Sự phát triển kinh tế xã hội nào rút cuộc cũng nhằm những mục tiêu xã hội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng (tăng trưởng kinh tế) còn bao hàm cả những thay đổi về chất (những biến đổi về mặt xã hội) "Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khoẻ và bình đẳng về cơ hội là tất cả những yếu tố cơ bản của sự phát triển kinh tế. Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn."(World Bank, Development and Enviroment, World Development Report 1992, Oxford University1992). Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của K.Marx là một thành tựu khoa học của loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng quát của lịch sử nhân loại và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn thấp nhất của nó là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không đối lập với sự phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ xã hội của sự phát triển. Nó là cách thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân lao động, của toàn thể xã hội, là sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu công bằng và văn minh. Sự phát triển chỉ đem lại sự giàu có và sự thống trị của tư bản, của một số ít người trong xã hội thì sự phát triển đó mang tính chất tư bản chủ nghĩa, là sự phát triển cổ điển. Sự phát triển đem lại sự giàu có, phồn vinh, hạnh phúc cho đại đa số nhân dân lao động, cho toàn thể xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc của nhân dân lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của cả xã hội, của toàn xã hội, của toàn dân tộc, là sự phát triển mang tính chất xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Nghĩa là, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò kinh tế thị trường cũng như những mặt tích cực và tiêu cực của nó. Việc chuyển từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là một bước ngoặt trong nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH của Đảng ta. Văn kiện đại hội VIII khẳng định rằng " sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng". Vì vậy chúng ta không chỉ sử dụng kinh tế thị trường mà phải "đi vào kinh tế thị trường", "vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường", phải " tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường" (hàng hoá và dịch vụ, sức lao động, bất động sản, vốn, chứng khoán.) nghĩa là phải xây dựng, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên trong khi chủ trương phát triển kinh tế thị trường, Đảng ta cũng nhận thấy "kinh tế thị trường có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của CNXH". Đó là xu hướng tự phát, " mù quáng" trong sản xuất, tăng nhanh phân hoá giàu nghèo, chạy theo lối sống thực dụng, sùng bái đồng tiền, hạ thấp giá trị nhân phẩm, đạo đức, phát triển các tệ nạn xã hội, huỷ hoại môi trường sinh thái v.v. Những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường đang thâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội. Đó cũng chính là mâu thuẫn mà chúng ta gặp phải trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. Chúng ta không thể loại trừ mâu thuẫn đó chừng nào còn kinh tế thị trường, mà phải chấp nhận nó để giải quyết nó theo hướng phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước nhằm giữ vững định hướng XHCN, hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Thông qua chính sách, pháp luật và các công cụ điều tiết vĩ mô, nhà nước thực hiện kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, xác định những lĩnh vực không thể đơn thuần theo cơ chế thị trường (như văn hóa, giáo dục, y tế.), bảo vệ môi trường sinh thái để phát triển bền vững. Đó chính là thể hiện cụ thể định hướng XHCN đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta.
46 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1737 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TTT bất kỳ, trừu tượng, càng không chủ trương xây dựng mô hình KTTT tư bản chủ nghĩa, mà chủ trương xây dựng mô hình KTTT định hướng XHCN, tất yếu phải lấy định hướng XHCN làm chủ đạo. Hơn nữa, KTTT mặc dù có nhiều yếu tố tích cực, song vẫn có một số tiêu cực nhất định, muốn phát huy yếu tố tích cực, hạn chế tiêu cực không thể không định hướng XHCN trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường. Xa rời nguyên tắc này sẽ làm cho việc xây dựng KTTT dễ đi chệch định hướng XHCN. Vì vậy, lấy định hướng XHCN làm chủ đạo trở thành nguyên tắc cơ bản chi phối lương tâm, trách nhiệm đối với các cấp, các ngành và các chủ doanh nghiệp trong việc ban hành và thực hiện các chủ trương, quyết định về sản xuất, kinh doanh trong tiến trình xây dựng KTTT ở nước ta.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là một nền kinh tế có trình độ phát triển ngày càng cao, có khả năng làm cho dân giàu nước mạnh, hay nói cách khác là nền kinh tế phồn thịnh. Quan hệ giữa con người với con người trong xã hội là bình đẳng, hay công bằng, dân chủ và xã hội ngày càng văn minh. Vì vậy, định hướng XHCN là định hướng đưa kinh tế- xã hội nước ta tiến tới phồn thịnh, bình đẳng và văn minh, và đó cũng chính là đặc trưng của nền kinh tế thị trường Việt Nam.
KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế bao gồm nhiều thành phần , trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác trở thành nền tảng. Và kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều vận động theo định hướng chung và theo khuôn khổ pháp luật của nhà nước XHCN.
Nền kinh tế thị trường phải được xây dựng trên cơ sở đa dạng hóa loại hình và hình thức sở hữu, đa dạng hoá hình thức kinh tế hay hình thức kinh doanh
Hiện nay ở nước ta có 3 loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, và trong mỗi loại hình lại có những hình thức sở hữu khác nhau. Ba loại hình sở hữu là sở hữu quốc gia; sở hữu nhóm, tập thể; và tư hữu. Loại sở hữu quốc gia có các hình thức như ngân sách, các quỹ quốc gia, kinh tế doanh nghiệp nhà nước. Loại sở hữu tập thể, nhóm có các hình thức kinh tế hợp tác xã, tư bản nhà nước và kinh tế hỗn hợp khác. Loại sở hữu tư nhân bao gồm kinh tế tư nhân sản xuất lớn và kinh tế tư nhân sản xuất nhỏ.
Phạm trù kinh tế Nhà nước hiện có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó có ý kiến coi kinh tế Nhà nước như là một thành phần kinh tế, có ý kiến thứ hai cho rằng, kinh tế Nhà nước không phải là một thành phần kinh tế mà là tài sản của một quốc gia. Nội dung kinh tế của nó gồm ngân sách nhà nước, các quỹ mà quốc gia nắm giữ, sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy, sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế Nhà nước, của sở hữu quốc gia. Không nên đặt kinh tế nhà nước ngang với các hình thức tổ chức kinh doanh khác.
Về vấn đề hình thức kinh tế hay hình thức tổ chức kinh doanh. Trong dự thảo nêu lên 6 hình thức tổ chức kinh doanh (hình thức kinh tế). Hình thức kinh tế hay hình thức kinh doanh là kiểu tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên một hình thức sở hữu nhất định. ở nước ta hiện nay có những hình thức kinh tế chủ yếu sau đây :
Hình thức kinh tế Nhà nước
Hình thức kinh tế tập thể hay hợp tác xã, gọi tắt là hợp tác xã.
Hình thức kinh tế hỗn hợp hay tư bản nhà nước, gọi tắt là doanh nghiệp hỗn hợp, gồm cả hình thức kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Hình thức kinh tế tư nhân sản xuất lớn, gọi tắt là tư bản tư nhân.
Hình thức kinh tế tư nhân sản xuất nhỏ, gọi tắt là kinh tế cá thể.
Trong kinh tế , doanh nghiệp là nơi làm giàu cho đất nước. Sứ mệnh của nó là sinh lợi cho nền kinh tế quốc dân. Một đất nước muốn phát triển thì doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả, có lãi để thực sự đóng góp cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên mỗi loại hình kinh tế đóng góp vai trò nhất định trong quá trình sinh lợi cho nền kinh tế. Hiện nay, ở nước ta còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Theo tôi cho rằng, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, bởi lẽ nó tạo ra hiệu quả kinh tế xã hội cho toàn nền kinh tế thông qua việc cung cấp hàng hoá công cộng và mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Các hình thức kinh tế khác có vai trò trực tiếp sinh lợi cho nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế định hướng XHCN, mục tiêu căn bản nhất là bình đẳng xã hội vì những đặc điểm có tính nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, hay nói gọn hơn là phồn thịnh, bình đẳng và văn minh thì nhân tố bình đẳng là cốt lõi. Vì vậy, tính chất chủ đạo của nền kinh tế này không phải là hiệu quả kinh tế đơn thuần, mà là hiệu quả kinh tế- xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước cũng là một đơn vị sản xuất hàng hoá, song cái chính yếu nhất là nó phải là người cung cấp những hàng hoá công cộng cho nền kinh tế, mở đường, dẫn dắt, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển, nó trở thành công cụ để Nhà nước có thể khắc phục được những khuyết tật của thị trường, có như vậy mới thể hiện tính chất chủ đạo là hiệu quả kinh tế- xã hội.
KTTT định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường và dựa trên những nguyên tắc và bản chất của CNXH. Do đó, KTTT định hướng XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm các nhân tố của KTTT và nhóm các nhân tố của xã hội đang định hướng XHCN. Trong đó, nhóm các nhân tố của KTTT đóng vai trò như một động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, nhóm các nhân tố XHCN đóng vai trò hướng dẫn, chế định sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định. Xem như vậy thì có thể quan niệm rằng KTTT định hướng XHCN là một cơ thể sống giữa “ chủ thể”- KTTT, và sắc thái đặc thù của chủ thể đó- định hướng XHCN.
KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế "mở ". Độ "mở” của nền kinh tế tuỳ thuộc vào :
Bối cảnh quốc tế, khu vực và năng lực nội sinh của nền kinh tế trong quá trình vươn ra tiếp cận với nền kinh tế thế giới.
Năng lực tổ chức quản lý điều hành của nhà nước XHCN và khả năng “ nội sinh hoá” có hiệu quả các yếu tố “ngoại sinh” (vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, tri thức kinh doanh...) du nhập vào nước ta.
Như vậy sự hiện diện của nhà nước XHCN trong KTTT định hướng XHCN vừa với tư cách là “ bộ phận cấu thành trọng yếu” (kinh tế nhà nước), vừa với tư cách là chủ thể tổ chức, xây dựng quan hệ quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường.
Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển hướng tới đích XHCN của nền kinh tế theo phương châm : nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.
Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế, nhà nước cần hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật chính trị, cung - cầu, cạnh tranh; đảm bảo nguyên tắc vận hành của nền kinh tế thị trường " tự điều chỉnh" . Mặt khác, do thị trường trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ sát mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, do đó nó lại vừa chịu sự điều chỉnh, quản lý của nhà nước XHCN. Do vậy, không thể xem xét các quan hệ thị trường hoạt động theo quy luật kinh tế khách quan một cách độc lập hoàn toàn với kế hoạch hoá định hướng và các chính sách kinh tế của nhà nước.
Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN nêu ở trên thể hiện rõ các mặt cơ bản :
Một là, nhà nước XHCN - nhà nước của dân, do dân và vì dân, là nhân tố đóng vai trò "nhân vật trung tâm" và điều tiết nền kinh tế vĩ mô nhằm:
Tạo dựng và đảm bảo môi trường pháp lý, kinh tế... thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường.
Thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo công bằng xã hội.
Can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra.
Hai là, cơ chế thị trường là "nhân tố trung tâm" của nền kinh tế, đóng vai trò "trung gian" giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Một vấn đề quan trọng nữa là Nhà nước ta quản lý nền kinh tế và xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và của toàn thể nhân dân.
Có một số người cho rằng, khi chuyển sang KTTT thì Nhà nước đừng có can thiệp vào kinh tế và kế hoạch hoá vĩ mô của Nhà nước cũng không cần thiết nữa. Quan niệm đó là giản đơn, hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận, thực tiễn. Mọi người đều biết rằng, trong tất cả các mô hình kinh tế được đúc kết đến nay trên thế giới đều có hai dạng điều tiết kinh tế: thứ nhất, điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và các biện pháp hành chính; thứ hai, điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ và theo hướng kế hoạch do nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức của mỗi dạng trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hoá và thị trường đều có ưu thế và khuyết tật của nó.
Thực chất của vấn đề kế hoạch hóa thị trường, xét từ góc độ nhà nước, có thể được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, sẽ hợp lý và hiệu quả hơn nếu thông qua công cụ kế hoạch hoá mà nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều tiết sản xuất và điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Trong nền KTTT định hướng XHCN, quản lý kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ càng có thêm điều kiện giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguyên tắc về phân phối thu nhập
Sự thành công của nền KTTT định hướng XHCN, không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế, mà còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội.
Thể hiện đặc trưng xã hội trong nền KTTT định hướng XHCN là:
Xác định các chỉ tiêu hiệu quả cần đạt được của nền KTTT, như : tốc độ tăng trưởng GDP; các chỉ tiêu về phát triển giáo dục, y tế, việc làm, về xoá đói giảm nghèo, về văn hoá xã hội, đảm bảo môi trường, môi sinh...
Nâng cao chức năng xã hội của nhà nước XHCN trong chế độ bảo hiểm xã hội, trong chính sách phân phối thu nhập, đồng thời có chính sách đảm bảo xã hội đối với những đối tượng đặc biệt ( gia đình có công với cách mạng, thương binh, người tàn tật...)
Tình hình đó đặt ra cho nền KTTT định hướng XHCN phải thực hiện hài hoà ba vấn đề sau đây :
Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa đảm bảo cho các chủ thể của KTTT có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. Vì vậy, trong nền KTTT định hướng XHCN, mục tiêu hoạt động của KTTT rộng hơn, tức là ngoài mục tiêu lợi nhuận, các chủ thể tham gia KTTT đều phải tính đến các vấn đề xã hội, nếu không, chính lợi nhuận cũng sẽ bị triệt tiêu.
Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của CNXH và nguyên tắc của KTTT, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội... Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. Sự kết hợp đó tạo ra sự cùng tồn tại nhiều hình thức, nhiều cơ chế phân phối và phân phối lại thu nhập.
Điều tiết phân phối thu nhập, một mặt, đòi hỏi nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa người giàu và người nghèo...., mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội.
Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: Thứ nhất, nhà nước XHCN là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức điều tiết phân phối lại trên phạm vi toàn xã hội đảm bảo công bằng xã hội và bình đẳng phúc lợi cho toàn xã hội. Thứ hai, điều tiết phân phối thu nhập theo những nguyên tắc của thị trường, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Thực trạng và các mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta mới ở giai đoạn sơ khai, sự vận động của nền KTTT còn mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn, cơ chế vận hành nền KTTT còn thô sơ...nghĩa là chưa đạt đến trình độ KTTT hiện đại, thể hiện ở những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, trình độ phát triển của sản xuất hàng hoá thấp do phân công lao động xã hội kém phát triển. 80% dân cư sống ở nông thôn, 71% lực lượng lao động làm trong nông nghiệp và do đó, cơ cấu kinh tế lạc hậu và dịch chuyển chậm, nhất là cơ cấu kinh tế nông nghiệp : sản xuất lương thực vẫn là ngành chính chiếm đại bộ phận đất canh tác, tỷ suất hàng hoá lương thực thấp, chăn nuôi chưa trở thành ngành chính...
Thứ hai, tự do kinh doanh và cạnh tranh theo pháp luật- hai thế mạnh của cơ chế thị trường, chưa được quán triệt đầy đủ và thực thi hữu hiệu trên thị trường. Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành và chưa đồng bộ, thể chế thị trường chưa tạo môi trường ổn định và an toàn cho sản xuất-kinh doanh, đặc biệt là thể chế tài chính, tiền tệ, tín dụng.
Thứ ba, có nhiều chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia vào thị trường. Nhiều kiểu sản xuất hàng hoá cùng tồn tại đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ còn phổ biến.
Thứ tư, quá trình chuyển nền kinh tế tự cung, tự cấp lên kinh tế hàng hoá diễn ra đồng thời với quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang KTTT có sự quản lý của nhà nước. Hai quá trình đó có nội dung, yêu cầu khác nhau.
Thứ năm, sự hình thành thị trường trong nước gắn với việc mở rộng thị trường ngoài nước, với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, với việc mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế- xã hội của ta thấp hơn nhiều so với nước kinh tế phát triển. Vì thế, đây là thời cơ, đồng thời cũng là thách thức lớn đối với các nhà sản xuất hàng hoá.
Thứ sáu, quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu kém. “ Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính... đổi mới còn chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu đối với sản xuất. Chế độ phân phối thu nhập còn nhiều bất hợp lý. Bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn hơn. Lạm phát tuy được kìm chế nhưng chưa vững chắc” (Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII).
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nền kinh tế quá độ, nên nó không tránh khỏi những mâu thuẫn quá độ của nó. Sau đây là một số mẫu thuẫn và phương hướng giải quyết.
Một là, nền KTTT trong điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến như ở nước ta thì tất nhiên chưa thể thoát khỏi tính tự phát TBCN. Việc định hướng nền kinh tế nước ta đi lên CNXH không phải là sự nhận thức và vận dụng một cách tự giác xu hướng và quy luật khách quan của sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay. Như vậy, phát triển nền KTTT định hướng XHCN đã bao hàm sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập : tính tự phát và tính tự giác trong sự phát triển kinh tế- xã hội.
Trong thời gian hiện nay, tính tự phát vẫn còn là cái cần thiết và không tránh khỏi trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, trong việc giải quyết những khó khăn về việc làm, trong lưu thông hàng hoá, v.v... Tuy vậy, nếu để nền kinh tế phát triển chủ yếu là tự phát thì không thể thực hiện được những mục tiêu của CNXH. Còn hoạt động tự giác là hoạt động dựa trên sự nhận thức đúng đắn xu thế tất yếu và quy luật khách quan của đời sống xã hội, nhưng nếu có sai lầm trong nhận thức, nhất là sai lầm trên bình diện quốc gia thì hậu quả của nó thật khôn lường.Giải quyết mâu thuẫn giữa tính tự giác và tính tự phát trong phát triển kinh tế - xã hội là hết sức khó khăn phức tạp; không phải là trong một lúc có thể xoá bỏ hoàn toàn tính tự phát, biến mọi hoạt động của con người thành hoạt động tự giác, mà là phát huy ngày càng cao tính tự giác trên cơ sở nâng cao năng lực tổ chức, quản lý, phối hợp hoạt động trên bình diện xã hội, hạn chế dần lĩnh vực tự phát của hoạt động của con người trong xã hội.
Hai là, phát triển KTTT trong thời kỳ quá độ tức là chấp nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó có thành phần kinh tế TBCN, chấp nhận các hình thức sở hữu kinh doanh có thuê mướn lao động và có bóc lột sức lao động; trong khi đó , mục tiêu lâu dài của cách mạng XHCN là xoá bỏ bóc lột. ở đây, một số mối quan hệ có mâu thuẫn cần được nghiên cứu và giải quyết thoả đáng, đó là mối quan hệ giữa các lợi ích : ích lợi của người lao động và lợi ích của người thuê mướn lao động, mối quan hệ giữa sự phát triển của kinh tế tư nhân với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Không có cơ sở để khẳng định rằng, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, hình thức
kinh doanh có thuê mướn lao động sẽ ngày càng giảm đi. Cũng là sai lầm nếu cho rằng, chỉ có thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế hợp tác xã là phát triển theo định hướng XHCN và sẽ thay thế dần các thành phần kinh tế còn lại. Theo tôi, tất cả các thành phần kinh tế đều phát triển theo một định hướng duy nhất : định hướng XHCN. Cùng với sự trưởng thành của CNXH, các thành phần kinh tế có thuê mướn lao động sẽ giảm dần mức độ bóc lột của nó. Tất nhiên, điều này chỉ có thể và hoàn toàn có thể thực hiện được trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước XHCN, sự chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, sự lớn mạnh của thành phần kinh tế hợp tác.
Trong việc giải quyết mối quan hệ có mâu thuẫn giữa lợi ích người thuê mướn lao động và người lao động làm thuê, đó là sự kết hợp hài hoà các lợi ích : lợi ích của người lao động làm thuê , lợi ích của người thuê mướn lao động và lợi ích của nhà nước. Sự bất công trong mối quan hệ giữa các lợi ích đều có tác dụng kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế.
Nhà nước - bằng hệ thống luật pháp và chính sách kinh tế, xã hội của mình- vừa khuyến khích lợi ích chính đáng và tính tích cực, sáng tạo của những nhà kinh doanh, vừa hạn chế sự bóc lột và những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động kinh doanh của họ. Nhà nước thông qua nguồn thuế thu được và các khoản đóng góp khác từ các cơ sở kinh doanh mà mở rộng, phát triển các chương trình kinh xã hội. Tuy nhiên, sự điều tiết thu nhập thông qua các chính sách thuế, nếu không được thực hiện một cách hợp lý sẽ có tác động tiêu cực đến việc khuyến khích đầu tư. Kinh nghiệm của một số nước Bắc Âu trong những năm 80 cho thấy điều đó. Ngoài ra, nhà nước cần khuyến khích mọi cơ sở kinh doanh tham gia vào những công trình phúc lợi tập thể, tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động, tham gia vào hoạt động nhân đạo, v.v...
Ba là, một mặt phát triển KTTT trong điều kiện xuất phát từ sản xuất nhỏ thì xã hội chưa thể tránh khỏi những yếu tố của kinh tế thị trường TBCN, sự cạnh tranh (kể cả cạnh tranh không lành mạnh), sự phá sản, tình trạng thất nghiệp, sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng và các bộ phận dân cư, và nhất là không thể tránh khỏi những tệ nạn xã hội do mặt trái của KTTT gây ra dẫn đến sự bất bình đẳng và bất công xã hội. Mặt khác, định hướng XHCN không cho phép sự bất bình đẳng phát triển thành sự phân cực xã hội, không cho phép đẩy những người lao động vào tình trạng thất nghiệp, không thể chấp nhận tình trạng bất công, tiêu cực ngày càng gia tăng. Một mặt mâu thuẫn nữa lại xuất hiện : mâu thuẫn giữa bình đẳng, công bằng xã hội với tính cách là mục tiêu của CNXH với tình trạng bất bình đẳng, bất công không thể tránh khỏi do mặt trái của KTTT làm nảy sinh.
KTTT chỉ là phương tiện, là con đường để thực hiện các mục tiêu của CNXH. CNXH không chỉ phấn đấu đạt trình độ phát triển cao về đời sống vật chất và tinh thần,mà vấn đề quan trọng hơn là công bằng xã hội. Hơn nữa, không chỉ là công bằng xã hội, mà còn là bình đẳng xã hội.
Trong mô hình cũ của CNXH, quan niệm và thực hiện không đúng vấn đề bình đẳng xã hội đã dẫn đến tình trạng trì trệ của xã hội. Song điều đó không có nghĩa là lý tưởng về bình đẳng xã hội đã trở thành sai lầm, lỗi thời. Sự nghiệp đổi mới CNXH đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại vấn đề bình đẳng xã hội, quan hệ giữa công bằng và bình đẳng xã hội, nhưng không phải là từ bỏ mục tiêu phấn đấu cho bình đẳng xã hội. Trong định hướng XHCN của sự phát triển xã hội ta, tất nhiên có nhiều mục tiêu cần hướng tới, nhưng chắc chắn trong đó có vấn đề bình đẳng xã hội.
KTTT, tuy có mặt trái không thể tránh khỏi của nó, nhưng về cơ bản và lâu dài, nó là một trong những điều kiện để thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội. Trong điều kiện hiện nay, công bằng xã hội phải được hiểu ở cả hai mặt : mặt bình đẳng và mặt bất bình đẳng. Bên cạnh việc phấn đấu cho bình đẳng xã hội, chúng ta phải chấp nhận những bất bình đẳng hợp lý do yêu cầu khắt khe của KTTT. Chỉ có thể sự bình đẳng từng mặt, chứ chưa thể thực hiện được sự bình đẳng hoàn toàn. Trong thời kỳ quá độ, kể cả trong CNXH, chỉ có thể thực hiện bình đẳng về cơ hội ; còn về mặt hưởng thụ thì trước mắt chỉ có thể phấn đấu thực hiện bình đẳng ở sự thoả mãn một số nhu cầu cơ bản nhất, rồi dần dần phát triển lên.
Bốn là, lợi ích là một trong những động lực của tăng trưởng kinh tế; do đó, để thực hiện tăng trưởng kinh tế cần phải coi trọng mọi lợi ích : lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội. Trong thời kỳ quá độ và kể cả trong CNXH, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chẳng những không mất đi mà còn có những diễn biến phức tạp hơn. Điều này có thể chứng minh được một cách dễ dàng. Bởi vì, trong CNXH, mọi cá nhân sẽ có điều kiện tốt hơn để phát triển về năng lực và nhu cầu. Sự phát triển nhu cầu và lợi ích cá nhân tất yếu có mặt trái của nó. Mối quan hệ có mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, nếu không được giải quyết một cách đúng đắn sẽ biểu hiện thành những hiện tượng bất công xã hội. Trong mối quan hệ này, nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã hội sẽ mất đi một động lực to lớn của sự phát triển xã hội. Còn ngược lại, nếu cá nhân có lợi, nhưng lợi ích của xã hội bị vi phạm thì nạn nhân của sự bất công lại là cộng đồng xã hội. Chẳng hạn, vì lợi ích cá nhân ích kỷ mà trong sản xuất kinh doanh và trong các hoạt động xã hội khác, người ta có thể phá hoại môi trường sống, có thể làm tất cả những việc phi pháp, phi đạo đức, phi nhân tính, miễn là những việc làm đó đem lại thu nhập cao cho họ. Trong trường hợp này, khi một thiểu số cá nhân được hưởng lợi lớn thì cộng đồng xã hội lại phải gánh chịu những thiệt hại do cá nhân đó gây ra.
Chúng ta cần phân biệt lợi ích chính đáng với lợi ích ích kỷ của cá nhân. Lợi ích chính đáng của cá nhân là động lực phát triển của xã hội, là cái mà xã hội phải tôn trọng và phát huy; còn lợi ích ích kỷ của cá nhân là nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân dẫn đến sự thoái hoá, biến chất, ăn cắp, tham nhũng của một số không ít cán bộ trong bộ máy nhà nước. Nếu xã hội không có những biện pháp tích cực và có hiệu quả thì những tệ nạn bày chẳng những không giảm đi mà trái lại sẽ càng gia tăng, vì cùng với sự tăng trưởng kinh tế, của cải xã hội, phúc lợi tập thể sẽ tăng lên, và những thứ này lại được giao cho những cá nhân trực tiếp quản lý.
KTTT làm phát triển tâm lý chạy theo đồng tiền của một số bộ phận nhân dân ; nó mở ra khả năng cho một số người không lao động vẫn có thẻ hưởng được thành quả lao động của người khác. Họ làm bất cứ việc gì, kể cả những việc phi nhân đạo, để thu lợi, bất chấp hậu quả trước mắt và lâu dài của hoạt động đó. ở đây cần chỉ ra một đặc điểm của thị trường ở nước ta là thị trường chưa phát triển, chưa vững chắc; trong nhiều trường hợp,nó chưa đánh giá đúng chất lượng của sản phẩm và chất lượng của lao động. Nhiều khi làm hàng giả có lợi cho người sản xuất hơn làm hàng thật, kể cả trong lĩnh vực sản xuất văn hoá tinh thần. Chủ nghĩa cá nhân cũng là nguyên nhân của lối sống xa hoa, truỵ lạc, làm băng hoại những giá trị đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Như vậy trong điều kiện KTTT, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là điều có khả năng xảy ra và trên thực tế đã xảy ra ở một số bộ phận nhất định trong xã hội. Chủ nghĩa cá nhân là biểu hiện của tiêu cực của mâu thuẫn đó. Để giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, về cơ bản, phải kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, đồng thời phải chống lại những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân , nhất là chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội cũng có thể xuất hiện do những sai lầm trong chủ trương, chính sách của Nhà nước làm hạn chế, ngăn cản sự phát triển đa dạng, phong phú của nhu cầu,lợi ích cá nhân, làm suy giảm một cách đáng kể tích cực, sáng tạo của cá nhân. Đó cũng là một nguyên nhân của bất công xã hội, là tình trạng đã diễn ra trong mô hình cũ của CNXH.
Tóm lại, sự phát triển nền KTTT định hướng CNXH đang làm nảy sinh hàng loạt mâu thuẫn. Sự thành công của CNXH phụ thuộc phần lớn vào việc giải quyết những mâu thuẫn đó. Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu kỹ những mâu thuẫn này và đề ra những biện pháp hữu hiệu để giải quyết chúng.
Giải pháp
Để thực hiện hoá mô hình KTTT định hướng XHCN, cần thực hiện tốt những điều kiện và giải pháp sau :
Tạo lập, duy trì và phát triển tự do hoá kinh tế
Đây là một điều kiện có tầm quan trọng đến sự hình thành, tồn tại và phát triển KTTT ở nước ta. Tự do hoá kinh tế là một điều kiện tất yếu để sản sinh và nuôi dưỡng tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ, rất cần thiết cho các chủ doanh nghiệp với tư cách là những đơn vị kinh tế tự chủ.
Tương ứng với điều kiện này, các giải pháp cần có là:
Tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách nền kinh tế , đa dạng hoá về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Có chính sách và cơ chế đủ sức xoá bỏ nhanh chóng sự kỳ thị và phân biệt đối xử, thực hiện khuyến khích đầu tư và tôn vinh vai trò của các doanh nhân trong tất cả các thành phần kinh tế.
Trên cơ sở đẩy mạnh phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế, tiếp tục xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Cụ thể :
Phát triển đồng bộ giữa thị trường đầu ra ( thị trường hàng hoá, dịch vụ) với thị
trường các yếu tố đầu vào của sản xuất ( thị trường máy móc thiết bị công nghệ; thị trường vật tư, nguyên nhiên vật liệu; thị trường sức lao động; thị trường đất đai ; thị trường vốn ; thị trường khoa học- công nghệ...). Chú trọng sự đồng bộ về số lượng và nhất là chất lượng trong nội bộ từng thị trường đầu ra và đầu vào sản xuất, trong đó, lấy thị trường đầu ra để quyết định thị trường đầu vào.
Thực hiện đồng bộ giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, trong đó lấy thị trường trong nước làm cơ sở, thị trường ngoài nước là quan trọng. Coi trọng việc phát triển thị trường nông thôn ở nước ta, một thị trường rộng lớn với gần 80% dân cư sinh sống, nhưng sức mua hiện tại còn rất thấp, một cản trở đối với sự phát triển công nghiệp và các ngành khác. Trong thời gian tới cần thông qua việc phát triển KTTT và đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn để tăng sức mua của thị trường này.
Tạo dựng môi trường chính trị, kinh tế, xã hội tương đối ổn định và thông thoáng để các chủ thể kinh tế trong nước ngoài yên tâm , phấn khởi đầu tư các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh. Môi trường chính trị tương đối ổn định được hiểu bao gồm : a) Đường lối chính trị đúng đắn và ổn định; b) đất nước bình yên; c) Bộ máy chính phủ có uy tín đối với các chủ doanh nghiệp và dân cư. Môi trường kinh tế tương đối ổn định được thể hiện trước hết ở chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Về chính sách tài chính : ngân sách nhà nước với tư cách là nguồn lực và kênh tài chính lớn nhất phải lành mạnh, không bội chi vượt quá mức Quốc hội cho phép; có một chính sách thuế thích hợp vừa thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế vừa tăng thu cho ngân sách nhà nước, giảm tình trạng thất thu và kinh tế “ngầm”. Về chính sách tiền tệ và giá cả, khống chế và kiểm soát lạm phát, giữ vững tương đối giá trị và sức mua của tiền tệ, ổn định tương đối giá cả hàng hoá, dịch vụ trên thị trường, làm cho đồng tiền Việt Nam có khả năng chuyển đổi. Có chính sách tài chính, tiền tệ thực sự trở thành đòn bẩy. Về môi trường xã hội tương đối ổn định phải là môi trường xã hội mà ở đó con người sống và làm việc theo pháp luật, sống có văn hoá, có hoài bão lành mạnh.
Xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật, một điều kiện cho sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Một nền KTTT định hướng XHCN được gọi là định hình khi nó đạt trình độ KTTT hỗn hợp hay hiện đại, ngang với trình độ các nước có nền kinh tế phát triển. Một nền kinh tế như vậy chỉ có thể dựa trên cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, tương ứng với trình độ nền văn minh có sự giao thoa giữa văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Với tư cách là một điều kiện của KTTT định hướng XHCN, cơ sở vật chất- kỹ thuật đó phải được thực hiện thông qua CNH, HĐH và tính hiện thực của nó chỉ có được khi sự nghiệp CNH, HĐH thành công ở nước ta.
Tạo dựng hành lang và cơ chế bảo đảm giữ vững định hướng XHCN đối với nền kinh tế thị trường.
Nếu trong xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN không được giữ vững thì mục tiêu và sự lựa chọn mô hình không đạt được và nguy cơ đi chệch hướng XHCN là khó tránh khỏi. Để giữ vững định hướng XHCN đối với KTTT, cần thực hiện các giải pháp sau đây :
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong các ngành, các cấp, hệ thống các trường và các tổ chức kinh tế. Thông qua giáo dục học tập cho tất cả các tổ chức nói trên về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là nền tảng của cách mạng XHCN, nội dung định hướng XHCN đối với nền kinh tế thị trường.
Củng cố và tăng cường năng lực và hiệu lực của Quốc hội,ban hành các luật pháp còn thiếu, điều chỉnh bổ sung và hoàn thiện các luật pháp sao cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và có tính đến sự phù hợp với thông lệ quốc tế, trên cơ sở quyền lực thống nhất, cần tăng cường tính độc lập tương đối và năng lực của các cơ quan tư pháp trong việc xử lý nghiêm minh và kịp thời những vi phạm pháp luật đối với các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội và dân cư.
Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách đa dạng hoá về sở hữu và thành phần kinh tế, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Kinh tế Nhà nước nắm những khâu, ngành then chốt trọng yếu, tạo thực lực kinh tế để Nhà nước điều tiết tính tự phát của KTTT, thực sự gương mẫu chấp hành luật pháp, hỗ trợ và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Đây là một giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt để giữ vững định hướng XHCN đối với KTTT. Tuy nhiên, không được đồng nhất kinh tế Nhà nước với doanh nghiệp nhà nước và dựa vào sự làm ăn thua lỗ của một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, để từ đó dẫn đến sự hoài nghi, thậm chí phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Trong cơ cấu kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước chỉ là một bộ phận. Hơn nữa,không phải mọi doanh nghiệp Nhà nước đều lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. Đẩy mạnh đổi mới và tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Tạo lập bộ máy nhà nước vững mạnh
Có thể quan niệm sự vững mạnh của Nhà nước qua các tiêu chuẩn sau: trung thành với chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với lợi ích dân tộc. Trong sạch về phẩm chất đạo đức; cần kiệm liêm chính chí công vô tư; có năng lực chuyên môn, có uy tín đối với chủ doanh nghiệp và nhân dân trong việc thực hiện tốt các chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với KTTT.
Tính hiện thực của các tiêu chuẩn nói trên sẽ được thực hiện qua các giải pháp như: giáo dục rèn luyện; trong nâng cấp, nâng bậc công chức ngoài tiêu chuẩn năng lực cần đưa thêm tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức, liêm chính, chí công vô tư để tuyển, loại cán bộ viên chức. Đẩy nhanh nhịp độ cải cách hành chính nhà nước và từng bước đưa kết quả của cải cách hành chính nhà nước vào cuộc sống.
Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần thực hiện qua 3 giai đoạn :
Giai đoạn thứ nhất là phát triển các vùng, tỉnh, thành phố, bộ phận nhân dân có điều kiện thuận lợi đạt trình độ khá, giàu có nhanh. Muốn vậy, cần khuyến khích mạnh để phát huy nội lực, thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài có hiệu quả để tăng trưởng kinh tế nhanh, cho phép để cho một số vùng, một số tỉnh, một bộ phận nhân dân có điều kiện thuận lợi có lợi thế so sánh giàu nhanh hơn, sớm hơn các vùng, tỉnh và một bộ phận nhân dân ở các vùng khó khăn, vùng cao, vùng sâu và vùng xa. Sự giàu có nhanh hơn, sớm hơn của một số vùng, một số tỉnh và một bộ phận nhân dân phải theo nguyên tắc đảm bảo cho nước mạnh. Xem xét một cách đồng bộ chúng ta thấy một mặt đây là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường, do quan hệ cung cầu và giá cả thị trường quyết định mà chúng ta đang chấp nhận; nhưng mặt khác chúng ta thấy nền kinh tế thị trường vốn có những khuyết tật, có mặt trái như con dao “ hai lưỡi”, cho nên nền kinh tế thị trường của chúng ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Theo quan điểm đó, trong khi thực hiện chính sách ưu tiên, tập trung đầu tư của Nhà nước, khuyến khích đầu tư của nước ngoài và nhân dân để phát triển kinh tế nhằm cho phép một số vùng, tỉnh, một bộ phận nhân dân giàu lên nhanh hơn,sớm hơn, chúng ta cần coi trọng đúng mức đến nhu cầu cần thiết, tối thiểu về đầu tư trong việc phát triển ở các vùng khó khăn, vùng cao, vùng sâu và vùng xa, trước hết là các xã, các hộ đặc biệt khó khăn ở đồng bằng, trung du, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Trong giai đoạn1 phải xoá được đói, giảm được nghèo và xây dựng đội ngũ cán bộ cho giai đoạn phát triển. Nhưng phải nhấn mạnh rõ ràng tập trung, ưu tiên, khuyến khích đầu tư phát triển một số vùng, tỉnh và một bộ phận nhân dân giàu có sớm hơn, nhanh hơn chính là thúc đẩy, lôi cuốn, hỗ trợ, hợp tác để cho các vùng, tỉnh, bộ phận nhân dân đang gặp khó khăn và đặc biệt khó khăn ngày càng khá dần lên về cả kinh tế- xã hội. Làm như vậy chính là từng bước thực hiện mục tiêu định hướng XHCN ngay trong quá trình phát triển nên kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Trong việc thực hiện giai đoạn này phải chú ý đúng mức đến công bằng văn minh, văn minh cả về vật chất và tinh thần cho con người phát triển toàn diện. Nếu không thực hiện đúng nội dung của bước đi nói trên thì không thể từng bước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh đi lên chủ nghĩa xã hội được. Nếu đầu tư phân tán, dàn trải, bình quân thì cũng không phù hợp với thực tiễn khách quan, đòi hỏi của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN và cũng không phù hợp với thực tiễn tất yếu của quy luật phát triển không đều của các vùng, các tỉnh và nhân dân trong các điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, truyền thống, phong tục tập quán... còn có thuận tiện, khó khăn khác nhau. Để thực hiện thành công được giai đoạn phát triển này, trước hết thống nhất, quyết tâm cao.
Nhà nước phải xây dựng đúng đắn đồng bộ quy hoạch phát triển chung của cả nước, từng vùng, từng tỉnh, từng huyện, quận, từng xã phường, từng làng bản. Phải coi đây là cơ sở pháp lý thống nhất để xác định cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách tài chính - tiền tệ đúng đắn và khuyến khích mạnh để đạt được tốc độ tăng trưởng cao với quy mô lớn trong phát triển giữa các vùng, tỉnh được ưu tiên hơn, nhưng phải đảm bảo sự chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng ở giới hạn có thể giữ được ổn định cho phát triển trong cả nước.
Trong hơn 11 năm đổi mới, chúng ta đã, đang thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn, nhờ đó tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, tình hình kinh tế - xã hội ổn định, đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện một bước quan trọng.
Từ thực tế của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở một số nước châu á, kể cả các nước được xếp vào loại con rồng châu á sau hơn 30 năm phát triển,cho chúng ta thấy rằng ngay trong từng giai đoạn phát triển cần sớm phát hiện những mất cân đối bên trong để có sự điều chỉnh cần thiết, đặc biệt là về cơ cấu kinh tế và chính sách tài chính tiền tệ và phải luôn luôn chủ động nâng cao tính độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế để phát huy tối đa nội lực, cần kiệm để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phân tích thực trạng kinh tế xã hội 1997, chúng ta đã phát hiện ra những mất cân đối trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư, cho nên một số mặt hàng, dịch vụ, ngành nghề, cung đã lớn hơn cầu như khách sạn, điện tử, lắp ráp ôtô, xe máy,sân bay, cầu cảng nước sâu... Các cam kết về xuất nhập khẩu của các nhà đầu tư không thực hiện được, chúng ta không kiểm soát được việc nâng giá, chuyển giá đầu vào của các nhà đầu tư, chưa quản lý được phần vốn Nhà nước liên doanh, do tính toán không đầy đủ đã cho phép liên doanh nên một số liên doanh bị “lỗ” làm cho chúng ta không bảo toàn và phát triển được vốn, nhưng thực tế chưa hẳn đã lỗ, có thể “lỗ giả, lãi thật” trong liên doanh. Có không ít công nhân doanh nghiệp liên doanh đạt mức thu nhập thấp hơn doanh nghiệp trong nước; một số vấn đề đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân, nhất là vùng khó khăn, vùng cao, vùng sâu và vùng xa đang nổi cộm cần tập trung xử lý đúng mức hơn...
Giai đoạn thứ hai là phát triển các vùng, tỉnh, thành phố, bộ phận nhân dân khó khăn đạt được trình độ khá và giàu có. Muốn vậy cần tập trung đầu tư của Nhà nước, khai thác sức mạnh của các vùng, tỉnh, thành phố đã đạt được trình độ khá và giàu đạt được trong giai đoạn thứ nhất, khuyến khích mạnh các nhà đầu tư nước ngoài để phát triển các vùng, tỉnh, huyện,xã, làng còn khó khăn trong giai đoạn 1 đạt được trình độ khá và giàu có lên.
Nếu xét về trình tự thì đây là giai đoạn có nhiều khó khăn nhất vì các vùng, các tỉnh, các hộ gia đình vốn đã khó khăn, có nhiều xã, hộ nghèo đói. Đây là các vùng, các tỉnh có điều kiện môi trường sinh thái kinh tế, xã hội rất khó khăn và lạc hậu, đặc biệt là khí hậu khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng yếu kém, đời sống khó khăn trình độ dân trí văn hóa thấp. Với điều kiện như vậy, thì chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút các chủ đầu tư bỏ vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước vào các vùng khó khăn này. Để giải quyết được vấn đề này phải tập trung sức mạnh tổng hợp của cả nước để phát triển kinh tế- xã hội của các vùng, tỉnh khó khăn trở thành khá và giàu có.
Muốn vậy cần thực hiện những chủ trương biện pháp quan trọng sau đây :
Nhà nước cần chỉ đạo xây dựng đúng đắn quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của các vùng, các tỉnh trở thành vùng, tỉnh khá, giàu có, ưu tiên tập trung đầu tư ngân sách nhà nước để phát triển nhanh kinh tế- xã hội của các tỉnh khó khăn theo quy hoạch phát triển được duyệt.
Nhà nước cần quy định rõ nghĩa vụ cho các vùng, tỉnh đã đạt trình độ khá và giàu có hơn đối với sự phát triển của các vùng, tỉnh khó khăn như đưa vốn vào đầu tư liên doanh , đào tạo cán bộ, công nhân, chuyển giao công nghệ ... nghĩa vụ này cần phải được quy định ngay từ trong giai đoạn 1, giai đoạn xoá đói giảm nghèo, nhưng giai đoạn 2 phải quy định chặt chẽ, đầy đủ hơn, cụ thể và cao hơn, vì đây là giai đoạn phát triển các vùng, tỉnh khó khăn đạt được trình độ khá và giàu có.
Có chính sách khuyến khích ưu đãi đủ mạnh để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước đưa vốn vào và đưa công nghệ vào đầu tư phát triển các vùng khó khăn , các vùng miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, các vùng trung du và đồng bằng có nhiều khó khăn là những khó khăn để phát triển các vùng này cần ưu đãi, khuyến khích về thủ tục đầu tư các quyền sử dụng đất, thuế xuất nhập khẩu, vay vốn đầu tư...
Các vùng, các tỉnh khó khăn cần chủ động có quy hoạch và kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế- xã hội, khai thác tối đa các nguồn lực và các cơ sở vật chất , kỹ thuật đã được phát triển trong giai đoạn 1. Các vùng, các tỉnh khó khăn cần tạo những điều kiện thuận lợi cho các tổ chức đầu tư bằng ngân sách của Nhà nước, đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước, các vùng và tỉnh giàu có hơn tiến hành các hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh, bằng cách đó các vùng, tỉnh khó khăn sẽ đạt được trình độ khá và giàu có về kinh tế để có cơ sở bảo đảm sự công bằng.
Giai đoạn thứ ba là phát triển các vùng, các tỉnh, thành phố trong cả nước đạt được trình độ khá, giàu có về kinh tế và đảm bảo được sự công bằng và văn minh, vững chắc đi lên CNXH. Để thực hiện thành công giai đoạn này - giai đoạn cuối cùng để thực hiện hoàn chỉnh mục tiêu : dân giàu , nước mạnh, công bằng xã hội, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần giải quyết tốt các vấn đề quan trọng sau đây :
Đánh giá tổng hợp kết quả, tồn tại trong việc phát triển ở giai đoạn 1 và giai đoạn 2 để có kế hoạch điều chỉnh cần thiết giữa các vùng, các tỉnh, tiếp tục phát triển để đảm bảo cho nhân dân các vùng, các tỉnh trong cả nước khá hơn, giàu có hơn về kinh tế, bảo đảm thực hiện công bằng, có cuộc sống vật chất và tinh thần văn minh; con người phát triển toàn diện mang đầy đủ bản sắc dân tộc.
Nhà nước cần tiếp tục đầu tư bằng ngân sách nhà nước, phát huy các nguồn lực hiện có của giai đoạn 1 và 2 để thực hiện kế hoạch điều chỉnh trong phát triển ở các tỉnh, vùng chưa đạt trình độ khá và giàu có so với mức trung bình chung của cả nước sau khi kết thúc giai đoạn 1 và giai đoạn 2.
Phát huy nội lực các vùng, tỉnh giàu có, đạt trên mức trung bình chung của cả nước để tiếp tục đầu tư, liên doanh, hỗ trợ, giúp đỡ các vùng, các tỉnh chưa đạt trình độ trung bình chung của cả nước phát triển để đạt được mức trung bình chung hoặc cao hơn trong giai đoạn thứ 3.
Thực hiện đầy đủ chính sách để đảm bảo sự công bằng trên các mặt : tuyệt đại đa số người lao động, công nhân Việt Nam có đủ việc làm, được học hành, vui chơi giải trí; bảo đảm đầy đủ các quyền dân chủ cho người lao động và công nhân Việt Nam; bảo đảm ăn ngon, mặc đẹp, có cuộc sống tự do , hạnh phúc và sống văn minh về vật chất.
Bảo đảm thực hiện các chính sách văn minh về tinh thần và phát triển toàn diện của người lao động và nhân dân Việt nam phát huy đầy đủ bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam, bảo đảm cho mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được thực hiện đầy đủ.
Cả ba giai đoạn nêu trên có trọng tâm , trọng điểm phát triển khác nhau trong một quá trình thống nhất nên có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện và tiền đề cho nhau phát triển và có những mặt đan xen nhau trong quá trình phát triển. Để thực hiện được các giai đoạn phát triển cho thế hệ mai sau thì một bộ phận không nhỏ thế hệ hiện tại của thế kỷ 20 và phần của thế kỷ 21 phải chấp nhận một sự thiệt thòi nhất định, hy sinh nhất định, phải chấp nhận một sự mất công bằng tạm thời trong một giới hạn nhất định, phải chấp nhận một sự phân hoá giàu nghèo nhất định... sự thiệt thòi, hy sinh, mất công bằng, phân hoá giàu nghèo chỉ được dao động trong giới hạn cho phép. Giới hạn cho phép đó được quy định hợp lý bởi mục tiêu tăng trưởng, phát triển bền vững và ổn định chính trị, xã hội. Điều đó đòi hỏi trong tổ chức thực hiện, điều hành phải phát hiện và kiên quyết điều chỉnh kịp thời hàng năm, điều chỉnh trong từng giai đoạn để giữ vững giới hạn an toàn nhất cho sự phát triển. Có thể khẳng định rằng mục tiêu ổn định chính trị, xã hội là mục tiêu số một thường xuyên và lâu dài để điều chỉnh các giai đoạn phát triển và toàn bộ quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
kết luận
Sự phát triển kinh tế xã hội nào rút cuộc cũng nhằm những mục tiêu xã hội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng (tăng trưởng kinh tế) còn bao hàm cả những thay đổi về chất (những biến đổi về mặt xã hội) "Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khoẻ và bình đẳng về cơ hội là tất cả những yếu tố cơ bản của sự phát triển kinh tế. Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn."(World Bank, Development and Enviroment, World Development Report 1992, Oxford University1992). Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của K.Marx là một thành tựu khoa học của loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng quát của lịch sử nhân loại và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn thấp nhất của nó là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không đối lập với sự phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ xã hội của sự phát triển. Nó là cách thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân lao động, của toàn thể xã hội, là sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu công bằng và văn minh. Sự phát triển chỉ đem lại sự giàu có và sự thống trị của tư bản, của một số ít người trong xã hội thì sự phát triển đó mang tính chất tư bản chủ nghĩa, là sự phát triển cổ điển. Sự phát triển đem lại sự giàu có, phồn vinh, hạnh phúc cho đại đa số nhân dân lao động, cho toàn thể xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc của nhân dân lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của cả xã hội, của toàn xã hội, của toàn dân tộc, là sự phát triển mang tính chất xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Nghĩa là, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò kinh tế thị trường cũng như những mặt tích cực và tiêu cực của nó. Việc chuyển từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là một bước ngoặt trong nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH của Đảng ta. Văn kiện đại hội VIII khẳng định rằng " sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng". Vì vậy chúng ta không chỉ sử dụng kinh tế thị trường mà phải "đi vào kinh tế thị trường", "vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường", phải " tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường" (hàng hoá và dịch vụ, sức lao động, bất động sản, vốn, chứng khoán...) nghĩa là phải xây dựng, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên trong khi chủ trương phát triển kinh tế thị trường, Đảng ta cũng nhận thấy "kinh tế thị trường có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của CNXH". Đó là xu hướng tự phát, " mù quáng" trong sản xuất, tăng nhanh phân hoá giàu nghèo, chạy theo lối sống thực dụng, sùng bái đồng tiền, hạ thấp giá trị nhân phẩm, đạo đức, phát triển các tệ nạn xã hội, huỷ hoại môi trường sinh thái v.v... Những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường đang thâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội. Đó cũng chính là mâu thuẫn mà chúng ta gặp phải trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. Chúng ta không thể loại trừ mâu thuẫn đó chừng nào còn kinh tế thị trường, mà phải chấp nhận nó để giải quyết nó theo hướng phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước nhằm giữ vững định hướng XHCN, hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Thông qua chính sách, pháp luật và các công cụ điều tiết vĩ mô, nhà nước thực hiện kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, xác định những lĩnh vực không thể đơn thuần theo cơ chế thị trường (như văn hóa, giáo dục, y tế...), bảo vệ môi trường sinh thái để phát triển bền vững... Đó chính là thể hiện cụ thể định hướng XHCN đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta.
tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin _ Nhà xuất bản giáo dục - 1998
C. Mác và Ph. Ăngghen : toàn tập _ NXB Chính trị quốc gia, HN -1993
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc VI _ NXB Chính trị quốc gia, HN-1986
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc VII _ NXB Chính trị quốc gia, HN - 1991
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc VIII _NXB Chính trị quốc gia, HN - 1996
Tạp chí nghiên cứu và lý luận
Tạp chí lý luận chính trị
Tạp chí nghiên cứu và trao đổi
Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ
Tạp chí kinh tế và phát triển
Mục lục
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
I. Những vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường 2
1. Các điều kiện để hình thành nền kinh tế thị trường 2
2. Các giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường 4
3. Cơ chế thị trường 5
Vai trò kinh tế củaNhà nước trong nền kinh tế thị trường 7
II. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 9
1. Sự cần thiết khách quan phải chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 9
2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 14
3. Thực trạng và các mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 18
III. Giải pháp 22
1. Tạo lập, duy trì và phát triển tự do kinh tế 22
2. Xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, một điều kiện cho sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 23
3. Tạo dựng hành lang và cơ chế đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường 23
4Tạo lập bộ máy Nhà nước vững mạnh 24
Kết luận 28
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29591.doc