Một lần nữa chúng ta khẳng định vai trò to lớn của KCN, KCX trong nền kinh tế, và việc phát triển KCN, KCX trước mắt phải dựa vào việc thu hút và sử dụng các nguồn vốn FDI.
Hiện nay, ở nước ta đã hình thành mô hình KCN, KCX. Tính đến năm 2001 là 72 KCN, KCX, KCNC. Trong đó có 68 KCN đang hoạt động, còn 4 KCN khác đang cấp giấy phép. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có nhièu KCN chưa phát huy được tác dụng của mình. Chính vì vậy mà Nhà nước ta phải có các giải pháp, các chính sách ưu đãi để thu hút được nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để các KCN nhằm phát huy tác dụng của KCN từ đó rút ngắn khoảng cách để sớm hoàn thành sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
49 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1480 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phương hướng giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển KCN, KCX ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành từ đó cho đến nay có 40 khu công nghiệp hoạt động. Nhà nước Thái Lan qui hoạch phát triển KCN dựa trên quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Những KCN do Nhà nước bảo trợ tuy bị lỗ nhưng vẫn xây dựng để đảm bảo cho phát triển như khu công nghiệp Bắc Thái Lan. Có khoảng 11 KCN được xây dựng tại những vùng không nằm trong qui hoạch miễn là họ có thị trường.
Diện tích KCN, mặt bằng KCN có thể được mở rộng hơn so với diện tích được duyệt nếu được thoả thuận của người có đất mà mình được dùng. Về quản lý do cục quản lý KCN TháiLan và ngoài ra cục còn có chức năng kinh doanh.
Về chính sách đối với xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, Nhà nước không ưu đãi cho vốn vay, tuy nhiên Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các Công ty Nhà nước vay mà không phải thế chấp. Mọi ưu tiên đều dành hết cho các khu công nghiệp trong nước. Mọi khách hàng muốn đầu tư vào khu công nghiệp họ sẽ được tạo điều kiện cần thiết để biết về KCN, nạng lưới KCN.
4.2. Kinh nghiệm của Đài Loan.
Đài Loan là một trong những quốc gia thành công trong việc phát triển KCN, KCX. Từ cuối những thập kỷ 50, Đài Loan đã nhận định được vị thế kinh tế của mình là loại hình kinh tế hải đảo đất chật người đông, tài nguyên nghèo nàn kinh tế phụ thuộc rất lớn vào ngành ngoại thương. Vì vậy Đài Loan chỉ phát triển những ngành công nghệp nhỏ sử dụng nhiều lao động. Các xí nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện rất nhiều trong KCN, KCX và các doanh nghiệp này được hưởng cơ sở hạ tầng thuận lợi cùng một số ưu đãi khác.
Hiện nay Đài Loan có 3 KCX, 30 KCN, 2 KCNC. Trung ương quản lý 12 KCN có tầm quan trọng nhất nằm trong qui hoạch được chính quyền tự phê duyệt. Các khu công nghiệp còn lại do địa phương hoặc tư nhân quản lý.
Các KCN ở Đài Loan phân bố khắp nước hầu như huyện nào cũng có khu công nghiệp, mỗi khu công nghiệp là một hạt nhân để phát triển vùng.
Đây là những kinh nghiệm quí báu để cho Nhà nước Việt Nam đánh giá lại tiềm năng, năng lực, định vị lại vị thế của mình để phát triển khu công nghiệp một cách hợp lý.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI PHÁT TRIỂN KCN, KCX Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
1. Quá trình hình thành và phát triển của KCN, KCX ở Việt Nam hiện nay.
a. Chủ trương phát triển KCN, KCX của Đảng và Nhà nước.
KCN, KCX ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới mở cửa do Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khởi xướng. Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII năm 1994 đã nêu "quy hoạch các vùng, trước hết là các địa bàn trọng điểm, các khu chế xuất, khu kinh tế đặt biệt, khu công nghiệp tập trung". Tiếp theo, Nghị quyết Đại hộ lần thứ VIII năm 1996 cũng đã xác định rõ "Hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả KCN, KCNC), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị. ở các thành phố, thị xã, nâng cấp, cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư". Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trunt ương Đảng khoá VIII cũng xác định phương hướng phát triển KCN trong thời gian tới là "phát triển từng bước và nâng cao hiệu quả cá khu công nghiệp".
Để thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển và phân bố công nghiệp, Nhà nước Việt Nam quyết định chủ trương phát triển công nghiệp tập trung vào các KCN, KCX theo quy hoạch xác định. Phát triển KCN, KCX nhằm đáp ứng các mục tiêu tạo đà tăng trưởng công nghiệp, tăng nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và tăng bước phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tưe phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Đồng thời phát triển KCN, KCX cũng để thúc đẩy các cơ sở sản xuất, dịch vụ cùng phát triển, làm cơ sở cho việc phát triển các đô thị công nghiệp, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất.
Việc phân bố và hình thành các KCN, KCX phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở điều kiện tự nhiên, môi trường và xã hội, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đảm bảo hiệu quả cao, phát triển bền vững, cụ thể là:
- Có khả năng xây dựng cơ sở hạ tầng thuận lợi, có vị trí, quy mô diện tích phù hợp.
- Có khả năng cung cấp nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu, thuận lợi ch việc vận tải,.
- Thuận lợi trong việc tấp cận thị trường tiêu thụ sản phẩm.
- Có khả năng cung ứng lao động có chuyên môn.
- Có điều kiện đảm bảo cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội.
- Két hợp chặt chẽ phát triển KCN, KCX với quy hoạch đô thị và phân bố dân cư.
- Đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia.
b. Quy hoạch tổng thể phát triển KCN.
Ngày 6 tháng 8 năm 1996, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 519/TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng thời kỳ 1996 - 2010, trong đó công bố danh mục 33 KCN sẽ hình thành. Sau đó, trên cơ sở nhu cầu phát triển của từng địa phương, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục bổ sung quy hoạch và chấp thuận chủ trương, nâng tổng số KCN, KCX theo quy hoạch đến năm 2010 được chấp thuận cho đến nay là 125 Khu (trong đó có một số khu, quyết định thành lập KCN đồng thời bổ sung quy hoạch phê duyệt).
Bảng 1: Số các KCN theo quy hoạch đến 2010 tại các vùng
STT
Vùng
Số KCN
1
Vùng trung du miền núi phía Bắc
3
2
Vùng Tây Nguyên
5
3
Vùng Đồng Bằng sông Cửu Long
15
4
Đồng bằng sông Hồng
29
5
Vùng duyên hải miền trung
27
6
Vùng Đông Nam Bộ
46
Tổng cộng
125
(Nguồn: Vụ quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Số liệu trên bao gồm cả các KCN đã được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ (nguồn Vụ quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
c. Quá trình hình thành các KCN, KCX.
Nếu không tính các cụm công nghiệp hình thành từ những năm 60, 70 của thế kỷ XX ở Miền Bắc hay ở Miền Nam trước giải phóng Miền Nam năm 1975, Khu chế xuấ Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh được thành lập vào tháng 9 năm 1991 với diện tích 300 ha là KCX đầu tiên ở Việt Nam. Trong 12 năm qua đã có 76 KCN, KCX được thành lập, trong đó 73 KCN, 3 KCX với tổng diện tích tự nhiên trên 15.200 ha (không kể Khu Dung Quất 14.000 ha và khu kinh tế Chu Lai) trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê gần 10.600 ha.
Bảng 2: KCN thành lập theo năm
Năm
Số KCN được thành lập
Diện tích (ha)
1991
1
300
1992
1
62
1994
5
714
1995
5
1201
1996
12
1937
1997
22
3107
1998
15
2805
1999
2
152
2000
1
698
2001
1
918
2002
9
3210
2003
1
112
Tổng cộng
76
15216
(Nguồn: Vụ quản lý KCN, KCX - Bộ kế hoạch và đầu tư)
Diện tích KCN được thành lập trong các năm bao gồm cả diện tích mở rộng của các KCN đã được thành lập trước đó.
Bảng 3: Số các KCN được thành lập tại các vùng
(đến hết tháng 2.2003)
STT
Vùng
Số KCN
Diện tích (Ha)
1
Vùng trung du miền núi phía Bắc
2
139
2
Vùng Tây Nguyên
1
181
3
Vùng Đồng Bằng sông Cửu Long
5
824
4
Đồng bằng sông Hồng
14
2121
5
Vùng duyên hải miền Trung
14
1972
6
Vùng Đông Nam Bộ
40
9977
Tổng cộng
76
15214
(Nguồn: Vụ quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
- Trong tổng diện tích không tính KCN Dung Quất (rộng 14.000 ha) nằm trong Vùng kinh tế Trọng điểm miền Trung.
Như vậy, từ việc xác định quy hoạch tổng thể, đến việc thành lập KCN tại các vùng cũng phần nào phản ánh được tiềm năng phát triển sản xuất công nghiệp của các vùng: Các KCN, KCX phân bố không đều theo lãnh thổ, tập trung chủ yếu tại 2 vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng Sông trong khi đó, vùng Tây Nguyên mới có một KCN (diện tích 181 ha) vùng Trung du miền núi Bắc Bộ có 2 khu (139 ha).
Về quy mô, bình quân diện tích là 198 ha/ khu. KCN lớn nhất (không kể Khu Dung Quất 14.000ha) là KCN Phú Mỹ I tại Bà Rịa - Vũng Tàu với diện tích 954,4 ha, KCN nhỏ nhất là KCN Bình Chiểu tại thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 28ha.
2. Tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài phát triển KCN, KCX ở Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, thì việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được coi là công cụ…đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Thực tế cho thấy, qua gần 17 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài ở nước ta, các khu vực có vốn FDI đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng và phát triển ổn định nền kinh tế đất nước.
Qua tổng kết đến cuối năm 2004 trên phạm vi cả nước đã có 5,873 dự án đầu tư nước ngoài được cả giấy phép đầu tư; trong đó có 4,796 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư là 43,97 tỷ USD, vốn pháp định là 19,5 tỷ USD, và 1,038 dự án giải thể trước thời hạn với tổng vốn đầu tư là 14,46 tỷ USD. Trong số các dự án còn hiệu lực, có 2,304 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh với tổng đầu tư là 27,71 tỷ USD, có 869 dự án đang xây dựng cơ bản với tổng vốn đầu tư là 9,95 tỷ USD. Trong tổng số vốn đầu tư, có 45,5% số vốn đầu tư cấp mới theo hình thức 100% vốn nước ngoài và 42,5% theo hình thức liên doanh, số còn lại theo hình thức BCC và BOT. Đặc biệt trong những năm gần đây, do thực hiện đồng bộ nhiều chính sách ưu đãi, cơ sở hạ tầng được chuẩn bị sẵn…cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nên việc thu hút vốn đầu tư vào các KCN và KCX đã có bước chuyển biến mạnh mẽ. Năm 2003 tổng vốn đầu tư mới và đầu tư tăng thêm vào các KCN và KCX là 1,5 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2002, vốn đầu tư nước ngoài thực hiện ở các KCN, KCX cũng tăng cao đạt 856 triệu USD tăng 71% so với năm 2002. Trong khi số dự án nước ngoài vào nước ta năm 2003 giảm 18%, thì số vốn xin tăng thêm của các dự án đầu tư nước ngoài vào các KCN và KCX vẫn tăng thêm 34%. Đến cuối năm 2004 các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào các KCN và KCX với 1,442 dự án (không kể 19 dự án xây dựng cơ sở hạ tầng), có tổng vốn đầu tư là 11,390 triệu USD, chiếm 36,20% số dự án và chiếm tỷ trọng 29% vốn đăng ký của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp phép trong cả nước. Trong đó có 10 nước và vùng lãnh thổ có số dự án, số vốn đầu tư lớn: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singgapo, Hồng Kông, Thái Lan, Hoa Kỳ, Malaisia…Nếu chỉ tính riêng cho các ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ sản xuất công nghiệp (trừ dầu khí, du lịch, khách sạn, khu đô thị, khu vui chơi giải trí, bệnh viện, trường học, tài chính, ngân hàng, trồng rừng…) thì tỷ trọng này chiếm trên 40%. Các dứan có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ công nghiệp đầu tư vào KCN, KCX chủ yếu là các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài với hơn 1000 dự án chiếm trên 80% số dự án. Các dự án đầu tư vào các KCN và KCX triển khai nhanh và thuận lợi hơn so với các dự án ngoài KCN và KCX. Có thời gian xây dựng tương đối ngắn từ 1- 2 năm, cá biệt có những dự án chỉ thực hiện trong vòng 6 tháng sau khi cấp giấy phép đầu tư đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư của các dự án đầu tư vào các KCN và KCX còn chưa đa dạng ngành nghề, mà chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp nhẹ như: dệt, sợi, may mặc…và công nghiệp chế biến thực phẩm là các dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ trọng xuất khẩu cao. Còn các dự án công nghiệp tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực lắp ráp các sản phẩm điện tử và sản xuất hàng tiêu dùng, còn các ngành công nghiệp nặng như vật liệu xây dựng, hoá chất, cơ điện, cơ khí…còn rất ít so với tiềm năng vốn có.
Việc phát triển các KCN và KCX trong thời gian qua đã thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư cần thiết từ các nhà đầu tư để phát triển sản xuất, tăng gía trị hàng công nghiệp, tăng trưởng nền kinh tế đất nước. Đồng thời tạo động lực lớn cho quá trình tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu tiên tiến của khoa học - công nghệ vào quá trình sản xuất, giải quyết việc làm cho nhiều lao động và có điều kiện phân công lại lực lượng lao động phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên theo ý kiến của các chuyên gia quản lý trong lĩnh vực này, để tạo điều kiện hơn nữa cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài trong các KCN, KCX nhằm tăng cường thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn FDI vào nước ta, cũng như phát triển có chất lượng các KCN, KCX hoàn thành mục tiêu quy hoạch đến năm 2010 có 125 KCN và KCX trên phạm vi cả nước, cần tập trung giải quyết các nội cung cơ bản. Đó là các cấp, bộ, ngành cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm để hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với KCN, KCX co thích hợp với tình hình thực hiện mới đặt ra, nhằm tháo gỡ những vấn đề còn vướng mắc và những vấn đề phát sinh như: vấn đề quy hoạch phát triển, điều tiết cơ cấu đầu tư, vấn đề về quản lý Nhà nước đối với các KCN và KCX, chính sách thuế đối với các doanh nghiệp đầu tư vào KCN và KCX, vấn đề đời sống công nhân trong các KCN và KCX, vấn đề tranh chấp lao động trong các KCN và KCX…Bởi đây là những vấn đề tạo lực cản lớn trong việc thu hút nguồn vốn FDI đầu tư vào các KCN và KCX ở nước ta.
Trong thời gian qua, các khu công nghiệp trên địa bàn cả nước đã thu hút được nhiều dự án đầu tư trong nước và đặc biệt là nước ngoài: Thu hút trên 2,431 dự án đầu tư, tổng vốn đầu tư gần 10,4 tỷ USD và 57,382 nghìn tỷ đồng. Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Việc các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế (doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh) tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, ngoài việc tạo nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đã đa dạng hoá thành phần các doanh nghiệp tham gia xúc tiến đầu tư, góp phần hấp dẫn trong việc thu hút các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.
Số doanh nghiệp
Vốn đăng ký
Doanh nghiệp trong nước
307
1,38 tỷ USD
Doanh nghiệp ngoài nước
543
6,1 tỷ USD
Tổng
850
7,48 tỷ USD
Nguồn: Ban quản lý KCN Việt Nam tính đến năm 2004.
Tính đến năm 2004 đã có 850 doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động trong các khu công nghiệp với tổng số vốn đăng ký 7,48 tỷ USD trong đó có 543 doanh nghiệp nước ngoài đăng kí 6,7 tỷ USD và 307 doanh nghiệp trong nước vốn đăng ký 16,998 tỷ đồng. Vốn đã thực hiện khoảng 40% tổng vốn đăng kí.
Đã có 24 nước, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào khu công nghiệp. Phần lớn các đối tác nước ngoài đầu tư vào khu công nghiệp thuộc các nước đông á và đông nam Châu Á. Các Công ty của Nhật Bản đã thực hiện các dự án đầu tư có công nghệ tiên tiến và giá trị xuất khẩu lớn như dự án sản xuất các thiết bị vi điện tử như Công ty FUJILSU, động cơ nhỏ MABUCHI, người máy rorze robotech…Các Công ty của Đài Loan, Hàn Quốc quan tâm đến công nghiệp điện tử, giầy da dệt, chế biến nông sản phục vụ sản xuất công nghiệp. Các đối tác châu Âu và Mỹ có các dự án đầu tư gắn liền với công nghiệp chế biến khí và công nghiệp hoá chất. Các KCN phía nam thực hiện đa dạng hoá các dự án đầu tư trong khi các khu công nghiệp ở Hà Nội và Hải Phòng tập trung vào hai đối tá là Nhật Bản và Hàn Quốc.
Nếu như những năm trước đây, đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ cao trong khu công nghiệp (chiếm khoảng 50% vốn đầu tư phát triển hạ tầng, gần 90% số dự án đầu tư và 93% vốn đầu tư của doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp) thì từ năm 1998 đến nay hình thức đầu tư trong nước nhích dần. Đây là một hiểu hiện tốt. Riêng 9 tháng đầu năm 1999 các KCN đã thu hút được 183 dự án, tăng 55% so với năm 1998. Với tổng vốn đăng kí là 632 triệu USD, tăng 54% so với năm 1998, trong đó có 75 dự án đầu tư nước ngoài vốn đăng kí là 425 triệu USD. Đầu tư trong nước có 108 dự án, vốn đăng kí 2.887 tỷ đồng Việt Nam, tăng 4 lần so với năm 1998. Như vậy tình hình thu hút vốn đầu tư FDI vào các KCN, KCX của Việt Nam mặc dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á nhưng vẫn có các dấu hiệu khả quan.
3. Những thành quả và tồn tại trong KCN, KCX ở Việt Nam.
3.1. Những thành quả.
a. Về góp phần tăng trưởng kinh tế.
Các khu công nghiệp đã tạo thêm năng lực sản xuất mới, tạo nguồn hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo điều kiện phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất đai, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, tiết kiệm chi phí sản xuất.
b. Vấn đề tạo việc làm
Các khu công nghiệp đã tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động, và góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động. Ngoài số lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp khu công nghiệp, các khu công nghiệp cũng tạo thêm việc làm gián tiếp, đặc biệt trong các lĩnh vực xây dựng, cung ứng vật liệu và dịch vụ.
c. Là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá.
Các khu công nghiệp đóng vai trò quan trọng, là hạt nhân đẩy phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy ở những vùng có khu công nghiệp phát triển mạnh như Biên Hoà, Nhơn Trạch (Đồng Nai), Thuận An (Bình Dương)…Cùng với quá trình phát triển khu công nghiệp, các điều kiện và kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong khu vực đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu về dịch vụ gia tăng nên các khu công nghiệp đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh dịch vụ và tạo doanh thu cho các cơ sở dịch vụ trong vùng. Các khu công nghiệp được thành lập trong thời gian qua, ngoài việc đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá tại các trung tâm công nghiệp lớn, đã bắt đầu có tác động lan toả tích cực trong việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của các vùng phụ cận.
d. Tập trung xử lý chất thải bảo vệ môi trường.
Do tập trung các cơ sở sản xuất nên các khu công nghiệp có điều kiện thuận lợi trong việc kiểm soát, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường. Các khu công nghiệp còn là địa chỉ tốt để đi đôi các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Đây là một trong số các mục tiêu quan trọng hàng đầu đặt ra đối với việc thành lập khu công nghiệp.
e. Về cơ chế quản lý.
Cơ chế quản lý mở cửa, tại chỗ đã được các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh thực hiện một cách có hiệu quả và được đánh giá cao. Bằng cơ chế uỷ quyền, các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh có thể giải quyết các vướng mắc của doanh nghiệp trong thời gian ngắn nhất, tiết kiệm chi phí cho đầu tư.
3.2. Những tồn tại
KCN là đầu mối quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong nước và FDI, nếu như vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh trong giai đoạn 1994 - 1997 thì vài năm gần đây việc thu hút đầu tư vào các KCN có chiều hướng giảm dần.
Tình hình thu hút đầu tư, đặc biệt đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX năm 2003 giảm hơn cùng kỳ năm trước xuất phát từ các nguyên nhân.
- Việc đầu tư phát triển các KCN không theo một quy hoạch thống nhất, hầu như địa phương nào cũng có KCN với chức năng tương tự nhau nên không tận dụng được những lợi thế so sánh, dẫn tới tình trạng cạnh tranh nhau gay gắt, thậm chí có tình trạng chen lấn để thu hút vốn đầu tư.
- Thiếu sự phối hợp giữa các KCN, giữa các địa phương trong các vùng, các KCN thường phát triển riêng rẽ, đầu tư tất cả các hạng mục công trình, kể cả xây dựng các cụm dân cư, đầu tư tốn kém, giảm hiệu quả hoạt động của các KCN.
- Việc chọn địa điểm xây dựng các KCN là việc làm nghiêm túc song chưa tuân theo các nguyên tắc. ở nhiều nơi có quá nhiều khu CN dẫn tới sự cạnh tranh khốc liệt của những nhà đầu tư về lựa chọn địa điểm, dẫn tới tốn kém xây dựng kết cấu hạ tầng và chọn vốn vào kết cấu hạ tầng lâu và lớn, hiệu quả KCN bị giảm sút.
- Các KCN còn bất cập về cơ cấu ngành nghề, về đầu tư chiều sâu, chất lượng các dứan đầu tư thu hút chưa cao, chất lượng KCN không ngang tầm khu vực.
Sự phát triển KCN, KCX đang là cấp thiết bức xúc, song sự phát triển đang là gặp nhiều khó khăn trở ngại, khó khăn chủ yếu vẫn nằm trong khâu đất đai, đền bù. Theo ban quản lý các KCN, KCX đầu tư vào các KCN giảm nguyên nhân chính là do các KCN không có sân đất để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư do thiếu quỹ đất, mặc dù khách hàng không nhiều, trong khu quỹ đất còn nhiều nhưng lại không khai thác được do giá đền bù giải toả tăng mạnh, giá san lấp mặt bằng lớn. Mặt khác giá thuê đất trong KCN, KCX khá cao, giá cả đất đai của các thành phố Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, giá thuê đất ở TPHCM cao hơn gấp 4 - 6 lần ở Trung Quốc và gấp 6 lần ở Thái Lan.
- Ở Việt Nam nguyên nhân chính sút giảm nguồn vốn đầu tư, kể cả FDI và các KCN còn là do chưa đáp ứng tốt các nhu cầu về dịch vụ cơ sở hạ tầng. Tiến độ thi công cơ sở hạ tầng chưa đảm bảo, dịch vụ cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được, điện, nước, điện thoại không ổn định ảnh hưởng đến môi trường đầu tư trong các KCN.
- Các KCN được lập quá nhiều, chiếm diện tích đất khá lớn trong quỹ đất hạn hẹp của nước ta, tổng một số đất cho thuê chỉ bằng 45% diện tích có thể sử dụng, nhiều KCN thành lập cách đây 2 - 3 năm, thậm chí 4 - 5 năm mà chưa có khách đến thuê. KCN Hải Phòng, Kim Hoa Vĩnh Phúc là những thí dụ.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển các KCN, KCX. Các dứan đầu tư thu hút vào các khu CN ở các địa phương có nhu cầu lớn về cán bộ quản lý, mối quan hệ của các cơ quan liên quan vẫn chưa có sự phối hợp đồng bộ, chậm ban hành sửa đổi bổ sung quy chế KCN, KCX.
- Chính sách thuế còn nhiều tồn tại, chẳng hạn chính sách KCX của Việt Nam ra đời cách đây 10 năm ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư. Ở các nước doanh nghiệp đầu tư vào KCN được ban hành sản xuất vào nội địa thì Việt Nam lại buộc doanh nghiệp trong KCX phải xuất khẩu 100%. Doanh nghiệp nội địa đưa hàng vào KCX gia công khi nhận hàng ra phải đóng thuế như hàng xuất khẩu, kết quả là doanh nghiệp trong KCX ít nhận được hàng gia công từ nội địa, còn doanh nghiệp nội địa thích nhập khẩu.
- Không thống nhất trong nhận thức và vận dụng phát triển KCN.
Sau hơn 10 năm hoạt động, vai trò của KCN, KCX đối với sự phát triển của nền kinh tế là không thể phủ nhận. Nhưng trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn tồn tại nhận thức cho rằng KCN chỉ là "một túi đựng các doanh nghiệp công nghiệp" nên vẫn còn trường hợp thực thi chính sách, tổ chức quản lý KCN như các doanh nghiệp riêng rẽ. Nói cách khác trong tư duy vẫn chưa coi KCN là thực thể kinh tế - xã hội, từ đó xuất hiện những biểu hiện bàng quang đứng ngoài, thậm chí có tư tưởng phủ định vai trò của KCN cho rằng phát triển KCN trong thời gian qua là theo phong trào, thay vì phải cùng hợp lực để phát huy vai trò, hiệu quả của nó vì lợi ích của ngành, của địa phương và của nền kinh tế. Có địa phương cho rằng: KCN là của trung ương và khoán trắng cho ban quản lý KCN và Công ty phát triển hạ tầng.
- Luật pháp không đồng bộ, không đáp ứng nhu cầu phát triển.
Vẫn còn sự khác biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nớc ngoài trong hoạt động KCN. Do vẫn còn duy trì chính sách bảo hộ doanh nghiệp trong nước nên đến nay vẫn chưa tạo được một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp, tạo sự cạnh tranh trong một môi trường pháp lý công bằng và minh bạch.
Công tác quy hoạch và phát triển KCN dựa trên cơ sở các đề nghị của UBND tỉnh, không thực sự gắn quy hoạch ngành nghề kết hợp với lãnh thổ trên cơ sở quy hoạch tổng thể. Danh mục các KCN mới nêu tên, địa điểm và diện tích đất, không có nội dung kinh tế- kỹ thuật, nên khi xem xét không đủ thông tin, căn cứ để ra quyết định chính xác KCN nào làm trước, KCN nào cho phép triển khai sau.
Đối với các doanh nghiệp trong nước không có quy định khuyến khích nhiều cho các doanh nghiệp trong KCN nên các doanh nghiệp trong nước vẫn còn thực hiện đầu tư ngoài KCN, chưa mặn mà đầu tư vào KCN dẫn đến khó khăn khi thực hiện quy hoạch phát triển.
- Phát sinh các vấn đề xã hội: Bên cạnh những thành tựu về đóng góp phát triển kinh tế xã hội việc phát triển khu công nghiệp khu chế xuất trong thời gian qua cũng nảy sinh một số bất cập mang tính xã hội như việc tập trung lao động quá cao ở một số khu vực trong khi các điều kiện hạ tầng xã hội (đường giao thông, nhà ở, bệnh viện, trường học, trung tâm thương mại…) chưa phát triển đồng bộ để đáp ứng các nhu cầu đó, tạo ra tình trạng quá tải cho khu vực. Điều đó có thể nhận thấy ở các dấu hiệu như ách tắc giao thông vào các giờ cao điểm, giá cả sinh hoạt tăng cao, điều kiện ăn ở của người lao động khó khăn, nguy cơ nảy sinh các hiện tượng xã hội khác như mất trật tự.
- Vấn đề môi trường chúng ta không có một chiến lược chung về bảo vệ môi trường phù hợp với đối tượng là các KCN. Sự phối hợp giữa Bộ, Ngành, Trung ương các Sở và Ban quản lý KCN chưa chặt chẽ. Tình trạng những dòng kênh vẫn tiếp tục hứng chịu các loại chất thải không được xử lý, cũng như nhiều cư dân đô thị vẫn tiếp tục hứng chịu khói, bụi, tiếng ồn từ các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm. Kế hoạch di dời các cơ sở gây ô nhiễm chưa cụ thể. Trên chỉ đạo xuống dưới, dưới không có đủ cơ sở kỹ thuật để lập "bản đồ hiện trạng". Sống chung với ô nhiễm là sự trả giá cho sự phát triển không đồng bộ.
- Vấn đề tổ chức còn nhiều vướng mắc: ở trung ương vẫn không thực hiện cơ chế một đầu mối giải quyết vấn đề liên quan đến KCN, nên tình trạng đùn đẩy, sợ trách nhiệm kéo dài thời gian xử lý hoặc rơi vào im lặng. Nhiều khi cần ý kiến của cơ quan chủ quản thì không biết ai là cơ quan chủ quản. Các ban quản lý cấp tỉnh hoạt động còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm, quan hệ giữa một số ban quản lý KCN cấp tỉnh với một số ban ngành còn vướng mắc.
- Vấn đề giá các dịch vụ ở nước ta hiện nay tuy đã có chủ trương nhưng việc thực hiện cơ chế một giá đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn còn tình trạng thu ép giá đối với người nước ngoài. Giá thuê dất ở nước ta còn cao hơn các nước trong khu vực, điều đó làm giảm mức thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Chính sách thuế ở nước ta không đồng bộ, vẫn còn tình trạng chồng chéo và gian lận thương mại như: trốn thuế, hàng giả, hàng lậu…
- Công tác vận động xúc tiến đầu tư trong bối cảnh hội nhập và gia tăng cạnh tranh từ các nước trong khu vực gặp nhiều khó khăn. Trong những năm đầu, các khu công nghiệp, khu chế xuất chủ yếu tập trung vào việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng thực tế thu hút đầu tư tại một số địa phương đã cho thấy đầu tư trong nước ngày càng đóng vai trò quan trọng, nhất là trong bối cảnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài gặp một số khó khăn do khủng hoảng kinh tế thế giới vừa qua.
- Về cơ chế chính sách: nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước đầu tư các ngành sản xuất. Nhà nước không ngừng nghiên cứu hoàn thiện các chính sách ưu đãi. Hiện nay, trong các khu vực công nghiệp vẫn áp dụng đồng thời 2 hệ thống pháp luật. Pháp luật về đầu tư trong nước và pháp luật về đầu tư nước ngoài, trong khi các doanh nghiệp có cùng điều kiện kinh doanh như nhau (giá thuê đất, giá thuê cơ sở hạ tầng, chi phí nhân công…) Điều đó tạo nên sự phân biệt tương đối rõ rệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, gây thắc mắc cho các nhà đầu tư, đồng thời cũng là trở ngại khi nước ta tham gia vào quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực.
Trong mấy năm gần đây ở Việt Nam xuất hiện tình trạng chuyển giá. Đây là hình thức các tập đoàn lớn lợi dụng các liên doanh ở các nước sở tại trong đó có Việt Nam để chuyển giá, lợi nhuận và các khoản tài chính khác nhừam mục đích trốn thuế. Vì thế các liên doanh trở thành con bài giao dịch của các tập đoàn kinh tế lớn. Các liên doanh chỉ việc làm theo kế hoạch của các tập đoàn chứ không quan tâm đến việc làm ăn lỗ lại tại nước sở tại. Điều này rất tai hại cho chiến lược phát triển của các nước sở tại trong đó có Việt Nam.
Vấn đề "Mở cửa tại chỗ" tuy đã có nêu ra nhưng việc thực hiện chưa có hiệu quả, vẫn còn tình trạng thủ tục hành chính rườm rà, quá nhiều cửa nhiều cấp rất phức tạp gây nhiều khó khăn phiền hà cho các nhà đầu tư.
Như vậy sau hơn 10 năm đi vào hoạt động, KCN Việt Nam đã trở thành một động lực kinh tế không thể thiếu được ở nước ta. Nhìn lại ta thấy được nhiều thành quả, bên cạnh đó vẫn tồn tại những vướng mắc. Điều đó buộc Nhà nước Việt Nam phải nhanh chóng phát huy những kết quả đạt được và khắc phục tồn tại để phát triển hơn nữa các KCN, KCX ở Việt Nam.
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI PHÁT TRIỂN KCN, KCX Ở VIỆT NAM.
Phương hướng phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam
Để đưa đất nước tă tiến tới CNH-HĐH, Đảng và nhà nước ta cần có những chính sách và những kế hoạch cụ thể từng để từng bước khẳng định chủ trương phát triển KCN,KCX một cách đúng. Phát triển các KCN,KCX không còn là việc riêng của từng ngành mà là sự nghiệp của toàn Đảng, dân tộc. Trong nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra phương hướng cho phát triển các KCN và KCX là: Cải tạo các KCN,KCX hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất. Xây dựng mới một số KCN và KCX phân bố trên các vùng.
Từ sự chỉ đạo của văn kiện đại hội Đảng VIII chúng ta xác định phát triển các KCN,KCX theo các hướng sau:
Vấn đề phát triển các KCN,KCX theo quy hoạch.
Có hai quan điểm trong phát triển các KCN: Quan điểm thứ nhất cho rằng tăng thu hút đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI về mặt số lượng, bất kể vào lĩnh vực nào quy mô bao nhiêu, miễn là đầu tư vào KCN, quan điểm thứ hai cho rằng đã đến lúc tăng thu hút đầu tư trong nước và FDI về chất lượng theo một quy hoạch, các KCN phải có tính chuyên và cơ cấu hợp lý với khả năng và lợi thế của mình.
Quan điểm thứ nhất hiện nay là phổ biến, hầu như các KCN đều tập trung mọi cố gắng thu hút đầu tư, FDI vào địa bàn của mình bất kể ngành nào, sản phẩm. Phát triển các KCN, KCX cần phải theo một quy hoạch thống nhất, cần có chính sách ưu tiên phát triển ngành trong từng khu công nghiệp dựa trên lợi thế của từng vùng công nghiệp dựa trên lợi thế của từng khu công nghiệp, thực hiện một sự phân công hợp tác giữa các KCN các tỉnh, các địa phương gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước.
b. Xây dựng chuẩn mực và cơ cấu lại các khu công nghiệp.
Xây dựng chất lượng KCN, KCX ngang tầm với khu vực quốc tế, xác định tiêu chuẩn các xí nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp về quy mô, ngành nghề và công nghệ. Cơ cấu ngành nghề trong các KCN còn bất cập. Xác định tiêu chuẩn các xí nghiệp đầu tư vào KCN về quy mô, ngành nghề, công nghệ để tạo được hiệu quả đầu tư cao. Đối với một số KCN cần định hướng phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành công nghiệp nặng, các ngành có hàm lượng khoa học và vốn cao.
c. Phát triển đồng bộ các loại tập trung công nghiệp:
Xây dựng cả 3 thể loại: KCN tập trung, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề công nghiệp. Không nên xây dựng quá nhiều KCN trong một thời gian, cần chú trọng phát triển các làng nghề và các cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Cụm công nghiệp vừa và nhỏ là một mô hình tập trung công nghiệp thường hình thành ở các huyện thị vùng nông thôn tập hợp lại theo từng ngành nghề, mô hình thích hợp thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển công nghiệp nông thôn. Các cụm công nghiệp vừa và nhỏ ngoài việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho thuê đất, hỗ trợ hoàn toàn chi phí giải phóng mặt bằng và các công trình ngoài hàng rào và các công trình công cộng trong cụm, cần thực hiện chương trình xây dựng nhà xưởng tiêu chuẩn bán trả chậm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn ít, doanh nghiệp được trả chậm tới 10 năm.
d. Cải thiện cơ sở hạ tầng tại các KCN:
Đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật dịch vụ và xã hội trong KCN, bảo đảm tính đồng bộ, thuận tiện thoả mãn khách hàng. Kết quả hoạt động và phát triển KCN không được gây hệ quả tiêu cực cho khu vực về giao thông, môi trường, tệ nạn xã hội.
e. Phát triển các cụm dân cư.
Phát triển các KCN, KCX phải kết hợp chặt chẽ với quy hoạch và quá trình đô thị hóa, phân bố dân cư, theo hướng hình thành mạng lưới đô thị hài hoà, rộng thoáng, kiên quyết tránh tập trung xây dựng các đô thị hóa lớn tạo ra sự quá tải về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở đô thị. Không thể mọi KCN, KCX đều xây dựng các cụm dân cư riêng rẽ, điều đó đưa đến sự phá vỡ quy hoạch đô thị hóa, cũng như làm tăng chi phí xây dựng KCN, KCX giảm hiệu quả các KCN, KCX.
f. Sử dụng đất và tình trạng ô nhiễm môi trường ở các KCN, KCX.
Cần tập trung lắp đầy và phát triển hiệu quả các KCN đã có, khi nào các khu công nghiệp lấp đầy 60 - 70% diện tích thì mới cho phép triển khai các khu công nghiệp tiếp theo. Số lượng các KCN của Việt Nam cũng đã khá nhiều, chiếm diện tích đất khá lớn làm giảm diện tích đất nông nghiệp, trong khi diện tích cho thuê của các KCN, chiếm chưa đến 45%.
Trung quốc cắt giảm 500 KCN nhằm hạn chế việc sử dụng quá mức và phi phạm quỹ đất canh tác, các hồ sơ xin duyệt và mở rộng các KCN bị ngừng và và nhiều nơi rút hồ sơ lập KCN mới khỏi danh sách được phê duyệt. Những dự án đầu tư vào KCN, KCX phải hoàn tất các hạng mục công trình xử lý chất thải mới được phép hoạt động. Khi cho thuê được 50% diện tích thì phải tiến hành xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung. Cần có biện pháp phối hợp giữa các KCN và các địa phương trong bảo vệ môi trường, tránh ô nhiễm cho nhau.
g. Tiếp thị các khu công nghiệp.
Cần tiến hành tiếp thị ràm rộ ở những nơi là xuất phát điểm chính của đầu tư trong nước và ngoài nước (FDI) như các tỉnh thành phố lớn trong nước và ngoài nước như: Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Singgabo… Cần quảng bá điểm khác biệt của KCN mình, phát huy "giá trị cộng thêm" của mình để thu hút đầu tư. Giá cho thuế đất rẻ ở các tỉnh ĐBSCL không phải là yếu tố quyết định trong việc thu hút đầu tư (giá cho thuế đất thấp hơn giá thành đầu tư xây dựng hạ tầng của giá đất công nghiệp). Theo các chuyên gia Nhật, chìa khoá cho sự thành công của các KCN là vị trí, dịch vụ hạ tầng và năng lực quản lý. Xây dựng khu công nghiệp trong khu cực nghèo (vùng nông nghiệp DBSCL) rẻ hơn trong khu vực phát triển (TPHCM, thành phố Hà Nội), có chi phí lao động, đất đai, vật liệu thấp hơn, ngược lại có chi phí hạ tầng cơ sở và vận chuyển cao hơn, do đó các nhà đầu tư thường hướng để khu vực phát triển hơn. Không phải ngẫu nhiên 70-75% đồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có 25-30% di chuyển đến các nước đang phát triển và kém phát triển.
h. Tạo môi trường đầu tư thuận lợi:
Cải thiện các KCN chỉ là điều kiện cần, nhưng chưa đủ. Điều kiện nên tăng nhất là chính sách thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút FDI; giảm giá đầu vào nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu, cước viễn thông quốc tế, giá thuê đất chi phí lưu thông hàng hoá, mà hiện nay Việt Nam cao hơn hẳn các nước trong khu vực, chính sách thuế thu nhập của người nước ngoài (Việt Nam cao nhất tại khu vực KCN, KCX).
k. Quản lý và chính sách phát triển KCN,KCX:
Chính sách nhà nước tác động quan trọng để phát triển các KCN, KCX cần không ngừng hoàn thiện các chính sách. Đẩy mạnh chuyển từ công tác quản lý hành chính sang công tác dịch vụ theo cơ chế một của trong quản lý phát triển các KCN. Cải cách hành chính và công nghệ thông tin trong quản lý. Đảm bảo quản lý thống nhất các KCN.
Ngoài ra cần từ bỏ quan điểm nới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu kiểm thay thế tiền kiểm như các nhà đầu tư nước ngoài từng nói Việt Nam chỉ khuyến khích đầu tư không khuyến khích sản xuất, tiền hậu bất nhất không nhất quán, khong minh bạch. Bài học Trung Quốc là trước cho, sau lấy cố tình ăn lầu dài là những kinh nghiệm trong thu hút đầu tư FDI vào các KCN. Chính sách ưu đãi các nhà đầu tư trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN, KCX: giá thuế đất, thuê (thuế lợi nhuận đối với nhà đầu tư cơ sở hạ tầng trong nwocs là 15%, trong khi nhà đầu tư nước ngoài chi 10%), hỗ trợ vốn, lãi suất ưu đãi. Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào đối với KCN, phát triển các công trình xã hội phục vụ phát triển KCN. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt hỗ trợ tài chính để thu hút các doanh nghiệp vào KCN. Áp dụng cho các doanh nghiệp trong KCN xuất khẩu vào thị trường trong nước được hưởng thuế suất CEPT để có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước ASEAN xuất vào Việt Nam.
- Xây dựng KCN trở thành lực lượng công nghiệp mạnh, có hiệu quả và sức cạnh tranh, phát triển theo hướng ngoại, nâng cao tuy nghề công nhân, nắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, thực hiện bảo vệ môi trường, phát huy hơn nữa vai trò lan tảo, dẫn dắt của KCN đối với sản xuất, kinh doanh thị trường ngoài KCN.
- Từ nay đến năm 2020, phấn đấu khu công nghiệp khoảng một nửa tổng giá trị sản lượng công nghiệp cả nước đảm bảo tốc độ bình quân hàng năm từ 15% đến 18%.
Chuyển dần từ công nghiệp gia công sang công nghiệp chế biến các nguyên liệu trong nước có sẵn và công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị hàm lượng quốc gia của sản phẩm, hạn chế thua thiệt như hội nhập thị trường quốc tế và thị trường khu vực.
Đến năm 2010, tạo điều kiện cho các địa phương có kế hoạch từng bước phát triển KCN, có tính đến khả năng của nền kinh tế theo kịp được tiến trình CNH, HĐH đất nước. Theo đó có thể tất cả 63 tỉnh thành trong các nước sẽ có KCN, phát triển KCN theo chiều sâu và nâng cao chất lượng hiệu quả của nó theo hướng: Lấp đầy diện tích đất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu bên trong thông qua chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và cuối cùng là phát triển công nghệ cao thuộc các lĩnh vực thông tin, cơ điện, điện tử, vật liệu mới và công nghệ sinh học.
Các doanh nghiệp công nghiệp thành lập hay di dời theo hướng: Từ những dự án đòi hỏi gần nguồn nguyên liệu, cần diện tích đất lớn vài trăm hecta, các dự án đầu tư theo chiều sâu không thuộc diện di dời và phù hợp với quy hoạch. Các dự án còn lại kiên quyết hướng các nhà đầu tư vào KCN.
Cải tạo làng nghề truyền thống và cơ sở sản xuất tiểu thu công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất. Hình thành và phát triển KCN nhỏ tại các vùng nông thôn.
Các KCN đã thành lập phải cố gắng tiếp tục đầu tư để lấp đầy các khoảng trống trong KCN.
Theo các hướng như vậy Nhà nước ta đã dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển KCN, KCX ở Việt Nam trong những năm tới là:
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị
1998
2000
2010
2000/1998
2010/1998
1
Số KCN,KCX
Khu
62
70-80
100
2
Tổng diện tích
Hecta
24.109
26.000
31.000
3
Vốn phát triển hạ tầng. Trong đó:+FDI:+vốn trong nước:
Triệu USD
1.583
707,7
875,6
3.600
1.6201.
986
5.1000
25.000
2.600
2,272,
302,26
3,223,
503,00
4
Tỷ trọng FDI trong tổng vốn
%
44,6
45
49
5
Vốn đầu tư cho hạ tầng bình quân mỗi khu
Triệu USD
25,5
48
51
Biểu nhu cầu vốn đầu tư phát triển KCN, KCX Việt Nam năm 2000-2010.
Dự báo đến năm 2010 cả nước định hình khoảng trên dưới 100KCN, KCX. Thu hút một lực lượng vốn đầu tư rất lớn khoảng 5.100 triệu USD trong đó FDI là 2.500 triệu USD chiếm khoảng 48%. Các khu công nghiệp sẽ có một đạo luật riêng điều chỉnh.
2. Các giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển KCN, KCX ở Việt Nam trong thời gian tới.
2.1. Đồng bộ hoá hệ thống pháp luật, tạo môi trường thông thoáng để thu hút vốn đầu tư.
Hệ thống pháp luật là một trong những điều kiện ràng buộc liên quan đến công việc làm ăn của các nhà đầu tư. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển KCN, KCX thì Nhà nước Việt Nam phải ban hành những cơ chế chính sách không phù hợp để tạo ra môi trường pháp lý đồng bộ, "Luật chơi hoàn chỉnh" cho hoạt động của KCN, KCX.
Luật pháp được xây dựng và sửa đổi phải dựa vào địa bàn, phong tục, tập quán của đất nước và thông lệ Quốc tế. Tạo ra môi trường ổn định, thông thoáng, công bằng cho các nhà đầu tư.
Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước đồng thời sáng tạo, đã ra các sáng kiến mới để cụ thể hoá luật pháp. Các chính sách về luật trước lúc ban hành phải làm thí điểm ở vài KCN,KCX để đáh giá được các tác động của nó.
Sửa đổi trong ổn định các chính sách lớn có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của nhà đầu tư. Đồng thời phải linh hoạt, uyển chuyển trong các trường hợp cụ thể (Tức giao nhiều quyền tự quyết, tự quản cho KCN, KCX).
Các vấn đề địa điểm KCN,KCX cần được luật hoá. Vấn đề giải phóng mặt bằng KCN, KCX và phát triển mở rộng KCN,KCX nên giao cho các chủ đầu tư hay giao cho chính quyền địa phương cần quy định rõ.
Ngoài ra, Nhà nước cần phải hoàn thiện các chính sách liên quan đến người nước ngoài, XNK, quy chế đấu thầu, Luật thương mại. Tài chính… để đảm bảo cho người nước ngoài yên tâm đầu tư.
2.2. Tạo ra quy hoạch KCN,KCX hợp lý.
Vấn đề thu hút vốn đã khó khăn nhưng vấn đề sử dụng vốn lại càng khó khăn hơn. Với số vốn có thể có làm sao để sử dụng vốn đó có hiệu quả tạo lòng tin cho các nhà đầu tư mới là quan trọng. Chính vì vậy mà việc phát triển KCN, KCX cần được quy hoạch một cách hợp lý.
Trước hết công tác quy hoạch cần phải căn cứ vào điều kiện, tiềm năng đặc điểm tự nhiên khí hậu, phong tục tập quán… của từng vùng, địa phương. Các KCN trước đây quy hoạch chưa hợp lý, hoạt động không hiệu quả, không khai thác được tiềm năng của vùng, địa phương cần xử lý một cách dứt điểm. Mỗi tỉnh, thành phố nên nghiên cứu thế mạnh lớn nhất của mình để thành lập KCN, KCX. xem đây là trung tâm để phát triển vùng và địa phương đó.
Do điều kiện, đặc điểm của đất nước cần phát triển các KCN vừa và nhỏ. Đồng thời cần thành lập các KCN, KCX lớn có tầm cỡ Quốc tế đẻ tham gia tốt tiến trình hội nhập. Tất nhiên việc thành lập KCN ở các tỉnh, thành phố cũng phải tính toán hợp lý tránh tình trạng đua nhau thành lập, các KCN, KCX mọc lên tràn lan mà không chú ý tới chất lượng. Tính đến tháng 9 năm 1999 ở Việt Nam có 66 KCN phân bố ở hầu hết các tỉnh, thành phố. Với số lượng như vậy chúng ta cần đầu tư vào việc lấp đầy các khoảng trống trong KCN tạo cho các KCN này hoạt động có hiệu quả.
Hiện nay ở Việt Nam, nông nghiệp vẫn được chú trọng phát triển vì vậy các KCN thành lập cần có các đề án để sử dụng hợp lý các sản phẩm nông nghiệp (kể cả thành phẩm, cả phế phẩm) tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ.
2.3. Phát huy dân chủ trong hoạt động kinh tế. Tạo mối quan hệ hợp lý giữa Nhà nước và KCN, KCX.
Vấn đề tạo ra mối quan hệ hợp lý giữa Nhà nước và KCN, KCX là vấn đề phức tạp. Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô của mình nên quản lý và kiển soát các KCN ở tầm vĩ mô, định hướng phát triển cho KCN, KCX. Còn các chính sách cụ thể nên để cho các KCN, KCX tự linh hoạt tự xử lý. Hay nói cách khác là Nhà nước nên giao quyền tự quyết, tự quản cho các KCN, KCX miễn là kết quả không trái với định hướng, với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước nên tạo điều kiện cho doanh nghiệp, các nhà đầu tư được giao dịch một cách trực tiếp với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước để được tháo dỡ những vướng mắc khó khăn.
Cần phát huy dân chủ trong hoạt động kinh tế. Khi xây dựng các thể chế kinh tế Nhà nước cần lấy ý kiến của các đối tượng thi hành, đặc biệt là các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Bảo đảm cho mọi quy định được phù hợp với thực tế, kết hợp hài hoà lợi ích doanh nghiệp với lợi ích Nhà nước.
Trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, Nhà nước cần phải tạo ra sự công bằng, vô tư cho các doanh nghiệp. Nhà nước cần phải có một cơ chế thành lập ban chủ quản để giải quyết các vấn đề liên quan đến KCN, KCX.
Đồng thời chính phủ cần có biện pháp yêu cầu các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, hợp lực với Nhà nước xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, đấu tranh chống các hành vi gian lận thương mại, vi phạm pháp luật. Điều đó đáp ứng yêu cầu và lợi ích của các doanh nghiệp muốn làm ăn chính đáng và cạnh tranh lành mạnh.
2.4. Cải thiện chính sách thuế, giảm thuế cho thuê đất.
Mức thuế suất hợp lý cũng sẽ là một lợi thế để thu hút các nhà đầu tư. Mặc dù KCN, KCX. ở Việt Nam đã có một số ưu đãi về thuế nhưng so với các nước trong khu vực thì vẫn chưa có ưu thế, cụ thể như thuế XNK, thuế VAT… chính sách thuế nhiều khi còn chồng chéo lên nhau. Chính vì vậy nhà nước cần đưa ra các chính sách hợp lý để quản lý thuế, cần phải cụ thể chặt chẽ tránh tình trạng gian lận, trốn thuế làm lũng đoạn thị trường.
Hoạch định chính sách thuế phải phù hợp với xu thế hội nhập của thế giới, với định hướng tham gia vào các tổ thức thương mại khu vực và Quốc tế. Cần thí điểm cho một vài KCN, KCX để thực hiện chính sách giảm thuế nhằm thấy được các tác động cụ thể của nó để khắc phục.
Trong vấn đề thuế, một điểm còn nổi bật lên là vấn đề thuế cho thuê đất. Hiện nay, mức thuế cho thuê đất ở nước ta vẫn còn cao, việc này ảnh hưởng đến việc phát triển cơ sở hạ tầng trong KCN, KCX. Vì vậy, Nhà nước cần cho thuê đất với giá ưu đai nhất, thậm chí thu tượng trưng để phát triển hạ tàng KCN và nên coi đất phát triển KCN khác hẳn với đất dành cho phát triển đô thị và kinh doanh các bất động sản khác thì mới đẩy mạnh tiến trình thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút FDI vào KCN, KCX. Nhà nước cũng cần điều chỉnh giá thuê đất ở miền Bắc miền Trung và miền Nam cho hợp lý tránh tình trạng trênh lệch nhau khá lớn.
2.5. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong KCN, KCX.
Đây là công việc tạo được sự thuận lợi, một tâm lý hài lòng của chủ đầu tư khi đầu tư vào KCN. Điều này là cách để giữ được chân các nhà đầu tư loại tiếp tục đầu tư vào KCN.
Chính vì vậy mà Nhà nước ngoài nguồn vốn ngân sách cần huy động tối đa tất cả các nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác để phát triển cơ sở hạ tầng. Cho phép xây dựng các ngân hàng hay mở các chi nhánh ngân hàng, bưu điện, sân bay, hải cảng… trong KCN, KCX.
Nhà nước có thể ban hành nhiều chính sách: Cho vay ưu đãi (có thể không có lãi suất để xây dựng cơ sở hạ tầng trong KCN). Không thu thuế đất của các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và nhiều chính sách giảm thuế, ưu đãi khác đối với các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN.
2.6. Xây dựng, hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý, thực hiện nguyên tắc một cửa, tại chỗ.
Hiện nay, tuy đã có sửa đổi những vấn đề tổ chức quản lý các doanh nghiệp trong KCN vẫn chưa đồng bộ.
Nhiều thủ tục còn rờm rà gây nhiều khó khăn, phiền hà cho chủ đầu tư. Vì vậy các cơ quản Nhà nước phải gấp rút nghiên cứu để xây dựng một mô hình tổ chức quản lý phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của KCN, KCX.
Phải xây dựng một cơ chế quản lý "Một cửa tại chỗ" từ trung ương đến địa phương phải làm cho cho cơ chế này thực sự có hiệu quả. Cần có một đầu mối tại trung ương lo cho các KCN.
Tuy nhiên thực tế cho thấy vấn đề "Một cửa tại chỗ" chưa áp dụng được thành công là do vấn đề bổng lộc, quyền lợi, chung nhiều của cán bộ trong đó có cả trả lương không đúng vì thế Nhà nước phải đưa ra chính sách chế độ tiền lương hợp lý đồng bộ giáo dục đối với đội ngũ cán bộ.
Tăng cường hiệu lực cho ban quản lý KCN của trung ương, ban này cần phải trở thành ban chủ quản cấp trên. Đồng thời các tỉnh uỷ quyền thêm số ban quản lý KCN để các ban quản lý KCN có nhiều quyền tự quyết, chủ động hơn trong công việc làm ăn. Tất nhiên cũng xác định rõ ban quản lý KCN cấp tỉnh là của địa phương. Còn ban quản lý cấp trung ương chỉ là đầu mối thực hiện, giúp mội việc cho địa phương. Cấp trung ương nên tập trung vào việc tháo gỡ về cơ chế, chính sách.
Việc nữa là các KCN cần bỏ dần cơ chế xin cho để chủ động huy động vốn và làm ăn có trách nhiệm hơn. Có cơ chế tài chính phù hợp cho hoạt động của ban quản lý như mạnh dạn cho phép ban quản lý để lại một tỷ lệ thoả đáng các nguồn thu để ban tự trải cho mọi hoạt động của mình.
2.7. Chủ động vận động đầu tư và tiếp thị vào KCN, KCX.
Với chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá chính sách đối ngoại là một điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư. Vấn đề ở đây là ở các doanh nghiệp KCN. Các doanh nghiệp phải biết tự vận động, phải chủ động hoà nhập mình vào các hoạt động kinh tế Quốc tế, phải xây dựng hệ thống thông tin tiếp thị vừa thiếp thị trực tiếp tiếp thị từ xa. Phải cử người ra ngoài để thương thuyết, vận động nhiều tập đoàn, nhiều doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam. Phải giới thiệu để họ biết về doanh nghiệp, về tiềm năng của doanh nghiệp, tiền năng của KCN và từ đó họ thấy lợi ích mà họ sẽ thu được khi đầu tư vào Việt Nam.
Chúng ta cần mở rộng hơn nữa các diện đối tác ở các nước tiềm năng. Trong đó cần chú trọng cả nội dung lẫn hình thức tiếp thị với nhiều hình thức giới thiệu các KCN, KCX Việt Nam ra thị trường thế giới. Trong phạm vi thẩm quyền cho phép, Ban quản lý hoặc công ty phát triển hạ tầng về việc giao dịch với các tổ chức và cá nhân nước ngoài tham quan, khảo sát thị trường các nước tổ chức hội thảm, tìm hiểu và học hỏi những kinh nghiệm hoạt động KCN ở các tỉnh bạn hoặc liên kết với các tỉnh bạn trong quan hệ mở rộng thị trường đầu tư thế giới.
Trong công tác tiếp thị nên cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho các đối tác như khả năng cung cầu của sản phẩm sẽ được sản xuất, tiến độ thực hiện các công trình kết cấu hạ tầng trong KCN, các chính sách ưu đai, khuyến khích đầu tư được áp dụng với từng KCN, KCX cũng như kết quả thực hiện những cải cách thủ tục hành chính tại địa bàn tỉnh.
Tính hấp dẫn của môi trường đầu tư phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó vị trí địalý KCN cùng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội thuận lợi có ý nghĩa hàng đầu đối với các nhà đầu tư và chính đây là cơ sở thiết thực để làm tốt công tác tiếp thị đầu tư vào các KCN, KCX ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Một lần nữa chúng ta khẳng định vai trò to lớn của KCN, KCX trong nền kinh tế, và việc phát triển KCN, KCX trước mắt phải dựa vào việc thu hút và sử dụng các nguồn vốn FDI.
Hiện nay, ở nước ta đã hình thành mô hình KCN, KCX. Tính đến năm 2001 là 72 KCN, KCX, KCNC. Trong đó có 68 KCN đang hoạt động, còn 4 KCN khác đang cấp giấy phép. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có nhièu KCN chưa phát huy được tác dụng của mình. Chính vì vậy mà Nhà nước ta phải có các giải pháp, các chính sách ưu đãi để thu hút được nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để các KCN nhằm phát huy tác dụng của KCN từ đó rút ngắn khoảng cách để sớm hoàn thành sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình kinh tế học quốc tế - ĐHKTQD
- Giáo trình kinh doanh quốc tế - ĐHKTQD
- Giáo trình lập dự án - ĐHKTQD
- Các bản tổng kết của Ban quản lý KCN, KCX.
- Tạp chí Cộng sản, số 12,14,17 năm 2000.
- Một số báo "Thông tin KCN - Việt Nam"
Những vấn đề về phát triển có vốn đầu từ ngoài (Hoàng Hải)- 2004
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - thực trạng, những vấn đề đặt ra và triển vọng (Đoàn Ngọc Phúc ) -2004
- Tình hình huy động vốn nước ngoài năm 2002 và những giải pháp chính cho năm 2003 (Bộ kế hoạch và đầu tư 200)
- FDI và tăng trưởng kinh tế Việt Nam (Nguyễn Mai).2003
- Các thông tin truy cập trên internet
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLKT151.doc