Đề án Phát triển kinh tế tư nhân, lý luận: Thực trạng và giải pháp trong giai đoạn hiện nay

Trên thực tế quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo thúc đẩy một lĩnh vực hệ trọng nhất trong lãnh đạo và quản lý kinh tế - lĩnh vực thể chế hoá, đổi mới tạo lập và hoàn thiện cơ sở hợp hiến hợp pháp cho hoạt động của các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp. Thể chế hoá như vậy là chức năng, là hoạt động thực tiễn cơ bản nhất của cơ quan lãnh đạo quản lý kinh tế, là việc đưa chính sách của Đảng vào cuộc sống, đồng thời qua đó tổng kết thực hoàn thiện chính sách. Đã có nhiều hoạt động lý luận gắn liền và phục vụ thể chế hoá. Thể chế hoá là vấn đề cơ bản để xây dựng Nhà nước pháp quyền và tạo đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà đến nay ta đng ở bước đầu. Dẫu sao thành quả đã đạt được là rất quan trọng - kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường có vai trò hợp hiến hợp pháp. Hệ thống pháp luật mới được ban hành và liên tục hoàn thiện đã cổ vũ và bảo đảm pháp lý để mọi người kinh doanh tư nhân ngày càng yên tâm phát triển. Đáng lưu ý các năm từ sau Đại hội VIII đã liên tục có diễn đàn hợp tác đối thoại cởi mở giữa lãnh đạo và cơ quan nhà nước hữu quan với giớikinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế mà chủ đề luôn luôn là xây dựng và thực thi thể chế kinh tế và kinh doanh.

doc36 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1728 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phát triển kinh tế tư nhân, lý luận: Thực trạng và giải pháp trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g khoản chi phí này chắc chắn lại cộng vào chi phí xuất khẩu.Đất để phát triển sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân cón thiếu .Họ gặp khó khăn cả trong việc tiếp cận được dất cho thuê theo khung giá nhà nước ,lẫn khả năng tài chính để thuê đất Ngoài khu vực tư nhân .Tuy nhiên khu vực tư nhân đã đóng góp một tỉ trọng đáng kể trong xuất khẩu .Sự phát triẻn của các doanh nghiêp tư nhân ở Việt Nam đã thúc đẩy sự phát triển của các nghành công nghiệp truyền thống giàu tiềm năng ở các địa phương như nghề thủ công và các sản phẩm nông nghiệp ,tỉ trọng đóng góp trong tông giá trị xuất khẩu của cả nươc tăng đang kể .Bên cạnh đó,với khả năng linh hoạt trong kinh doanh một số doanh nghiệp tư nhân dã đầu tư mua công nghệ và thiết bị hiện đại dể sản xuất hàng xuất khẩu nhờ đó mà tỉ trọng xuất khẩu tăng lên dáng kể . Các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân còn đóng góp lớn vào quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế .Giống như các quốc gia khác ,các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam tập trung ở các thành phố lớn .Xu hướng này dẫn đến tình trạng mất cân đối về mức độ phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội giữa khu vực thnhf thị và nông thôn ,cũng như giữa các vùng .Do vậy có thể coi việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân nói riêng và các doanh nghiệp vừa và nhỏ noi chung như một công cụ quan trọng dể tạo ra sự cân bằng giữa các vùng góp phần vào quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế giữa các thành phần kinh tế khác nhaugiữa các chi nhánh cũng như các khu vực lãnh thổ . Trở lại với một thực trạng nổi bật của khu vưc tư nhân trong nghành công nhiệp đặc biệt là nổi lên từ quá trình CNH- HĐH. Hiện nay khu vực ư nhân sử dụng khoảng 12% số lao đông trong sản xuất công nghiệp .Doanh nghiệp một sở hữu là hinh thức phổ biến nhất trong sản xuât công nghiệp nhưng do quy mô nhỏ nên chỉ chiếm 3% tổng số vốn dăng ký và só lao động .Số doanh nghiệp gia đình và hơp tác xã nhiều hơn so với doanh nghiệp một sở hữu ,vào khoảng 800 000 doanh nghiệp thuê khoảng 2,5 triệu lao động góp tới 20% sản lượng công nghiệp . Theo bảng 2 cho thấy sự phát triển của các công ty tư nhân trong ngành công nghiệp ở Việt Nam . đI lên từ một tỷ trọng rất nhỏ gần như bằng không năm 1991 , các công ty tư nhân đã phát triển nhanh chóng . Lý do là ở chỗ chỉ đến năm 1992 cơ sở pháp lý cho các công ty tư nhân mới được hình thành cùng với việc thông qua hiến pháp mới. Bảng 2: TT Châu lục 1994( %) 1995 (%) 1996(%) 1997 (%) 1998(%) 1 á 14 11 11 11 15 2 ÂU 14 16 16 24 28 3 Các nước khác 72 72 72 66 57 Theo bảng số liệu 3 biểu thị cơ cấu sản lượng theo ngành của các công ty tư nhân , doanh nghiệp gia đình và càc doanh nghiệp nhà nước . Chế biến lương thực thực phẩm là loại hình hoạt động chủ yếu của cả ba hình thức doanh nghiệp này chiếm khoảng 44% tổng sản lượng công nghiệp . Tỷ trọng lớn của ngành chế biến lương thực , thực phẩm phản ánh mức độ thấp kém của công nghiệp hoá ở Việt Nam . bảng 4 còn chỉ ra rằng cả doanh nghiệp gia đình lãn các công ty tư nhân đều tập chung chủ yếu trong một số ìt ngành Ngoài công nghiệp chế biến , ngành vật liệu xây dựng cũng đóng vai trò qua trọng đối với các hộ gia đình trong khi dệt may là lĩnh vực hoạt động chính của các công ty tư nhân ở việt nam . Bảng 3: TT Khu vực 1992(%) 1993(%) 1994(%) 1995(%) 1996(%) 1997(%) 1998(%) 1999(%) 1 Thành thị 8,3 7,3 6,1 6,4 5,9 6,0 6,9 7,4 2 Nông thôn - - - - 26,62 25,5 28,2 - Các số liệu thống kê trên cho dù có phần lạc hậu và không chính xác được vai trò của khu vực tư nhân trong tương lai , con số thường được đưa ra để chứng minh cho tầm quan trọng của các công ty tư nhân là tỷ trọng 60% trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của khu vực này .Thực tế ,đại hội Đảng lần VIII đã xem xét vấn đề Nhà nước cần làm gì để giảm bớt đi 20% tỷ trọng của chính các công ty tư nhân trong GDP .Các công ty tư nhân ,bao gồm công ty TNHH va công ty cổ phần chiếm một phần rất nhỏ bé trong nền kinh tế với tỷ trọng không quá 1%GDP và vì vậy họ không phải là mối đe doa đối với các doanh nghiệp nhà nước hay các mục tiêu xã hội của chính phủ .Ngược lại, các mục tiêu tăng trưởng , việc làm và công bằng , thậm chí cả mục tiêu duy trì các doanh nghiệp nhà nước phụ thuộc vào thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá và sự vững mạnh của các công ty tư nhân. Bảng 4 :Cơ cấu sản lượng sản xuất công nghiệp theo hình thức sở hữu. 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Số lượng công ty Công ty một chủ sở hữu 76 3126 8690 14165 18243 21000 Công ty TNHH 43 1170 3389 5310 7346 8900 Công ty cổ phần 3 65 106 134 165 1900 Vốn ( tỷ đồng VN ) Công ty một sở hữu na 930 1351 2090 2500 3000 Công ty TNHH na 1490 2723 3882 4237 7300 Công ty cổ phần na 310 850 1071 1244 2500 Bảng 5 :Thống kê sự đóng góp của các doanh nghiệp trong các ngành Công ty tư nhân% Doanh nghiệp gia đình % Doanh nghiệp nhà nước % Tỉ trọng của các công ty trong tổng SI% Lương thực ,thực phẩm 31,0 44,5 29,9 3,7 Dệt may 27,0 7,9 8,1 12,4 Gỗ\sản phẩm gỗ 11,4 7,8 0,9 15,5 Vật liệu XD 4,7 18,3 7,4 2,4 Các nghành khác 25,3 21,5 53,7 2,2 Tổng số 100,0 100,0 100,0 4,0 Cuối cùng thì thực tế cho thấy thống kê sáu tháng đầu năm2000 số công ty tư nhân có tư cách pháp nhân là chiếm đa phần và nhiều hơn số công ty DNNN với sư tăng trưởng hàng năm ngày càng lớn. Bảng 6 :Thống kê số công ty tư nhân và tăng trưởng hàng năm ( 1996-2000 ) 1996 1997 1998 1999 2000 Công ty Ngoài quốc doanh 31.143 33.713 36.753 39.915 46.523 Tăng trưởng hàng năm 8,3% 8,6% 8,6% 16,6% Công ty tư nhân 21.905 23.009 24.998 26.989 30.077 Tăng trưởng hàng năm 5% 8,6 7,9% 11,5% Công ty TNHH 9.316 10.420 11.834 12.473 15.701 Tăng trưởng hang năm 11% 9,2 9,5% 25,9% Công ty cổ phần 216 302 372 453 745 Tăng trưởng hàng năm 9,42% 22,8% 21,1% 64,5% Như vậy khu vực kinh tế tư nhân đã được tạo lập và sự phát triển của khu vực này trong những năm qua đã tự khẳng định vị trí của nó trong nền kinh tế quốc dân va chứng tỏ khu vực kinh tế tư nhân đã đang và sẽ trở thành khu vực kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế Việt Nam. 1.3 Các bộ phận của kinh tế tư nhân . * Bộ phận kinh tế cá thể , tiểu chủ : Là những người trực tiếp điều hành các hoạt động sản xuất kkinh doanh của doanh nghiệp .để làm công iệc đó , họ gắn vứi thực quyền kinh doanh của doanh nghiệp ở hai dạng khác nhau. + Là chủ sở hữu hoặc đồng sở hữu tài sản của doanh nghiệp kiêm luôn việc trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . + Không phảI là chủ sở hữu , nhưng được chủ sở hữu gia cho quyền sử dụng tài sản và trực tiếp điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . + trong kinh tế thị trường định hướng Xã Hội CHủ Nghĩa , mặc dù hoạt động trong hai bối cảnh còn có khía cạnh khác nhau đó , nhưng cáI chung nhất , bản chất nhất cua kinh tế cá thể , tiểu chủ vẫn không khác , đó là gắn với thực quyền của chủ thể kinh doanh , các cá thể là người đại diện và giữ vai trò lớn nhất , toàn diện nhất , trong việc thực , thực quyền đó của doanh nghiệp băng chính tài năng và trí tuệ của mình . Một khía cạnh lý thuyết có thể cho chúng ta vững tin và kết luận đó là : A, Sự thoả hiệp đồng thuận xã hội ngày càng được mở rộng và nâng cao trong môi trường chính trị – xã hội căn bản đặt trên nền tảng Đảng lãnh đạo , Nhà nước quản lý ,nhân dân làm chủ , được thể chế hoá bằng pháp luật , đã tạo nên những nét tương đồng , mang tính xã hội hóa cao trong thực quyền của chủ thể kinh doanh và tạo những nét mới trong bản chất của cá thể và tiểu chủ . Thực quyền kinh doanh của doanh nghiệp không phải được hình thành chủ yếu bởi sự chi phối của quyền sở hữu , tài sản mà chủ yếu bằng sự tác động của môi trường chính trị , xã hội , bằng quyền của con người , trong sự thoả hiêp và đồng thuận xã hội cao. Với xu thế và đa dạng hoá sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh , nhất là sự mở rộng khu vực kinh tế hỗn hợp , trong đó có sự đan xen , pha loãng quyền lực của đồng chu sở hữu . Vị trí và mối qua hệ giữ quyền sở hữu và quyền sử dụng các yếu tố sản xuất đã có sự thay đổi , hoán vị theo hướng nâng quyền kinh doanh của doanh nghiệp . Văn hoá với tư cách là mục đích , nguồn động lực và là hệ điều tiết của kinh doanh được khuyến khích và tạo điều kiện phát triển làm cho các cá thể , các tiểu chủ có văn hoá hơn trong kinh doanh. B, Không phải là đất đai , tiền vốn mà là tri thức mới là yếu tố đóng vai trò quyết định sự thành đạt của kinh tế nói chung và sản suất kinh doanh nói riêng. Theo đó con đường phát triển của tầng lớp tiểu chủ , cá thể mới là con đường chiếm lĩnh tri thức , chứ không phảI là nắm lấy đặc quyền từ sự ban cho của sở hữu đất đai và tiền vốn. Trong nền kinh tế của xã hội nông nghiệp truyền thống , đất dai là yếu tố quyết định sự phát triển . Đất qua trọng như vậy , nhưng có hạn , nên ai chiếm lĩnh được đất thì chi phối được sản xuất và chi phối được người khác không có đất . Do đó , quyền sở hữu đất cũng chi phối gần như tuyệt đối các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngay nay trong xu thế phát triển mạnh mẽ , nhanh chóng của tri thức và chuyển giao chi thức nên yếu tố quyết định sự thành đạt của kinh doanh là tri thức mới chứ không phải vốn đất vốn tiền . Tri thức mới với những sáng kiến , phát minh ngày càng nhiều và được nhanh chóng ứng dụng vào đổi mới công nghệ kỹ thuật và quả lý sản xuất kinh doanh . Quỹ đất và quỹ tiền vốn ít có khả năng chia sẻ , nên mới có sự độc quyền và lộng quyền của những ai chiếm hữu đươc đất đai, tiền vốn. Còn tri thức có khả năng phát triển vô hạn , có thể chia sẻ cho nhau để có nhiều người có tri thức mà không làm mất tri thức của ai hết. Sự phát triển và lan toả , mở rộng phạm vi ảnh hưởng của tri thức như vậy nó sẽ tong buớc toạ khả năng loại bỏ sự chỉãe và đối kháng trong cộng đoòng người, theo đó hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng thay đổi về chất . Không còn cách nào khác cho tầng lớp doanh nhân mới là phải nắm lấy tri thức , có tri thức mới quy tụ và phát triển được nguồn lực cộng đồng, mới thành đạt trong kinh doanh . C, Ngày nay với nhưng thánh tựu khoa khọc và công nghệ đã đưa lực lượng sản xuất lên một trình độ phát triển mới cùng với trình xã hội hoá sản xuất ngày càng phát triển, đã làm thay đổi sự cấu thành các yếu tố sản xuất và phân phối so với trước. Sự cấu thành mới cho thấy qua hệ giữ sản xuất và phân phối vè lý thuyết có thể diễn tả trong sự tương đồng giữ sự đóng góp và hưởng thụ. Quyền tư hữu tài sản , không phải lúc nào cũng lung đoạn được phân phối và đưa phân phối vào quan hẹ bóc lột. Các cá thể , tiểu chủ trong kinh tế tư nhân với trường hợp vừa là chủ sở hữu vừa là người trực tiềp điều hành sản xuất kinh doanh không phải lúc cũng là người bóc lột . Từ những phân tích trên cho chúng ta đi đến kết luận là, các thể , tiểu chủ trong khu vực kinh tế tư nhân hoặc có yếu tố sở hữu tư , cũng như cá thể trong khu vực kinh tế khác đều là những nhà quản trị kinh doanh bằng chính lao động , nhất là lao động trí tuệ của họ . Cá thể là người đại diện thực quyền của chủ thể kinh doanh và trực tiếp thực thi , thực quyền đó trong khuôn khổ pháp luật . Cá thể xứng đáng và cần thiết được đứng trong hàng ngũ các bộ phận vượt trội trong cộng đồng dân tộc , là tầng lớp tri thức và những nhà lãnh đạo quản lý đất nước . D, Bộ phận kinh tế tư bản : Là những nhà tư bản nước Ngoài có vốn lớn , họ đầu tư dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp . Bộ phân này đóng vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế của nước ta hiện nay , và chúng có khuynh hướng tăng lên hàng năm . Với điều kiện như nước ta hiện nay thì bộ phận kinh tế tư bản đã góp phần hỗ trợ lớn về vốn , hỗ trợ về công nghệ giúp cho nền kinh tế nước ta bắt kịp và có thể hoà nhập vào nền kinh tế toàn cầu , mặt khác nó còn giảI quyết việc làm cho hàng nghìn lao động dư thừa ở nước ta. Chính vì nó có vai trò quan trọng như vậy lên nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về môI trường kinh doanh , cần sửa đổi các luật về đầu tư cho thích hợp làm sao cho Việt Nam là điểm đến của các nhà đầu tư . 1.4 NHữNG HạN CHế CủA THàNH PHầN KINH Tế TƯ NHÂN . 1.4.1 Những hạn chế đối với nền kinh tế quốc dân . Chính là do nền tảng pháp lý và cơ sở pháp luật của nhà nước đặt ra cho khu vực kinh tế tư nhân mà tạo ra cho khu vực này khá nhiều khó khăn trong sự hoạt động và phát triển, do đó khu vực này đã gây lên một số hạn chế sự phát triển kinh tế đất nước nếu không nói quá đến sự phát triển đất nước về mọi phương diện. + Cơ sở pháp lý quá chặt chẽ trong việc công nhận tư cách pháp nhân , lại thêm vào đó là mức thuế đặt ra với các doanh nghiệp là còn cao , còn nghiêm ngặt. Cho lên hiện nay mặc dù nhiều doanh nghiệp tư nhân với nguồn vốn tự phát và đã có hiệu qủa trong hoạt động kinh doanh nhưng vẫn không đăng ký và cũng không đóng thuế cho nhà nước , dẫn đến hậu quả là ngân sách nhà nước cũng không thu được gì trong hiệu quả đạt được của các doanh nghiệp này . Đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ phàt triển ở vùng nông thôn hay các doanh nghiệp hộ gia đình thì phần lớn họ cũng muốn tự do kinh doanh mà không chịu sự rằng buộc của pháp luật nhà nước . Chính vì vậy số lượng thống kê sự đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào tỷ trọng GDP của nhà nước đôi khi chưa đánh giá được hết tiềm năng và hiệu quả do sản xuất kinh doanh của khu vực này mang lại . + Mức thuế thu cho sản xuất kinh doanh chưa phảI là nguyên nhân chính làm xuất hiện những hạn chế do khu vực tư nhân tạo ra . Mà ngay cả mức thuế dành cho xuất – nhập khẩu cũng kém phần ưu đãi cho các doanh nghiệp tư nhân … Chính điều này đã làm cho các doanh nghiệo tư nhân ở Việt Nam mặc dù vốn của họ đủ khả năng để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh sang thị trường nước Ngoài hay sản phẩm của họ đủ khả năngđể đáp ứn nhu cầu tiêu thụ của thị trường nước Ngoài , nhưng họ không muốn xuất khẩu vì thủ tục khá rườm , rích rắc – khó khăn và mức thuế xuất khẩu quá cao. Cũng vì thế mà họ không muón nhập khẩu các loại phụ ting , các linh kiện máy móc hiện đại cho hoạt động sản xuất vì mức thuế nhập khẩu vẫn còn rất cao, hảI quan khó khăn và phảI qua nhiều cửa, nhiều ngạch..Mà nếu chỉ mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước thôi thì khó có thể nâng cao mức lợi nhuận và hiệu quả sản xuất, từ đó mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước cũng thấp. 2. Hạn chế về mặt xã hội Các doanh nghiệp tư nhân với nguồn vốn trong dân, vốn tự có, vốn góp từ bạn kinh doanh là chính cho nên sản phảm tạo ra yêu cầu phảI đạt chất lung cao mẫu mã phong phú để thu được lợi nhuận là nhiều nhất. Họ tìm đủ mọi cách để thu lợi nhuận về cho mình như: Cạnh tranh bằng mọi giá trên cả lĩnh vực sản xuất mẫu hàng hoá ,thị trường ,khách hàng và thu hút nguồn vốn . Chính vì mục đích như vậy mà các doanh nghiệp khi biết cách quản lí biết cách điều hành thì sẽ thu được nhiều kết quả tích cực nhưng còn một số khác sẽ là tiêu cưc vì họ hong đu khéo léo để canh tranh ma ding mọi thủ đoạn ,biện pháp kể cả căng thẳng giữa các doanh nghiệp miễn là sao thu được lợi nhuận cao nhất sản phẩm tiêu thụ được nhiều nhất . Nên đôi khi chính sự cạnh tranh tiêu cực đó đã làm giảm tính đạo đức , văn hoá trong kinh doanh. Trong sản xuấ, sử dụng nhân công một cách tối đa;lực lượng nhân công nhưng vẫn phải làm với lượng công việc nhiều và thời gian dài trong một ngày ,cho nên đôi khi thiếu sự giao lưu giữa chủ –thợ ;thiếu tình cảm giữa chủ với công…Tạo nên bầu không khí không tốt cho sản xuất và lực lượng lao động bị ức chế và căng thẳng trong công việc , Trong một số tình huống , họ thậm chí cảm thấy bị bóc lột sức lao động . Bởi thực chất các doanh nghiệp tư nhân dặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân chưa đăng ký hợp pháp thì ít có chính sách hỗ trợ khuyến khích cho công nhân như :Bảo hiểm ,thưởng công thăm hỏi động viên khi đau ốm…Một số nhà doanh nghiệp còn quá cứng nhắc trong quản lý điều hành, nếu tình trạng này là phổ biến và quy mô áp dụng rộng rãI thì sẽ gây nên sự mâu thuân trong công nhân ,nguồn vốn trong dân giảm ma con tạo động cơ đấu tranh trong công nhân ,quần chúng nhân dân .Vì vậy ,trong công tác điều hành sản xuất đòi hỏi phải có sự kết hợp khéo léo giữa nguyên tắc trong sản xuất ,mềm dẻo trong vận động trong sử dụng công nhân: như tăng cường các chính sách vận động hỗ trợ lao động cho công nhân sẽ đem lại hiệu quả trong quản lý và sử dụng lao động . Đây là vấn đề vùa có ý nghĩa kinh tế nhưng đồng thời cũng là trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp đối với cộng đồng. Hiện nay,mặc dù khu kinh tế tư nhân đă phát triển rộng khắp và có hướng phát triển với qu mô lớn trên các vùng lãnh thổ khác nhau, nhưng sự phát triển đó vẫn không đồng đều ở các vùng đặc biệt là các địa phương ,nông thôn ,làng xã …dẫn đến mức phân hoá giàu nghèo giữa thành thị –nông thôn vẫn còn tồn tại ,mặc dù chúng ta khôngthể phủ nhận rằng từ khi kinh tế tư nhân ra đời đã góp phần rất nhiều trong việc điều tiết lao động,tăng thu nhập của người dân ở thành thị và nông thôn .Song thực tế ,thì các doanh nghiệp tư nhân lớn đa số vẫn tập trung ở đô thị thành phố lớnđể tiện lợi cho sản xuất ,cho tiêu thụ sản phẩm…Trong khi đó ,xét về nhu cầu sử dụng lao động ,các doanh nghiệp ngày này cần lực lượng lao dộng khá đông đảo . Đây cũng có thể được coi là một nhân tố thúc đẩy xu hướng di dân từ nông thôn đổ dồn về thành thị ngày càng phổ biến .Xu hướng di dân này đã bước đầu tạo ra một số thị trường lao động không chinh thức ỏ các thành phố lớn ,gây ra các khó khăn đối với công tác quản lí Nhà nước về lao động và việc làm . Như vậy thì sự phát triển ,đóng góp to lớn đến GDP cho đất nước, tạo đà cho sự phát triển kinh tế chứng tỏ khu vực kinh tế tư nhân đạt hiệu quả sản xuất cao hơn so với các khu vực kinh tế Nhà nước khác và cũng là khu vực thu hút lực lượng lao động nhiều nhất mặc dù thực tế phần lớn lao động hiện nay tập trung vào khu vực kinh tế tư nhân .Song khu vực này cũng không tránh khỏi những tồn tại hạn chế nếu không muốn nói đó là ảnh hưởng của nó đến kinh tế đất nước ,đến sự phát triển của xã hội ; nhưng cũng phảI thừa nhận là những hạn chế và ảnh hưởng đó là nhỏ,them chí rất nhỏ chúng ta hoàn toàn có thể khắc phục được.Dù sao thì những hạn chế đó không thể làm lu mờ dược vai trò và vị trí của khu vực kinh tế tư nhân đối với đất nước ta hiện nay. II . THực TRạNG CủA KINH Tế TƯ NHÂN . . Thực trạng . Thực hiện đường nối đổi mới của đảng và nhà nước , hơn 10 năm qua , kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển . Kinh tế tư nhân tăng nhanh cả về số lượng đơn vị , vốn kinh doanh và lao động , phát triển rộng khắp trong cả nước ở các nghành nghề mà pháp luật không cấm . Đặc biệt , số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh sau khi thực hiện luật doanh nghiệp . Cùng với các thành phần kinh tế khác , sự phát riển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lược lượng sản xuất , thúc đẩy phân công lao động xã hội , chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH , thúc đẩy cạnh tranh , phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . Khu vực này đã đóng góp qua trọng vào tăng tổng sản phẩm trong nước : Hai năm qua 2001- 2002 , sau khi có luật doanh nghiệp ra đời , số doanh nghiệp tư nhân ra đời 35440 với số vốn đăng kí đạt 40455 tỷ đồng , nhiều hơn số doanh nghiệp được thành lập trong 5 năm trước đó cộng lại đưa số doanh nghiệp đăng hí hinh doanh đén cuối năm 2001 là 74393 doanh nghiệp và chiếm tỷ trọng 24,3% tổng số vốn đầu tư xâ hội .Năm 2001 khu vực doanh nghiệp tư nhân nộp ngân sách trên 11075 tỷ đồng ,chiếm 14,8%tổng thu ngân sách Theo số liệu thống kê năm 2000giá trị tổng sản phẩm của KTTN chiếm 42,3%GDP toàn quốc trong đó ,hộ kinh doanh cá thể chiếm 34,8% DNTN chiếm 7,46% . KTTN đã huy động ngày càng nhiều hơn các nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh .Năm 1999 khu vực này chiếm 24,05%,năm 2000 chiếm 24,31% tổng vốn đầu tư xã hội .Theo số liệu của tổng cục thuế ,năm 2000 KTTNđóng góp 16,1%tổng thu ngân sách .Nét nổi bật của KTTN thời gian qua là tạo được nhiều chỗlàm việc mới ,thu hút nhiều lao động trong xã hội , nhất là số đến tuổi lao động chưa có việc làm ,giảI quyết số lao động dôI dư tư các cơ quan ,DN nhà nước do tinh giản biên chế ,giảI thể .Khu vực này góp phần thực hiện chủ trương xã hội hoá y tế , văn hoá giáo dục của nhà nước Đạt được những kết quả như trên là do Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chinh sách phù hợp đối với các thành phần kinh tế ,khẳng định rõ vai trò quan trọng của KTTN trong nên kinh tế thị trường định hướng XHCN Những kết quả chủ yếu KhơI dậy và phát huy tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư tham gia vào công cuộc phát triển đất nước ,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo hướng thị trường ,thúc đẩy cạnh tran trong nền kinh tế Hình thành và phát triển các nhà doanh nghiệp tư nhân góp phần xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam Góp phần xây dựng quan hệ sản xuấ mới phù hợp ,thúc đảy lực lượng sản xuất phát triển . 1.4 Những tồn tại yếu kém Những khó khăn và thách thức Như đã nói ở trên sự phát triển của khu vựckinh tế ngoai quốc doanh nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng đã có nhiều tác động tích cực tới nền kinh tế quốc dân nó thực sự đóng góp một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước .Tuy nhiên hiện nay trong quá trình phát triển ,kinh tế tư nhân cũng đãvấp phảI nhiều khó khăn vướng mắc. 1.4.1 Thị trườngchật hẹp,việc tiếp cận với thông tin về thị trường nước Ngoài còn hạn chế đó là một trong những khó khăn lớn đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân. Một trong những vấn đề quan trọng mang tính chất sông còn của kinh tế tư nhân là vấn đề thị trường là yếu tố quyết định sự tồn tại của một doanh nghiệp. Trình độ công nghệ sản xuất trong các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta còn thấp và lạc hậu ,kỹ thuật công nghệ còn nhiều bất cập .Nếu so sánh với tiêu chuẩn công nghệ của các nước láng giềng thì công nghệ của Viêt Nam lạc hậu hơn từ 20-25 năm.Do lượng vốn có hạn nên kinh tế tư nhân khó có khả năng đầu tư để xây dựng công nghệ hiện đại đồng thời việc tái đầu tư vào nâng cao công nghệ cũng vô cùng khó khăn.Điều đó làm sản phẩm không cạnh tranh được.Do vậy mà nhiều sản phẩm của khu vcj kinh tế tư nhan bị hàng nhập lậu chèn ép ,một số doanh nghiệp bị phá sản , mất đI thị trường ngay trên sân nhà.Mặt khác , khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa có khả năng tham gia xuất khẩu trực tiếp , chưa tự tìm khách hàng để xuất khẩu sản phẩm của mình mà chỉ xuất khẩu sản phẩm thông qua các công t thương mại nước Ngoài:khả năng tiếp cận thị trường còn kém .Việc này gây ra nhiều tiêu cực , tốn kém cụ thể là rơI vào tình trạng bị ép giá.Do khó khăn trong việc tìm nguồn vốn cho xuất khẩu nên sản phẩm cả các doanh nghiệp này hầu như chưa xuất khẩu ra thị trường nước Ngoài.Điều đó dẫn đến thị trường tiêu thụ –chủ yếu là trong nước –bị thu hẹp ,rất bấp bênh và thêm vào đó là sức mua của dân cư hạn hẹp .Do phảI chịu những thông lệ ,điều kiện cạnh tranh bất bình đẳng nên sức cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân đã giảm đang kể. Bên cạnh đó việc hạn chế trong khả năng tiếp cận thông tin đã gây khó khăn cho khu vực kinh tế tư nhân.Do thiếu những thông tin quan trọng về sản phẩm thị trường ,khoa học công nghệ và các xu hướng phát triển của xã hội nên sẽ là rất khó khăn khi các doanh nghiệp tư nhân lựa chọn cho mình một hướng đI đúng đắn , trong khi sai lầm và rủi ro luôn là những nguy cơ thường trực .Muốn có thông tin doanh nghiệp tư nhân phảI thông qua các cơ quan tình báo thương mại ,tại đây ,thông tin sẽ đựoc đánh giá ,phân tích.Nhưng chi phí cho hoạt động này khá cao nên với nguồn vốn ít ỏi thì các doanh nghiệp tư nhân không thể làm việc qua các cơ quan này .Vì vậy mà làm sao để có những thông tin co giá trị về thị trường ,làm sao để tiếp cận được với thị trường vẫn là vấn đề nan giảI gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp tư nhân ,đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.4.2.Những hạn chế về vốn và chính sách thuế a)Khó khăn về vốn Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta hiện nay đều ở qui mô vừa và nhỏ.Đối với các doanh nghiệp này thì vấn luôn là ưu tiên hàng đầu .Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân đều thiếu vốn kinh doanh ,vốn tự có thì hạn hẹp. Trong khi đó việc huy động vốn kinh doanh ,sản xuất đối với các doanh nghiệp này đang rất khó khăn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ của thành phần kinh tế tư nhân không có cơ hội tiếp cận các nguồn vốn và các khoản vay từ ngân hàng,nếu có được vay thì chỉ được vay ngắn hạn(từ 3 đến 6 tháng).Do đó tiếp cận với các khoản tiếp cận tín dụng trung hạn và dài hạn nên các doanh nghiệp tư nhân không thể đầu tư vào máy móc,trang thiết bị.Với các khoản vay có bảo lãnh thì các doanh nghiệp tư nhân không có đủ tài sản nhất là so với bất động sản để đảm bảo tại các ngân hàng.Về phía các ngân hàng thì họ có rất ít kinh nghiệm trong việc cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân vay vốn.Do vậy cacs doanh nghệp này không có khả năngđảm bảo vốn đối ứng hay tài sản thế chấp,đồng thời các ngân hàng cảm thấy thiếu tự tin và không muốn gặp rủi ro nên họ không sẵn sàng cho các doanh nghiệp này vay.Hơn nữâ lãi suất ở các khoản cho vayhiện nay đang ở mức quá cao so với tỉ suất lợi nhuận cúa các ngành sản xuất,nó không khuyến khích đầu tư để phát triển sản xuất kinh doanh,thủ tục vay vốn còn rất phức tạp .Điều này khiến nhiều doanh nghiệp tư nhân tuy đang rất cần vốn nhưng không dám vay tiền ngân hàng mà huy động vốn chi phí chính thuế lãi suất cao và nhiều rửi ro. Thu hút vốn đầu tư trong nước đã khó ,việc thu hút vốn nước Ngoài lại càng khó khăn hơn.Do những thông tin về thị trường còn hạn chế các doanh nghiệp chưa đủ kinh nghiệm và kiến thức cần thiết về kí hợp đồng và giao dịch quốc tế.Vì thế việc hội nhập còn khó khăn và cũng không có cơ hội thu hút vốn đầu tư nước Ngoài,bổ sung nguồn vốn,mở rộng quy mô đầu tư. b.Bên cạnh những khó khăn về vốn thì hạn chế trong chính sách thuế cũng gây nhiều vướng mắc cho sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Chính sách thuế tuy đã có nhiều đổi mới và có ưu đãi hơn với các doanh nghiệp tư nhân như:giảm 1-2 năm cho các doanh nghiệp mới khởi sự,miễn thuế lợi tức cho các cơ sở bắt đầu kinh doanh... Tuy vậy hệ thống và chính sách thuế ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế:nặng cơ chế thu chưa có cơ chế động viên,nuôi dưỡng nguồn thu.Trong khi đó các doanh nghiệp tư nhân có thể phát triển thì cần có tái đầu tư mà giảm thuế là cơ hội tăng đầu tư.Mặc dù hiện đã có chính sách miễn giảm thuế cho một số đối tượng nhưng thủ tục xin miễn giảm thuế lại phức tạp. Bên cạnh đó,một trong những nhược điểm của hệ thống thuế nước ta là sự trùng lặp trong việc đánh thuế:thuế doanh thu ,tuế lợi tức ...càng qua nhiều khâu thuế càng cao. Làm cho giá cả bị đẩy lên không những gây thiệt hại cho nguời tiêu dùng mà còn gây khó khăn sức ép với người sản xuất. Do đó làm giả chất lượng sản phẩm hoặc làm sản xuất bị thu hẹp, dẫn tới giảm sức cạnh tranh trên thị trường, tạo điêù kiện hàng ngoại nhập phát triển. Hiện nay các doanh nghiệp tư nhân đang phải chịu mức thuế doanh thu, thuế lợi tức từ 40- 50% đó là chưa kể các khoản các thuế khác. như vậy , vốn sản xuất thì hạn chế mà mức thuế thì cao làm cho nguồn vốn đã eo hẹp lại càng eo hẹp hơn do đó hạn chế sự phát triển của kinh tế tư nhân. c.khuôn khổ pháp lý thiếu và còn có sự phân biệt đối xử giữa thành phần kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước ở nước ta khuôn khổ pháp luật cho nen kinh tế thị trường vãn còn chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ,khung pháp lý cho các loại hình doanh nghiệp không đồng nhất và cần được cải cách.Ngoài ra pháp luật chưa đặt các doanh nghiệp vào tình thế cạnh tranh bình đẳng , tính bất ổn định và thường thay đổi của pháp luật đã tác động xấu đến môi trường đầu tư , chậm huỷ bỏ những căn bản đã lỗi thời . có một số luạt tuy đã ban hành nhưng còn những điều khoản chưa hợp lí .với hệ thống pháp luật như vậy đã cản trở nhiều đến sự phát triển của các thành phần kinh tế nói chung và thành phần kinh tế tư nhân nói riêng . như việc cho phép chính phủ can thiệp vào quá trình quyết định của các công ty tư nhân nhất lìa quyết đinh về đầu tư hay là việc luật của việt nam chỉ qui định quyền sử dụng nhưng cho phép quyền sở hữu và hạn chế nghiêm ngặt việc chuyển nhượng đất . hậu quả là quyền sử dụng đát thường không được chuyển nhượng công khai , giá đất thiếu ổn định , dẫn đến tình trạng ddaauf cơ và sử dụng đất không hiệu quả . điều này gây nhiều bất lợi cho các công ty tư nhân trong lĩnh vực sản xuất .sau đó 2/1995 chính 9phủ ban hành nghị định trong đó có qui định rõ đối với đát không sử dụng cho mục đích nông nghiệp chỉ được dùng giá trị tiền thuê đất đã trả và giá trị tài sản nằm trên mảnh đất đó để làm tài sản thế chấp . nghị định này đã gây ra tác hại lớn , đẩy các công ty tư nhân vào vị trí bất lợi so với công ty nhà nước trong việc dành quyền sử dụng đất và vay các nguồn tín dụng . quan điểm của nhà nước ta đối với các thành phần kinh tế là khuyến khích phát triển và thực hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế . nhưng trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế đối với khu vực kinh tế tư nhân còn nặng nề về thủ tục hànhchính , còn chồng chéo nhiều đầu mối . điều đó gây nên tâm lí mặc cảm và làm nản lòng các nhà đầu tư . như đã nói ở trên thì hệ thống pháp luật cũng chưa đặt các doanh nghiệp vào tình thế cạnh tranh bình đẳng. Hơn nữa thực tế cho thấy các chính sách kinh tế ở nước ta hiện nay chưa hoàn toàn đảm bảo bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân . đặc biệt được thể hiện trong chính sách tín dụng đầu tư của hẹ thống ngân hàng . các quy định về điều kiện vay vốn còn quá cứng nhắc và tính chất phân biệt đối xứ nhất là các vấn đề về thế chấp , báo lãnh của các ngân hàng thương mại , như việc các doanh nghiệp nhà nước có thẻ nhận được sự bảo lãnh của nhà nước đối với các khoản vay , trong khi đó các doanh nghiệp lại không có sự bảo lãnh đó.Ngoài ra , để vay tín dụng các doanh nghiệp tư nhân phải có tài sản thế chấp cho các ngân hàng , trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước được miễn thực hiện yêu cầu này ... thêm vào đó là mức lãi suát còn mang tính áp đặt và cao hơn nhiều so với doanh nghiệp nhà nước . có nơi doanh nghiệp tư nhân phải chịu lãi suất cao hơn từ 20-25%, thậm chí còn cao hơn gấp đôi so với lãi suất cho vay vốnvới loại hình doanh nghiệp nhà nước ... bên cạnh lãi suất cao thì các qui định thủ tục trong việc thành lập và vận hành doanh nghiệp còn quá nhiều rườm rà , không thông thoáng .những điều đó giải thích vì sao mà không có nhiều ngườidân bỏ vốn ra kinh doanh hoặc nếu không thì cũng chỉ bỏ ralượng vốn nhỏ. Những hạn chế về pháp luật và sự phân biệt đối xử giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước đã gây nhiều khó khăn cho sự phát triển và mở rộng của doanh nghiệp tư nhân. d. trình độ quản lý - kinh doanh trong các doanh nghiệp tư nhân còn thấp Trình độ của nguồn nhân lực khá thấp ,cả về trình độ quản lý cũng như trình độ tay nghề.Đây được xem như là một trong những yếu kém nhất của các doanh nghiêp tư nhân.Đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp có tri thức kinh nghiệm là phổ biến.Tức là họ đều trưởng thành từ thực tế ,học hỏi kinh nghiệm từ bạn hàng,những kiến thức,trình độ đạt được là do sự đúc kết kinh nghiệm sản xuất.Ngoài ra cũng có một lượng nhỏ những giám đốc trẻ sôi nổi năng động ,mạo hiểm kinh doanh nhưng lại thiếu kiến thức kinh doanh và kĩ năng quản trị.Theo phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam đã tiết lộ rằng có 70,5% các nhà quản lý của các doanh nghiệp tư nhân không có bằng cấp mà chỉ có một lượng nhỏ được đào tạo qua các trường lớp chính về chính trị doanh nghiệp và quản lý kinh tế.Hiện nay ,trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của đội ngũ lao động trong khu vực kinh tế tư nhân còn thấp.Lực lượng lao động trong các doanh nghiệp này hầu như không đào tạo ngắn hạn cấp tốc ra làm thợ.Như vậy ,trình độ của cán bộ và đội ngũ lao động trong doanh nghiệp còn thấp ,nó cản trở đến quy mô và sự phát triển của các doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiêp tư nhân ở nước ta hiện nay đều ở quy mô vừa và nhỏ .Các doanh nghiệp này không có kỹ năng cần thiếtđể thành lập và quản lý một doanh nghiệp lớn .Bởi vì muốn cho một doanh nghiệp lớn thành công thì Ngoài sự nhanh trí và khả năng linh cảm của các nhà quản lý thì đòi hỏi nguồn nhân lực trong doanh nghiệp phải có trình độ cao.Đặc biệt là chủ doanh nghiệp phải là người làm ăn có bài bản ,có chiến lược kinh doanh rõ ràng ,vì vậy dám đầu tư với quy mô lớn ,như vậy họ phải là người có học vấn và kinh nghiệm kinh doanh .Nhưng thực tế nước ta vẫn vòn thiếu những doanh nghiệp lớn với chiến lược kinh doanh dài hạn.Bởi nhiều ông chủ hiện nay co kinh nghiệm làm ăn theo lối thực dụng ,chụp giật.Họ là những người thiếu trí thức về kinh doanh. e.Khó khăn về mặt bằng sản xuất kinh doanh Vấn đề mặt bằng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân cho đến nay vẫn là một khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp. Theo số liệu điều tra công ty trách nhiệm hữu hạn tại Hà Nội ,Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh (năm 1995) . Mặt bằng sản xuất kinh doanh từ 50m2-100m2 thuộc sở hữu của công ty chiếm 32,7% mặt bằng sản xuất kinh doanh từ 100m2-200m2 thuộc sở hữu của công ty chiếm 14,7% măt bằng sản xuất kinh doanh từ 200m2-500m2 thuộc sở hữu của công ty chiếm 18,9% mặt bằng sản xuất kinh doanh từ 500m2-1000m2 thuộc sở hữu của công ty chiếm 10,9% mặt bằng sản xuất kinh doanh trên 1000m2 thuộc sở hữu của công ty chiếm 18%. Như vậy diện tích của các doanh nghiệp còn thiếu đại đa số các doanh nghiệp vẫn phải bỏ vốn ra để đi thuê đất của các cơ quan các tổ chức kinh tế ,các cá nhân khác mà trong quá trình thành lập doanh nghiệp thì các thành viên thường góp vốn bằng việc đóng góp nhà cửa ,những nhà cửa có được nhờ góp vốn phần nhiều chỉ được sử dụng làm văn phòng doanh nghiệp cho nên chưa giải quyết được khó khăn về mặt bằng sản xuất ,thiếu đất vẫn là một trong những khó khăn lứn ảnh hưởng tơi sự phát triển của các doanh nghiệp nhà nước.Hơn nữa nhà nước lại còn quy định: Diện tích mặt bằng đã chuyển quyền sở hữu khi xây dựng nhà cửa thì được phép ,nhưng khi chuyển thành nhà cửa để kinh doanh thì lại phải chuyển sang chế độ thuê đất ,đây quả là điền phi lý ! Các chủ doanh nghiệp vẫn phải trả chi phí cho việc sử dụng diện tích mặt bằng (đã thuộc quyền sở hữu của mình) vào việc sản xuất và kinh doanh.Như vậy những trở ngại trong việc sử dụng mặt bằng sản xuất kinh doanh lại làm tăng thêm những khó khăn về vốn .Do đó nó hạn chế sự phát triển của các doanh nghiệp này . 1.4.3 Vấn đề cải cách thúc đẩy ,phát triển kinh tế tư bản tư nhân ở Việt Nam Khu vực kinh tế tư nhân đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó là một trong hai chủ thể để thực hiện CNH-HDH đất nước(chủ thể thứ hai la kinh tế nhà nước).Sự phát triển của kinh tế tư nhân cần phải được coi là một tiền đề không thể thiếu để phát huy các động lực con người trong sự nghiệp CNH đất nước ,kinh tế tư nhân phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nước ta.Vì vậy mà kinh tế tư nhân trong thời gian tới cần được khuyến khích phát triển .Vấn đề đặt ra chúng ta phải làm gì và làm như thế nào để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. a; Tạo môi trường kinh doanh thận lợi cho sự phát triển của kinh tế tư nhân Môi trường kinh doanh là tổng hợp các nhân tố ,điều kiện mà ở đó doanh nghiệp hoạt động ,nó bao gồm môi trường :chính trị , pháp lý ,kinh tế ,tâm lý,văn hoá...Môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc thành phần kinh tế tư nhân nói riêng chưa được phát triển thực sự lành mạnh do những hạn chế về pháp luật ,phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế và các hiện tượng tiêu cực như trốn thuế hàng lậu ,hàng giả. Vì vậy để tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng ổn định thì ta cần phải có những biện pháp để giải quyết hạn chế và những tiêu cực trên. Trước hết cần bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp lý hiện nay, tiến tới ban hành một đạo luật kinh doanh chung cho tất cả các thành phần kinh tế để đảm bảo nguyên tắc tất cả mọi người , tất cả doanh nghiệp đều bình đẳng trong sản xuất và kinh doanh. Đồng thời nhanh chóng huỷ bỏ những văn bản lỗi thời, đảm bảo tính ổn định của các văn bản pháp lý có như vậy mới khắc phục được tính bất ổn định và thường xuyên thay đổi của pháp luật để tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định cho các doanh nghiệp. Bởi người dân sẽ không dám bỏ vốn ra để kinh doanh nếu như môi trường kinh doanh bất ổn định, chính sách pháp luật thay đổi liên tục sẽ ảnh hưởng tới các kế hoạch phát triển của doanh nghiệp. Nhà nước dùng pháp luật để lái các thành phần kinh tế đi theo hướng XHCN là đúng, nhưng không thể dùng pháp luật đề gò ép, trói buộc các sự phát triển của các thành phần kinh tế khác đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân. Vì vậy, pháp luật đưa ra phải đảm bảo tính hợp lý, thông thoáng để tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Bên cạnh vấn đề pháp luật ở nước ta có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân. Điều này không những gây khó khăn trực tiếp cho các kinh tế tư nhân trong quá trình sản xuất, kinh doanh mà còn gây tâm lý mặc cảm, làm nản lòng các nhà đầu tư. Do vậy phải có những cải cách hợp lý đem lại lợi ích cho thành phần kinh tế tư nhân. Những cải cách đó có thể bao gồm: - Giảm thủ tục hành chính về cấp đất, quy định giá đất chung cho tất cả thành phần kinh tế. Tức là giá đất mà các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước phải chịu cũng bằng với giá đất mà các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân phải trả đảm bảo sự công bằng cho thành phần kinh tế tư nhân. - Đồng thời giảm thủ tục hành chính khi xin giấy phép thành lập, giấy phép kinh doanh để khuyến khích mọi người bỏ vốn ra kinh doanh. - Sử dụng những chính sách ưu đãi với kinh tế tư nhân như: Cấp tín dụng trung hạn và dài hạn, miễn giảm thuế. Đồng thời cần hạn chế mức can thiệp của các cơ quan Nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân. Điều đó vừa nâng cao được tính tích cực, chủ động của doanh nghiệp trong việc tìm kiếm cơ hội kinh doanh, vừa giảm thiểu các tiêu cực như lạm dụng chức quyền của đội ngũ cán bộ Nhà nước. Tháng 6/1991 Đại hội Đảng đã đưa ra chiến lược phát triển đến năm 2000 đảm bảo cho các doanh nghiệp Ngoài quốc doanh về tự do tham gia các hoạt động kinh doanh; thu nhập và quyền sở hữu hợp pháp đối xử bình đẳng trước pháp luật. Cuối cùng để giải quyết được những tiêu cực như trốn thuế hàng lậu, hàng giải.... thì ta phải khuyến khích sản xuất, khuyến khích việc tiêu thụ hàng hoá trong nước để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân ổn định phát triển sản xuất kinh doanh. Cụ thể mở rộng cuộc vận động "người Việt Nam dùng hàng Việt Nam " Nhà nước cần có những quy định, biện pháp mạnh mẽ thúc đẩy các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước ưu tiên tiêu dùng hàng Việt Nam đồng thời giảm thuế doanh thu đối với những mặt hàng tiêu dùng, sản xuất trong nước, tăng thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng cùng loại nhập từ nước Ngoài vào. Đây là biện pháp để bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước, đồng thời cũng là biện pháp tích cực trong việc chống buôn lậu. Ngoài ra, để có môit rường kinh doanh thực sự "trong lành" thì phải kết hợp với việc kiểm tra, giám sát để hạn chế hoạt động vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp tư nhân. Phát hiện và xử lý kịp thời những doanh nghiệp không đăng ký chính thức, trốn thuế làm cho hàng hoá kém chất lượng. B, Mở rộng thị trường trong nước, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường khu vực và quốc tế. Muốn đạt được mục đích này thì Nhà nước cần phải tạo điều kiện, hỗ trợ để các doanh nghiệp tư nhân đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ nhân lực, từ đó làm tăng chất lượng sản phẩm và do đó tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như khu vực và trên quốc tế với điều kiện đó các doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp xuất khẩu sản phẩm của mình sang nước Ngoài mà không qua các Công ty thương mại của Nhà nước. Ngoài biện pháp gián tiếp thì Nhà nước có thể trực tiếp dành một số đơn đặt hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân xuất khẩu trực tiếp, hình thành trung tâm thúc đẩy xuất khẩu, huấn luyện cho các doanh nghiệp có khả năng và kiến thức về thị trường quốc tế như là: những kiến thức và thông tin cần thiết về ký hợp đồng và giao dịch theo thông lệ quốc tế. Đồng thời giới thiệu hàng hoá của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân ra nước Ngoài và cung cấp danh sách những mặt hàng mà nước Ngoài đang cần cho những doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức phi chính phủ có trách nhiệm cung cấp những thông tin về thị trường nước ngoài cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân. Đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tham gia hội tụ, đây là dịp tốt để cho họ trưng bày những sản phẩm của mình với khách hàng trong nước và quốc tế. Quá trình hộ nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn hiện nay là thời cơ , động lực tốt phát triển kinh tế tư nhân. C, Nhà nước phải có chương trình hỗ trợ cho kinh tế tư nhân phát triển. *Hỗ trợ đào tạo. Hiện nay, trình độ chuyên môn của các chủ doanh nghiệp tư nhân và đội ngũ lao động trong doanh nghiệp tư nhân vẫn còn thấp, nó gây khó khăn nhiều đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù đã nhận thức được điều đó nhưng với quy mô nhỏ thì khu vực kinh tế tư nhân đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân không đủ khả năng về chi phí để tự đào tạo, huấn luyện. Vì vậy, Nhà nước cần có chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân về đào tạo để tạo ra cho các doanh nghiệp những chủ kinh doanh giỏi, có đủ trình độ để có thể cạnh tranh, đối tác với các doanh nghiệp nước Ngoài. Ngoài ra còn nâng cao trình độ văn hoá chuyên môn của đội ngũ lao động trong doanh nghiệp. Giúp cho họ có những kiến thức nhất định về hoạt động kinh doanh, quản lý, pháp luật... với đội ngũ các nhà doanh nghiệp tài giỏi và trình độ chuyên môn cao của nguồn nhân lực tạo ra cơ sở vững chắc cho sự phát triển đi lên của các doanh nghiệp tư nhân. *. Hỗ trợ thông tin. Khi trả lời phỏng vấn, một số doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tiết lộ rằng việc khai thác thị trường nước Ngoài là một trong những thách thức lớn nhất đối với hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thật vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khối kinh tế tư nhân nói riêng do hạn chế về: vốn, quy mô, công nghệ... nên không có đủ điều kiện tiếp cận và thu thập những thông tin về thị trường quốc tế do vậy không những kế hoạch sản xuất và kinh doanh hợp, dễ gặp rủi ro, không xuất khẩu trực tiếp sản phẩm ra nước Ngoài... Điều đó đòi hỏi Nhà nước để phát triển thành phần kinh tế tư nhân nhất thiết phải có chương trình hỗ trợ về thông tin cho các doanh nghiệp tư nhân. Có sự cung cấp, hỗ trợ về thông tin của Nhà nước sẽ giúp cho các doanh nghiệp tư nhân hoạt động có hiệu quả hơn trên cơ sở phân tích thông tin về các đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu các dự báo phát triển công nghệ trong tương lai, đánh giá nhu cầu khách hàng... các doanh nghiệp sẽ đề ra được những biện pháp thích hợp cho sản xuất và kinh doanh. *. Hỗ trợ vốn. Vấn đề vốn luôn là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp tư nhân, thiếu vốn là một trong những khó khăn lớn của doanh nghiệp, nó là nguyên nhân của những khó khăn và vướng mắc khác: Do thiếu vốn nên không đổi mới được công nghệ, sản phẩm chất lượng kém làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường, do thiếu vốn nên khó khăn trong việc đào tạo các chủ doanh nghiệp dẫn đến tình trạng là trình độ quản lý và kinh doanh trong các doanh nghiệp tư nhân hiện nay còn thấp kém, chính vì vậy mà Nhà nước cần có chính sách về hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp tư nhân. Bởi vì, trong hoàn cảnh này nguồn hỗ trợ lớn từ phía chính phủ đối với doanh nghiệp tư nhân có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể là Nhà nước cần có những quy định rõ ràng về điều kiện vay vốn ngân hàng, về thời hạn vay, về lãi suất để khuyến khích tư nahan vay vốn ngân hàng vào mục đích kinh doanh đồng thời tạo điều kiện và khuyến khích tư nhân thu hút đầu tư nước Ngoài bằng cách tư vấn cho tư nhân những kinh nghiệm, kiến thức cần thiết trong giao dịch, ký kết hợp đồng trong quản lý kinh doanh để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ các bên tham gia hợp đồng. Để doanh nghiệp tư nhân có điều kiện bổ sung vốn, mở rộng quy mô và phát triển sản xuất. *. Hỗ trợ quá trình đổi mới công nghệ. Kỹ thuật công nghệ trong khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta vẫn còn rất lạc hậu. Vì vậy mà nó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Để cho các doanh nghiệp tư nhân có thể thực hiện tốt quá trình đổi mới công nghệ thì Nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện việc đổi mới và chuyển giao kỹ thuật công nghệ. Nhà nước nên có chính sách ưu đãi về thuế và tín dụng đối với tư nhân vay vốn cho mục đích đầu tư đổi mới trang thiết bị, công nghệ. Kịp thời cung cấp những thông tin về khoa học - kỹ thuật, những dự báo phát triển công nghệ trong tương lai... Đồng thời tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi để thúc đẩy tư nhân nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ. Điều quan trọng hơn cả là tìm ra các biện pháp giải quyết được vấn đề đảm bảo các khoản vay ngân hàng và các khoản tín dụng và ngoại tệ cho việc nhập máy móc và thiết bị cho các Công ty tư nhân. Để giúp đỡ các Công ty tư nhân vượt qua các khó khăn mà nó gặp phải thì phải vay tín dụng trên thị trường vốn chính thức, chiính phủ nên cân nhắc việc thành lập một quỹ cung cấp các khoản bảo đảm tín dụng cho các Công ty tư nhân như chính phủ các nước Đông á đã làm. Ngoài những vấn đề được nêu trên, chúng tôi nhận thấy chính phủ cũng cần phải nỗ lực nhằm tránh tạo ra những trở ngại mới. Lời cảnh báo này là có cơ sở trong thời điểm hiện nay khi mà một vài quan chức trong chính phủ đang đề xuất việc giới hạn nhập khẩu và giới hạn sử dụng thư tín dụng trả chậm trong việc thanh toán nhập khẩu và coi đó là những biện pháp để giảm thâm hụt thương mại lớn của đất nước. Nếu như việc thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam là một vướng mắc thì chính các doanh nghiệp Nhà nước đã tạo ra nó chứ không phải là các Công ty tư nhân mới lên của Việt Nam. Chính vì vậy việc phát triển các Công ty tư nhân vừa và nhỏ của Việt Nam - nhân tố chủ yếu cho một chiến lược công nghiệp hoá định hướng xuất khẩu thành công - là giải pháp lâu dài cho vấn đề cán cân thanh toán mà đất nước đang phải đối mặt. Do đó phải chăng chính phủ nên xem xét việc thiết lập các chương trình đặc biệt ở ngân hàng Nhà nước nhằm ưu tiên các Công ty tư nhân mới thành lập hoạt động theo hướng xuất khẩu ở Việt Nam trong việc mua ngoại tệ. Trên đây là một số vấn đề cải cách thúc đẩy phát triển thành phần kinh tế tư nhân mà chúng tôi nghĩ là rất cần thiết và cũng là những vấn đề bất cập nhất hiện nay. Phần iii: Kết luận Trên thực tế quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo thúc đẩy một lĩnh vực hệ trọng nhất trong lãnh đạo và quản lý kinh tế - lĩnh vực thể chế hoá, đổi mới tạo lập và hoàn thiện cơ sở hợp hiến hợp pháp cho hoạt động của các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp. Thể chế hoá như vậy là chức năng, là hoạt động thực tiễn cơ bản nhất của cơ quan lãnh đạo quản lý kinh tế, là việc đưa chính sách của Đảng vào cuộc sống, đồng thời qua đó tổng kết thực hoàn thiện chính sách. Đã có nhiều hoạt động lý luận gắn liền và phục vụ thể chế hoá. Thể chế hoá là vấn đề cơ bản để xây dựng Nhà nước pháp quyền và tạo đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà đến nay ta đng ở bước đầu. Dẫu sao thành quả đã đạt được là rất quan trọng - kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường có vai trò hợp hiến hợp pháp. Hệ thống pháp luật mới được ban hành và liên tục hoàn thiện đã cổ vũ và bảo đảm pháp lý để mọi người kinh doanh tư nhân ngày càng yên tâm phát triển. Đáng lưu ý các năm từ sau Đại hội VIII đã liên tục có diễn đàn hợp tác đối thoại cởi mở giữa lãnh đạo và cơ quan nhà nước hữu quan với giớikinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế mà chủ đề luôn luôn là xây dựng và thực thi thể chế kinh tế và kinh doanh. Nhờ thành quả ban hành và thực thi thể chế như vậy mới có thể có bước phát triển liên tục của kinh tế tư nhân mấy chục năm qua và bước phát triển đột biến từ năm 2000 đến nay - ngay trong tình hình còn có những ý kiến băn khoăn lo ngại. Đại hội IX về mặt phát triển kinh tế tư nhân đã đạt được bước mới về hoàn thiện chính sách khẳng định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN trong đó kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng. Xác định quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác đấu tranh trong nội bộ nhân dân cùng nhau đi lên CHXH dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hội nghị lần thứ V của ban chấp hành trung ương, trong ngịh quyết về kinh tế tư nhân đã xác định hai điều quan trọng: Xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần tương thân tương ái, những Đảng viên làm chủ doanh nghiệp của tư nhân chấp hành tốt điều lệ Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước thì vẫn là Đảng viên của Đảng. Nhìn tổng quát lại có thể thấy rõ trong công cuộc đổi mới của đất nước ta nói chung và nói riêng trong bước mở đường và phát triển kinh tế tư nhân đã diễn ra sự tìm tòi đổi mới mang tính nhân dân, tính xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đã có vai trò mở đường, khuyến khích, định hướng và điều tiết rất rõ. Bản thân cuộc tìm tòi đổi mới đó bao hàm quá trình đổi mới tư duy lý luận gắn với thực tiễn xây dựng và hoàn thiện chính sách, thể chế, từ đó trải qua mấy chục năm đã thêm chất liệu và kinh nghiệm cụ thể phong phú để tổng kết và giải đáp những vấn đề về lý luận đặt ra. tài liệu tham khảo. 1. Một số vấn đề cơ bản về đổi mới quản lý kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - TS Nguyễn Minh Tú (NXB chính trị quốc gia). 2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - PGS.TS. Mai Ngọc Cường - ĐHKTQD ở Việt Nam (NXB chính trị quốc gia). 3. Lựa chọn và thực hiện chính sách phát triển kinh tế ở Việt Nam - Bộ kế hoạch và đầu tư - Viện chiến lược phát triển (NXB chính tị quốc gia). 4. Giáo tình kinh tế chính trị - ĐHKTQD (NXB giáo dục). 5. Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 – Viện chiến lược phát triển (NXB chính trị quốc gia).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10872.doc
Tài liệu liên quan