XK dệt may sang EU của VN trong những năm gần đây đã tăng nhanh, mang về cho thu nhập quốc dân một lượng kim ngạch XK lớn, tạo cho người lao động nhiều công ăn việc làm. Tuy nhiên trong thời gian qua ngành cũng đã gặp không ít khó khăn trở ngại của bản thân ngành và của thị trường EU. Vậy nên trong thế kỷ mới cơ hội và thách thức nhiều cho các nhà XK. Muốn tham gia vào thị trường EU, doanh nghiệp Vn phải biết đối thủ cạnh tranh của họ là ai ? Không cứ phải là doanh nghiệp lớn là thành công trên thương trường EU. cơ hội còn dành cho các công ty nhỏ kác và cả các cá nhân, nếu họ thực hiện tốt các điều kiện cơ bản của hoạt động kinh doanh. EU là một thị trường truyền thống, rộng lớn, đa dạng và đầy tiềm năng, điều này tạo rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp VN. Để hội nhập vào thị trường EU, ngành dệt may Vn phải tăng tốc trên nhiều lĩnh vực, xây dựng cho được hình ảnh công ty với chất lượng sản phẩm thiết kế mẫu mốt, dịc vụ, môi trường và quan hệ lao động tốt, liên kết với nhà sản xuất có nhãn hiệu của EU, tạo thương hiệu riêng chỏan phẩm Vn dựa trên đó. Bên cạnh rất nhiều cơ hội khi tham gia vào thị trường Eu. Các doanh nghiệp Vn sẽ gặp phải không ít khó khăn, thách thức. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải nô lực rất nhiều trong việc tìm kiếm thị trường, nghiên cứu kỹ thị trường EU, đầu tư sản xuất, đào tạo đội ngũ cán bộ có khả năng quản lý sản xuất, kinh doanh công nhân có kỹ thuật cao, lành nghề, nang cao chất lượng sản phẩm phù hợp yêu cầu của thị trường EU. ngoài ra, sự quan tâm, đường lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước là hết sức cần thiết , có tính chất quyết định đến sự thành bại của các doanh nghiệp VN khi tham gia vào thị trường phức tạp và cạnh tranh ác liệt như EU. Ngoài việc tạo môi trường pháp lý như triển khai ký kết, điều chỉnh bổ sung các hiệp định tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cần tháo gỡ những ách tắc còn tồn tại, đơn giản các thủ tục liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Có như thế ngành dệt may nước ta mới có thể phát huy được một cách bền vững, nhanh chóng đạt được mục tiêu đề ra , đưa ngành dệt may nước ta sớm có chỗ đứng trên thị trường EU nói riêng và thị trường thế giới nói chung.
67 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1673 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phương hướng và các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Viẹt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệc XK các sản phẩm truyền thống sang thị trường EU, làm ngạch thu được khá cao nhưng chưa tương xứng với tiềm năng của ngành như hiện nay của chúng ta.
Khai thác và huy động mọi nguồn vốn để tập trung đầu tư và nâng cao năng lực hiện đại hóa trình độ công nghệ, thiết bị cho các doanh nghiệp dệt may, tạo sự cân đối cho toàn ngành đặc biệt là giữa khâu kéo sợi với dệt . Để tăng kim ngạch của ngành ở thị trường EU thì chúng ta còn mở rộng cho hàng EU nhập khẩu vào đặc biệt là máy móc thiết bị . Các doanh nghiệp dệt, may và may XK cần có sự liên kết chặt chẽ nhau để tăng văng suất lao động từ đó mới tăng sản lượng đầu ra cho sản phẩm. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, thiết kế mẫu mã sản phẩm dệt-may, nghiên cứu thời trang quản bá các sản phẩm mới, để hàng dệt-may VN nhanh chóng đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng trong nước và XK. Với EU, khách hàng tiêu dùng rất cao cấp lại là nơi tụ hội những kinh đô thời trang quốc tế, người ta rất quan tâm đến các yếu tố trên, uy tín và thương hiệu snar phẩm là điều mà các doanh nghiệp VN phải tạo cho sản phẩm của mình trên thị trường EU.
Hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư, giảm thuế để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư nhiều hơn vào ngành sản xuất nguyên liệu, phụ liệu cho ngành dệt-may trong giai đoạn 2001-2010. Đặc biệt là nghiên cứu giống bông và sơ chế bông hạt, các nhà máy nhuộm, tơ, sợi sản xuất các loại sởi tổng hợp, tạo lập cơ sở ổn định, bền vững về nguyên liệu cho ngành dệt may phát triển. Để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao mức cạnh tranh của nhành trên thị trường EU, và chủ động trong phát triển (không phụ thuộc vào giá cả nguyên vật liệu trên thị trường thế giới như bây giờ-70% nguyên liệu ngoại nhập) thu được lợi nhuận cao. Ưu tiên cho ngành dệt-may vay vốn đầu tư ưu đãi của ngân sách với lãi suất 5% /năm với thời hạn vay từ 10-12 năm để tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị cho ngành dệt, -may. Đặc biệt là đổi mới thiết bị ở các nhà dệt nhuộm lớn có thiết bị dệt, nhuộm đã quá lạc hậu; thực tế là thiết bị máy móc của ngành dệt may hiện nay quá lạc hậu, cũ kỹ.
Nhà nước cần giảm thuế nhập khẩu các loại nguyên liệu, phụ liệu cho ngành dệt-may mà trong nước chưa sản xuất được để giảm chi phí về nguyên , phụ liệu, đây là một định hướng quan trọng góp phần hoàn thành mục tiêu đề ra của ngành, Ngành dệt-may là ngành kinh tế xã hội phát triển để giải quyết việc làm chủ yếu, hiện tại nó là ngành thu hút nhiều sao động công nghiệp vào loại bậc nhất. Vì vậy cần giảm thuế hoặc miễn hẳn thuế, giảm VAT từ 10% cho ngành sợi dệt xuống mức 4-5% để tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cho các sản phẩm dệt-may. Hiện nay trên thị trường EU, hàng dệt may của Vn không chỉ thua kém về chất lượng mà cả giá cả với các nước ASEAN , và đối thủ số một nữa là Trung quốc . Vậy nên kim ngạch Xk của ngành trong thời gian qua sang thị trường EU tuy tăng nhưng còn nhỏ bé và khiêm tốn.
Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật cho ngành dệt-may để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lao động kỹ thuật và quản lý đội ngũ lao động, Để nâng cao năng suất lao động, tích giảm bộ máy quản lý , quản lý có hiệu quả và giảm chi phí đầu tư cho việc này. Trong quá trình đổi mới thì chính phủ cần có định hướng quy hoạch và hỗ trợ, như đầu tư cho hệ thống các viện nghiên cứu và trường đào tạo chuyên ngành dệt-may. Xây dựng chiến lược chuyển giao hiện đại hóa công nghệ và cung cấp đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh và quản lý có năng lực ngang khu vực. Cơ chế quản lý doanh nghiệp dệt-may nhà nước cần được đổi mới theo mô hình quản lý tiên tiến hiện đại, nâng cao hiệu quả điều hành. Mặt khác, trong quá trình cải cách chế độ tiền lương vào những năm tới, nhà nước cần sửa dổi mức lượng và hệ số độc hại cho ngành dệt may. Không như hiện nay mức lương của người lao động trong ngành rất thấp, thấp xa so với các nước khu vực. (0,18 USD/giờ). Không những thế người lao động còn làm việc trong điều kiện không tốt. Do ngành dệt may là ngành công nghiệp có nhiều độc hại mà bệnh nghề nghiệp đối với người lao động đặc biệt là lao động nữ đang còn cao, Bởi vậy để khuyến khích người lao động yên tâm làm việc và nâng cao chất lượng, thì các doanh nghiệp đồng thời cả nhà nước phải lưu tâm đến vấn đề này.
Củng cố và phát huy vai trò của tổng công ty dệt-may VN nhằm tổ chức mối quan hệ liên kết kinh tế và phân công chuyên môn hóa trong sản xuất va tiêu thụ của các doanh nghiệp dệt-may. Nâng cao sức cạnh tranh tổng thẻ các doanh nghiệp dệt-may VN trên thị trường quốc tế và trong nước. Nâng cao khả năng cạnh tranh là vấn đề sống còn trong tiến trình hội nhập. Nhà nước cần tạo môi trường để thúc đẩy các doanh nghiệp dệt may cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích đổi mới công nghệ hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, giảm chi phí sản xuất cá biệt. Các tổ chức phi chính phủ cũng rất quan trọng, do đó cần một văn phòng quốc gia về phát triển ngành dệt may. Tham gia diễn dàn dệt may khu vực và quốc tế đấu tranh đảm bảo bình đẳng và có lợi cho dệt may VN . Khuyến khích các doanh gnheepj dệt-may mở văn phong đại diện, đại lý ở nước ngoài để đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường Xk dệt ay và xúc tiến XK dệt may nước ta trong thời gian tới. Khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 nhằm nhanh chóng nâng cao chất lượng của ngành dệt- may VN đặc biệt khi chúng ta muốn đẩy mạnh kim ngạch XK của ngành sang thị trường EU. Nơi mà rào cản kỹ thuật rất khắt khe, nơi mà chất lượng sản phẩm, đọ an toàn cho người sử dụng và mẫu mã được đưa lên hàng đầu . Muốn vào được thị trường này thì dệt may VN phải qua được sự kiểm tra gay gắt của EU. Đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 cho ngành dệt-may là chúng ta đã đặt được một chân lên thị trường này rồi, và khả năng phát triển nhanh kim ngạch XK cho ngành trên thị trường đã nằm trong tầm tay của các doanh nghiệp. Tận dụng cơ hội, hạn chế rủi ro là việc tất yếu ma các doanh nghiệp dệt-may VN cũng như nhà nước VN nên và phải làm khi muốn đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.
Từng phương thức XK trực tiếp và XK thành phẩm, những sản phẩm cao cấp và có độ kỹ thuật cao. Hiện tại số lượng hàng dệt-may XK cảu VN đi các thị trường nói chung và EU nói riêng chủ yếu là XK theo phương thức gián tiếp va Xk sản phẩm thô. Nên số lượng XK đi thì nhiều mà lợi nhuận thu về trên mộn đơn vị sản phẩm thì ít, thực ra chúng ta chỉ thu được khoảng 15-20% lợi nhuận từ phương thức này so với XK trực tiếp phương thức XK này vừa không hiệu quả vừa không ổn định, vì cung- cầu không ổn định, giá cả thấp. Vậ nên giá trị kim ngạch thời gian qua cảu ngành còn thấp, chưa hoàn thành mục tiêu đề ra. Đẩy mạnh XK trực tiếp và XK thành phẩm góp phần tăng giá trị kim ngạch XK dệt may.
2. Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy XK dệt-may sang thị trường EU.
2.1. Những căn cứ để xây dựng các biện pháp.
Cục diện thế giới đang thay đổi nhanh chóng và sâu sắc trên nhiều mặt, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Toàn cầu hóa, khu vực hóa, mở rộng thị trường giảm bớt và xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, đặt ra nhiều vấn đề mới mà mối quốc gia đều quan tâm, cuộc chạy đua về khoa học kỹ thuật diễn ra ngày càng quyết liệt lôi cuốn hầu hết các quốc gia dân tộc.
Về phía EU, thì nền kt của EU còn gặp nhiều khó khăn nội bộ không ít bất đồng nen vai trò của Eu bị hạn chế nhất định . Tuy nhiên đây là thị trường rộng lớn, có tiềm lực trình độ phát triển khoa học-kỹ thuật cao và là khối liên kết kinh tế khá chặt chẽ. Là thị trường có đòi hởi cao cho hàng may mặc, hàng rào kỹ thuật rất chặt chẽ và còn là thị trường cạnh tranh gay gắt cho ngành này.
Trong khi đó, VN vẫn là một nước nghèo, lạc hậu, đang phát triển, không được EU xem là nước có nền kinh tế thị trường. Tiềm lực kinh tế của VN còn thấp kém so với khu vực và thế giới. Bởi vậy mà hàng dệt may của VN XK sang các thị trường cũng như sang EU còn nhỏ bé và gặp không ít khó khăn, cản trở.Do vậy dệt may Xk của VN sang thị trường EU đang còn nhiều việc phải làm thì mới tăng kim ngạch XK của ngành và chiếm lĩnh thị trường EU được.
Để thực hiện thúc đẩy XK, cần áp dụng các biện pháp tổng hợp. Vấn đề hàng đầu hiện nay là thực hiện ngay các chủ trương đã có. Bên cạnh các biện pháp trước mắt, vừa ráo riết thực hiện các biện pháp vừa cấp bách , vừa lâu dài để XK phát triển bền vững hơn. Nhiệm vụ bao trùm có ý nghĩa quyết định vẫn là nâng cao khả năng cạnh tranh đặc biệt là điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Đồng thời cần tích cực hình thành những công cụ và phương tiện của một nền kinh tế hướng vào XK. Vì mục tiêu gia tăng Xk một cách bền vững, điều cốt lõi là phải tích cực, bằng những biện pháp thiết thực thì mới có thể hóa giải được những khó khăn, thách thức và nâng cao hiệu quả XK.
Quá trình hội nhập kinh tế, quốc tế đã được Đảng và Nhà nước khẳng định tại nghị quyết 07-QĐ/TW của bộ chính trị. Trong quá trình hội nhập nước ta đã mở rộng quan hệ thương mại với 150 nước. tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực như: ASEAN, APEL, ASEM mở rộng thị trường XK, thu hút đầu tư trực tiếp của hơn 70 nước , nâng cao một bước vị thế của đất nước trên chính trường và thị trường quốc tế. Cùng với sự phát triển của đất nước, sự phát triển của nhành công nghiệp dệt may trở thành một ngành XK chủ lực, là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của ngành dệt may VN trên con đường hội nhập quốc tế, và để tăng cường XK hàng dệt may một cách vững chắc cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đồng bộ và đột phá sau:
2.2. Đẩy mạnh việc mở rộng thị trường XK dệt may sang EU.
Hiện nay hàng dệt may của nước ta gia công cho nước ngoài còn chiếm tỷ trọng cao khoảng 80%, rất ít doanh nghiệp XK sản phẩm may mặc bằng chính thương hiệu của mình . Vì vậy để có thể củng cố thị trường truyền thống EU. Tăng nhanh XK trực tiếp bằng thương hiệu của mình, ngành dệt-may cần xây dựng cho được chiến lược đồng bộ từ khâu cải tiến mẫu mã, tăng chủng loại mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm giảm tối đa các mức chi phí bất hợp lý, hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh trên thị trường EU, Để có thể tăng cường hơn nữa XK vào thị trường EU, trước hết cần tăng cường các phương pháp thu thập thông tin về chế độ GSP, chú trọng nâng cao chất lượng hàng dệt may. Đây là việc có tầm quan trọng hàng đầu, theo tính toán của UNCTAD, do thiếu thông tin, không hiểu rõ các thông tin và các quy định về thủ tục của EU, các nước đang phát triển thực sự chỉ sử dụng được 43% các ưu đãi của EU trong chế độ GSP. Chế độ GSP đang mất dần ý nghĩa do EU hàng năm đều tiến hành giam thuế MFN, chế độ hưởng GSP sẽ chấm dứt cho hàng dệt may VN sau năm 2004 và chế độ hạn ngạch cho hàng dệt may VN cũng hết hiệu lực năm 2005. Vì lý do đó, thời gian tới chúng ta phải có một chiến lược cho hàng dệt may XK của VN đó là thời kỳ “GSP” và “hậu hạn ngạch” . Để có một chiến lược hiệu quả ngoài những chủng loại (cat) có tính truyền thống cho thị trường này, nhất thiết phải đầu tư hiệu quả cho một số cat khác có yêu cầu kỹ thuật cao, chất lượng cao cấp mà khách hàng EU có nhu cầu rất lớn và đồng thời đó là những cat mà VN có lợi thế rất mạnh.
Tranh thủ việc EU coi VN là nước có “nền kinh tế thị trường”, để đảm bảo cho hàng dệt may VN được đối xử bình đẳng như hàng dệt may của các nước khác thì EU điều tra và thi hành biện pháp chống bán phá giá. Đề nghị EU nâng mức chuyển hạn ngạch giữa các nước ASEAN từ 10-20% khi các nước này sử dụng không hết hạn ghạch được cấp. Chuẩn bị gia tăng thâm nhập thị trường này sau khi bỏ hạn ngạch vào năm 2005, các doanh nghiệp dệt may VN đẩy mạnh việc mở rộng thị trường XK EU.
Thị trường đầu ra của sản phẩm dệt may hiện nay chưa ổn định luôn là nối ám ảnh đối với các doanh nghiệp. Nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp chưa có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với các đơn vị tiêu thu sản phẩm dệt may như khách hàng EU. Do đó nhà nước cần cho ra đời công ty kinh doanh hàng may mặc VN mà hoạt động của nó được đặt dưới sự kiểm soát của hiệp hội dệt may VN và lấy việc phát tiển của ngành làm mục đích chính. Công ty phải nắm rõ được khả năng sản xuất và tiêu thụ hàng hóa cảu doanh nghiệp trong nước cũng như nắm được tình hình ở nước ngoài, thông qua các chi nhánh. Dựa vào các cơ sở này, công ty sẽ đề ra những bieej pháp hoặc cung cấp thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp trong nước. Song song đó tự mỗi doanh nghiệp dệt may cần coi trọng việc thiết kế mặt hàng và cần xây dựng thương hiệu mang tính lâu dài để tăng yếu tố cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường EU.
Bởi vậy, các doanh nghiệp dệt may VN cần lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường EU. Hiện nay có nhiều phương thức để các doanh nghiệp dệt may thâm nhập thị trường EU như: XK qua trung gian, XK trực tiếp, liên doanh đầu tư trực tiếp... mỗi một phương thức thâm nhập thị trương trên đang có những ưu điểm và hạn chế riêng. Đặc điểm người tiêu dùng EU quen sử dụng của những hãng nổi tiếng thế giới cho nên các nhà doanh nghiệp dệt may VN có thể thực hiện liên doanh dưới hình thức sử dụng giấy phép nhãn hiệu hàng hóa, được xem là biện pháp tối ưu để thâm nhập thị trường EU .
Đẩy mạnh việc áp dụng ISO 9000, ISO 14000 để vượt rào cản kỹ thuật của thị trường EU, là biện pháp quan trọng để mơ rộng và sâu hơn nữa thị trường dệt may EU. Thị trường EU có hệ thống quan lý chất lượng hàng nhập khẩu khá chặt chẽ. Hàng hóa từ bên ngoài muốn vào được thị trường này phải vượt qua rào cản kỹ thuật của EU. Hàng dệt may VN muốn vào được thị trường EU cũng phải vượt qua rào cản kỹ thuật, cụ thể là: phải đáp ứng các yêu cầu chất lượng, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng và tiêu chuẩn về môi trường. Đối với tiêu chuẩn chất lượng hệ thống quản lý chất lượng ISO9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng XK sang thị trường EU từ các nước đang phát triển. Do đó dối với doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 , người tiêu dùng có thể yên tâm hơn về chất lượng sản phẩm. Nói cách khác, ISO9000 có thể coi như một “ngôn ngữ” để xác định chữ tín giữa người sản xuất với người tiêu dùng, giữa các doanh nghiệp với nhau. Thực tế cho thấy ở các nước châu á v và VN hàng hóa nói chung và hàng dệt may nói riêng, có giấy phép chứng nhận ISO 9000 khi thâm nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so với hàng hóa của các DN khác. Đối với tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng kỹ mã hiệu trở nên quan trọng số một trong lưu thông hàng hóa trên thị trường EU. Các doanh nghiệp dệt may phải chú ý dến vấn đề kỹ mà hiệu cho hàng hóa . Đây cũng là yếu tố bắt buộc đối với hàng hóa nhập khẩu của EU. Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 ngày càng trơ nên quan trọng đối với các doanh nghiệp dệt may VN các doanh nghiệp VN phải chú ý đến vấn đề nhãn hiệu môi trường cho sản phẩm dệt, thị trường EU hiện nay quy định cấm nhập sản phẩm dệt có thuốc nhuôm AZO. Chứng chỉ ISO 14000 sẽ là phương tiện, và thước đo để khách hàng EU có thể an tâm về phương diện bảo vệ môi trường của sản phẩm. Việc thừa nhận và cam kết sử dụng ISO đã trở thành một tiêu chí, để duy trì sự cạnh tranh trên thị trường EU. Bằng phương pháp này các doanh nghiệp VN sẽ phát triển được khả năng cạnh tranh và uy tín trên thị trương EU.
Thành lập các cơ quan xúc tiến thương mại của VN ở các nước EU là một trong những biện pháp đẩy mạnh XK của ngành sang thị trường này. Để thúc đẩy XK hàng dệt may VN hòa nhập thị trường quốc tế thì cần phải có các cơ quan xúc tiến thương mại VN ơ các nước khác. Việc hỗ trợ dể mở rộng thị trường XKEU còn rất hạn chế; do đó sớm hình thành các tổ chức của nhà nước ta ở nước ngoài có những chức năng xúc tiến thương mại là rất cần thiết. Các tổ chức này được coi là văn phòng, trung tâm.... song có nhiệm vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp VN kinh doanh bằng cách tìm kiếm các hàng hóa của EU có thể trao đổi với dệt may VN, cung cấp các thông tin về thị trường EU, giá cả và nguồn hàng dệt may trên thị trường này, đối tác cho các doanh nghiệp va trưng bày các hàng dệt may VN. Từ đó thì các doanh nghiệp dệt may VN mới hiểu rõ, nắm vững thị trường dệt may EU từ đó mới có các biện pháp XK hàng sang thị trường này phù hợp va đạt hiệu quả kinh tế cao.
Để mở rộng hơn nữa thị trường EU thì các DN dệt may VN phải nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Yêu cầu đầu tiên của nó là không ngừng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm là hai yếu tố hàng đầu mà mọi khách hàng tiêu dùng sản phẩm dệt may quan tâm; đặc biệt là khách hàng EU. Vậy nên, cần không ngừng nâng cao, áp dụng các thiết bị khoa học kỹ thuật mới, hiện đại hóa trang thiết bị cho các doanh nghiệp dệt may để từng bước nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và giữ chữ tín với, khách hàng. Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của EU về nguyên liệu, quá trình sản xuất tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình kiểm tra chất lượng trước khi XK qua hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc của EU, chịu sự hướng dẫn, giám sát của ủy ban châu âu (EC). Đảm bảo yêu cầu giao hàng bằng cách đơn giản hóa thủ tục xuất nhập khẩu, chủ động trong vận chuyển và bốc xếp hàng hóa. Hiện nay hàng dệt may VN tại thị trường EU được đánh giá cao là do các DN của ta đã giao hàng đúng hạn.
EU một thị trường mà ở đó mức sống của người dân rất cao, họ ăn mặc rất cầu kỳ và đúng mốt, nơi mà mốt thay đổi hàng giờ. Nên các doanh nghiệp VN cần làm quen với việc sử dụng thương mại điện tử để cập nhật thông tin, thiết kế mẫu mã, tìm kiếm khách hàng và đặc biệt là tạo phong cách kinh doanh hiện đại phù hợp với các đối tác doanh nghiệp EU.
Cần tăng cương thiết lập quan hệ đối tác trực tiếp với các nhà nhập khẩu mặt hàng này của EU , giảm bớt việc XK hàng dệt may qua trung gian và hàng thô. Xây dựng mạng lưới phân phối ở nước ngoài bởi tính cố hữu của thị trường Châu Âu là buôn bản các sản phẩm công nghiệp hầu hết qua hệ thống phân phối. Phần lớn các nhà doanh nghiệp dệt may Vn chỉ mới đạt tới quan hệ gián tiếp và phần nào trực tiếp với nhà XK mà chưa vương tới cái gốc của thị trường có tính quyết định này đây là cái đích mà các doanh nghiệp sản xuất và XK dệt may Vn phải tính tới. Đó là những công việc để mở rộng và sâu hơn nữa thị trường dệt may EU.
2.3. Thực hiện chiến lược tăng tốc đầu tư và chuyên môn hóa.
Việc xây dựng và thực hiện chiến lược tăng tốc đầu tư đến năm 2010, ngoài việc đầu tư chiều sâu và mở rộng các doanh nghiệp hiện có, ngành dệt may dự kiến đầu tư xây dụng 10 cụm công nghiệp dệt may theo từng vùng và định hướng phát triển mới có tính hiệu quả và khả thi cao . Một cụm công nghiệp được xây dựng trong các khu công nghiệp quy hoạch tập trung sẽ có ưu điểm là tiết kiệm vốn cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp , khắc phục được tình trạng đầu tư phân tán hiệu quả thấp, giải quyết vốn và vấn đề nước thải, tập trung làm sạch hóa môi trường sinh thái để từ đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ được hình thành... Ngoài ra cần triển khai công tác quy hoạch các vùng nguyên liệu: bông, dâu, tơ tằm, vải , sợi tổng hợp, cùng với phát triển công nghiệp hóa dàu nhằm nâng cao tỷ lệ giá trị xuất xứ nội địa trong sản phẩm dệt may mà VN hiện đang phải nhập khẩu khoảng 80% nguyên liệu ban đầu cho ngành. Đây vừa là yêu cầu bắt buộc để giảm chi phí nhập khẩu, vừa mục tiêu nhằm nâng cao lợi nhuận cho ngành dệt may.
Do vậy, các địa phương cần lập báo cáo trình chính phủ về việc xây dựng các khu công nghiệp tập trung. Về phần mình, chủ các doanh nghiệp dệt may cần sớp xậy dựng các sự án đầu tư trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các dự án có thể được triển khai từ nhiều hướng với nhiều nguồn vốn khác nhau, dể cả nguồn tài chính của các nhà đầu tư nước ngoài để có thể phát huy được tối đa sức mạnh tổng hợp khiến mức độ thành công của chiến lược tăng tốc cao hơn, giới doanh nghiệp dệt may VN cần liên kết thành một khối thống nhất trong oạt động sản xuất kinh doanh. Mối doanh nghiệp dệt may phải đảm trách từng công đoạn trong sản xuất kinh doanh phải có sự phối hợp chặt chẽ để trở thành những mắt xích của nhau. Tuy nhiên sự phân công nay đòi hỏi về mặt chuyên môn sâu hơn giai đoạn đã qua sao cho sự hợp tác các ngành nghề trong lĩnh vực dệt may tạo được những phản ứng dây chuyền và mang lại hiệu quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, việc đầu tư các cụm công nghiệp cần tính đến các yếu tố liên hoàn để khai thác hết tiềm năng và chuyên môn của nội bộ ngành, đồng thời phải ưu tiên đầu tư vào công đoạn dệt nhuộm để tăng nhanh về số lượng, chủng loại, chất lượng vải để đáp ứng cho nhịp cầu may XK và trong quá trình đầu tư cần được kiểm soát chặt chẽ theo đúng quy hoạch phát triển tổng thể. Các doanh nghiệp cần nắm chặt thông tin về tình hình đầu tư, sản xuất, quy mô sản xuất để có hướng đầu tư đúng tránh đầu tư trùng lặp, tránh những thiệt hại nghiêm trọng về lâu dài cho ngành và co nền kinh tế.
Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tìm cách để các doanh nghiệp VN ký hợp đồng XK, đầu tư với các doanh nghiệp EU là những việc mà Nhà nước VN cần làm cũng như việc xây dựng chính sách hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp EU tham gia vào quá trình sản xuất hàng dệt may XK của VN, đồng thời khuyến khích mạnh hơn nữa các doanh nghiệp VN trực tiếp đầu tư XK như cung cấp thông tin về thị trường và đầu tư vốn cho các doanh nghiệp dệt may XK, cải tiến thủ tục XK hàng dệt may, hỗ trợ về tài chúnh cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may XK. Tiếp tục cải thiện môi ng đầu tư để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư cho ngành dệt may và nâng cao nguồn lực XK và sức cạnh tranh của các mặt hàng dệt may XK. Đó là những biện pháp mà Nhà nước ta đã sử dụng để đẩy mạnh hơn nữa Xk dệt may sang EU.
Bên cạnh đó, cần xây dựng và sử dụng có hiệu quả hệ thống kho ngoại quan ở nước ngoài, vì VN chưa được trang bị phương tiện này. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may XK của VN, trên cơ sở đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ. Hiện nay Trung Quốc đã gia nhập WTO, hàng dệt may XK của VN vấp phải sự cạnh tranh mãnh liệt của hàng dệt may Trung Quốc tại thị trường EU. Khi EU xóa bỏ hạn ngạch vào năm 2004-2005, hàng dệt may XK của VN càng gặp khó khăn trong cạnh tranh. Chính vì vậy để nâng cao chất lượng , giảm giá thành sản phẩm, tăng cường tính cạnh tranh của hàng dệt-may VN, con đường tiên quyết là VN phải tăng cường dầu tư đổi mới trang thiết bị, công nghệ, giải pháp tốt nhất là nhập công nghệ từ các nước thuộc EU.
Ngành dệt cần được đầu tư phát triển, nếu không gia công vẫn là công việc chủ yếu của ngành may. Song song đó là còn cần phải đầu tư để nâng cao trình độ quản lý của người điều hành, nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ kỹ thuật, nâng cao tay nghề cho đội ngũ lao động và xây dựng hệ thống quản lý chất lượng. Tranh thủ khai thác những mặt mạnh của EU, như kỹ thuật tiên tiến trong chế biến để góp phần thúc đẩy Xk dệt may sang thị trường này. Xây dựng hoàn thiện chiến lược sản phẩm đúng đắn cho từng sản phẩm dệt may xác định được những sản phẩm mũi nhọn và có thế mạnh trong cạnh tranh ở từng thị trường của mối doanh nghiệp khai thác và huy động mọi nguồn vốn để tập trung đầu tư và nâng cao năng lực hiện đại hóa trình độ công nghệ, thiết bị cho các doanh nghiệp dệt may tạo lập sự cần đối trong toàn ngành. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, thiết kế mẫu mã sản phẩm dệt may , nghiên cứu thời trang quảng bá các sản phẩm mới thì mới thâm nhập được thị trường EU. Vì lúc đó năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm được nâng cao, tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm, Do yêu cầu khắt khe về chất lượng san phẩm từ phía EU, nên như dã nói ở trên, để khắc phục tình trạng lạc hậu của máy móc, thiết bị công nghệ, phương án tối ưu đối với các doanh nghiệp dệt may VN là nhập khẩu máy cóc, công nghệ từ EU.
2.4. đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Theo khảo sát của hiệp hội dệt may TP.HCM (AGTEK), phần lớn lao động làm công tác quản lý trong ngành được trưởng thành sau một quá trình làm việc lâu dài, đều có khởi đầu từ lao động trực tiếp sản xuất, và đại da số lao động trực tiếp sản xuất khi vào nhà máy là lao động phổ thông. Trong số này, số người độ tuổi từ 24-30 chiếm khoảng 47%, số người có trình độ văn hóa dưới cấp II chiếm 61% và trên cấp I là 21%, nên yếu tố lao động của Vn không được xem là lợi thế khi đem so sánh với lao động các nước trong khu vực về mặt chất lượng, nhất là đối với Trung Quốc và Indonesia- hai nước có nền công nghiệp dệt may phát triển nhanh, có khả năng cạnh tranh mạnh với VN. Nhân sự là vấn đề của mọi vấn đề, bởi vậy mà có câu nói “chúng ta có thể bỏ hàng triệu USSD để xây dựng nhà máy hiện đại, nhưng nếu ê-kip điều hành kém năng lực, tập thể lao động trực tiếp sản xuất không thạo việc, trình độ tay nghề không cao thì nhà máy không thể hoạt động có hiệu quả” Với 6,6 triệu người làm việc trong ngành, nhưng trong nước hiện nay chưa có trường nà đào tạo chuyên ngành dệt may. Vì vậy, nhà nước nên có kinh phí đầu tư thỏa đáng và cụ thể cho khâu đào tạo lao động ngành dệt may. Đặc biệt, kế hoạch đầu tư trường thời trang, du lịch với chương trình đào tạo ngang tầm với các nước tiên tiến có thể đưa ra thị trường các sản phẩm mang yếu tố cạnh tranh cao rất cần được quan tâm.
Nguồn nhân lực tốt là một đảm bảo cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Vì vậy để đáp ứng nguồn lực có tay nghề cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010 là hết sức cần thiết và cấp bách, là một vấn đề lớn và khó đối với cả doanh nghiệp dệt may và các trường đào tạo nghề và quản lý. Ngành dệt may cần một đội ngũ lớn từ công nhaaan lành nghề , cán bộ quản lý, kỹ sư thực hành, nhà thiết kế thời trang, thiết kế mẫu mã cho đến giám đốc doanh nghiệp và cán bộ quản lý cao cấp. Muốn đẩy mạnh công tác đào tạo lao động ngành dệt may, bản thân các doanh nghiệp phải ngồi lại với nhau để tìm giải pháp cho việc hình thành các trường hoặc trung tâm đào tạo trên cơ sở nguồn dinh phí, trí tuệ đóng góp của doanh nghiệp. Biện pháp tốt nhất để đào tạo cán bộ quản lý các cấp là tăng cường sự kết hợp giữa các doanh nghiệp và các trường đại học để mở lớp đáp tạo dài hạn chuyên ngành quản lý có kiểm tra chất lượng đào tạo gắn với thực tiễn, đồng thời cấp bằng tốt nghiệp sau mỗi khoá học dùng làm cơ sở để tiêu chuẩn hóa cán bộ của ngành. Giữa doanh nghiệp, cơ quan quản lý Nhà nước và các nhà nghiên cứu khoa học cần có sự hợp tác để đưa ra các chương trình đào tạo phù hợp với tình hình hiện nay , cũng như tìm cách phát huy được tối đa năng suất của máy móc, thiết bị mà không nhất thiết phải chạy theo việc mở rộng số lượng . Đối với lực lượng công nhân lành nghề ngoài việc tăng cường đào tạo tại doanh nghiệp, ngành dệt may nên có kiến nghị với nhà nước để cấp kinh phí, đào tạo các trường dạy nghề để đào tạo miễn phí cho lực lượng lao động ở những vùng nông thôn khó khăn nhưng cháp nhận học nghề may công nghiệp để vào làm việc tại các doanh nghiệp may. Dĩ nhiên với nội dung, chương trình phương pháp giảng dạy phải được đổi mới cho sự phát triển của ngành ngoài ra, đối với đội ngũ công nhân đang làm việc cũng cần phải có những khóa đào tạo lại để thích nghi với môi trường sản xuất mới, công nghệ hiện đại. Từ đó mức thu nhập của người lao động dệt may được nâng cao thì họ mới yên tâm hăng say làm việc và tăng năng suất lao động, đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu của ngành sang thị trường EU, trình độ tay nghề và trình độ quản lý cao thì chất lượng hàng dệt may sẽ được bảo đảm và tăng cao, đủ khả năng đáp ứng thị trường chọn lọc EU.
2.5. Đẩy mạnh gia công hàng may mặc XK sang EU.
Một đặc biệt nổi bật nhất của hàng XK dệt may VN là có đến 70% sản phẩm được XK theo phương thức gia công chứ không phải XK trực tiếp. Việc XK theo hình thức gia công tuy có kém lợi thế hơn so với XK trực tiếp song với những ưu điểm sử dụng nhiều lao động và đầu tư cho công nghệ dệt may không lớn, nên trong những năm tới phương thức gia công hàng XK ở nước ta vẫn tiếp tục phát triển . Các bạn hàng EU và các nước khác thường mang nguyên vật liệu, thiết bị, máy móc và chuyên gia đến đặt hàng tại VN, có khi còn màng cả mẫu mã , kiểu dáng đến. Bởi vậy nó rất phù hợp với ngành dệt may của ta hiện nay, lao động nhiều. Nguyên vật liệu cho ngành ít, máy móc và thiết bị lạc hậu, thiếu chuyên gia. Nhưng không chỉ giải quyết công ăn việc làm cho người lao động mà còn góp phần tăng thu nhập quốc dân và tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Khi tiếp nhập các điều kiện sản xuất cho ngành từ phía EU thì chúng ta không những sẽ đáp ứng yêu cầu chất lượng và vượt qua rào cản kỹ thuật của thị trường nay mà còn đẩy nhanh mối quan hệ đối ngoại giữa hai bên, tăng tỷ trọng kim ngạch Xk của ngành.
Để tranh thủ được những lợi ích của gia công Xk ở thị trường EU đối với ngành dệt may thì trước hết ta cần tìm hiểu rõ thị trường, nên gia công những loại cat nào mà khchs hàng EU có nhu cầu lớn và phù hợp với điều kiện sản xuất VN, thu được lợi nhuận cao. Tùy theo khách hàng mà gia công, với EU nơi có nhu cầu gia công lớn, có tính dâu dài và ổn định tì rất phù hợp. Để làm được các công việc trên thì các doanh nghiệp dệt may phải đều tư thiết bị máy móc hiện đạt cho các cơ sở gia công ổn định và lâu dài, mà giải pháp tối ưu nhất là nhập khẩu từ EU. Đồng thời chúng ta phải khắc phục kiểu làm ăn tùy tiện về quy cách , phẩm chất và thời gian giao hàng... Nâng cao chất lượng sản phẩm, bằng cách kiểm tra chặt chẽ nguyên phụ liệu; bảo quản tốt nguyên liệu, tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của đối tác EU; nâng cao trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm của người lao động trong quá trình sản xuất sản phẩm; xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến; xác định hợp lý mức độ đa dạng hóa từ phía EU. Định hướng chiến lược chuyển dần từ gia công xuất khẩu sang Xk bằng phương thức mua nguyên vật liệu XK thành phẩm, phấn đấu đạt chỉ tiêu đề ra. Đó là những đổi mới trong phương thức gia công mà các doanh nghiệp dệt may VN cần giải quyết. Để tạo uy tín của hàng dệt may Vn trên thị trường thế giới và để các doanh nghiệp dệt may VN có thể học hỏi dịnh nghiệm, tiếp thu công nghệ tiên tiến, tích lũy đổi mới công nghệ để từng bước vững chắc chuyển sang sản xuất hàng XK trực tiếp.
Mặc dù gia công XK còn nhiều bất cập, nhưng chắc chắn trong những năm tới các doanh nghiệp dệt may VN vấn chưa thể từ bỏ XK theo phương thức này để chuyển sang phương thức mua nguyên vật liệu XK sản phẩm . Vì vậy bằng những ưu thế về giá cả chất lượng, thời hạn gia hàng , gia công XK vấn là biện pháp quan trọng để VN đẩy mạnh Xk dệt may sang thị trường EU.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động gia công, các doanh nghiệp dệt ma cần mơ rộng gia công Xk các mặt hàng mới, sang các thị trương mới. Tránh tập trung vào gia công một mặt hàng, cho mặt thị trường để dẫn đến bị ép quá, lệ thuộc . Trong hoạt động gia công phía Vn cần thỏa thuận để dành quyền tự cung cấp nguyên liệu, quyền được gắn nhãn mác và địa điểm gia công trên sản phẩm để từng bước giúp khách hàng làm quen với sản phẩm của DN. Giảm tỷ trọng XK gián tiếp qua nước thứ ba là một biện pháp quan trọng để nâng cao uy tín, chất lượng sản phẩm, đồng thời thực hiện tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu thương mại của hàng hóa.
Nhà nước cân có chính sách khuyến khích phát triển ngành tạo mốt ở VN bằng việc hỗ trợ các nhân tài ra nước ngoài du học.
Tiến tới từ năm 2006-2010 thiết lập hệ thống phân phối sản phẩm dệt may tại EU. Sau khi thử nghiệm tiếp cận thị trường EU đối với sản phẩm dệt may của mình qua việc bán cho một nhà nhập khẩu EU. Khi có được uy tín và đủ tiềm lực, các doanh nghiệp có thể thiết lập việc phaap phân phối trực tiếp hàng hóa đến tay người tiêu dùng, thì lúc đó doanh nghiệp sẽ trực tiếp hưởng 100% lợi nhuận. Cách tốt nhất để thực hiện điều này là thứ nhất tạo lập mối quan hệ quần chúng. Trước mắt các doanh nghiệp lớn có thể tạp lập thông qua mối quan hệ tốt đẹp đã có lâu đời với các hãng may và tập đoàn quốc tế nổi tiếng để giới thiệu với công chúng EU về sản phẩm may mặc VN. Có thể liên kết với thương nhân Việt Kiều ở EU để tạo lập từng bước quan hệ với thị trường này . Thứ hai là thiết lập các đại lý bán hàng ở EU để giao hàng nhanh chóng đến tận tay người tiêu dùng, tạo lập mới quan hệ ngày càng gắn bó với khách hàng. Cần tìm các đại lý có uy tín và có chế độ hoa hồng thỏa dáng để khuyến khích bán hàng ở đại lý. Trên thị trường EU cộng đồng người Việt là những kênh quan trọng giới thiệu hàng hóa VN. Do vậy chúng ta cần có các khu phố, siêu thị, chợ nơi có cộng đồng người Việt sinh sống. ở nới đất khách, bà con người việt dang rất cần những sản phẩm quê hương, hàng hóa của ta XK sang đây chắc chắn sẽ được hoan nghênh. Và từ đó thì nó sẽ được nhân rộng ra trên thị trường EU. Cái gì đẹp và tốt thì cũng có người theo, đặc biệt với may mặc nó đã có tính chất thời trang và theo mốt.
2.6. Hoàn thiện hệ thống chính sách cho ngành.
Việc đổi mới và hoàn thiện chính sách cơ ché xuất nhấp khẩu cần phải theo hướng rõ ràng, minh bạch, có tính ổn định và phù hợp với thông lệ quy định trong buôn bán khu vực EU, và quốc tế, cơ chế điều hành phải thông thoáng và thống nhất, đồng thời phải gắn với bảo vệ môi trường sinh thái để phát triển bền vững. Trước hết cần đơn giản hóa thủ tục nhập nguyên vật liệu, hàng mẫu, bản vẽ, cần có các quy định về kỹ thuật của sản phẩm, đóng gói và nhãn mác... Trước mắt cần ban hành một số văn bản phục vụ hội nhập. Một trong những trở ngại đối với dệt may VN là thiếu các quy định về xuất xứ và các chỉ dẫn sử dụng cũng như yếu tố môi trường và chỉ dẫn địa lý. Do vậy việc bổ sung các quy định về chỉ dẫn địa lý và xuất xứ của hàng dệt may vào bộ luật dân sự và bộ luật thương mại là rất cần thiết, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu của EU. Để đảm bảo cho sự phát triển quan hệ thương mại giữa Vn và các nước EU, đáp ứng được yêu cầu về sự minh bạch của hệ thống pháp luật. đảm bảo tính hợp lý đúng đắn của các tiêu chuẩn về kỹ thuật , về môi trường để chúng ta không trơ thành các rào cản bất hợp lý đối với thương mại quốc tế.
Có thể nói việc tham gia vào các tổ chức thương mại đã tạo thuận lợi cho VN thực hiện chủ trương đa phương hóa hợp tác và góp phần phát triển kinh tế trong điều kiện hội nhập . Tuy mức độ cam kết có khác nhau nhưng hiệp định thương mại đều có chung mục tiêu là tự do hóa thương mại và tháo gỡ gàng rào thuế quan. Lần sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh một số điều luật về thuế xuất nhập khẩu tất cả những quy định về thuế xuất nhập khẩu được đưa ra nhằm làm giảm chi phí sản xuất sản phẩm XK ngành dệt may và chi phí nhập vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất gia công XK, nhà nước quy định hầu hết phụ tùng thiết bị dệt may đều áp dụng thuế xuất 0%, nguyên liệu dệt may nhập khẩu có thuế suất từ 0%-10%. Ngưng trên hết sự thành công của chiến lược phát triển ngành dệt may đến 2010 tùy thuộc chủ yếu vào sự phối hợp nhịp nhàng trong việc ban hành và thực hiện các chính sách, cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp như ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu, ưu đãi về đầu tư các dẹ án của khu công nghiệp tập trung, quy hoạch các khu công nghiệp dệt may mang tính chất chuyên sâu và rộng khắp... Cũng như sự chỉ đạo chặt chẽ, kiên quyết, đồng bộ và kịp thời của các cơ quan hữu quan. Ngành dệt may cần được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi hợp lý,, tổ chức đào tạo cho các đại lý, cần có chế độ trợ cấp giá thỏa đáng cho các DN và thị trường EU. Trong bối cảnh thị trường XK gặp nhiều khó khăn, nhà nước cần sử dụng quỹ thưởng XK để khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ XK. hơn nwoax, nhà nước cần hỗ trợ cụ thể cho các DN tìm kiếm và khai thác các thị trường mới.
XK dệt may là một ngành được hưởng rất nhiều đối xử ưu đãi từ phía nhà nước do đây là ngành tạo ra nhiệu việc làm cho người lao động. Được Nhà nước đảm bảo tín dụng có nghĩa là Nhà nước đứng ra bảo hiểm, đền bù nếu bị mất vốn. Biện pháp này ngoài việc thúc đẩy XK của ngành, còn nâng cao được giá ban hàng. Mặt khác Nhà nước thực hiện cấp tín dụng XK cho dệt may, tạo điều kiện thuận lợi cho người mua hàng, giúp cho doanh nghiệp đẩy mạnh XK. Dệt may là ngành được Nhà nước bảo hộ chặt chẽ, nên cần lưu ý khi Xk dệt may sang EU và đổi lại là nhập trang thiết bị máy móc từ các nước này, nếu sơ hở sẽ dẫn đến những ràng buộc chính trị bất lợi.
Nhà nước cũng đã cấp tín dụng cho các doanh nghiệp dệt may XK, do vốn cho hoạt động này là rất lớn, bản thân doanh nghiệp không thể tự túc hết được mà cần tín dụng của Chính phủ theo những điều kiện ưu đãi, điều đó làm giảm được chi phí XK. Để đương hưởng những ưu đãi đặc biệt của riêng ngành dệt may, các doanh nghiệp XK cần tạo uy tín với nhà nước cũng đồng nghĩa với tạo uy tín với khách hàng, đảm bảo cho mọi lô hàng Xk đến được cấp tín dụng.
Ngoài ra Nhà nước còn có biện pháp trự cấp XK để thúc đẩy XK hàng dệt may sang thị trường EU. Khi các nhà XK dệt may bán được hàng sang thị trường Eu thì sẽ được hưởng những ưu đãi tài chính từ Nhà nước. Giúp cho các DNXK dệt may tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Xk và do đó đẩy mạnh được XK. Có hai loại tự cấp XK, thứ nhất trợ cấp trực tiếp là áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng dệt may XK, ,miễn hoặc giảm thuế đối với các nhà Xk hàng dệt may... cho các nhà Xk dệt may được hưởng các giá ưu đãi các đầu vào sản xuất hàng dệt may Xk như điện, nước, vận tải, thông tin liên tục, trợ giá XK; Thứ hai là trợ cấp gián tiếp cho dệt may XK, như dùng ngân sách nhà nước dể giới thiệu, triển lãm, quảng cáo cho ngành và tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch Xk, giúp đỡ kỹ thuật và đào tạo chuyên gia cho riêng ngành dệt may XK. Tạo hệ thống chính sách tín dụng hỗ tợ Xk hàng dệt may đồng bộ đối với toàn bộ hoạt động sản xuất, từ khâu chế biến, gia công dến kinh doanh XK.
Bất cứ sự chậm trễ nào trong việc ban hành haowcj thực thi các chính sách cũng đều có thể làm ảnh hưởng tiến độ triển khai các kế hoạch phát triển. Vì vậy trong thời gian tới cần tập trung mơ rộng giải pháp tài chính, thúc đẩy XK và sử dụng có hiệu quả hơn các công cụ chính sách hiện hành, đồng thời cắt giảm hỗ trợ đầu ra, tăng cường tự lực cho đầu vào. Nói chung để đẩy mạnh Xk hàng dệt may sang thị trường Eu thì chúnh ta phải thực hiện các giải pháp đồng bộ, đổi mới và hoàn thiện các chính sách có liên quan, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đơn gian các thủ tục XK.
3. Một số tiền đề để đẩy mạnh Xk dệt may sang EU.
Xuất phát từ thực trạng nền kinh tế VN đang còn lạc hệu và hết sức nhỏ bé chúng ta đang từng bước hội nhập vào kinh tế kh vực và kinh tế thế giới Trong khi nên kinh tế thế giới trong thời gian qua đã phát triển không ngừng, khoa học kỹ thuật hiện đại. Với xu thướng toàn cầu hóa, Khu vực hóa thì chúng ta phải đẩy mạnh Xk là tất yếu. Đẩy mạnh Xk giúp đất nước thu về một lượng ngoại tệ khá lớn, đồng thời tăng quan hệ với bạn bè thế giới, tạo quan hệ qua lại giữa các bên.
Với XK dệt may , một trong mười ngành XK chủ lực của Vn và là ngành tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Không chỉ giải quyết nhu cầu công việc, dệt may XK còn mang lại một lượng kim ngạch Xk lớn cho đất nước. VN một nước mà ở đó có đội ngũ ao động dồi dào, khá thông minh và sáng tạo, khéo léo và cần cù, dó là yếu tố số một cho ngành dệt may XK. Vì là ngành giải quyết phần lớn việc làm cho lao động công nghiệp (hơn 40% với 9 vạn lao động) nên ngành rất được nhà nước quan tâm, giúp đỡ. Là ngành nhận được nhiều ưu đãi của nhà nước và được nhà nước bảo hộ chặt chẽ. Được hưởng trợ cấp XK, hỗ trợ XK, miễn giảm thuế XK.. và nhiều chế độ khác nữa. Với nền kinh tế nghèo như VN thì các doanh nghiệp lấy vốn đâu mà nhiều, bởi vậy mà dệt may Xk đã được hưởng ưu đãi vốn của nhà nước vá có các thông tin về thị trường dệt may bên ngoài cập nhận, quan trọng. Điều kiện thuạn lợi như vậy thì các doanh nghiệp dệt may sẽ đầy mạnh XK là dương nhiên.
Mặt khác, thị trường EU một thị trường rộng lớn cho nhu cầu hàng dệt may. Cuộc sống ở dây khá cao, thu nhập của người dân ổn định, lại là nơi hội tụ các kinh đo thời trang của thế giới. EU là thị trường tiềm năng và truyền thống cho ngành dệt may VN. Tuy nhiên người tiêu dùng ở đây khá khó tính và có chọn lọc và rất quan tâm đến mẫu mã thời trang. người ta quan tâm đến cách ăn mặc như thế nào, kiểu dáng ra sao, chất lượng như thế nào chứ không phải là giá cả bao nhiêu. Nói chung chất lượng là yếu tố hàng đầu mà thị trường EU quan tâm . Những nhà tạo mẫu, người mẫu thời trang và giới ăn mặc “sành điệu” đều chiếm phần đa ở thị trường này. Mà nhu cầu về mẫu mốt, thời trang là không có giới hạn, hôm qua bộ quần áo kia là mốt chẳng hạn thì hôm nay nó đã trở thành lỗi mốt, người tiêu dùng chạy đua theo mốt là cơ hội và cũng là thách thức cho các nhà sản xuất và XK. Vì những thuận lợi đó mà đây đã trở thành thị trường cạnh tranh gay gắt và ác liệt đối với hàng dệt may . Các doanh nghiệp của các nước cạnh tranh nhau để có mặt ơ thị trường này mà chia nhau lợi nhuận. Với VN để có thể thâm nhập được vào thị trường này thì hàng dệt may Vn phải có các điều kiện cạnh tranh hơn các đối thủ khác, đặc biệt là các nước khu vực và Trung Quốc. Để đẩy mạnh Xk dệt nay vào thị trường này hàng dệt may Vn phải có thế về số lượng và giá cả, giá cả giảm còn chất lượng tăng.
XK dệt may của chúng ta sang thị tường EU trong thời gian qua đã không ngừng tăng , đã thu được những thành tựu hết sức to lớn. Tạo cho người lao động nhiều việc làm và mang về cho thu nhập quốc dân một lượng kim ngạch lớn. Tuy nhiên nếu so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì kết quả này đang còn nhỏ bé và rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiếm lực VN. Để khai thác mọi tiềm lực cảu quốc gia tận dụng những ưu đãi và cơ hội vàng, đáp ứng được nhu cầu cao cảu khách hàng EU, được một khoản thặng dư lớn trên thị trường EU thì các doanh nghiệp dệt may VN phải không ngừng đẩy mạnh XK sang thị trường này khi mà ngành được những thuận lợi gia tăng khi các hiệp định buôn bán dệt may giữa hai bên lần lượt được ký kết. Một lần ký kết là một lần cánh cửa cảu thị trường EU lại mở rộng hơn cho hàng dệt may VN. Mặt khác lại được những biện pháo thúc đẩy từ phía doanh nghiệp và nhà nước dã làm cho ngành phát triển mạnh trong 10 năm gần đây. Tuy nhiên thực tế còn nhiều bất cập, các điều kiện cơ sở vật chất hạ tân cho ngành còn thiếu nhiều và phải nhập ngoại, điều kiện nội lực chưa mạnh, thị trường Eu chưa nắm bắt được thông tin kịp thời và chưa hiểu rõ. Trước tình hình như vậy thi dẻ đẩy mạnh XK sang thị trường EU cần nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm là hai điều kiện tiền đề đầu tiên.
Muốn vậy , điều đầu tiên cần làm là phải tạo một hệ thống các viện nghiên cứu và trường đào tạo chuyên ngành dệt may. Hoặc tăng cường sự kết hợp giữa các doanh nghiệp va các trường đại học để đào tạo dài hạn chuyên ngành quản lý có kiểm tra chất lượng đao tạo gắn với thực tiễn đồng thời cấp bằng tốt nghiệp sau mỗi khóa học dùng làm cơ sở để tiêu chuẩn hóa cán bộ của ngành. đối với lực lượng công nhân lành nghề phải tăng cường đào tạo tại doanh nghiệp và nhà nước phải cấp kinh phí đào tạo ở những vùng nông tôn khó khăn, và phải đào tạo lại công nhân đang làm việc thì lúc đó mới cấp cho ngành dệt may một đội ngũ lớn công nhân lành nghề , cán bộ quản lý, kỹ sư thực hành, nhà thiết kế thời trang, thiết kế mẫu mã cho ddeesn giám đốc doanh nghiệp và cán bộ quản lý cao cấp . Để thích nghi với môi trường sản xuất mới công nghệ hiện đại, để đáp ứng yêu cầu chất lượng cao của EU và để cạnh tranh được với các nước trong khu vực và trên thế giới trên thị trường EU. lúc đó mới đẩy mạnh XK của ngành sang thị trường EU được .
Đẩy mạnh XK dệt may sang thị trường EU thì việc nắm bặt các thông tin về thị trường này và xúc tiến thương mại là rất quan trọng . Do dó cần thành lập các cơ quan xúc tiến thương mại ở các nước Eu và thực hiện đúng chức năng của nó để hội trợ cho các doanh nghiệp dệt may Vn kinh doanh bằng cách tìm kiếm cung cấp các thông tin về thị trường, giá cả, nguồn hàng, đối tác cho các doanh nghiệp, trưng bày các gàng dệt may Vn , chắp nối cho các doanh nghiệp tìm đến làm ăn với nhau . Do vậy, đây không thể là cơ quan kinh doanh vì như vậy mục tiêu hỗ trợ sẽ không được thực hiện và cơ quan này phải được nhà nước cấp kinh phí để hoạt động hoặc thu từ các hoạt động hỗ trợ nhưng nó không nừm trong mục đích kinh doanh . Là tổ chức trực thuộc đầu mối nào đó của ngành thương mại, do ngành thương mại điều hành . Cần tách bạch chức năng của cơ quan này với cơ quan thương vụ, (một bộ phận của cơ quan đại diện của VN ở nước ngoài) cần tuyên truyền rộng ãi cho các donh nghiệp ủng hộ hoạt động của cơ quan này như gửi hàng mẫu, thường xuyên liên hệ để xúc tiến thương mại của doanh nghiệp mình. Bước đầu nên chọn một số thị trường trung tâm sôi động. Hoạt động buôn bán tấp nập và có khả năng trao đổi nhiều với Vn trong các nước EU, sau mới nhân rộng ra. Hay một công ty kinh doanh hàng may mặc Vn mà hoạt động của nó đặt dưới sự kiểm soát của hiện họi dệt may VN và lấy việc phát triển của ngành làm mục đích chính, cũng góp phần đẩy mạnh XK của ngành sang thị trường EU. Công ty phải nám rõ được khả năng sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may của doanh nghiệp cả trong nước và cả ở EU thông qua các chi nhánh. Chẳng hạn như đối thủ cạnh tranh gồm những ai ?Mức độ biến động giá cả ở thị trường EU ra sao ?Khách hàng có nhận định, thái độ thế nào đối với sản phẩm dệt may VN....
Có như vậy , thì các nhà sản xuất và XK dệt may của VN mới hiểu rõ nhu cầu ở thị trường EU. mới đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị tường này và Xk nhiều hơn nữa sản phẩm của mình vào EU.
Hiện nay dệt may Xk vẫn đang còn sử dụng nhiều nguyên vật liệu nhập ngoại và thiết bị, máy móc lạc hậu. Để đẩy mạnh Xk dệt may vào EU, để giảm chi phí sản xuất từ đó hạ giá thành thì chúng ta phải tăng tự túc nguyên vật liệu đầu vào. Phải đầu tư phát triển ngành trồng dâu, nuôi tằm, trồng bông... phải có các yếu tố dầu vào ổn định và bảo đảm, không bị động bởi thị trường giá cả nguyên vật liệu của thế giới. Chúng ta cần quy hoạch các vùng nguyên liệu bông, dâu, tơ tằm, vải sợi tổng hợp, cùng với phát triển công nghệ hóa dầu nhằm nâng cao tỷ lệ xứ nội địa. Khi mà hiện tại ngành đang phải nhập khẩu khoảng 70% nguyên liệu ban dầu. Tăng tự túc nguyên vật liệu, giảm chi phí sản xuất để hạ giá thanh là điều kiện để đẩy mạnh XK dệt may sang EU.
Chất lượng là cái tiên quyết trên thị trường EU, để nâng cao chất lượng hàng dệt may Vn không chỉ cần công nhân lành nghề, nguyên liệu tốt mà còn cần thiết bị hiện đại. Bởi vậy đầu tư, đổi mới trang thiết bị, máy móc; đặc biệt là nhập khẩu máy móc, thiết bị từ các nước EU là điều kiện tốt nhất đáp ứng yêu cầu của thị trường hàng . Đầu tư nhiều cho ngành dệt, tạo tiền đề cho đẩy nhanh XK trực tiếp sang EU là điều kiền để nâng giá trị thặng dư của ngành lên cao mức cao hơn nữa.
Vốn đầu tư cho XK dệt may cũng rất quan trọng, nhà nước và các doanh nghiệp phải không ngừng huy động vốn từ các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, từ quỹ vốn đầu tư phát triển trực tiếp của nước ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), thu hút được nhiều vố càng tố, nó là cơ sở để đẩy mạnh sản xuất và XK của ngành.
Mở rộng các hình thức kinh doanh trên thị trường EU như tái xuất, chuyển khẩu, hạn chế XK gián tiếp qua nước thứ 3 và đẩy nhanh Xk trực tiếp sang EU. Nhà nước cần hoàn tất các văn bản hướng dẫn thi hành luật thương mại và chuẩn bị sửa đổi bổ sung những nội dung cần thiết liên quan. Tiếp tục rà soát các văn bản hiện hành theo hướng kiên quyết và bỏ những quy định không còn phù hợp, gây khó khăn phiền hà cho các doanh nghiệp dệt may. Xây dựng thêm một số văn bản pháp quy để hoàn thiện khung pháp lý hoạt động XK may. Góp phần thúc đẩy XK dệt may sang thì trường EU.
Kết luận
XK dệt may sang EU của VN trong những năm gần đây đã tăng nhanh, mang về cho thu nhập quốc dân một lượng kim ngạch XK lớn, tạo cho người lao động nhiều công ăn việc làm. Tuy nhiên trong thời gian qua ngành cũng đã gặp không ít khó khăn trở ngại của bản thân ngành và của thị trường EU. Vậy nên trong thế kỷ mới cơ hội và thách thức nhiều cho các nhà XK. Muốn tham gia vào thị trường EU, doanh nghiệp Vn phải biết đối thủ cạnh tranh của họ là ai ? Không cứ phải là doanh nghiệp lớn là thành công trên thương trường EU. cơ hội còn dành cho các công ty nhỏ kác và cả các cá nhân, nếu họ thực hiện tốt các điều kiện cơ bản của hoạt động kinh doanh. EU là một thị trường truyền thống, rộng lớn, đa dạng và đầy tiềm năng, điều này tạo rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp VN. Để hội nhập vào thị trường EU, ngành dệt may Vn phải tăng tốc trên nhiều lĩnh vực, xây dựng cho được hình ảnh công ty với chất lượng sản phẩm thiết kế mẫu mốt, dịc vụ, môi trường và quan hệ lao động tốt, liên kết với nhà sản xuất có nhãn hiệu của EU, tạo thương hiệu riêng chỏan phẩm Vn dựa trên đó. Bên cạnh rất nhiều cơ hội khi tham gia vào thị trường Eu. Các doanh nghiệp Vn sẽ gặp phải không ít khó khăn, thách thức. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải nô lực rất nhiều trong việc tìm kiếm thị trường, nghiên cứu kỹ thị trường EU, đầu tư sản xuất, đào tạo đội ngũ cán bộ có khả năng quản lý sản xuất, kinh doanh công nhân có kỹ thuật cao, lành nghề, nang cao chất lượng sản phẩm phù hợp yêu cầu của thị trường EU. ngoài ra, sự quan tâm, đường lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước là hết sức cần thiết , có tính chất quyết định đến sự thành bại của các doanh nghiệp VN khi tham gia vào thị trường phức tạp và cạnh tranh ác liệt như EU. Ngoài việc tạo môi trường pháp lý như triển khai ký kết, điều chỉnh bổ sung các hiệp định tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cần tháo gỡ những ách tắc còn tồn tại, đơn giản các thủ tục liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Có như thế ngành dệt may nước ta mới có thể phát huy được một cách bền vững, nhanh chóng đạt được mục tiêu đề ra , đưa ngành dệt may nước ta sớm có chỗ đứng trên thị trường EU nói riêng và thị trường thế giới nói chung.
Tài liệu tham khảo
Sách:
1.Giáo trình kinh tế Thương mại NXB thống kê- 2001
2.Giáo trình Thương mại quốc tế. NXB Thống Kê năm 1997.
3.Giáo trình Kinh tế quốc tế. NXB Thống kê năm 1999.
4.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
NXB Chính trị Quốc gia
5.Hướng phát triển thị trường xuất khẩu VN tới 2010.
Phạm Quyền, Lê MinhTâm, NXB- thống kê - 1997
Tạp chí:
1. Thương mại VN
2. Kinh tế và phát triển.
3. Kinh tế phát triển.
4. Thời báo kinh tế VN
5. Thương nghiệp thị trường VN
6. Kinh tế Châu á Thái Bình Dương
7. Nghiên cứu Châu Âu.
8.Ngoại thương
9.Công nghiệp
10.Kinh tế và dự báo
11.Thị trường giá cả
12.Con số sự kiện
13.Kinh tế Thế giới
14.Nghiên cứu Kinh tế.
15.Thông tin tài chính.
Và các nguồn thông tin khác từ Intenet.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35343.doc