- Mô hình liên kết dạy nghề giữa nhà trường và các cơ sở doanh nghiệp được thành lập trong nhà trường. Các doanh nghiệp có thể thu nạp cơ sở đào tạo để cơ sở trực tiếp cung cấp cho doanh nghiệp những nhân viên hoặc công nhân hợp qui cách. Gọi “thu nạp” nghĩa là công ty cung cấp tài chính cho cơ sở đào tạo và đưa ảnh hưởng của mình sâu trong nội bộ cơ sở đào tạo. Các cơ sở phải bồi dưỡng và huấn luyện cho doanh nghiệp những nhân viên hoặc công nhân mới, phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thay vì bỏ tiền ra để tự thực hiện các chương trình đào tạo, thì thực hiện thu nạp các cơ sở đào tạo và biến nó thành nơi bồi dưỡng và huấn luyện phục vụ cho công ty mình.
- Mô hình liên kết dạy nghề giữa doanh nghiệp và nhà trường nghề thành lập tại doanh nghiệp. Nhiều công ty, có sức hút và tầm nhìn xa, trực tiếp mở mang các loại giáo dục để phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và trở thành đối thủ có sức cạnh tranh mạnh mẽ đối với các cơ sở đào tạo truyền thống. Ở Mỹ, họ gọi là “giảng đường công ty”. Các kế hoạch huấn luyện và giáo dục được mở trong nội bộ xí nghiệp thật rộng rãi. Công ty và các hiệp hội đứng ra cấp học hàm và học vị cho học viên.
Năm là, các doanh nghiệp cần tìm hiểu kĩ các thông lệ, công ước, tập quán thương mại quốc tế, luật chống bán phá giá của đối tác để khắc phục tình trạng bị các doanh nghiệp nước ngoài lợi dụng sự kém hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam nhằm trục lợi trong các vụ kiện. Đồng thời kiện toàn hệ thống sổ sách, rõ ràng, minh bạch về xuất xứ hàng hóa, chi phí và giá thành sản phẩm xuất khẩu để tránh gặp phải các vụ kiện chống bán phá giá mà những nước bị coi là nền kinh tế phi thị trường như chúng ta thường phải chịu thiệt thòi.
35 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may trong điều kiện đã là thành viên chính thức của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uống 12%, quần áo từ 50% xuống 20%, sợi từ 20% xuống 5%.
Bảng các cam kết thực hiện Hiệp định tự do hoá theo ngành:
Hiệp định tự do hóa theo ngành
Số dòng thuế
Thuế suất MFN
Thuế suất cam kết cuối cùng
1. Hiệp định công nghệ thông tin ITA- tham gia 100 %
330
5.2%
0%
2. Hiệp định hài hòa hóa chất CH- tham gia 81%
1300/1600
6.8%
4.4%
3. Hiệp định thiết bị máy bay dân dụng- tham gia hầu hết
89
4.2%
2.6%
4. Hiệp định dệt may TXT- tham gia 100%
1170
37.2%
13.2%
5. Hiệp định thiết bị y tế ME- tham gia 100%
81
2.6%
0%
Ngoài ra, tham gia không đầy đủ một số Hiệp định khác như thiết bị khoa học, thiết bị xây dựng…
1.4. Các mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế ngay từ đầu năm 2007.
Gồm 1.812 dòng thuế, chiếm 17% biểu thuế; mức cắt giảm bình quân 44% so hiện hành. Đây là các mặt hàng đang có thuế suất cao từ 30% trở lên và chủ yếu là hàng tiêu dùng nên đa số người dân sẽ được hưởng lợi; Riêng ngành dệt may có mức cắt giảm thuế tương đối lớn, sẽ có tác động quan trọng tới sản xuất và giá cả của nhóm dệt may.
Bảng cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo một số nhóm mặt hàng chính:
Ngành hàng / Mức thuế
Thuế suất MFN (%)
Cam kết với WTO
Thuế suất khi gia nhập (%)
Thuế suất cuối cùng (%)
Thời gian thực hiện
Dệt May (thuế suất bình quân)
37.3
13.7
13.7
Ngay khi gia nhập ( thực tế đã thực hiện theo hiệp định dệt may với Mỹ và EU )
1.5. Về vấn đề hạn ngạch:
Các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với ta khi vào WTO, riêng trường hợp ta vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trả đũa nhất định. Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của ta.
1.6. Theo cam kết với Mỹ, Việt Nam phải bãi bỏ quyết định về tăng tốc dệt may.
Theo đó, Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển và một số cơ chế chính sách hỗ trợ thực hiện Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 sẽ được bãi bỏ. Trong phiên đàm phán cuối cùng với Mỹ về việc gia nhập WTO hồi đầu tháng 5/2006. Dệt may là vấn đề căng thẳng nhất và đây là điểm cuối cùng được thảo thuận trong quá trình đàm phán của hai bên. Phía Mỹ đã bảy tỏ lo lắng về khả năng tăng trưởng xuất khẩu quá mức của dệt may Việt Nam sau khi vào WTO sẽ ảnh hưởng đến ngành công nghiệp này của Mỹ. Trong đó, Mỹ đã đưa ra dẫn chứng là Quyết định 55 và cho rằng Việt Nam hỗ trợ cho phát triển dệt may và yêu cầu bãi bỏ điều này. Đây là một sự hiểu lầm về tác động của Quyết định 55, nhưng để đạt được mục tiêu sớm kết thúc đàm phán gia nhập WTO nên Việt Nam chấp nhận bỏ quyết định này. Vì vậy, việc chấm dứt hiệu lực của QĐ 55 chính là bước thực hiện cam kết của Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO. Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 126/2006/QĐ - TTg chấm dứt hiệu lực Quyết định 55/2001/QĐ-TTg ngày 23-4-2003 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển và một số cơ chế hỗ trợ thực hiện Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam. Theo Quyết định 55/2001/QĐ-TTg, tổng nguồn vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2001-2005 khoảng 35.000 tỷ đồng, giai đoạn 2006-2010 khoảng 30.000 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư phát triển vùng nguyên liệu trồng bông đến năm 2010 khoảng 1.500 tỷ đồng. Tại quyết định này, Chính phủ quy định một số biện pháp hỗ trợ ngành dệt may phát triển như hỗ trợ vốn cho các dự án quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, xây dựng cơ sở hạ tầng các cụm công nghiệp dệt, ưu đãi tín dụng cho các dự án ở một số lĩnh vực nhất định. Việc bãi bỏ Quyết định 55/2001/QĐ-TTg nhằm đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các ngành, các doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện mới, nhất là việc gia nhập WTO.
Chương II. Thực Trạng Hoạt Động Xuất Nhập Khẩu Hàng Dệt May Của Việt Nam.
1. Thực trạng xuất nhập khẩu hàng dệt may trước khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO.
Ngành Dệt May Việt Nam đã có sự tăng trưởng nhanh trong thời gian qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may luôn dẫn đầu trong nhóm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam chỉ đứng sau dầu thô và được xem là ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có hơn 1000 nhà máy dệt may, thu hút số lượng lớn lao động , chiếm đến 22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp và tăng không ngừng hàng năm.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 55/2001/QĐ-TT, xác định phát triển ngành Dệt May trở thành một trong những ngành trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu. Chỉ tiêu đặt ra đối với ngành là đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu 8-9 tỷ USD. Từ số liệu của Tổng cục Thống kê về doanh thu, lợi nhuận, thuế và tỷ lệ tăng trưởng so với năm trước, cho thấy tốc độ tăng trưởng của doanh thu, lợi nhuận toàn ngành luôn ở mức cao nhưng đã báo hiệu có khuynh hướng giảm sút.
Năm 2005, sau khi bãi bỏ hiệp định ACT, Dệt May Việt Nam đã có một năm khó khăn. Xuất khẩu toàn ngành chỉ đạt khoảng 4,85 tỷ USD ( theo Cục Kinh tế ), mức tăng trưởng 10,4% so với năm 2004. Trong đó, xuất khẩu sang Mỹ tăng 5,2%; sang EU tăng 17,33%; sang Canađa tăng 65,71%. Đáng chú ý, xuất khẩu trong những tháng cuối năm sang thị trường Mỹ và EU tăng mạnh trở lại. Tuy chưa đạt kế hoạch, nhưng kim ngạch kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may được coi là khá ấn tượng trong bối cảnh cạnh tranh rất khốc liệt, đặc biệt khi mà Việt Nam vẫn còn bị áp đặt hạn ngạch của thị trường Mỹ trong khi các nước thành viên WTO đã được bãi bỏ hạn ngạch từ ngày 1/1/2005. Khi Việt Nam gia nhập WTO, toàn bộ hạn ngạch đối với hàng dệt may phải được loại bỏ, hàng dệt may sẽ được giao thương như các loại hàng hoá thông thường khác trong khuôn khổ quy định của WTO. Khi đó dệt may Việt Nam sẽ có nhiều lợi thế nhưng đồng thời cũng đứng trước nhiều thách thức, đặc biệt vấn đề đặt ra là đến năm 2008 khi sự hạn chế đối với hàng dệt may của Trung Quốc hết hiệu lực, liệu các doanh nghiệp Việt Nam có tiếp tục đứng vững và phát triển, đạt được mục tiêu đã đặt ra không?
Theo số liệu được tổng hợp cuối năm 2006, kim ngạch xuất nhập khẩu của toàn ngành dệt may đạt một con số rất ấn tượng 5,9 tỷ USD, tăng 22% với năm 2005, đóng góp 17% GDP của Việt Nam. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ đạt 3,044 tỷ USD, tăng 16,97% so với năm 2005. Cơ chế phân bổ hạn ngạch rõ ràng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ được thuận lợi, hạn ngạch ở các Cat hầu như đều hoàn thành 100%. Năm 2006 là năm rất thành công đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU tăng tới 37% so với năm 2005, đạt 1,243 tỷ USD. Kết quả xuất khẩu năm 2006 sang EU cao nhất từ trước tới nay. Trong khi hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu tăng mạnh sang Mỹ và EU, thì xuất khẩu sang Nhật Bản lại tăng chậm, còn xuất khẩu tới Đài Loan lại giảm. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản chỉ tăng 3,93%, đạt 627 triệu USD. Đây là một thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Bởi các doanh nghiệp phải thực hiện hai nhiệm vụ, tăng trưởng xuất khẩu sang Mỹ và EU trong khi vẫn phải duy trì và tăng trưởng xuất khẩu vào Nhật Bản. Trước những rào cản từ thị trường Mỹ thì Nhật Bản vẫn luôn là một trong những khách hàng thích hợp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong năm 2007 và những năm sau. Trong khi xuất khẩu sang Đài Loan - khách hàng truyền thống và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam lại không duy trì được tiến độ, giảm so với năm 2005 chỉ đạt 181 triệu USD, thì xuất khẩu sang các thị trường khác lại tăng mạnh, cụ thể xuất khẩu sang Hàn Quốc tăng 67%, đạt 82 triệu USD, xuất khẩu sang Nga tăng 30%, đạt 62 triệu USD, xuất khẩu sang Canada tăng 20%, đạt 97 triệu USD, xuất khẩu sang UAE tăng 35,1%, đạt 27 triệu USD... Ngoài ra, xuất khẩu hàng dệt may sang các nước trong khu vực ASEAN cũng tăng khá như Malaixia tăng 37%; Singapore tăng 28,5%; Campuchia và Indonesia tăng kỷ lục… Cùng với đó, xuất khẩu sang các nước châu Á khác cũng tăng mạnh như Hồng Kông tăng 14,8%. Nhưng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang một số thị trường như Trung Quốc giảm 9,9%; Ôxtraylia giảm 5%...
Hiện nay, ngành may Việt Nam vẫn chủ yếu thực hiện phương thức gia công cho các hãng nước ngoài. Theo phương thức này, các hãng nước ngoài đặt gia công sẽ cung cấp mẫu mã sản phẩm và các nguyên phụ liệu chủ yếu, các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng lao động và cơ sở vật chất của mình, tổ chức quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt hàng và nhận tiền gia công theo đơn giá và sản phẩm đã nghiệm thu. Phương thức này thích hợp với điều kiện năng lực kỹ thuật, vốn và tiếp cận thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế. Tuy độ rủi ro trong sản xuất kinh doanh thấp, nhưng hiệu quả kinh tế mà các doanh nghiệp thu được cũng thấp kém, vì các doanh nghiệp chủ yếu xuất khẩu “sức lao động”. Để hiểu sâu hơn về ngành dệt may, chúng ta có thể tham khảo kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may một số năm trước đây.
Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may
( triệu USD )
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Xuất khẩu
1881.9
1975.9
2732.0
3609.1
4385.6
4850.0
5917.0
Thiết bị, phụ tùng
---
242.6
325.1
402.3
---
---
---
Bông
90.4
15.4
111.6
105.4
190.2
---
---
Xơ dệt
89.1
1119.1
119.0
158.7
---
---
---
Sợi dệt
273.3
228.4
272.6
317.5
338.8
---
---
Vải các loại
761.3
880.2
1523.1
1805.4
1926.7
---
---
Phụ liệu may
971.4
1036.2
1069.2
1264.9
2252.7*
---
---
* Tính cả phụ liệu cho giày dép.
Nguồn: Niên giám thống kê.
2. Thực trạng xuất nhập khẩu hàng dệt may sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO.
Việc Việt Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2006 đã đánh dấu một bước ngoặt, ngành Dệt may Việt Nam có cơ hội bình đẳng với các nước trên thế giới trong việc xuất khẩu hàng dệt may, đồng thời chế độ hạn ngạch áp dụng với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ được bãi bỏ.
Tính đến hết tháng 11/2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 7 tỷ USD, tăng 32% so với cùng kỳ năm 2006, chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu. Dự kiến, xuất khẩu dệt may năm 2007 đạt khoảng 7,8 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2006. Như vậy, đến cuối năm 2007 mặt hàng dệt may sẽ vượt dầu thô, lần đầu tiên trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất. Trong đó, thị trường Hoa Kỳ chiếm vị trí chủ đạo, đạt 4,4-4,5 tỷ USD, chiếm 56% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, tăng 32%. Tiếp theo là EU, đạt khoảng 1,45 - 1,5 tỷ USD, chiếm 18%, tăng khoảng 20%. Thị trường Nhật Bản đạt khoảng 700 triệu USD, chiếm 9%, tăng khoảng 12%.
Thị trường Hoa Kỳ hiện chiếm khoảng 53.4% kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam, trong tháng 8/ 2007, xuất khẩu sang Mỹ đạt 466 triệu USD, tăng 4,87% so với tháng 7/07 và tăng tới 36% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây cũng là thời điểm xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ bứt phá mạnh trong năm ngoái và tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao trong những tháng cuối năm 2006 và 8 tháng của năm 2007. Dự đoán, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của VN vào Mỹ sẽ đạt 4,3 tỉ USD, tăng gần 26,5% so với năm 2006, có mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay và sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao trong các tháng cuối năm 2007.
Thị trường EU, trong 9 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU tăng 6%, đạt hơn 608 triệu USD. Đức là nước nhập khẩu nhiều mặt hàng dệt may nhất của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Đức chiếm tới 27% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tiếp đến là Vương quốc Anh, tăng 54% so với cùng kỳ, đạt 105 triệu USD, chiếm 17% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang các nước thành viên trong khối EU tăng trưởng khá. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sang các nước như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Italia… giảm và kim ngạch xuất khẩu tăng sang các nước như Anh, Bỉ, Cộng hòa Séc, Ba lan… Mức độ sụt giảm ở từng nước là khá thấp, riêng chỉ có xuất sang Italia là giảm mạnh nhất, giảm tới 42% đạt 25 triệu USD. Đây là điểm khá thuận lợi cho hàng dệt may Việt Nam trong thời gian tới.
Thị trường Nhật Bản, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tháng 10/2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 64,8 triệu USD, tăng 4% so với tháng trước và 9% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 10 tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may sang Nhật Bản đạt 588,7 triệu USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2006.
Thành công của dệt may Việt Nam trong năm 2007 vừa qua không chỉ dừng lại ở việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào ba thị trường chính là Mỹ, EU và Nhật Bản, mà còn mở rộng xuất khẩu sang nhiều thị trường khác như Canada, Mexico, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ… đặc biệt phải kể đến là Thổ Nhĩ Kỳ. Từ đầu năm 2007, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ chính thức dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam. Nhờ vậy, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ từ đầu năm 2007 đến nay liên tục đạt mức tăng trưởng rất cao. Theo số liệu thống kê, tháng 10/2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Thổ Nhĩ Kỳ tăng 811,54%, đạt 2,37 triệu USD, đưa kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Thổ Nhĩ Kỳ trong 10 tháng năm 2007 đạt 31,73 triệu USD, tăng 584,94% so với cùng kỳ năm 2006. Điều này khẳng định hàng dệt may của Việt Nam có sức cạnh tranh rất lớn trên thị trường Thổ Nhĩ Kỳ. Hiện nay, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành 1 trong 10 thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của nước ta, sau Mỹ, EU, Nhật Bản, Đài Loan, Canada, Hàn Quốc, Nga, Mêhicô và Trung Quốc. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Thổ Nhĩ Kỳ mới chỉ chiếm 0,5% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.
3. Những tác động đến lĩnh vực dệt may.
3.1. Những cơ hội của ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO.
Thứ nhất, Ngành dệt may Việt Nam được hưởng lợi từ việc bài bỏ hạn ngạch và giảm thuể nhập khẩu vào một số thị trường, từ đó có cơ hội mở rộng thị trường.
Khi Việt nam gia nhập WTO, các nước thành viên WTO sẽ phải bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Khi đó các doanh nghiệp dệt may có thể xuất khẩu theo khả năng của mình mà không còn lo ngại về hạn ngạch ở bất kỳ thị trường nào. Bên cạnh đó các doanh nghiệp dệt may cũng có cơ hội thâm nhập mạnh hơn vào thị trường nước ngoài, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu. Ngoài các thị trường xuất khẩu chính là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, các doanh nghiệp còn có cơ hội thâm nhập vào một số thị trường khác như: Canada, Mexico, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ… Cụ thể là xuất khẩu sang Đài Loan tăng 13% , sang Canada, Mexico, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông… đều có mức tăng trưởng từ 20% - 50%. Riêng xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ tăng gấp 5 lần năm ngoái.
Thứ hai, Môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài.
Khi vào WTO, Việt Nam cam kết thực hiện áp dụng và giám sát hệ thống luật của mình theo những nguyên tắc quốc tế: minh bạch, hợp lý, công bằng và đồng bộ. Bên cạnh đó chúng ta cũng tích cực cải thiện môi trường đầu tư. Hiện nay, hiệp hội Dệt may Việt Nam đã và đang xây dựng một số chương trình trọng điểm cho ngành dệt may đến năm 2010. Cụ thể:
- Tập trung đầu tư sản xuất xơ sợi tổng hợp để đủ sức cung ứng cho nhu cầu dệt;
- Phát triển bông xơ sợi nội địa;
- Đầu tư phát triển 1 tỷ mét vải phục vụ may mặc xuất khẩu vào năm 2015;
- Chương trình nâng cao chất lượng ngành dệt, nhộm; xây dựng 3 khu công nghiệp dệt nhuộm có hạ tầng cấp nước sạch và xử lý nước thải để thu hút đầu tư.
Thời gian vừa qua cũng đã có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào ngành dệt may của Việt Nam, tuy nhiên chủ yếu là đầu tư vào các ngành công nghiệp phụ trợ, giúp cho Việt Nam chủ động hơn trong sản xuất sản phẩm, giảm bớt sự phụ thuộc vào nước ngoài cũng như đầu tư công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thứ ba, giảm chi phí xuất khẩu gắn với việc phân bổ hạn ngạch, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu.
Chi phí phân bổ hạn ngạch chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí xuất khẩu của Việt Nam. Chi phí do hạn ngạch sinh ra đối với mặt hàng dệt xuất khẩu sang US/Canada chiếm 6.9% tổng chi phí, đối với mặt hàng may mặc vào hai thị trường này là 7.1% và chi phí do hạn ngạch sinh ra khi xuất khẩu sang EU đã là 7.5% đối với mặt hàng dệt và 7.2% đối với mặt hàng may mặc. Khi gia nhập WTO, với việc các thành viên WTO phải bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sẽ có điều kiện giảm giá xuất khẩu do không phải mất chi phí do việc cấp hạn ngạch gây ra.
Tỷ trọng chi phí do hạn ngạch gây ra trong tổng chi phí XK:
US/Canada (%)
EU (%)
Dệt
May mặc
Dệt
May mặc
Bangladesh
15.3
8.1
8.4
7.3
Trung Quốc
20.0
33.0
12.0
15.0
Hồng Kông
1.0
10.0
1.0
5.0
Hungary
6.9
5.0
0
0
Ấn Độ
9.8
34.2
12.0
15.2
Indonesia
8.1
7.8
6.3
6.0
Philippin
6.5
7.8
5.7
6.0
Balan
6.9
5.0
0
0
Sri Lanka
15.3
8.3
5.5
6.6
Thái Lan
8.3
13.2
6.4
7.8
Thổ Nhĩ Kỳ
7.0
4.9
1.5
0
Việt Nam
6.9
7.1
7.5
7.2
Các nước trung Âu khác
6.9
5.0
0
0
(Nguồn: Hildegunn Kyvik Nordas (2004), The Global Textile and Clothing Industry post the Agreement on Textiles and Clothing, WTO – Cẩm nang hội nhập).
Thứ tư, Gia nhập WTO, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam được bảo vệ bởi các công cụ giải quyết tranh chấp của WTO.
Khi đã là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam sẽ được hưởng nguyên tắc đối xử tối huệ quốc MFN và nguyên tắc đối xử quốc gia NT. Quy chế tối huệ quốc có nghĩa là tất cả hàng hóa, dịch vụ và công ty của các thành viên WTO đều được hưởng một chính sách chung bình đẳng. Quy chế đối xử quốc gia có nghĩa là không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa, dịch vụ và các công ty của mình với hàng hóa, dịch vụ và các công ty của nước ngoài trên thị trường nội địa. Hai nguyên tắc này cho phép đảm bảo sự đối xử bình đẳng giữa các thành viên với nhau trên cả thị trường trong nước và trên thế giới.
Ngoài ra, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng được hưởng cơ chế giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO, tránh tinh trạng bị chèn ép, áp đặt đơn phương như trước đây.Khi đó các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có cơ hội cạnh tranh bình đẳng như bất kỳ quốc gia thành viên nào khác của WTO.
Thứ năm, Gia nhập WTO đảm bảo tiến trình cải cách hoàn thiện hơn, có hiệu quả hơn, từ đó đẩy nhanh quá trình làm thủ tục xuất khẩu hàng dệt may ra nước ngoài cũng như nhập khẩu nguyên liệu vào trong nước.
Cơ chế hạn ngạch làm nảy sinh những vấn đề xã hội như nạn tham nhũng, tiêu cực và sách nhiễu doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp có năng lực sản xuất và chất lượng hàng hóa tốt lại không có cơ hội xuất khẩu do không có hạn ngạch. Việc xóa bỏ hạn ngạch của các nước đối với Việt Nam khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ góp phần giải quyết dứt điểm tình trạng này, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trong việc xuất khẩu hàng dệt may và góp phần nâng cao uy tín về chất lượng hàng dệt may trên thị trường thế giới. Mặt khác, nước ta đã áp dụng biện pháp cải cách hành chính theo cơ chế một cửa, giúp các doanh nghiệp làm thủ tục hải quan và thông quan hải quan nhanh chóng. Ngoài ra thì việc ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin cũn giúp cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng quản lý, năng suất lao động và làm việc có hiệu quả hơn.
3.2. Thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO.
Thứ nhất, các chính sách hỗ trợ của Chính phủ dành cho ngành sẽ không còn và hàng rào thuế quan bảo hộ doanh nghiệp ở thị trường nội địa cũng mất gần hết.
Ngành dệt may trước khi Việt Nam gia nhập WTO được hưởng các hình thức trợ cấp: ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ kinh phí cho hoạt động xúc tiến thương mại. Khoản ưu đãi lớn nhất mà ngành dệt may nhận là được vay vốn từ Quỹ Tín dụng ưu đãi của Chính phủ để thực hiện các dự án đầu tư. Bên cạnh đó, ngành còn được hỗ trợ chi phí xúc tiến thương mại lấy từ khoản lệ phí hạn ngạch do doanh nghiệp nộp, thưởng xuất khẩu cho một số doanh nghiệp có thành tích tốt.
Tuy nhiên sau khi gia nhập, Việt Nam cam kết bãi bỏ ngay từ thời điểm gia nhập các hình thức trợ cấp dưới dạng cấp phát tiền trực tiếp cho doanh nghiệp theo doanh số xuất khẩu khi tham gia các chương trình xúc tiến thương mại. Như vậy, tác động đối với ngành dệt may đến từ việc Việt Nam sẽ phải cắt giảm 3 hình thức ưu đãi còn lại: ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư. Như vậy, ngành dệt may sẽ nhận được ít hỗ trợ hơn từ phía Chính phủ, do đó sẽ bị ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia nhập.
Trước đây, số tiền hỗ trợ thực tế mà một số doanh nghiệp nhận được cũng không lớn. Trong bốn năm qua toàn ngành chỉ vay được khoảng 110 triệu Đôla Mỹ tín dụng ưu đãi và tổng số tiền Chính phủ chi để bù lãi suất cho khoản vay này chỉ khoảng 4 triệu Đôla Mỹ mỗi năm. Nếu tính thêm gần 1 triệu đô la Mỹ để thưởng xuất khẩu và hỗ trợ chi phí xúc tiến thương mại, thì mỗi năm ngành được trợ cấp chưa đầy 5 triệu đô la Mỹ. Một số doanh nghiệp nhà nước có được cấp bổ sung vốn lưu động, bình quân gần 1 triệu đô la Mỹ/năm, chỉ đáp ứng 3,8% nhu cầu. Nhưng trên thực tế, số tiền các doanh nghiệp ngành dệt, may phải nộp cho Nhà nước thông qua các khoản phí và lệ phí còn cao hơn nhiều lần so với những gì họ được nhận. Riêng phí sử dụng hạn ngạch xuất khẩu đi Mỹ, mỗi năm Nhà nước thu của họ tới 10 triệu đô la Mỹ (từ năm 2006 khoản lệ phí này đã được bỏ). Ngoài ra, doanh nghiệp trong nước còn phải nộp thay cho công nhân lệ phí công đoàn bằng 2% tổng quỹ lương (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không phải đóng lệ phí này). Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) đang sử dụng khoảng 100.000 lao động và tiền lệ phí công đoàn phải đóng hàng năm gần 36 tỉ đồng, đây không phải là một khoản tiền nhỏ.
Như vậy, việc bãi bỏ hoặc cắt giảm các hình thức trợ cấp hiện tại sẽ ảnh hưởng đến ngành dệt may. Nhưng mức độ ảnh hưởng cụ thể còn tùy thuộc vào khả năng chủ động, lường trước khó khăn và chủ động điều chỉnh chính sách sản xuất và xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
Thứ hai, hàng dệt may sản xuất trong nước có thể bị cạnh tranh mạnh hơn do thuế giảm.
Trước khi gia nhập WTO, thuế nhập khẩu hàng may mặc vào Việt Nam là 50%, thuế nhập khẩu vải là 40%, thuế nhập khẩu sợi là 20%. Sau khi gia nhập WTO, tất cả phải giảm xuống 2/3 ( khoảng 10-15% ), là mức chung của các thành viên WTO. Như vậy, các doanh nghiệp dệt may sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh lớn trên thị trường nội địa. Bên cạnh đó, ngành dệt sẽ gặp nhiều khó khăn nhất, vì khoảng cách về trình độ phát triển giữa ngành dệt Việt Nam và các nước khá xa. Nếu xếp theo thang điểm 10, thì ngành dệt Việt Nam chỉ đạt khoảng 3-3,5 điểm, nghĩa là nằm ở nửa sau của thế giới. Hiện nay, đến 80% nguyên, phụ liệu cung cấp cho ngành may xuất khẩu là từ nước ngoài. Điều này cho thấy phần nào năng lực cạnh tranh kém cỏi của ngành dệt Việt Nam. Nếu tình hình này không sớm được cải thiện, các doanh nghiệp dệt có khả năng mất luôn chỗ đứng ở thị trường nội địa trong tương lai gần. Hiện nay hầu hết hàng dệt may nước ngoài có mặt tại Việt Nam là hàng Trung Quốc giá rẻ nhập lậu, nhất là hàng may sẵn. Do vậy, các nhà sản xuất trong nước sẽ phải cạnh tranh với Trung Quốc nhập khẩu, đặc biệt là vải Trung Quốc vì lúc này thuế suất giảm xuống chỉ còn 10%. Đối với nhóm quần áo và đồ may sẵn, việc cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu là cơ hội để các thương hiệu quần áo may sẵn đẩy mạnh hoạt động tại thị trường Việt Nam. Mặt khác, hệ thống bán buôn, bán lẻ hàng vải sợi may mặc trong nước chưa có tổ chức, bản thân các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại chưa tạo được các kênh tiêu thụ ngay, để thả nổi cho một số tư thương làm giả nhãn mác một số công ty có uy tín. Do vậy, để các nhà sản xuất hàng dệt may Việt Nam làm chủ được thị trường nội địa, nên không có biện pháp nào khác ngoài việc phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông, bán buôn và bán. Vấn đề mấu chốt trong cuộc cạnh tranh này là kênh phân phối và thương hiệu, vốn là những lĩnh vực yếu của doanh nghiệp Việt Nam. Kết quả cuộc cạnh tranh là gì? Là các thương hiệu may sẵn của Việt Nam sẽ nhường chỗ cho các thương hiệu nước ngoài và sự sụt giảm lượng khách đáng kể tại các nhà may do nhu cầu sử dụng hàng hiệu giá rẻ tăng cao.
Bên cạnh đó, khi vào WTO Việt Nam phải dành mức thuế MFN cho hàng dệt may nhập khẩu từ tất cả các nước thành viên WTO khác và thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo đúng cam kết. Đồng thời, Việt Nam cũng phải đối xử với hàng dệt may nhập khẩu từ tất cả các nước thành viên khác theo nguyên tắc NT, tức là không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu và hàng nội địa.
Thứ ba, những thách thức mang tính chính sách như rào cản kĩ thuật, rào cản thương mại.
- Nguy cơ bị áp dụng các biện pháp tự vệ.
Việc gia nhập WTO một mặt làm tăng cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là sang các thị trường đang áp dụng hạn ngạch đối với Việt Nam, nhưng mặt khác cũng kèm theo nguy cơ bị các thành viên, đặc biệt là các thành viên lớn như Hoa Kỳ, EU áp dụng biện pháp tự vệ. Trên nguyên tắc thỏa thuận thương mại song phương với Hoa Kỳ thì khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ không bị áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt, nhưng do dệt may thuộc nhóm hàng đặc biệt nhạy cảm, hơn nữa quan hệ thương mại có thể chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố phi thương mại nên mặc dù hiện tại xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản chỉ chiếm thị phần dưới 3% nhưng nếu có sự tăng trưởng xuất khẩu nhanh trong thời gian ngắn, không loại trừ khả năng các nước này có thể sử dụng biện pháp tự vệ để hạn chế nhập khẩu. Từ đó có khả năng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao và ảnh hưởng xấu tới ngành dệt may.
Ngoài ra, sức ép về các rào cản phi thương mại bao gồm: các rào cản mang tính chất kỹ thuật, chính sách bảo hộ của các quốc gia nhập khẩu hàng dệt may lớn, yêu cầu về thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, yêu cầu về đạo đức kinh doanh… cũng tác động không nhỏ tới các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may của Việt Nam.
- Nguy cơ bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã phải đương đầu với nhiều vụ tranh chấp thương mại với một số nước lớn như: vụ kiện thương hiệu cá da trơn và vụ kiện bán phá giá tôm ở Mỹ, vụ kiện bán phá giá xe đạp và giày ở EU, vụ kiện bán phá giá bật lửa ga ở Hàn Quốc… Đặc biệt nếu như tình trạng các doanh nghiệp tranh mua, tranh bán, chủ động giảm giá xuất khẩu để cạnh tranh vẫn còn diễn ra thì rất có khả năng các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ bị kiện chông bán phá giá như đã từng xảy ra trước đây.
Thứ tư, nguồn lao động trong ngành dệt may chắc chắn sẽ bị chia sẻ, giá lao động sẽ tăng lên, cạnh tranh trong việc thu hút lao động cũng sẽ gay gắt hơn.
Trước đây, Việt Nam vẫn được coi là có lợi thế về giá nhân công rẻ. Nhưng hiện nay, lao động trong ngành dệt may có mức thu nhập thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung, do đó tình trạng người lao động không còn thiết tha với ngành dệt may trở nên phổ biến, nhiều công nhân may đã bỏ nghề chuyển sang các khu vực khác như ngân hàng, khách sạn có mức thu nhập cao hơn. Ưu thế về chi phí nhân công thấp không còn nổi trội so với các quốc gia khác. Ngành công nghiệp phụ trợ lại yếu càng khiến doanh nghiệp dệt may Việt Nam khó cạnh tranh hơn.
Thứ năm, Chính phủ Mỹ áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may Việt Nam.
Ngày 11/1/2007 là ngày mà cả nước vui mừng với sự gia nhập của Việt Nam vào Tổ chức thương mại thế giới WTO, nhưng đây cũng chính là ngày Chính phủ Hoa Kỳ chính thức triển khai chương trình giám sát hàng dệt may xuất khẩu từ Việt Nam. Chương trình này đã tạo nên một sự lo lắng lớn cho cả ngành dệt may Việt Nam. Chương trình này đã và đang tạo ra nhiều tác hại trực tiếp và lâu dài đến ngành dệt may. Mặc dù cơ chế này mới dừng ở việc theo dõi số liệu xuất khẩu của Việt Nam và cứ 6 tháng một lần đánh giá số liệu nhưng nó đã làm ảnh hưởng đáng kể tới tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường này và đã làm cản trở các kế hoạch đầu tư nâng cao năng lực các doanh nghiệp dệt may trong nước và nước ngoài, ngăn cản các khách hàng vào đặt hàng tại Việt Nam qua đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong những năm tiếp theo. Nhiều khách hàng đã giảm bớt đơn hàng cũng như chuẩn bị rút khỏi Việt Nam trong trường hợp Bộ Thương mại Hoa Kỳ đưa ra những nhận xét bất lợi trong đợt giám sát đầu tiên vào tháng 8/2007.
Trước tình hình đó, các doanh nghiệp trong ngành dệt may đã tích cực hợp tác với các cơ quan quản lý và hành động vì quyền lợi chung của cả ngành, không để xảy ra nguy cơ bị điều tra chống bán phá giá do đơn giá xuất khẩu suy giảm. Kết quả, ngày 26/10/2007 Bộ thương mại Hoa Kỳ đã công bố đánh giá số liệu giám sát nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2007 và quyết định không tự khởi động điều tra chống bán phá giá đối với hàng dệt may Việt Nam tại kỳ đánh giá thứ nhất. Tuy nhiên, chương trình giám sát vẫn được duy trì và sẽ tiếp tục đánh giá số liệu 6 tháng tiếp theo vào tháng 3 năm 2008. Và cho đến nay, Bộ Thương mại Hoa Kỳ vẫn chưa đưa ra bất kỳ một hành động cụ thể nào nhằm giảm bớt tác động tiêu cực của Chương trình Giám sát đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam như: không giảm bớt diện mặt hàng trong diện bị giám sát và cũng không nêu các tiêu chí điều kiện cụ thể làm cơ sở tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam. Khả năng cơ chế giám sát của Hoa kỳ được duy trì cho đến hết năm 2008. Theo các chuyên gia kinh tế, thị trường Hoa Kỳ là một thị trường lớn đầy trắc trở và tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hàng dệt may Việt Nam.
Bên cạnh đó, đối thủ lớn nhất của dệt may Việt Nam tại thị trường Hoa kỳ và EU là Trung Quốc. Trước đây khi Trung Quốc gia nhập WTO, hàng dệt may Trung quốc đã ồ ạt vào hai thị trường nay khiến cả Mỹ và EU đều phải áp đặt hạn ngạch đối với hàng dệt may Trung Quốc. Nhưng theo dự kiến thì EU sẽ bãi bỏ hạn ngạch với hàng dệt may Trung Quốc vào năm 2008, và Mỹ sẽ bãi bỏ vào năm 2009. Điều này gây bất lợi cho hàng dệt may Việt Nam.
Chương III. Phương Hướng Và Giải Pháp Thúc Đẩy Xuất Khẩu Hàng Dệt May Trong Điều Kiện Đã Là Thành Viên Chính Thức Của WTO.
1. Định hướng xuất khẩu hàng dệt may đến năm 2010.
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam - Vitas, mục tiêu kim ngạch xuất khẩu của ngành là 13-15 tỷ USD vào năm 2010, tăng từ 8 tỷ USD năm 2008. Để đạt được chỉ tiêu đề ra, các nhà sản xuất hàng dệt may trong nước đang phấn đấu tăng tỷ lệ nội địa hóa lên 50% và giá trị gia tăng lên 50% trong 3 năm tới. Hiệp hội cũng khuyến khích các công ty dệt may địa phương khai thác các thị trường truyền thống hơn nữa như Mỹ, EU và Nhật Bản và tìm kiếm thêm các thị trường mới và thúc giục các công ty địa phương tập trung xây dựng thương hiệu, tăng cường xúc tiến thương mại, nâng cao chất lượng sản phẩm và cải tiến mẫu mã thiết kế, tiếp thị và quản lý.
1.1. Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.
Năm 2008 và những năm tiếp theo, các nước xuất khẩu hàng dệt may Châu Á lớn như Trung Quốc đang đi vào chiến lược nâng cao đẳng cấp, chất lượng, lại được bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu vào đầu năm 2008 ở thị trường EU và đầu năm 2009 ở thị trường Hoa Kỳ và các nước châu Á khác như Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Srilanka, Campuchia… cũng đang tăng tốc xuất khẩu. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh lớn cho hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Tại 3 thị trường xuất khẩu trọng điểm : Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản đều đang có nhiều trở ngại mà VN phải vượt qua.
Hoa Kỳ, một thị trường lớn đầy trắc trở: Hiện nay xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào Hoa Kỳ mới chiếm khoảng 3,26% tổng hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ và đứng thứ tư sau Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia. Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ bị phía Hoa Kỳ đối xử thiếu công bằng so với các nước khác là thành viên WTO như áp dụng cơ chế hạn ngạch đến đầu năm 2007, và sau đó thay thế bằng Chương trình Giám sát hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Mặc dù cơ chế này mới dừng ở việc theo dõi số liệu xuất khẩu của Việt Nam và cứ 6 tháng một lần đánh giá số liệu nhưng nó đã làm ảnh hưởng đáng kể tới tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường này và đã làm cản trở các kế hoạch đầu tư nâng cao năng lực các doanh nghiệp dệt may trong nước và nước ngoài, ngăn cản các khách hàng vào đặt hàng tại Việt Nam qua đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, thị trường này vẫn tiềm ẩn những rủi ro do Chương trình Giám sát vẫn được duy trì và sẽ tiếp tục đánh giá số liệu 6 tháng tiếp theo vào tháng 3 năm 2008. Hiện nay theo số liệu xuất khẩu dệt may 9 tháng sang Hoa kỳ mà Hải quan Hoa Kỳ công bố, giá xuất khẩu trung bình hàng tháng đã có xu hướng giảm xuống và lượng xuất khẩu có xu hướng tăng lên, thêm vào đó yếu tố chính trị nội bộ của Hoa Kỳ làm tăng thêm nguy cơ khiến các nhà nhập khẩu càng e ngại trong việc đặt hàng tại Việt Nam, cản trở đáng kể tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may trong năm tới. Vì vậy, theo Hiệp hội dệt may, các doanh nghiệp cần hợp tác chặt chẽ với các nhà nhập khẩu lớn Hoa Kỳ, thực hiện các đơn hàng có chất lượng và giá cao, lưu ý tránh nhận những đơn hàng đơn giản, giá trị thấp làm ảnh hưởng đến mức giá bình quân của cả nước, là cơ sở để phía Hoa Kỳ tự khởi kiện chống bán phá giá.
Thị trường EU, chưa khai thác hết tiềm năng: Thị trường EU là thị trường tiềm năng và truyền thống của hàng dệt may Việt Nam, trong những năm gầy đây luôn đứng vị trí thứ hai, sau thị trường Hoa Kỳ. Thị trường này với nhiều thị trường ngách có mức sống và nhu cầu hàng dệt may rất đa dạng từ hàng có phẩm cấp thấp đến hàng có chất lượng cao phù hợp năng lực sản xuất nhiều thành phần của Việt Nam. Tuy nhiên, với việc mất giá của đồng Đô la Mỹ so với đồng Euro là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu sang thị trường này. Năm 2008, EU sẽ bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc, và sẽ áp dụng một hệ thống giám sát ''kiểm tra kép'' để theo dõi việc cấp phép xuất khẩu hàng dệt may tại Trung Quốc và việc nhập khẩu mặt hàng này vào EU. Điều này ít nhiều cũng sẽ ảnh hưởng đối với xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị trường này, tuy nhiên Việt Nam và các nước xuất khẩu dệt may khác vẫn phải cạnh tranh gay gắt với ngành dệt may Trung Quốc do hạn chế về số lượng đã bị xóa bỏ, nhất là Trung Quốc có năng lực cạnh tranh lớn do chủ động được nguyên phụ liệu và có khả năng đáp ứng nhiều loại phẩm cấp hàng hoá. Tuy nhiên, do duy trì tốt thị trường này trong những năm qua, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn có cơ hội không chỉ giữ vững thị trường mà có mức tăng trưởng.
Nhật Bản thị trường đầy triển vọng: Thị trường Nhật Bản trong năm 2007, đã đạt được tiêu chí xuất xứ "hai công đoạn" với mặt hàng dệt may trong EPA với 6 nước ASEAN ( Singapore, Malaysia, Philipin, Indonesia, Bruney và Thái Lan ) trong năm 2007 và các nước này đã được hạ mức thuế quan xuống 0%. Do đó Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với chính các nước trong khu vực do thuế của Việt Nam vào thị trường Nhật bản vẫn là khoảng 10%. Mặc dù, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam Nhật bản (VJEPA) đang được đàm phán và phía Nhật yêu cầu hàng dệt may Việt Nam muốn được hưởng mức thuế ưu đãi 0% thì hàng dệt may Việt Nam phải đảm bảo yêu cầu xuất xứ "hai công đoạn'' rất ngặt nghèo là phải sản xuất từ nguyên liệu sản xuất tại Việt Nam, của Nhật hoặc từ các nước ASEAN. Việc hưởng ưu đãi từ hiệp định này của các doanh nghiệp dệt may gặp nhiều khó khăn vì ngành dệt may Việt Nam mặc dù đạt kim ngạch XK cao nhưng hiện phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu và trên 80% nguồn nguyên phụ liệu hiện được nhập khẩu từ ngoài Nhật, ASEAN do đó sẽ không được hưởng ưu đãi thuế của phía Nhật Bản. Còn nếu Việt Nam không đáp ứng được quy tắc xuất xứ do Nhật Bản đưa ra, thì rất có thể thị phần hàng dệt may của ta tại thị trường này sẽ giảm do phải chịu thuế cao, đồng thời phải cạnh tranh với hàng hóa từ Trung Quốc và 6 nước Asean.
Trước tình hình này, một giải pháp nhằm tăng thị phần hàng dệt may Việt Nam tại thị trường Nhật Bản được đề xuất là sử dụng quy tắc xuất xứ cộng gộp Asean - Nhật Bản, bằng cách dùng nguyên liệu dệt (vải) NK từ các nước Asean hoặc từ Nhật Bản để sản xuất. Thực hiện phương án này, theo các chuyên gia thương mại, Việt Nam sẽ đáp ứng được các tiêu chí phía Nhật đưa ra, và DN dệt may nước ta sẽ được hưởng mức thuế suất là 0% khi NK vào Nhật Bản. Điều này sẽ giúp hàng dệt may Việt Nam cạnh tranh được với hàng hóa không chỉ từ các nước Asean khác mà còn từ Trung Quốc về giá cả ( do hàng Trung Quốc không được giảm thuế ). Hơn nữa, việc thực hiện quy tắc cộng gộp còn thúc đẩy nguồn nguyên liệu dệt trong Asean và Nhật Bản, tăng cường hợp tác trong Asean. Đặc biệt, nó sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn cho ngành dệt may nước ta, tăng thị phần trên thị trường Nhật, tạo nhiều việc làm mới và thu hút đầu tư của Nhật vào ngành dệt nước ta, từ đó tăng cường tính cạnh tranh toàn cầu của ngành dệt may Việt Nam. Mặc dù vậy, các chuyên gia khuyến cáo, điều quan trọng nhất là các doanh nghiệp trong ngành phải tính toán kỹ càng và nêu lên được ý kiến cụ thể rút ra từ chính thực tiễn hoạt động của mình để Việt Nam có thể đạt được những thỏa thuận tối ưu nhất sau đàm phán EPA.
1.2. Phát triển công nghiệp thời trang.
Thực tế, trong những năm qua, ngành dệt may của Việt Nam chủ yếu là gia công hàng hóa và xuất khẩu qua nước thứ ba, nên hàm lượng giá trị gia tăng còn thấp, thương hiệu sản phẩm dệt may chưa thực sự khẳng định được tên tuổi. Ngành dệt may Việt Nam hiện nay không thể cứ tiếp tục phát triển dựa vào nguồn nhân công giá rẻ, tay nghề khéo léo mà cần phải chuyển sang giai đoạn mới, đó là khai thác phần giá trị tăng thêm trong sản phẩm. Một trong những cách khai thác tốt nhất giá trị tăng thêm là phải tự thiết kế sản phẩm, xây dựng thương hiệu, tổ chức bán hàng và các dịch vụ về thời trang, từ đó biến ngành dệt may thành một ngành công nghiệp thời trang đúng nghĩa. Trong đó công việc thiết kế thời trang là một công việc đòi hỏi phải đầu tư cả công sức và tiền bạc rất lớn mà kết quả không phải lúc nào cũng đạt được như ý muốn. Đặc biệt khi mà trình độ thiết kế thời trang của Việt Nam vẫn còn non kém, chưa có những trường dạy chuyên nghiệp, lực lượng những nhà thiết kế trẻ dù đã được đào tạo nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng.
Ông Justin Huang, Tổng thư ký Liên đoàn Dệt may Đài Loan cho biết, cách đây hơn 10 năm, ngành may mặc của Đài Loan cũng tương tự như Việt Nam hiện nay, phần lớn làm hàng gia công và khâu thiết kế rất yếu. Tuy nhiên, nhận thức được tầm quan trọng của việc phải tăng giá trị gia tăng cho hàng hóa, Đài Loan mạnh dạn đầu tư lớn cho việc đào tạo đội ngũ thiết kế chuyên nghiệp. Phương pháp họ đưa ra là gửi nhân lực sang những trung tâm thời gian lớn của thế giới như Paris (Pháp), New York (Mỹ) và Tokyo (Nhật Bản) để học tập và nghiên cứu. Ông còn nhấn mạnh: “Ngành may mặc của Việt Nam rất có tiềm năng phát triển. Tôi đã tới TP HCM và Hà Nội. Tôi thấy người Việt Nam rất quan tâm tới lĩnh vực thời trang và khá cầu kỳ trong cách ăn mặc. Nếu tăng được năng lực thiết kế, tương lai ngành dệt may VN sẽ rất tươi sang”.
2. Giải pháp cho ngành dệt may Việt Nam.
2.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nước.
Một là, đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư chuyển tiếp, các dự án di dời, dự án đầu tư mới để tăng năng lực sản xuất, cũng như khả năng cạnh tranh, đặc biệt là các dự án sản xuất vải, các dự án sản xuất nguyên phụ liệu. Năm 2008, tập trung xây dựng hai trung tâm nguyên phụ liệu tại huyện Ðông Anh (Hà Nội) và Thủ Ðức (TP Hồ Chí Minh). Một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho giá cả của ngành dệt may Việt Nam kém cạnh tranh hơn so với các nước khác như: Ấn Độ, Trung Quốc…là do chúng ta phải nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài, trong khi đó Việt Nam lại có diện tích đất nông nghiệp khá lớn, khí hậu khá thuận lợi để trồng những cây nguyên liệu phục vụ cho ngành dệt. Vậy tại sao chúng ta lại không chú trọng phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ cho dệt may?
Hai là, đẩy mạnh hoạt động của Hiệp hội dệt may, thật sự là chỗ dựa cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nghiên cứu và thiết lập các tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp thông lệ quốc tế để bảo vệ các doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước. Có những giải pháp chiến lược tổng thể giúp doanh nghiệp chống lại những vụ kiện bán phá giá phi lý. Đại hội Hiệp hội Dệt may Việt Nam vừa qua có sáng kiến thành lập 11 uỷ ban chuyên trách để đảm trách từng chuyên đề đối với sự phát triển của ngành dệt may. Nhiệm kỳ trước đây, tất cả công việc đều do Ban thường vụ và Ban chủ tịch giải quyết nên nhiều vấn đề không thể giải quyết một cách triệt để và dứt điểm. Chính vì thế, việc lập ra 11 uỷ ban lần này là giúp cho từng thành viên, đặc biệt là những người đứng đầu Ủy ban nâng cao trách nhiệm và đồng thời có từng nhóm hành động để họ tập trung vào từng vấn đề riêng.
Ba là, Bộ Công thương phối hợp Bộ Ngoại giao và Ðại sứ quán Việt Nam tại Mỹ tiếp tục làm việc với Bộ Thương mại Hoa Kỳ theo hướng giảm bớt tác động, ảnh hưởng của Chương trình giám sát hàng dệt may như: giảm bớt mặt hàng bị giám sát, minh bạch hóa các tiêu chí điều kiện tự khởi động điều tra chống bán phá giá... Phối hợp với Tổng cục Hải quan hoàn thiện hệ thống nối mạng điều hành, tăng cường kiểm tra việc cấp C/O điện tử tránh gian lận xuất xứ...
Bốn là về công tác xúc tiến thị trường, Bộ Công Thương đã thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ cho các ngành hàng, các doanh nghiệp, tuy nhiên, các chương trình đó vẫn chưa xứng với tầm vóc của ngành dệt may Việt Nam. Vì vậy, Bộ cần phải xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại quy mô lớn, tầm cỡ hơn cho riêng ngành dệt may và giao cho Cục Xúc tiến thương mại chủ trì thực hiện bởi các doanh nghiệp dệt may không thể chấp nhận những chương trình xúc tiến thương mại nhỏ bé mà cần những chương trình lớn. Thí dụ Ủy ban về chính sách sẽ tập trung vào những vấn đề về chính sách phát triển cho ngành dệt may và đối phó với các chính sách thương mại từ các nước khác, cụ thể là vấn đề chống giám sát hàng dệt may sang Mỹ hiện nay. Như vậy, ngành dệt may sẽ có hẳn một ủy ban phụ trách về vấn đề này mà không phải tập trung mọi việc vào Ban chấp hành.
2.2. Nhóm giải pháp về phía các doanh nghiệp dệt may.
Một là, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần gửi người ra nước ngoài đào tạo, tiếp cận với xu hướng thời trang tại các thị trường mục tiêu. Song, đây là một kế hoạch dài hạn, để đào tạo được những nhà thiết kế giỏi, chuyên nghiệp không phải là chuyện một sớm một chiều. Vì thế, trước mắt sẽ mời các chuyên gia thiết kế nước ngoài sang hợp tác, giúp đỡ trong khâu thiết kế và cả đào tạo. Giải pháp này nhằm khắc phục tình trạng đa số hàng dệt may xuất khẩu của chúng ta đều là hàng gia công chế biến, giá trị gia tăng thấp, mẫu mã kém đa dạng, đặc sắc… Nhưng một vấn đề đặt ra khi chú trọng đến khâu thiết kế thời trang và xây dựng thương hiệu thì sẽ phải đầu tư công nghệ, hơn thế nữa đội ngũ thiết kế ở nước ta trình độ thấp do đó còn phải mất chi phí đào tạo đội ngũ này, mất chi phí xây dựng thương hiệu… mà điều này không phải doanh nghiệp nào cũng làm được. Hiện nay chỉ có một số ít doanh nghiệp ở nước ta đã làm được điều này như: Việt Tiến, May Mười, May Nhà Bè…
Hai là, các doanh nghiệp cần tiếp tục đa dạng hóa thị trường, giữ vững và duy trì các thị trường truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, tiếp tục đổi mới cơ cấu sản phẩm, tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao, quan tâm đầu tư mẫu mã, thiết kế thời trang; Bộ Công thương tiếp tục hoàn chỉnh, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2015, có xét đến năm 2020. Triển khai thực hiện ba Chương trình: sản xuất 1 tỷ mét vải xuất khẩu; đào tạo nguồn nhân lực; phát triển cây bông có tưới.
Ba là, Các doanh nghiệp cần phải liên kết chặt chẽ với nhau không những chỉ trong nước mà ngay cả các nước khu vực lân cận để tăng sức cạnh tranh, nhất là khi gia nhập WTO thì các hàng rào thuế quan bị xóa bỏ, hàng nước ngoài sẽ vào Việt Nam nhiều hơn, với giá rẻ hơn do thuế giảm. Thị trường trong nước lâu nay bị bỏ ngỏ để cho hàng Trung Quốc tràn ngập thị trường với mẫu mã đa dạng, giá lại rẻ hơn hàng Việt Nam, trong khi đó các doanh nghiệp nước ta chỉ lo tới việc xuất khẩu mà bỏ quên thị trường đầy tiềm năng này, do vậy các doanh nghiệp cần phải đầu tư cơ sở sản xuất kỹ thuật, tận dụng lợi thế sân nhà, củng cố và mở rộng mạng lưới phân phối để giữ vững thị trường nội địa, đồng thời liên kết lại với nhau để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước. Một trong những điểm yếu lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam là mảng phân phối. Hiện nay ở Việt Nam, các cửa hàng nhỏ chiếm tới 70%, còn các cửa hàng tự chọn của các công ty bán lẻ chưa phát triển. Sau khi vào WTO sẽ có nhiều công ty bán lẻ nước ngoài nhảy vào Việt Nam và cạnh tranh trong cùng một sân chơi. Khi đó sức ép về giá đối với sản phẩm dệt may là khá lớn. Đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải liên kết với nhau để có thể chống lại những tác động xấu từ môi trường bên ngoài.
Bốn là, các doanh nghiệp Dệt may cần coi trọng việc đào tạo nguồn nhân lực công nghệ, tiếp thị và quản trị doanh nghiệp chuyên ngành dệt may, đồng thời có chính sách để thu hút thêm nguồn nhân lực giỏi…đây là một trong những việc quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Một thực trạng hiện nay là nguồn nhân lực cung ứng cho ngành dệt may vốn đã thiếu thời gian gần đây càng thiếu trầm trọng, nhiều doanh nghiệp dệt may không thể tuyển đủ công nhân để đảm bảo đơn hàng đã nhận dẫn đến tình trạng tranh giành lao động của nhau giữa các doanh nghiệp dệt may. Một nguyên nhân cơ bản khiến cho tỷ lệ di chuyển của lao động trong các doanh nghiệp dệt may luôn ở mức quá cao từ 18 - 27 % ( so với tổng số lao động ), thậm chí có doanh nghiệp dệt may mức biến động lên đến 30-40%, tỷ lệ tuyển mới ( so với tổng số lao động ) trên mức 35%, là do tốc độ phát triển quá nhanh của ngành, ngày càng có nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may ra đời dẫn đến nhu cầu sử dụng lao động ngày càng cao, bên cạnh đó thu nhập của người lao động trong ngành quá thấp ( thường ở dưới mặt bằng thu nhập chung ) nên lao động có xu hướng dịch chuyển sang các ngành dịch vụ có thu nhập cao hơn. Để giải quyết tình trạng này cần có mô hình liên kết đào tạo nguồn nhân lực giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo. Mô hình liên kết đào tạo giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp là một loại mô hình lý thuyết song trong đó phản ánh mối quan hệ xã hội, quan hệ đào tạo và kinh tế tồn tại trong hiện thực hoạt động do đó nó có tính hiện thực khách quan và là mô hình có thực mang tính lý tưởng vận hành trong đời sống xã hội. Ở Mỹ, để thể hiện mối liên kết này người ta đưa ra thuật ngữ “Công ty hóa trường đại học” (company universities) để chỉ các cơ sở đào tạo có đặc điểm như để người có kinh nghiệm công tác xí nghiệp làm hiệu trưởng, dùng phương thức “thị trường” để thu hút sinh viên giỏi, mời các học giả nổi tiếng đến dạy. Công ty hóa trường đại học là làm cho việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học trực tiếp hướng về sản xuất, về quản lý kinh doanh, nhờ đó cơ sở đào tạo có thể gia tăng thu nhập tài chính và không ngừng cải thiện điều kiện xây dựng trường, nâng cao địa vị của cơ sở đào tạo. Công ty hóa trường đại học làm cho mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và giáo dục ngày càng mật thiết. Cơ sở đào tạo và doanh nghiệp tương hỗ, tương lợi, bình đẳng về lợi ích trên phương diện dịch vụ, kỹ thuật do vậy mà tăng cường sự hợp tác giữa hai bên. Mô hình này bao gồm:
- Mô hình liên kết giữa nhà trường nghề và các doanh nghiệp bên ngoài. Có thể kể đến hình thức giữa công ty và nhà trường ký với nhau một khế ước cung cấp nhu cầu và bảo đảm việc làm cho các sinh viên tốt nghiệp. Năm 1982, gần 200 công ty, xí nghiệp của Boston (Mỹ) ký với trường quốc lập Boston bản “Khế ước Boston” nổi tiếng để giải quyết việc sinh viên chán học vì tìm việc làm khó khăn. Trong đó, cam kết đến năm 1989, tất cả những học sinh trung học có năng lực học tập và có trình độ toán học sau khi tốt nghiệp đều có thể tìm được một công việc thích hợp trong vùng.
- Mô hình liên kết dạy nghề giữa nhà trường và các cơ sở doanh nghiệp được thành lập trong nhà trường. Các doanh nghiệp có thể thu nạp cơ sở đào tạo để cơ sở trực tiếp cung cấp cho doanh nghiệp những nhân viên hoặc công nhân hợp qui cách. Gọi “thu nạp” nghĩa là công ty cung cấp tài chính cho cơ sở đào tạo và đưa ảnh hưởng của mình sâu trong nội bộ cơ sở đào tạo. Các cơ sở phải bồi dưỡng và huấn luyện cho doanh nghiệp những nhân viên hoặc công nhân mới, phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thay vì bỏ tiền ra để tự thực hiện các chương trình đào tạo, thì thực hiện thu nạp các cơ sở đào tạo và biến nó thành nơi bồi dưỡng và huấn luyện phục vụ cho công ty mình.
- Mô hình liên kết dạy nghề giữa doanh nghiệp và nhà trường nghề thành lập tại doanh nghiệp. Nhiều công ty, có sức hút và tầm nhìn xa, trực tiếp mở mang các loại giáo dục để phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và trở thành đối thủ có sức cạnh tranh mạnh mẽ đối với các cơ sở đào tạo truyền thống. Ở Mỹ, họ gọi là “giảng đường công ty”. Các kế hoạch huấn luyện và giáo dục được mở trong nội bộ xí nghiệp thật rộng rãi. Công ty và các hiệp hội đứng ra cấp học hàm và học vị cho học viên.
Năm là, các doanh nghiệp cần tìm hiểu kĩ các thông lệ, công ước, tập quán thương mại quốc tế, luật chống bán phá giá của đối tác để khắc phục tình trạng bị các doanh nghiệp nước ngoài lợi dụng sự kém hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam nhằm trục lợi trong các vụ kiện. Đồng thời kiện toàn hệ thống sổ sách, rõ ràng, minh bạch về xuất xứ hàng hóa, chi phí và giá thành sản phẩm xuất khẩu để tránh gặp phải các vụ kiện chống bán phá giá mà những nước bị coi là nền kinh tế phi thị trường như chúng ta thường phải chịu thiệt thòi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí kinh tế và phát triển
2. Tạp chí thương mại
3. Tạp chí kinh tế đối ngoại
4. Kinh tế Việt Nam năm 2005 - NXB Đại học Kinh tế quốc dân
5. Kinh tế Việt Nam năm 2006 - NXB Đại học Kinh tế quốc dân
6. WTO Văn Kiện Việt Nam Gia Nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới – NXB Lao động xã hội.
7. Một số Website:
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12646.doc