhiều. Nước ta đang trên con đường đổi mới và bước đi trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước là phải làm sao lãnh đạo đất nước phát triển mạnh trên con đường hiện đại hoá, công nghiệp hoá, khuyến khích phát triển mọi thành phần kinh tế, phát huy mọi tiềm năng của đất nước nhưng không bị chệnh hướng tư bản chủ nghĩa. Nghiên cứu đổi mới, xắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong một số ngành kinh tế quan trọng. Chỉ có như vậy, định hướng chủ nghĩa xã hội mới được giữ vững. Trong đề tài nhỏ này em đã nêu một số giải pháp, nhưng dù chọn giải pháp nào thì cũng phải giữ vững ổn định chính trị. Chỉ có ổn định chính trị mới tận dụng được tiềm lực của đất nước và cơ hội của thời kỳ mới. Trong mấy năm qua, nước ta đã giữ vững được sự ổn định chính trị, nền kinh tế đã qua khủng hoảng và đang có tốc độ phát triển khá nhanh, đời sống của nhân dân đã được cải thiện, nhiều người đã giàu nên chính đáng nhưng cũng có không ít phần tử thoái hoá biến chất tìm mọi cách bòn rút tiền của Nhà nước, của nhân dân, làm ăn phi pháp mà giàu lên nhanh chóng. Nhà nước cần nghiêm trị những phần tử này, có như vậy mới tạo niềm tin cho nhân dân, tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và ổn định. Nghiên cứ xong đề tài này, em đã nhận thức được nhiều điều mà trước đây em chưa nhận thức chưa đủ, chưa đúng.Giờ đây em đã hiểu biết thêm được nhiều điều về nền kinh tế đất nước đang trên đà đổi mới; hiện nay nước ta đang trong thời kỳ sản xuất nhỏ để chuyển lên sản xuất lớn thì việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một giải pháp cơ bản. Tài Liệu tham khảo Giáo trình kinh tế chính trị - Tập 1. Giáo trình kinh tế chính trị - Tập 2. C.Mac và Anghen: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản. Toàn tập, tập 4 NXBCTQG và ST Hà Nội 1995. V.I. Lenin - Toàn tập NXb Tiến bộ MCV, tiếng việt, 1978. Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng VIII. Niên giám thống kê 1995. Các sách báo và tạp chí có liên quan.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28872.doc
Tài liệu liên quan