Là một công cụ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới có thể nói thương mại điện tử giúp cho doanh nghiệp được bình đẳng trong thời kì hội nhập vào nền kinh tế thế giới
Từ sự phát triển của các nhân tố như số người sử dụng internet tăng cao liên tục trong các năm từ 2003 đến 2008 và môi trường pháp lí ngay một hoàn chỉnh Hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử tại các doanh nghiệp đã rõ ràng và có xu hướng ngày càng tăng kết quả điều tra cho thấy trên một phần ba doanh nghiệp có doanh thu nhờ các đơn đặt hàng qua phương tiện điện tử ở mức 15% trở lên so với tổng doanh thu. Nếu so sánh tỷ lệ này với tỷ lệ tương ứng 8% của năm 2005 thì có thể thấy rõ các doanh nghiệp đã thực sự quan tâm tới thương mại điện tử và đã biết cách biến những lợi ích tiềm tàng của nó thành hiện thực. Tín hiệu lạc quan nhất là có tới 63% doanh nghiệp tin tưởng rằng doanh thu có được từ các đơn đặt hàng sử dụng phương tiện điện tử sẽ tiếp tục tăng
34 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tử, doanh nghiệp điện tử là chủ trương có tính chất chiến lược của Đảng và nhà nước. Từ khi VIỆT NAM gia nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới ,đặc biệt khi nước ta chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì thương mại điện tử (TMDT) là mũi nhọn mà chính phủ đã và đang phát động trong cả nước.
Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và 2009 đã trải qua rất nhiều khó khăn, cộng đồng doanh nghiệp đang đối mặt với nhiều thách thức để tồn tại và phát triển. Để vượt qua những khó khăn này, thương mại điện tử (TMĐT) đang được xem là một giải pháp hữu ích giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng kênh phân phối, bán hàng và giảm các chi phí sản xuất.
Chính vì tầm quan trọng của thương mại điện tử là qua lớn trong khi nó chưa được tìm hiểu và quan tâm đúng mức nên em chọn đề tài: “Phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt Nam” làm đề án môn học của mình.
Em xin chân thành cảm ơn sự góp ý tận tình của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Huyền đã giúp em hoàn thành đề án này!
Phần I. Giới Thiệu Về Thương Mại Điện Tử
1. Khái niệm về thương mại điện tử
1.1. Khái niệm
Khái niệm thương mại điện tử dù đã trở nên khá phổ biến trên các phương tiện truyền thông nhưng vẫn còn quá xa vời đối với các doanh nghiệp. Vậy thực chất của thương mại điện tử là gì, có lợi gì cho doanh nghiệp không, có an toàn không và cuối cùng doanh nghiệp cần phải làm những gì để áp dụng thương mại điện tử cho có hiệu quả...
Theo nghĩa hẹp, thương mại điện tử chỉ đơn thuần bó hẹp thương mại điện tử trong việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử, nhất là qua internet và các mạng liên thông khác.
Theo tổ chức thương maị thế giới WTO "Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng như những thông tin số hoá thông qua mạng Internet".
Thương mại điện tử hiểu theo nghĩa rộng là các giao dịch tài chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử, chuyển tiền điện tử và các hoạt động như gửi/rút tiền bằng thẻ tín dụng.
Có thể thấy phạm vi hoạt động của thương mại điện tử rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, trong đó hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất nhỏ trong thương mại điện tử
1.2 Đặc trưng của Thương mại điện tử
So với các hoạt động Thương mại truyền thống trong thương mại điện tử :
Các bên tiến hành giao dịch không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.
Sự nhiêu khê khi tham gia thương trường quốc tế đã khiến nhiều doanh nghiệp nhỏ chùn bước. Trên thực tế, quá trình này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một khoản ngân sách dành cho việc nghiên cứu thị trường và tìm kiếm các cơ hội giao thương chưa kể thời gian đầu tư để sàng lọc, phát triển khách hàng. Vì thế, nhiều doanh nghiệp nhỏ ngày nay đã tìm đến thương mại điện tử để có thêm lợi thế khi bước vào cuộc cạnh tranh toàn cầu .Trong khi Thương mại truyền thống, các bên thương gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vât lý như chuyển tiền, séc hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Các phương tiện viễn thông như: fax, telex, .. chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh việc sử dụng các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để chuyển tải thông tin một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch thì thông qua thương mại điện tử, doanh nghiệp có thể tiếp cận các cơ hội kinh doanh, không kể khoảng cách không gian và thời gian. Đặc biệt, nhờ công nghệ sắp xếp tổ chức dữ liệu tại các mạng này, các cơ hội được sàng lọc, chọn lựa sao cho phù hợp với nhu cầu kinh doanh của người mua và người bán. Thương mại điện tử cho phép mọi người cùng tham gia từ các vùng xa xôi hẻo lánh đến các khu vực đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp mọi nơi đều có cơ hội ngang nhau tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu và không đòi hỏi nhất thiết phải có mối quen biết với nhau
1.3 Các cơ sở để phát triển TMĐT và các loại giao dịch TMĐT
Để phát triển TMĐT các danh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp VN nói riêng cần hội tụ được:
Hạ tầng kỹ thuật internet phải đủ nhanh, mạnh đảm bảo truyền tải các nội dung thông tin bao gồm âm thanh, hình ảnh trung thực và sống động.
Hạ tầng pháp lý: phải có luật về TMĐT công nhận tính pháp lý của các chứng từ điện tử, các hợp đồng điện tử ký qua mạng; phải có luật bảo vệ quyền sở hữu tuệ, bảo vệ sự riêng tư, bảo vệ người tiêu dùng v.v. để điều chỉnh các giao dịch qua mạng.
Cơ sở thanh toán điện tử an toàn bảo mật. Thanh toán điện tử qua thẻ, qua tiền điện tử, thanh toán qua EDI. Các ngân hàng phải triển khai hệ thống thanh toán điện tử rộng khắp.
Hệ thống cơ sở chuyển phát hàng nhanh chóng, kịp thời và tin cậy Phải có hệ thống an toàn bảo mật cho các giao dịch, chống xâm nhập trái phép, chống virus, chống thoái thác.
Đội ngũ nhân lực am hiểu kinh doanh, công nghệ thông tin, thương mại điện tử để triển khai tiếp thị, quảng cáo, xúc tiến, bán hàng và thanh toán qua mạng
1.4 Các loại hình giao dịch TMĐT
Trong TMĐT có ba chủ thể tham gia: Doanh nghiệp (B) giữ vai trò động lực phát triển TMĐT, người tiêu dùng (C) giữ vai trò quyết định sự thành công của TMĐT và chính phủ (G) giữ vai trò định hướng, điều tiết và quản lý. Từ các mối quan hệ giữa các chủ thể trên ta có các loại giao dịch TMĐT: B2B, B2C, B2G, C2G, C2C ... trong đó B2B và B2C là hai loại hình giao dịch TMĐT quan trọng nhất.
Thương mại điện tử có thể được phân loại theo tính cách của người tham gia Người tiêu dùng.
C2C (Consumer-To-Consumer) Người tiêu dùng với người tiêu dùng
C2B (Consumer-To-Business) Người tiêu dùng với doanh nghiệp
C2G (Consumer-To-Government) Người tiêu dùng với chính phủ
B2C (Business-To-Consumer) Doanh nghiệp với người tiêu dùng
B2B (Business-To-Business) Doanh nghiệp với doanh nghiệp
B2G (Business-To-Government) Doanh nghiệp với chính phủ
B2E (Business-To-Employee) Doanh nghiệp với nhân viên
Chính phủ
G2C (Government-To-Consumer) Chính phủ với người tiêu dùng
G2B (Government-To-Business) Chính phủ với doanh nghiệp
G2G (Government-To-Government) Chính phủ với chính phủ
B2G (Business-To-Government) Doanh nghiệp với chính phủ
B2E (Business-To-Employee) Doanh nghiệp với nhân viên
Chính phủ
1.5 Các hình thức hoạt động chủ yếu của Thương mại điện tử
1.5.1 Thư điện tử
Các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước,.. sử dụng thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua mạng, gọi là thư điện tử (electronic mail, viết tắt là e-mail). Thông tin trong thư điện tử không phải tuân theo một cấu trúc định trước nào.
1.5.2 Thanh toán điện tử
Thanh toán điện tử (electronic payment) là việc thanh toán tiền thông qua bức thư điện tử (electronic message) ví dụ, trả lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản, trả tiền mua hàng bằng thẻ mua hàng, thẻ tín dụng v.v.. thực chất đều là dạng thanh toán điện tử. Ngày nay, với sự phát triển của TMĐT, thanh toán điện tử đã mở rộng sang các lĩnh vực mới đó là
a. Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data Interchange, gọi tắt là FEDI) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao dịch với nhau bằng điện tử.
b. Tiền lẻ điện tử (Internet Cash) là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành (ngân hàng hoặc một tổ chức tín dụng nào đó), sau đó được chuyển đổi tự do sang các đồng tiền khác thông qua Internet, áp dụng trong cả phạm vi một nước cũng như giữa các quốc gia; tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật số hóa, vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là “tiền mặt số hóa” (digital cash. Tiền lẻ điện tử đang trên đà phát triển nhanh, nó có ưu điểm nổi bật sau :
- Dùng để thanh toán những món hàng giá trị nhỏ, thậm chí ngay cả tiền mua báo (vì phí giao dịch mua hàng và chuyển tiền rất thấp);
- Có thể tiến hàng giữa hai con người hoặc hai công ty bất kỳ, các thanh toán là vô danh;
- Tiền mặt nhận được đảm bảo là tiền thật, tránh được tiền giả
c. Giao dịch điên tử của ngân hàng: Hệ thống thanh toán điện tử của ngân hàng là một hệ thống lớn gồm nhiều hệ thống nhỏ:
(1) Thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng qua điện thoại, tại các điểm bán lẻ, các kiôt, giao dịch cá nhân tại các gia đình, giao dịch tại trụ sở khách hàng, giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng, thông tin hỏi đáp…,
(2) Thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu thị…,)
(3) Thanh toán nội bộ một hệ thống ngân hàng
(4) Thanh toán liên ngân hàng
1.5.3 Trao đổi dữ liệu điện tử
Trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data intechange, viết tắt là EDI) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc” (stuctured form), từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác, giữa các công ty hoặc đơn vị đã thỏa thuận buôn bán với nhau.
EDI ngày càng được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu, chủ yếu phục vụ cho việc mua và phân phối hàng (gửi đơn hàng, các xác nhận, các tài liệu gửi hàng, hóa đơn v.v…), người ta cũng dùng cho các mục đích khác, như thanh toán tiền khám bệnh, trao đổi các kết quả xét nghiệm v.v.
Trước khi có Internet đã có EDI, khi đó người ta dùng “mạng giá trị gia tăng” (Value Added Network, viết tắt là VAN) để liên kết các đối tác EDI với nhau; cốt lõi của VAN là một hệ thống thư điện tử cho phép các máy tính điện tử liên lạc được với nhau, và hoạt động như một phương tiện lưu trữ và tìm kiếm; khi nối vào VAN, một doanh nghiệp có thể liên lạc với nhiếu máy tính điện tử nằm ở nhiều thành phố trên khắp thế giới.
Ngày nay EDI chủ yếu được thực hiện thông qua mạng Internet. Để phục vụ cho buôn bán giữa các doanh nghiệp thuận lợi hơn với chi phí truyền thông không quá tốn kém người ta đã xây dựng một kiểu mạng mới gọi là “mạng riêng ảo” (virtual private network), là mạng riêng dạng intranet của một doanh nghiệp nhưng được thiết lập dựa trên chuẩn trang Web và truyền thông qua mạng Internet.
Công việc trao đổi EDI trong TMĐT thường gồm các nội dung sau: 1/ Giao dịch kết nối 2/ Đặt hàng 3/ Giao dịch gửi hàng 4/Thanh toán
Vấn đề này đang được tiếp tục nghiên cứu và xử lý, đặc biệt là buôn bán giữa các nước có quan điểm chính sách, và luật pháp thương mại khác nhau, đòi hỏi phải có một pháp lý chung trên nền tảng thống nhất quan điểm về tự do hóa thương mại và tự do hóa việc sử dụng mạng Internet, chỉ như vậy mới bảo đảm được tính khả thi, tính an toàn, và tính có hiệu quả của việc trao đổi dữ liệu điện tử (EDI)
1.5.4 Truyền dung liệu
Dung liệu (content) là nội dung của hàng hóa số, giá trị của nó không phải trong vật mang tin và nằm trong bản thân nội dung của nó. Hàng hoá số có thể được giao qua mạng. Ví dụ hàng hoá số là: Tin tức, nhạc phim, các chương trình phát thanh, truyền hình, các chương trình phần mềm, các ý kiến tư vấn, vé máy bay, vé xem phim, xem hát, hợp đồng bảo hiểm, v.v.
Trước đây, dung liệu được trao đổi dưới dạng hiện vật (physical form) bằng cách đưa vào đĩa, vào băng, in thành sách báo, thành văn bản, đóng gói bao bì chuyển đến tay người sử dụng, hoặc đến điểm phân phối (như của hàng, quầy báo v.v.) để người sử dụng mua và nhận trức tiếp. Ngày nay, dung liệu được số hóa và truyền gửi theo mạng, gọi là “giao gửi số hóa” (digital delivery).
Các tờ báo, các tư liệu công ty, các ca-ta-lô sản phẩm lần lượt đưa lên Web, người ta gọi là “xuất bản điện tử” (electronic publishing hoặc Web publishing), khoảng 2700 tờ báo đã được đưa lên Web gọi là “sách điện tử”; các chương trình phát thanh, truyền hình, giáo dục, ca nhạc, kể chuyện v.v.. cũng được số hóa, truyền qua Internet, người sử dụng tải xuống (download); và sử dụng thông qua màn hình và thiết bị âm thanh của máy tính điện tử
1.5.5 Mua bán hàng hóa hữu hình
Đến nay, danh sách các hàng hóa bán lẻ qua mạng đã mở rộng. Ở một số nước, Internet bắt đầu trở thành công cụ để cạnh tranh bán lẻ hàng hữu hình (Retail of tangible goods). Tận dụng tính năng đa phương tiện (multimedia) của môi trường Web và Java, người bán xây dựng trên mạng các “cửa hàng ảo” (virtual shop), gọi là ảo bởi vì, cửa hàng có thật nhưng ta chỉ xem toàn bộ quang cảnh cửa hàng và các hàng hóa chứa trong đó trên từng trang màn hình một.
Để có thể mua – bán hàng, khách hàng tìm trang Web của cửa hàng, xem hàng hóa hiển thị trên màn hình, xác nhận mua và trả tiển bằng thanh toán điện tử. Lúc đầu (giai đoạn một), việc mua bán như vậy còn ở dạng sơ khai: người mua chọn hàng rồi đặt hàng thông qua mẫu đơn (form) cũng đặt ngay trên Web.
1.6. Lợi ích của Thương mại điện tử
1.6.1. Thu thập được nhiều thông tin
TMĐT giúp người ta tham gia thu được nhiều thông tin về thị trường, đối tác, giảm chi phí tiếp thị và giao dịch, rút ngắn thời gian sản xuất, tạo dựng và củng cố quan hệ bạn hàng. Các doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về kinh tế thị trường, nhờ đó có thể xây dựng được chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiện nay đang được nhiều nước quan tâm, coi là một trong những động lực phát triển kinh tế.
1.6.2. Giảm chi phí sản xuất
TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn phòng không giấy tờ (paperless office) chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần (trong đó khâu in ấn hầu như được bỏ hẳn); theo số liệu của hãng General Electricity của Mỹ, tiết kiệm trên hướng này đạt tới 30%. Điều quan trọng hơn, với góc độ chiến lược, là các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đưa đến những lợi ích to lớn lâu dài.
1.6.3. Giảm chi phí bán hàng, tiếp thị và giao dịch
TMĐT giúp giảm thấp chi bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng phương tiện Internet/Web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, catalogue điện tử (electronic catalogue) trên Web phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với catalogue in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời. Theo số liệu của hãng máy bay Boeing của Mỹ, đã có tới 50% khách hàng đặt mua 9% phụ tùng qua Internet (và nhiều các đơn hàng về lao vụ kỹ thuật), và mỗi ngày giảm bán được 600 cuộc gọi điện thoại.
TMĐT qua Internet/Web giúp người tiêu thụ và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch (giao dịch được hiểu là từ quá trình quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng, giao dịch thanh toán). Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0.5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng từ 10% đến 20% chi phí thanh toán theo lối thông thường.
Tổng hợp tất cả các lợi ích trên, chu trình sản xuất (cycle time) được rút ngắn, nhờ đó sản phẩm mới xuất hiện nhanh và hoàn thiện hơn.
1.6.4. Xây dựng quan hệ với đối tác
TMĐT tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành viên tham gia vào quá trình thương mại: thông qua mạng (Internet/ Web) các thành viên tham gia (người tiêu thụ, doanh nghiệp, các cơ quan Chính phủ...) có thể giao tiếp trực tiếp (liên lạc “ trực tuyến”) và liên tục với nhau, có cảm giác như không có khoảng cách về địa lý và thời gian nữa; nhờ đó sự hợp tác và sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng một cách liên tục: các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát hiện nhanh chóng trên phạm vi toàn quốc, toàn khu vực, toàn thế giới, và có nhiều cơ hội để lựa chọn hơn.
1.6.5 Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế trí thức
Trước hết, TMĐT sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin tạo cơ sở cho phát triển kinh tế tri thức. Lợi ích này có một ý nghĩa lớn đối với các nước đang phát triển: nếu không nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri thức thì sau khoảng một thập kỷ nữa, nước đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn. Khía cạnh lợi ích này mang tính chiến lược công nghệ và tính chính sách phát triển cần cho các nước công nghiệp hóa.
2. Thị trường thương mại điện tử
2.1 Khái niệm
Thị trường TMĐT là nơi dùng để trao đổi thông tin, hàng hoá, dịch vụ, thanh toán. Thị trường tạo ra giá trị cho các bên tham gia: Người mua, người bán, người môi giới, toàn xã hội. Đối với doanh nghiệp thị trường chính là khách hàng. Thị trường có 3 chức năng cơ bản:
Làm cho người mua và người bán gặp nhau
Hỗ trợ trao đổi thông tin, hàng hoá, dịch vụ và thanh toán bằng các giao dịch thị trường
Cung cấp một cơ sở hạ tầng để phục vụ và đưa ra các thể chế để điều tiết
Các yếu tố cấu thành TMĐT :
Khách hàng: là người đi dạo trên web tìm kiếm, trả giá, đặt mua các sản phẩm. Khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp chiếm 85% hoạt động của TMĐT
Người bán: Có hàng trăm ngàn cửa hàng trên web thực hiện quảng cáo và giới thiệu hàng triệu các Web sites. Người bán có thể bán trực tiếp từ Web site hoặc qua chợ điện tử
Hàng hoá : là các sản phẩm vật thể, hay số hoá, dịch vụ
Cơ sợ hạ tầng: phần cứng, phần mềm, mạng internet
Front-end: Cổng người bán, Catalogs điện tử, Giỏ mua hàng, Công cụ tìm kiếm, Cổng thanh toán
Back-end: Xử lý và thực hiện đơn hàng, Quản lý kho, Nhập hàng từ các nhà cung cấp, Xử lý thanh toán, Đóng gói và giao hàng
Đối tác, nhà môi gới; Nhà môi giới là người trung gian đứng giữa người mua và người bán
Các dịch vụ hỗ trợ: Dịch vụ chứng thực điện tử, dịch vụ tư vấn
2.2. Các loại thị trường TMĐT
2.2.1 Cửa hàng trên mạng (Electronic storefronts)
Cửa hàng trên mạng là một Website của một doanh nghiệp dùng để bán hàng hoá và dịch vụ qua mạng thông qua các chức năng của Website thông thường website đó gồm: Catalogs điện tử, Cổng thanh toán, Công cụ tìm kiếm, Vận chuyển hàng, dịch vụ khách hàng, giỏ mua hàng. hỗ trợ đấu giá.
2.2.2 Siêu thị điện tử (e-malls)
Siêu thị điện tử là một trung tâm bán hàng trực tuyến trong đó có nhiều cửa hàng điện tử. Người ta có thể phân loại: Siêu thị tổng hợp – là một chợ điện tử trong đó bán tất cả các loại hàng hoá, siêu thị chuyên dụng chỉ bán một số loại sản phẩm hoặc Cửa hàng/ siêu thị hoàn toàn trực tuyến hoặc kết hợp
2.2.3 Sàn giao dịch (E-marketplaces)
Sàn giao dịch là thị trường trực tuyến thông thường là B2B, trong đó người mua và người bán có thể đàm phán với nhau, có một doanh nghiệp hoặc một tổ chức đứng ra sở hữu. Có thể phân ra 3 loại sàn giao dịch TMĐT.
Sàn giao dịch TMĐT riêng do một công ty sở hữu: Công ty bán các sản phẩm tiêu chuẩn và sản phẩm may đo theo yêu cầu của công ty đó. Công ty mua là các công ty đặt mua hàng từ công ty bán
Sàn giao dịch TMĐT chung: Là một chợ B2B thường do một bên thứ 3 đứng ra tổ chức tập hợp các bên bán và mua để trao đổi mua bán với nhau
Sàn giao dịch TMĐT chuyên ngành Consortia: Là tập hợp các người mua và bán trong một ngành công nghiệp duy nhất.
2.2.4 Cổng thông tin (Portal)
Cổng thông tin là một điểm truy cập thông tin duy nhất để thông qua trình duyệt có thể thu nhận các loại thông tin từ bên trong một tổ chức. Người ta có thể phân loại cổng thông tin là nơi để tìm kiếm thông tin cần thiết , cổng giao tiếp là nới các doanh nghiệp có thể gặp gỡ và trao đổi mua bán hàng hoá và dịch vụ và cao nhất là cổng giao dịch trong đó doanh nghiệp có thể lấy thông tin, tiếp xúc và tiến hành giao dịch. Khái niệm cổng thông tin nhấn mạnh nhiều về mức tự động hoá bằn CNTT, bản chất thương mại thì nó cũng là một sàn giao dịch TMĐT. Ví dụ: Cổng thông tin Hà Nội, Cổng thông tin bộ thương mại, Cổng thông tin Việt Trung (VCCI).
2.3 Nghiên cứu thị trường thương mại điện tử
Nghiên cứu thị trường là việc thu thập thông tin về: kinh tế, công nghiệp, cty, sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối, xúc tiến thương mại, hành vi mua hàng của thị trường mục tiêu.
Mục đích nghiên cứu thị trường là tìm ra thông tin và kiến thức về các mối quan hệ giữa người tiêu dùng, sản phẩm, phương pháp tiếp thị, và các nhà tiếp thị. Từ đó:
Tìm ra cơ hội để tiếp thị
Thiết lập kế hoạch tiếp thi
Hiểu rõ quá trình đặt hàng
Đánh giá được chất lượng tiếp thị
Khi nhiên cứu thị trường, người ta phải phân khúc thị trường, tức là chia thị trường ra thành nhóm logic để tiến hành tiêp thị, quảng cáo và bán hàng. Có thể sử dụng nhiều công cụ; điều tra, hỏi ...
Nghiên cứu thị trường TMĐT online là công cụ mạnh để nghiên cứu hành vi khách hàng, phát hiện ra thị trường mới và tìm ra lợi ích người tiêu dùng trong sản phẩm mới.
Nghiên cứu thị trường trên cơ sở Internet có đặc trưng là khả năng tương tác với khách hàng thông qua giao tiếp trực tuyến, làm cho hiểu rõ hơn khách hàng, thị trường, và cạnh tranh. Nó giúp:
Xác định các đặc điểm mua hàng của cá nhân và nhóm
Tìm ra các yếu tố khuyến khích mua hàng
Biết được thế nào là trang web tối ưu
Cách xác định người mua thật
Khách hàng đi mua hàng ra sao
Xu hướng tiếp thị và sản phẩm mà thị trường cần
2.4 Thị trường thương mại điện tử liên tục phát triển
Từ khi Internet ra đời, các doanh nghiệp đã nhanh chóng nhận ra lợi ích của việc sử dụng nó để quảng bá thông tin, hỗ trợ việc thực hiện giao dịch thông qua mạng và họ đã triệt để khai thác thế mạnh của Internet vào kinh doanh. Từ đó, khái niệm TMĐT ra đời. TMĐT bao gồm các giao dịch nhờ vào Internet giữa các đối tác trong kinh doanh, ví dụ giữa nhà cung cấp và khách hàng, giữa các đối tác kinh doanh,...
Năm 2008, thị trường giao dịch chứng khoán Hà Nội đã thực hiện 248 phiên giao dịch an toàn với tổng khối lượng giao dịch đạt 1.531,38 triệu cổ phiếu, tương ứng giá trị giao dịch đạt 57.122,4 tỷ đồng. Hoạt động giao dịch qua hệ thống khớp lệnh liên tục chiếm ưu thế hơn hẳn so với giao dịch qua hệ thống thỏa thuận, giá trị giao dịch thực hiện qua phương thức khớp lện liên tục chiếm trên 90% tổng giá trị giao dịch toàn thị trường. Tổng khối lượng cổ phiếu giao dịch theo phương thức khớp lệnh liên tục đạt 1467,74 triệu cổ phiếu trong khi theo phương thức thỏa thuận đạt 63,64 triệu cổ phiếu
Thương mại điện tử không còn xa lạ và đã trở thành một phần tất yếu của mỗi người dân ở các nước trong đó có Việt Nam . Được biết, sau gần 1 năm cung cấp tới khách hàng hệ thống bán vé điện tử cho phép khách hàng đặt vé trực tuyến và sử dụng các loại thẻ thanh toán quốc tế để thực hiện thanh toán trả ngay trên website của Vietnam Airlines thông qua ngân hàng thanh toán là Vietcombank, từ tháng 10/2009, thẻ nội địa mang thương hiệu quốc gia Vietcombank Connect 24 đã chính thức là thẻ ghi nợ nội địa đầu tiên tại Việt nam thực hiện thanh toán trên trang web của Vietnam Airlines. Vietnam Airlines cho biết, sau hơn 02 tháng công bố dịch vụ, đã có hàng ngàn giao dịch thực hiện đặt mua vé thành công bằng thẻ nội địa Vietcombank Connect24. Không chỉ dừng lại ở kênh thanh toán qua trang web, chủ thẻ Vietcombank Connect24 còn có thể thanh toán tiền vé của Vietnam Airlines qua các máy ATM của Vietcombank tại các thành phố lớn trên toàn quốc. Dự kiến trong thời gian tới, Vietcombank sẽ tiếp tục triển khai dịch vụ thanh toán vé máy bay trên các kênh thanh toán điện tử khác.
Có thể nói cách đây 5 năm, thương mại điện tử vẫn còn là một khái niệm khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Thế nhưng đến bây giờ, bức tranh thương mại điện tử VN hiện tại đã có rất nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Những biến chuyển ấy thể hiện rõ qua những con số thống kê của Bộ Công Thương
Từ tháng 4 năm 2008, Bộ Công Thương đã hoàn thành báo cáo về thương mại điện tử năm 2007. Bộ đã điều tra trên quy mô lớn về tình hình ứng dụng thương mại điện tử của các doanh nghiệp trong nước và kết quả thu được khá khả quan.
Thứ nhất, gần 40 % doanh nghiệp có doanh thu từ thương mại điện tử, và mức doanh thu ấy chiếm 15% tổng doanh thu. Đây là một con số rất là đáng khích lệ cho thấy thương mại điện tử đã thực sự đem lại những cái lợi ích cụ thể cho các doanh nghiệp bằng những giá trị cụ thể.
Thứ hai, một nửa số doanh nghiệp cho biết đã đầu tư cho những ứng dụng thương mại điện tử trong đơn vị mình. Hơn 60% doanh nghiệp tin rằng doanh thu của họ nhờ thương mại điện tử sẽ còn tăng hơn nữa trong thời gian tới chứng tỏ niềm tin và sự lạc quan của doanh nghiệp đối với việc ứng dụng thương mại điện tử để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Nhằm tăng cường khả năng tiếp cận với thị trường, hơn 40% doanh nghiệp đã lập website riêng và khoảng 15% doanh nghiệp có các hoạt động e-marketing
Vậy bằng những con số cụ thể, chúng ta có thể đưa ra một cái kết luận là hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp rất là rõ ràng và cái xu hướng ấy ngày càng tăng. Như vậy, có thể thấy rằng các doanh nghiệp bây giờ rất quan tâm tới việc ứng dụng thương mại điện tử, đặc biệt là trong cái bối cảnh kinh doanh hiện tại rất khó khăn và nhiều sự cạnh tranh.
Doanh nghiệp rất cần các công cụ, phương thức mới để làm sao có thể tồn tại trong cái môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay. Và để tiếp tục duy trì hoạt động và mục tiêu kinh doanh của mình thì thương mại điện tử là một phương thức mới. Có thể là doanh nghiệp chưa thấy cái hiệu quả ngay nhưng mà chỉ trong vòng một vài năm nữa, trong tương lai gần, họ sẽ thấy được cái lợi thế của thương mại điện tử. Bởi lẽ, đây cũng là trào lưu chung của các doanh nghiệp trên toàn thế giới.
PHẦN II. Thương Mại Điện Tử Một Công Cụ Mới Đầy Tiềm Năng
1. Khái quát thương mại điện tử Việt Nam trong thời gian qua
1.1. Số người sử dụng internet liên tục tăng nhanh
Lịch sử phát triển của thương mại điện tử luôn gắn liền với sự phát triển của internet, để Thương mại điện tử phát triển, cần nhiều yếu tố thúc đẩy, làm nền tảng trong đó có số lượng người sử dụng internet
Từ khi internet đi vào Việt Nam lượng người sử dụng ngày một lớn hơn đây cũng là một yếu tố để thúc đẩy môi trường của thương mại điện tử được mở rộng và phát triển thuận lợi hơn.
Bảng 1. Số lượng khách hàng sử dụng mạng ở nước ta
Năm
Số người dùng
% dân số sử dụng
Số tên miền .vn đã đăng ký
2003
1.709.478
2,14
2.746
2004
4.311.336
5,29
7.088
2005
7.184.875
8,71
10.829
2006
12.911.637
15,53
18.530
2007
16.176.973
19,46
42.470
2008
19.774.809
23,50
74.625
Nguồn: Trung Tâm Internet Việt Nam Tính đến tháng 05 năm 2008
Qua bảng số liệu ta có thể thấy số người sử dụng internet liên tục tăng qua các năm, từ năm 2003 số người sử dụng là 1.709.478 thì đến năm 2008 đã tăng lên đến 19.774.809 người (trung bình mỗi năm tăng 3613064 người ) đây là một kết quả rất khả quan cho thấy tiềm năng của thị trường thương mại điện tử là rất lớn, từ dây ta có thể thấy lượng khách hàng tiềm năng tăng cao (số người sử dụng internet tăng cao ) cùng với đó số “tên miền.vn” đang tăng nhanh như vậy cơ hội để thực hiện các giao dịch qua mạng qua đó cũng được nâng lên mức cao hơn, qua đó chúng ta có cơ sở để nhìn nhận rằng Việt Nam đã sẵn sàng cho nền kinh tế điện tử
Theo số liệu của Miniwatts Marketing Group tính đến 03/2008 ta có bảng:
Stt
Quốc gia
Số người sử dụng
% dân số sử dụng
% người dùng thế giới
Dân số 2008 (ước tính)
Tăng trưởng(2000 - 2008)
1
China
210.000.000
15,8 %
14,9 %
1.330.044.605
833,3 %
2
Japan
94.000.000
73,8 %
6,7 %
127.288.419
99,7 %
3
India
60.000.000
5,2 %
4,3 %
1.147.995.898
1.100,0 %
4
Korea, South
34.820.000
70,7 %
2,5 %
49.232.844
82,9 %
5
Indonesia
20.000.000
8,4 %
1,4 %
237.512.355
900,0 %
6
Vietnam
19.323.062
22,4 %
1,4 %
86.116.559
9.561,5 %
Nguồn: Số liệu của Miniwatts Marketing Group tính đến 03/2008
Qua đây ta thấy rằng số người sử dụng internet tại Việt Nam năm 2008 đã đứng thứ 6 Châu Á và chiếm 1.4% số lượng người dùng internet trên thế giới đây là một tín hiệu đáng mừng cho thấy môi trường thương mại điện tử không những rất hấp dẫn đối với các doanh nghiệp trong nước mà còn rất hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài ( cũng theo thống kê của Miniwatts Marketing Group Việt Nam là nước có số lựơng người sử dụng internet cao đứng thứ 17 trên thế giới), vì thế cơ hội để phát triển thương mại điện tử tại Viêt Nam đang rất cao
1.2. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp ứng dụng công cụ thương mại điện tử để giao dịch trên thị trường
Nếu hiểu thương mại điện tử là việc sử dụng các phương tiện điện tử để tiến hành hoạt động thương mại, thì doanh nghiệp có thể triển khai thương mại điện tử trên nhiều cấp độ, từ sử dụng email để giao dịch với đối tác, giao kết hợp đồng thông qua điện thoại, fax, email, cho đến xây dựng website riêng của mình hoặc tham gia các sàn giao dịch, v.v...
Hoạt động cơ bản nhất để doanh nghiệp có thể tham gia thương mại điện tử đó là xây dựng Wedsite cho mình
Chất lượng các website kinh doanh là một trong những tiêu chí quan trọng giúp đánh giá mức độ phát triển thương mại điện tử tại doanh nghiệp. Khi việc kết nối hệ thống giữa các đối tác chiến lược để trao đổi dữ liệu điện tử còn chưa phát triển, thì các website là kênh phổ biến nhất để doanh nghiệp quảng bá sản phẩm, xúc tiến dịch vụ và tiến hành giao dịch thương mại điện tử theo cả hình thức B2B và B2C. Do vậy, nếu một doanh nghiệp xây dựng và duy trì được một website hiệu quả để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình, điều này đã nói lên một trình độ nhất định về triển khai ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp đó.
Cho đến năm 2003, Việt Nam mới có hơn 3.000 doanh nghiệp (trong hơn 132.000 doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, khoảng 2.27%) có website riêng và vài nghìn doanh nghiệp đăng ký quảng cáo trên mạng Internet. Trong số đó, cũng chỉ mới có 5% doanh nghiệp quan tâm đến thương mại điện tử và khoảng 7-8% doanh nghiệp bắt đầu triển khai. Đặc biệt, các website của doanh nghiệp Việt Nam mới đơn thuần giới thiệu doanh nghiệp, sản phẩm chứ ít có giao dịch trực tuyến và cũng không thanh toán được
Nhưng cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin thì thương mại điện tử cũng phát triển trong các doanh nghiệp một cách nhanh chóng, đến năm 2007 tỷ lệ doanh ngiệp có website đã chiếm một tỷ lệ lớn là 31.1%
Kết quả khảo sát của những doanh nghiệp đã thiết lập website, số website có tên miền .vn chiếm khoảng 41,8%. So với tỷ lệ 32,7% vào năm 2004, mức tăng gần 10% này cho thấy xu hướng website tên miền Việt Nam đang dần chiếm ưu thế so với tên miền quốc tế trong cơ cấu tên miền website của doanh nghiệp.
Internet là môi trường thiết yếu cho ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp. Do đó chỉ tiêu kết nối Internet sẽ phản ánh một khía cạnh quan trọng của mức độ sẵn sàng cho thương mại điện tử. 97% doanh nghiệp thuộc diện điều tra năm 2007 cho biết đã kết nối Internet, so với tỷ lệ 83% của năm 2004 trước và 92% của năm 2006. Trong số 3% doanh nghiệp chưa tiếp cận với Internet, một nửa cho biết đang lên kế hoạch kết nối vào năm 2008 điều nay chứng tỏ rằng nhận thức của các doanh nghiệp về hiệu quả của thương mại điện tử ngày cao và cùng với đó là mức độ sẵn sàng cho thương mại điện tử của doanh nghiệp cũng tăng theo khi mà nó đang dần trở thành công cụ hữu hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam
Về mục đích sử dụng Internet, kết quả điều tra cho thấy ngoài tính năng cơ bản là tìm kiếm thông tin và trao đổi thư điện tử, các tiện ích khác của Internet cũng ngày càng được doanh nghiệp quan tâm khai thác. 46,7% doanh nghiệp bắt đầu tận dụng Internet như một kênh hỗ trợ trong quá trình mua bán hàng hóa dịch vụ và 38,1% dùng để duy trì, cập nhật website. Tỷ lệ doanh nghiệ sử dụng các tính năng của Internet đều tăng so với năm 2006 cho thấy sự tiến bộ trong việc khai thác toàn diện những lợi thế mà Internet mang lại, đồng nghĩa với năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử của doanh nghiệp đã được nâng cao hơn một bước.
Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng internet cho các mục đích
2006
2007
Thay đổi
Tìm kiếm thông tin
82,9%
89.5%
6.6%
Trao đổi thư điện tử
64,3%
80.3%
16.0%
Truyền nhận dữ liệu
62.8%
68.3%
5.5%
Mua bán hàng hóa dịch vụ
40.9%
46.7%
5.8%
Duy trì và cập nhật website
31.3%
38.1%
6.8%
Liên lạc với cơ quan nhà nước
22.1%
30.6%
8.5%
Nguồn: Trung Tâm Internet Việt Nam
Từ bảng , có thế thấy thứ tự về tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng Internet cho các mục đích khác nhau không thay đổi trong hai năm 2006-2007.
Nhưng xét theo mức độ thay đổi, thì thay đổi lớn nhất thuộc về tỷ lệ sử dụng thư điện tử- ứng dụng Internet đơn giản nhưng mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho doanh nghiệp.
Thay đổi lớn thứ hai - việc tăng cường sử dụng Internet để tiếp xúc với các cơ quan nhà nước, cho thấy những bước tiến trong quá trình xây dựng chính phủ điện tử tại Việt Nam. Các cơ quan nhà nước bắt đầu cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến (G2B) và việc tiếp cận nhanh chóng, chính xác những dịch vụ này là nhu cầu lớn của doanh nghiệp. Ngoài ra, duy trì cập nhật website và tìm kiếm thông tin, cơ hội kinh doanh cũng là mục đích quan trọng khi các doanh nghiệp kết nối Internet.
Xét về đặc điểm và tính năng, trong năm 2007 chất lượng của các website doanh nghiệp đã có nhiều tiến bộ so với năm 2006. Trước hết là tính năng giao dịch thương mại điện tử được cải thiện. Gần 36,7% website đã cho phép tương tác đặt hàng, so với con số 27,4% của năm 2006. Tỷ lệ website có tính năng thanh toán trực tuyến cũng tăng đáng kể, từ 3,2% lên 4,8%. Dịch vụ siêu thị điện tử vẫn được nhiều doanh nghiệp cung cấp, nhưng các mặt hàng kinh doanh chuyên biệt đã bắt đầu chiếm ưu thế, phổ biến nhất hiện nay là thiết bị điện tử viễn thông và hàng tiêu dùng. Bên cạnh đó, nhóm hàng nông lâm thủy sản và cơ khí máy móc cũng đang vươn lên vị trí hàng đầu với tần suất có mặt ngày càng tăng trên các kênh tiếp thị trực tuyến. Trong lĩnh vực dịch vụ, dẫn đầu về mức độ phổ biến trên website doanh nghiệp mấy năm gần đây đều là các sản phẩm du lịch; điều này phù hợp với mức độ hội nhập quốc tế cao và tốc độ tăng trưởng nhanh của ngành du lịch trong giai đoạn này.
Về phương thức giao dịch, mô hình giao dịch B2B tiếp tục là lựa chọn chiếm ưu thế khi doanh nghiệp tiến hành xây dựng website thương mại điện tử. Trong khi tỷ lệ website có đối tượng mục tiêu là người tiêu dùng không thay đổi qua hai năm, thì tỷ lệ website hướng tới khách hàng là tổ chức hoặc doanh nghiệp đã tăng từ 76,4% năm 2006 lên đến 84,8% năm 2007. Thống kê này cho thấy hướng đi của doanh nghiệp Việt Nam cũng phù hợp với xu thế chung của thế giới, lấy phương thức giao dịch B2B làm động lực phát triển cho thương mại điện tử và qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
So sánh tỷ lệ website doanh nghiệp ở các ngành nghề khác nhau, kết quả cho thấy lĩnh vực tài chính ngân hàng, du lịch, dịch vụ CNTT-TMĐT, tư vấn, bất động sản là những lĩnh vực ứng dụng website mạnh nhất. 89% số đơn vị tài chính – ngân hàng được khảo sát đã thiết lập website, 65% các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch cũng đã có website. Cùng với dịch vụ CNTT-TMĐT và tư vấn, bất động sản, những nhóm ngành có tỷ lệ cao doanh nghiệp thiết lập website này đều thuộc lĩnh vực dịch vụ.
Lĩnh vực kinh doanh
Tỷ lệ có website
Dệt may, da giày
40,0%
Nông lâm thủy sản, chế biến thực phẩm
40,6%
Thủ công mỹ nghệ
26,3%
Cơ khí máy móc, hóa chất, xây dựng
33,8%
Dịch vụ CNTT và TMĐT
54,3%
Du lịch
65,2%
Tư vấn, bất động sản
51,5%
Ngân hàng, tài chính
88,9%
TM-DV, dịch vụ tổng hợp
32,6%
Các lĩnh vực khác
44,8%
Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam
Tỷ lệ doanh nghiệp có website phân theo lĩnh vực kinh doanh năm 2007
Mức độ ứng dụng TMĐT có phần trội hơn đó đã phản ánh đúng đặc thù của ngành dịch vụ, là ngành có đòi hỏi cao về hàm lượng thông tin cũng như khả năng tương tác giữa khách hàng với nhà cung cấp. Theo kết quả khảo sát hàng năm của Bộ Công Thương từ năm 2004 đến nay, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ luôn tỏ ra năng động hơn doanh nghiệp sản xuất trong việc khai thác các ứng dụng về Internet, đặc biệt là những ứng dụng liên quan đến website
Theo báo cáo của các hãng hàng không nội địa Jetstar, Indochina, Vietnam airlines về số người truy cập trong ngày
Top of Form
<< February 04
February 05
ngày
|
tuần
|
tháng
05-02-2010
04-02-2010
Lượt xem
44 (-60)
399
Số người truy cập
16
135
Địa chỉ IP truy cập
26 (-21)
159
Phiên làm việc
19
168
Xem không có cookies
0
10
Số lần online trung bình
0
1
Số người online tích cực trung bình
0
1
Độ dài trung bình của phiên làm việc (phút)
1
2
Số lượt truy cập của một người xem
2
2
Bottom of Form
Báo cáo thống kê lưu lượng truy cập trong ngày
Tuy nhìn vào tình hình phát triển của thương mại điện tử khá khả quan nhưng
kết quả điều tra của Bộ Thương mại cũng cho thấy những gam màu sẫm của bức tranh, theo đánh giá phần lớn doanh nghiệp đều có nguồn nhân lực thương mại điện tử còn thiếu và yếu về kỹ năng. Hiện mới có 39% doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về thương mại điên tử , một tỉ lệ khá thấp so với các nước trong khu vực. Và thêm nữa là tỷ lệ doanh nghiệp có Website 38,1%, nhưng tính năng trong Website còn chưa hữu hiệu. Chức năng chủ yếu của Website là giới thiệu về doanh nghiệp (98,3%), giới thiệu sản phẩm dịch vụ(62,5%), trong khi chức năng cho phép đặt hàng qua mạng chỉ có 27,4% và đáng lo ngại hơn cả là thanh toán trực tuyến mới đạt 3,2%.
1.3. Hiệu quả ứng dụng TMĐT tại các doanh nghiệp đã rõ ràng và có xu hướng ngày càng tăng
Mảng sáng nhất của thương mại điện tử 2007 là hiệu quả đầu tư cho thương mại điện tử khá cao và có xu hướng tiếp tục tăng. Kết quả điều tra cho thấy trên một phần ba doanh nghiệp có doanh thu nhờ các đơn đặt hàng qua phương tiện điện tử ở mức 15% trở lên so với tổng doanh thu. Nếu so sánh tỷ lệ này với tỷ lệ tương ứng 8% của năm 2005 thì có thể thấy rõ các doanh nghiệp đã thực sự quan tâm tới thương mại điện tử và đã biết cách biến những lợi ích tiềm tàng của nó thành hiện thực. Tín hiệu lạc quan nhất là có tới 63% doanh nghiệp tin tưởng rằng doanh thu có được từ các đơn đặt hàng sử dụng phương tiện điện tử sẽ tiếp tục tăng.
Kết quả trên có mối tương quan mật thiết với tỷ trọng cũng như cơ cấu đầu tư cho thương mại điện tử. Một mặt, chi phí đầu tư cho thương mại điện tử tăng mạnh, năm 2007 có tới 50% số doanh nghiệp tham gia điều tra (cao gấp ba lần tỷ lệ 18% của năm 2005) cho biết đã dành trên 5% tổng chi phí hoạt động để đầu tư cho thương mại điện tử. Mặt khác, cơ cấu đầu tư trở nên hợp lý hơn với khoảng một nửa chi phí dành cho phần cứng và một phần năm dành cho đào tạo. Cơ cấu đầu tư này cho thấy đã có sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức tới triển khai thương mại thương điện tử nếu so sánh với các tỷ lệ tương ứng của năm 2005. Tuy nhiên, tỷ lệ đầu tư cho phần mềm và giải pháp hầu như không thay đổi trong ba năm qua và chỉ dừng ở mức 23%. Rõ ràng, cần phải có sự nỗ lực rất lớn từ nhiều phía để nâng cao tỷ lệ này.
2. Những giải pháp đã áp dụng cho thương mại điện tử
2.1 Phát triển đào tạo nguồn nhân lực cho thương mại điện tử
Theo số liệu điều tra, 39% doanh nghiệp cho biết có bố trí cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử, với mức trung bình là 2,7 người trong một doanh nghiệp, gần gấp đôi con số 1,5 người của năm 2006. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử không chuyển biến nhiều trong 3 năm gần đây (hình 4.12), cho thấy việc tăng số cán bộ trung bình trên một đơn vị là kết quả của sự tăng cường đầu tư trong những doanh nghiệp đã triển khai ứng dụng thương mại điện tử từ những năm trước. Việc gia tăng nguồn lực này là dấu hiệu cho thấy các doanh nghiệp đã bắt đầu đánh giá được hiệu quả mà thương mại điện tử đem lại.
Phân tích sâu hơn mối quan hệ giữa các chỉ tiêu khảo sát, có thể thấy việc bố trí nhân sự chuyên trách cho thương mại điện tử thường gắn liền với một số ứng dụng cụ thể và là hướng đi của những doanh nghiệp đã có chiến lược triển khai thương mại điện tử rõ ràng. Trong số doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về TMĐT, 58,9% đã xây dựng website, gấp hơn hai lần tỷ lệ website trong những doanh nghiệp chưa bố trí cán bộ chuyên trách (25,3%). Tương tự, 18,1% doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về TMĐT đã tham gia sàn giao dịch, so với 6,3% doanh nghiệp không có cán bộ chuyên trách triển khai được hoạt động này.
.
Theo khảo sát của bộ thương mại ta có biểu đổ Tỷ lệ doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin và thương mại điện tử qua các năm
Lượng nhân viên chuyên trách về thương mại điện tử và công nghệ thông tin qua các năm liên tục tăng chậm điều này chưng tỏ các doanh nghiệp đang phát triển nguồn nhân lực cho thương mại điện tử nhưng chưa khả quan vì tỷ lệ nhân viên phụ trách thương mại điện tử đang còn ít
So với năm 2003 và 2004, tình hình đào tạo CNTT và TMĐT trong doanh nghiệp đã có nhiều tiến bộ, xét cả về số lượng doanh nghiệp triển khai đào tạo cũng như tỷ trọng của đào tạo trong cơ cấu đầu tư. Nếu năm 2004 chi phí cho đào tạo chỉ chiếm bình quân 12,3% tổng chi phí công nghệ thông tin của doanh nghiệp (tính chung cho các hạng mục mua sắm phần cứng, cài đặt và duy trì phần mềm, vận hành hệ thống, đào tạo, dịch vụ TMĐT, v.v...), thì tỷ lệ này trong năm 2007 đã được nâng lên 20,5%. Năm 2004, có đến 28,6% số doanh nghiệp được khảo sát cho biết không tiến hành bất kỳ hình thức đào tạo công nghệ thông tin nào cho nhân viên, năm 2007 tỷ lệ này chỉ còn 17,1%. Có thể thấy doanh nghiệp đang ngày càng nhận thức rõ vai trò con người trong việc khai thác hiệu quả các ứng dụng công nghệ thông tin - thương mại điện tử và có sự đầu tư thích đáng cho nhân tố này.
Với ưu thế tiết kiệm chi phí và đem lại hiệu quả tức thời do gắn liền với yêu cầu công việc của mỗi nhân viên, hình thức đào tạo tại chỗ vẫn là một lựa chọn phổ biến (theo kết quả điều tra 3 năm liên tiếp từ 2005 đến 2007, tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng hình thức đào tạo này luôn ở mức trên dưới 60%). Tuy nhiên, số doanh nghiệp kết hợp được một cách bài bản mô hình “vừa học vừa làm” với các phương thức đào tạo khác đang ngày càng gia tăng. So với 9% doanh nghiệp mở lớp đào tạo và 31% doanh nghiệp gửi nhân viên đi tham gia các khóa học ngắn hạn về công nghệ thông tin năm 2004, con số 12% và 38% của năm 2007 cho thấy một dấu hiệu đáng khích lệ về xu hướng đào tạo chuyên sâu kỹ năng công nghệ thông tin - thương mại điện tử cho người lao động trong các doanh nghiệp
Nhưng có nhược điểm là vì chưa có chương trình khung, nên doanh nghiệp phải tự tìm hình thức đào tạo nguồn nhân lực cho mình. Đào tạo tại chỗ theo nhu cầu công việc phổ biến hơn cả, được 62% doanh nghiệp lựa chọn, tiếp theo là gửi nhân viên tập huấn lớp ngắn hạn, chiếm 30%, và tự mở lớp đào tạo, 8%. Đào tạo tại chỗ là cách rẻ nhất và nhanh nhất để phục vụ nhu cầu trước mắt của doanh nghiệp, nhưng về mặt chiến lược, hình thức này không trang bị được cho nhân viên những kiến thức bài bản, có hệ thống, do đó hiệu quả về lâu dài không cao. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp mới quan tâm đến đào tạo TMĐT bề nổi mà chưa có bề sâu. Do đó, khi xây dựng trang Website hoặc tham gia vào các sàn giao dịch điện tử, những doanh nghiệp này vẫn chưa khai thác và tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh mà Internet đem lại.
2.2 Phát triển thị trường thanh toán thẻ
Theo Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam năm 2005 và 2006, hệ thống thanh toán điện tử yếu kém luôn được doanh nghiệp đánh giá là trở ngại lớn thứ hai đối với phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam. Các doanh nghiệp tỏ ra khá lúng túng khi muốn triển khai một quy trình ứng dụng thương mại điện tử trọn vẹn trong bối cảnh hệ thống thanh toán điện tử còn yếu. Đồng thời, người tiêu dùng cũng chưa có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về các dịch vụ thanh toán điện tử. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của thương mại điện tử Việt Nam trong thời gian qua.
Thanh toán thẻ được coi là giải pháp bước đầu cho hệ thống thanh toán điện tử tại Việt Nam. Ứng dụng công nghệ và đầu tư trang thiết bị hạ tầng cở sở phục vụ cho thanh toán ngân hàng phát triển mạnh kể từ năm 2002. Trong đó, công nghệ cho thanh toán thẻ là hoạt động được ưu tiên triển khai. Sau 5 năm, các ngân hàng đã hình thành một mạng lưới máy giao dịch tự động ATM và đơn vị chấp nhận thẻ khá rộng. Số lượng thẻ phát hành năm 2006 chỉ đạt khoảng 4 triệu thẻ thì đến năm 2007 con số này đã tăng gấp đôi (hơn 8 triệu thẻ). Số lượng máy ATM cũng tăng mạnh từ 2.500 máy năm 2006 lên hơn 4.000 máy năm 2007
Các tổ chức tín dụng có thể phát hành một loại thẻ thanh toán mới, đó là thẻ trả trước vô danh với hạn mức 5 triệu đồng. Hình thức thẻ này ra đời với mục tiêu giảm lượng tiền mặt trong thanh toán. Hơn nữa, hai lợi ích cơ bản bao gồm tiết kiệm thời gian và chủ động trong chi tiêu cũng là ưu điểm của loại hình thẻ thanh toán nói trên. Thanh toán bằng thẻ trả trước vô danh đóng vai trò như một phương thức bổ sung cho hoạt động thanh toán điện tử mà hệ thống ngân hàng đang chú trọng đẩy mạnh.
Với internet và thanh toán trực tuyến, khách hàng có thể đặt hàng và thanh toán cho doanh nghiệp bất kỳ lúc nào, bất kỳ nơi nào trên thế giới. Doanh nghiệp có nhiều cơ hội mở rộng kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh nhưng lại phải đối mặt với rủi ro trong thanh toán trên Internet. Quy trình mua bán đơn giản và thuận tiện qua thẻ lại hàm chứa nhiều rủi ro vì:
Doanh nghiệp bị hạn chế trong công tác xác thực khách hàng: không kiểm tra được thẻ vật lý, hóa đơn không có chữ ký của người mua
Người mua bị hạn chế trong công tác xác thực hàng hóa hay dịch vụ: không được kiểm tra hàng hóa trước khi thanh toán.
Giao dịch thanh toán thành công trên cổng thanh toán trực tuyến chưa phải là một giao dịch mua bán hàng hóa thành công.
3. Hướng phát triển của thương mại điện tử và giải pháp
3.1 Xu hướng phát triển của thương mại điện tử
Sau quá trình thử nghiệm dịch vụ hoặc hoạt động cầm chừng chờ đón cơ hội, thì hầu hết doanh nghiệp kinh doanh nói riêng và các doanh nghiệp chuyên về thương mại điện tử nói chung đã đi vào hoạt động thực chất bắt đầu từ năm 2006, đầu năm 2007, ngay khi Luật công nghệ thông tin và Luật giao dịch thương mại điện tử được ban hành và có hiệu lực. Việt Nam đang gia nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, hầu hết các doanh nghiệp thuộc nhiều ngành khác nhau đều phải đối mặt với sự cạnh tranh bình đẳng từ các doanh nghiệp nước ngoài, mà thương mại điện tử là một công cụ ít tốn kém nhất giúp cho doanh nghiệp hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh. Khi áp dụng phương tiện này doanh nghiệp sẽ có cơ hội đưa sản phẩm ra thị trường rộng lớn toàn thế giới. Việc thành công của nhiều doanh nghiệp khi đưa sản phẩm của mình lên mạng và kiếm được nhiều hợp đồng xuất khẩu, những website chuyên về hoa, quà tặng được nhiều khách hàng quan tâm và đặt hàng, những sàn giao dịch chứng khoán cả niêm yết và OTC luôn đông khách, những website bán hàng trực tuyến đơn hàng tăng lên mỗi ngày, những website rao vặt trực tuyến luôn nhộn nhịp… trong những tháng gần đây đã cho thấy lợi ích mà thương mại điện tử đem lại thương mại điện tử đang dần trở thành công cụ hữu hiệu của các doanh nghiệp
Hiện nay Thương mại điện tử ở Việt Nam được tận dụng phục vụ việc marketing, bán hàng cho doanh nghiệp là chính. Ngoài ra, một số website sàn giao dịch B2B, siêu thị điện tử B2C, website C2C như rao vặt, đấu giá..., website thông tin (tin tức là chính)... đã được xây dựng và đưa vào hoạt động. Thanh toán qua mạng trong và ngoài nước vẫn còn rất ít ỏi và bất tiện. Doanh số từ mô hình B2B vẫn hầu như chưa có, trong khi doanh số B2B xấp xỉ 80 – 90% tổng giá trị giao dịch Thương mại điện tử trên toàn cầu. Trong giai đoạn 2006 – 2010, xu hướng phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam sẽ đi theo 03 nhóm:
- Các doanh nghiệp tận dụng Thương mại điện tử phục vụ marketing, bán hàng, hỗ trợ khách hàng, mở rộng thị trường, xuất khẩu...
- Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực Thương mại điện tử với những website Thương mại điện tử, kinh doanh trên mạng.
- Doanh nghiệp bắt đầu tận dụng Thương mại điện tử trong B2B để mua sắm nguyên vật liệu phục vụ việc kinh doanh sản xuất một cách tự động hoặc bán tự động.
3.2 Giải pháp cho thương mại điện tử Việt Nam
Để có sự phát triển thật nhanh và đồng bộ, tiến kịp với sự phát triển chung của thế giới, cùng với sự đổi mới tư duy của tất cả mọi người trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, chính sách, pháp luật góp phần động viên rất lớn đến quá trình phát triển của ngành thương mại điện tử, mỗi doanh nghiệp cũng phải đổi mới mình, cập nhật thông tin, trang bị phương tiện và con người hiện đại để tiếp thu và phát triển, mỗi người dân cũng cần tiếp cận những thông tin mới nhất trong thời đại mình đang sống và nhất là cần ý thức rõ ràng thương mại điện tử là phương tiện cực kỳ hiệu quả cho đời sống của mỗi con người.
Trong vấn đề nhân lực cho thương mại điện tử cần có chương trình khung và có hình thức đào tạo một cách bài bản, qui chuẩn có như vậy thương mại điện tử mới được phát triển lâu dài
Phần III. Lời Kết Luận
Là một công cụ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới có thể nói thương mại điện tử giúp cho doanh nghiệp được bình đẳng trong thời kì hội nhập vào nền kinh tế thế giới
Từ sự phát triển của các nhân tố như số người sử dụng internet tăng cao liên tục trong các năm từ 2003 đến 2008 và môi trường pháp lí ngay một hoàn chỉnh Hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử tại các doanh nghiệp đã rõ ràng và có xu hướng ngày càng tăng kết quả điều tra cho thấy trên một phần ba doanh nghiệp có doanh thu nhờ các đơn đặt hàng qua phương tiện điện tử ở mức 15% trở lên so với tổng doanh thu. Nếu so sánh tỷ lệ này với tỷ lệ tương ứng 8% của năm 2005 thì có thể thấy rõ các doanh nghiệp đã thực sự quan tâm tới thương mại điện tử và đã biết cách biến những lợi ích tiềm tàng của nó thành hiện thực. Tín hiệu lạc quan nhất là có tới 63% doanh nghiệp tin tưởng rằng doanh thu có được từ các đơn đặt hàng sử dụng phương tiện điện tử sẽ tiếp tục tăng
Tuy nhiên vẫn còn có những bất cập chưa được giai quyết như vấn đề dào tạo nguồn lao động cho thương mại điện tử hay khắc phục những rủi ro của thanh toán trực tuyến.
Những việc này cần được giải quyết nhanh chóng và hợp lí để tỉ lệ ứng dụng thương mại điện tử tại Việt Nam được phát triển cả về số lượng và chất lượng điều này cần sự cố gắng từ cả doanh ngiệp và nhà nước
Danh mục tài liệu tham khảo
KIẾN THỨC THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TS. Nguyễn Đăng Hậu
(nguồn internet)
BÁO CÁO THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VIỆT NAM 2003, 2004, 2005, 2006, 2007-Bộ Thương Mại
BÁO ĐIỆN TỬ VNEXPRESS.NET
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26403.doc