Đề án Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam

Một trong những mục tiêu chiến lược của tài chính Việt Nam trong những năm đầu thể kỉ XXI là thiết lập và vận hành hệ thống chính sách tài chính chủ động tích cực, đồng bộ để khơi dậy mọi tiềm năng, phát triển nguồn lực, huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính quốc gia. Như vậy, chiến lược huy động vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh được ưu tiên trong công cuộc Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước. Hy vọng rằng thông qua tìm hiểu nghiên cứu về vấn đề huy động vốn chúng ta có cái nhìn đẩy đủ hơn, đặc biệt trong ngành ngân hàng tài chính cùng tìm những giải pháp và phương hướng mới cải thiện khắc phục những nhược điểm góp phần hoàn thiện chính sách huy động vốn ngày càng hiệu quả hơn.

doc34 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1481 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng đối với USD, nhằm tạo sức hấp dẫn hơn cho huy động vốn bằng VND. Tuy nhiên các biện pháp này vẫn chưa có tác động tích cực như mong muốn đến việc huy động vốn cũng như cho vay. 2. Nguyên nhân và một số tháo gỡ tình trạng huy động vốn tăng trưởng chậm trong hệ thống ngân hàng thương mại : Theo nguyên tắc kinh doanh, có đầu ra cho vốn (có thể trước mắt hoặc dự kiến cho dài hạn) thì các tổ chức tín dụng mới đẩy mạnh được huy động vốn. Nhìn từ phía huy động vốn của các tổ chức tín dụng, mức tăng trưởng thấp so với cùng kì do một số nguyên nhân cơ bản sau: Thời gian qua, nền kinh tế thế giới tăng trưởng chậm và lãi suất trên thị trường quốc tế giảm mạnh. Mặt bằng lãi suất trong nước cũng giảm theo đã tác động làm giảm lượng vốn huy động vào ngân hàng. Thị trường bất động sản nhộn nhịp trở lại đã thu hút một lượng vốn khá vào đấy. Bên cạnh đó tác động của Luật Doanh nghiệp mới đã hấp dẫn đáng kể vốn đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh, hy vọng hưởng thu nhập cao hơn thay vì gửi vào ngân hàng để hưởng lãi suất như trước đây. Một số kênh huy động vốn khác ngoài ngân hàng như Quỹ tiết kiệm bưu điện, các công ty bảo hiểm, thị trường chứng khoán…cũng đã thu hút một lượng vốn đáng kể từ dân cư. Về phương diện chủ quan từ phía ngân hàng, thời kì qua cũng có nhiều giai đoạn huy động vốn bị ứ đọng do không thể cho vay ra được trong khi vẫn phải trả chi phí đầu vào, nên một số đơn vị ngân hàng cũng phải tính toán cầm chừng để đảm bảo hợp lý mối quan hệ giữa đầu vào, đầu ra trong kinh doanh... * Một số tháo gỡ: Để tháo gỡ những vướng mắc, khơi thông dòng chảy của vốn nhằm giải bài toán hóc búa về huy động vốn của nền kinh tế nói chung và huy động vốn của ngân hàng thương mại nói riêng, cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ. Trước tiên là giải pháp để giải quyết được mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn rất lớn với sức hấp thụ vốn lại quá thấp như hiện nay trong nền kinh tế. Cần có nhiều biện pháp khả thi hơn về tìm kiếm thị trường ổn định cho việc tiêu thụ sản phẩm; giảm bớt rủi ro trong kinh doanh để tăng niềm tin cho nhà đầu tư, triển khai tốt Luật Doanh nghiệp để mở ra các hướng kinh doanh mới nhằm có nhiều dự án khả thi hấp thụ vốn có hiệu quả; có cơ chế bảo lãnh phù hợp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để họ tiếp cận được vốn vay ngân hàng. Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp giải quyết kịp thời các vướng mắc về thế chấp quyền sử dụng đất và giá đất để tạo điều kiện cho vốn của ngân hàng đến được với người có nhu cầu vay; cán bộ, ngành liên quan sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 178 của Chính phủ. Về phía Ngân hàng nhà nước, phát huy hơn nữa vai trò và thế mạnh của mình trong điều hành vĩ mô, điều hành hợp lý hơn chính sách tiền tệ tín dụng đóng góp vào sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Xúc tiến nhanh việc tiếp tục ban hành các văn bản còn thiếu liên quan đến việc thực thi hai bộ luật về Ngân hàng. Đối với các ngân hàng thhưong mại, cần chủ động tìm kiếm khách hàng, cùng khách hàng tìm và lập các dự án khả thi trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để có được đầu ra an toàn cho vốn tín dụng. Riêng trong hoạt động huy động vốn, cần có các biện pháp đồng bộ để thực hiện tốt hơn việc đa dạng hoá các dạng tiền gửi, nhằm thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi vào ngân hàng. Cải tiến và tìm kiếm thêm các phương thức huy động phù hợp với từng thời kì như các loại trái phiếu, kì phiếu ngân hàng bằng nội tệ và ngoại tệ có lãi suất hợp lý và có khả năng chuyển nhượng…Chủ động khai thác các loại vốn tạm thời từ các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế; tận dụng vốn trong quá trình thực hiện các dịch vụ vì lợi ích khách hàng, nhất là qua khâu thanh toán, giao dịch; cải tiến thủ tục, hướng dẫn khách hàng chu đáo, bố trí hợp lý giờ công tác để tăng giờ giao dịch của ngân hàng ngoài giờ hành chính trong khâu huy động vốn. Tìm nhiều biện pháp phù hợp để hoạt động ngân hàng được mở rộng và đến gần dân hơn qua các hình thức tiếp thị quảng cáo tuyên truyền… Tích cực tranh thủ tìm kiếm thu hút các vốn rẻ và dài hạn ngoài nước để đón đầu đáp ứng nhu cầu kinh tế trong nước thời gian tới. 3. Sự phân chia thị trường huy động vốn trong hệ thống ngân hàng thương mại : Trong mỗi ngành sản xuất kinh doanh, một tỉ lệ lớn thị phần hoạt động được tập trung vào một hay một nhóm các hãng thì coi như hãng đó có lợi thế hơn trong cạnh tranh. Cho đến nay, hoạt động của ngành ngân hàng vẫn tập trung cao vào khối các ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD). Mặc dù mức độ tập trung cao, nhưng NHTMQD có tạo độc quyền nhóm trong hoạt động cho vay khách hàng cũng như huy động vốn không? Mức độ tập trung cao có giúp các NHTMQD tạo ra mức lợi nhuận cao hơn không? NHTM khác có thị phần thấp sử dụng lợi thế nào trong cạnh tranh? Đây là vấn đề đặt ra cho chúng ta nhằm xác định xu hướng của hoạt động huy động vốn trong tương lai. Thị phần huy động vốn, cho vay khách hàng… là nhân tố đo lường mức độ tập trung trong hệ thống ngân hàng. Mạng lưới hoạt động lớn, trải rộng khắp cả nước, quan hệ với khách hàng lâu dài là những nhân tố ưu đãi giúp các NHTMQD huy động được phần lớn vốn từ nền kinh tế. Huy động vốn bằng ngoại tệ và VND tập trung nhiều vào các NHTMQD do lợi thế nhờ quy mô. Đến hết năm 1999 huy động vốn của các NHTMQD chiếm tới 78,1% tổng vốn huy động từ nền kinh tế của hệ thống ngân hàng Việt Nam; trong đó ngoại tệ chiếm 24,9% và VND chiếm 53,2% tổng vốn huy động (NHNN). Thị phần huy động vốn được mở rộng trong năm 2000. Do lãi suất USD trên thị trường quốc tế tăng, các NHTMQD đã tăng cường huy động vốn ngoại tệ, kết quả, tốc độ tăng trưởng huy động vốn ngoại tệ cao hơn nhiều so với VND. Huy động vốn ngoại tệ của NHCT năm 2000 tăng 52,9% so với cuối năm 1999; trong khi VND chỉ tăng 24,4%. Tăng trưởng huy động vốn ngoại tệ của NHNT trong cùng thời gian là 58,5%; VND tăng 33% (Báo cáo Hội nghị Giám đốc năm 2000 của NHNT). Hơn nữa, do mạng lưới hoạt động rộng,mối quan hệ với khách hàng lâu dài, các ngân hàng này có nguồn tiền gửi không kỳ hạn rất lớn của các doanh nghiệp. Nguồn vốn này rẻ, có tính luân chuyển cao nhưng các ngân hàng thương mại (NHTM) vẫn có thể sử dụng một tỉ lệ % nhất định để cho vay trung, dài hạn (theo quy định tỉ lệ an toàn là được phép sử dụng tối đa 25%). Như vậy tiền gửi không kỳ hạn VND để đầu tư trung và dài hạn chỉ có mức giá vốn đầu vào rất thấp, khoảng 0,15%/tháng. Lợi thế này chỉ xuất hiện ở các NHTMQD.Tỉ trọng tiền gửi không kỳ hạn lớn sẽ làm thấp giá vốn đầu vào, do đó, tăng thêm sức cạnh tranh cho các ngân hàng này trong cho vay ngắn hạn. Nhìn vào hai trung tâm tài chính lớn của cả nước Hà nội và TP. HCM cũng suy diễn được thị phần huy động vốn tập trung vào nhóm các NHTMQD. Bởi ngoài hai trung tâm này, tại các địa bàn khác chỉ có các NHTMQD và một số ít các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), quỹ tín dụng hoạt động. Điều này được thấy rõ trong bảng sau: Bảng thị phần huy động vốn năm 2000 tại hai trung tâm tài chính Đơn vị: % Nhóm ngân hàng Hà Nội Tp.HCM 1.NHTMQD 73,5 52,1 2.NHTM ngoài QD Trong đó: -NHTMCP - NHNg và NHLD 26,5 9,5 17,0 47,9 26,7 21,2 (Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số1 năm 2001). Theo số liệu ở bảng trên ta thấy huy động vốn tập trung khoảng 80% vào các NHTMQD, thì thị phần tín dụng cũng tập trung ở mức tương đương. So sánh tỉ trọng giữa cho vay so với vốn huy động qua các năm ở bảng sau đây: Bảng tỉ trọng giữa cho vay so với vốn huy động qua các năm. Đơn vị:% Nhóm ngân hàng 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 NHTMQD 148,1 136,6 125,5 108,6 97,0 78,4 74,5 NHTM ngoài QD 140,9 102,6 113,8 117,5 117,6 126,7 107,6 (Nguồn: Số liệu lấy từ Tạp chí Ngân hàng số 8 năm 2001) Xét trên quy mô, số lượng, NHTMQD có ưu thế hơn NHTM ngoài quốc doanh. Đánh giá qua mức sử dụng vốn cho thấy rằng NHTMCP cho vay vượt quá số vốn huy động được, nghĩa là phải sử dụng đến cả vốn điều lệ và vốn vay từ thị trường liên ngân hàng. Tỉ trọng giữa dư nợ tín dụng so với vốn huy động của NHTMQD giảm dần nhỏ hơn 1 trong giai đoạn 1994-2000 thể hiện các ngân hàng này co cụm hoặc đầu tư thận trọng sau hàng loạt thất bại trong đầu tư tín dụng với con số nợ khó đòi lên tới hành nghìn tỷ đồng. NHTM ngoài quốc doanh thì trái ngược, lượng vốn huy động tăng chậm là do uy tín thấp và các NHNg ở khu vực này chưa được phép huy động tiết kiệm bằng VND, USD từ dân cư, do đó để có vốn cho vay bằng VND các NHNg phải sử dụng vốn trên thị trường liên ngân hàng nên tỷ trọng nợ tín dụng so với huy động vốn lớn hơn 1. Trong khi đó lượng khách hàng có nhu cầu vay vốn tăng cao bởi phần lớn các khách hàng này khó tiếp cận vốn của NHTMQD hoặc chính các ngân hàng này không muốn phát triển nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ. Do đó, dư nợ cho vay của các NHTM ngoài quốc doanh vượt quá số vốn huy động từ khách hàng. Sự phát triển quy mô ngân hàng bán lẻ của các NHTMCP như cho vay tiêu dùng, cho vay xây dựng nhà ở, huy động vốn trả góp … sẽ là thách thức lớn đối với các NHTMQD khi muốn phát triển thành ngân hàng đa năng, mở rộng dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Mặc dù thị phần huy động, cho vay của các NHTMQD chiếm phần lớn, nhưng lại chịu sức ép cạnh tranh từ các chi nhánh ngân hàng nước ngoài (CNNHNg); không bị động trong thế cạnh tranh nhưng lại là người phản ứng chậm trong sử dụng mỗi công cụ, chiến thuật cạnh tranh, tính chủ động kém hơn các CN NHNg. Xét về phương diện lãi suất thì sức cạnh tranh huy động vốn của các NHTMCP, CN NHNg lại rất thấp. NHTMCP bị yếu thế bởi mức độ tin cậy thấp, mặc dù các ngân hàng này luôn phải đặt mức lãi suất huy động cao hơn các NHTMQD. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, lo sợ thị phần huy động vốn có thể bị suy giảm, các NHTMQD đôi lúc để mức lãi suất huy động ngang bằng các NHTMCP, CN NHNg không có khả năng cạnh tranh bởi vì họ bị ràng buộc quy định của ngân hàng Nhà nước (NHNN) chứ không phải là họ không đủ sức mạnh trong lĩnh vực huy động tiết kiệm từ dân cư. Trong tương lai, quy định của NHNN được nới lỏng, thị phần huy động vốn của các NHTMQD sẽ bị ảnh hưởng lớn. Trong cạnh tranh huy động, chỉ có NHNT là có sức mạnh ảnh hưởng đến lãi suất huy động ngoại tệ trên thị trường. Nghĩa là họ luôn coi lãi suất của NHNT làm cơ sở xác định mức lãi suất huy động vừa đảm bảo có lợi nhuận vừa đảm bảo ở mức cạnh tranh. Rõ ràng các NHTMQD có nguồn vốn lớn, giá vốn thấp, mối quan hệ lâu dài với khách hàng nhưng chưa tạo thế chủ động hơn và lấn át hơn các CN NHNg. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, mục tiêu của CN NHNg là mở rộng thị phần, thôn tính khách hàng để tạo sự ổn định và phát triển, các NHTMQD cần phải đánh giá lợi nhuận cho cả gói dịch vụ đối với từng khách hàng từ thanh toán quốc tế, giao dịch vốn, kinh doanh ngoại tệ, tín dụng… chứ không nhất thiết từng hoạt động riêng biệt phải sinh lời. Xét về lợi nhuận hình thành từ vị thế trên thị trường vốn của các NHTM, ta thấy NHTMQD nhờ quy mô, nhân tố ưu đãi mang tính tự nhiên có lợi nhuận chiếm 55% lợi nhuận của toàn ngành ngân hàng. Tuy nhiên, nếu đem so sánh lợi nhuận với tổng tài sản và tổng dư nợ của từng khu vực thì thấy rằng khu vực ngoài quốc doanh hiệu quả hơn. Về tổng thể, mức độ tập trung của các NHTMQD không tạo ra quyền lực cao trong cạnh tranh, nhưng trên phạm vi nhất định có ảnh hưởng đến thị trường. Các NHTM ngoài quốc doanh cũng có kế hoạch củng cố thị phần, khách hàng của mình, do đó mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt và thị phần của các NHTMQD luôn bị đe doạ. Đứng trước thực trạng như vậy cần có những biện pháp nào để hoạt động huy động vốn trong hệ thống các ngân hàng thương mại nước ta được điều hoà và thúc đẩy được sự phát triển kinh tế đất nước? Đây chính là nhiệm vụ đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách của ngành nói riêng và của chính phủ Việt Nam nói chung. II- Thực tế tiềm năng huy động vốn ở nước ta hiện nay: 1. Xét về mặt định lượng: Về mặt định lượng có 3 nguồn vốn chủ yếu có thể huy động cho đầu tư phát triển là: nguồn vốn nhà nước (bao gồm vốn ngân sách Nhà nước (NSNN), vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) và vốn tài sản công và tài sản quốc gia), nguồn vốn trong dân cư và nguồn vốn nước ngoài. Ta xét từng nguồn vốn cụ thể : 1.1. Nguồn vốn nhà nước: Trong những năm gần đây, quy mô NSNN không ngừng tăng lên nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau, nhưng chủ yếu qua huy động thuế và phí chiếm tới trên 90% các khoản thu ngân sách hàng năm. Ngoài ra nguồn vốn nhà nước còn bao gồm các nguồn lực vật chất to lớn, đó chính là các nguồn tài sản công và tài sản quốc gia. Ta có thể liệt kê ra bao gồm: Nguồn vốn do các DNNN quản lý ước tính khoảng hơn 60.000 tỷ đồng. Nguồn tài sản công ước khoảng hơn 750.000 tỷ đồng ở dạng tiềm năng là tài sản nhà nước do các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan Đảng, đoàn thể quản lý. Ngoài ra, những tài nguyên quốc gia ở trên mặt đất, mặt nước là không thể ước tính hết được do chưa được khảo sát tường tận và chưa cách định giá trị chính xác, đầy đủ. 1.2. Nguồn vốn dân cư: Theo điều tra và ước tính của Bộ Kế hoạch- Đầu tư và Tổng cục Thống kê, nguồn vốn trong dân hiện nay có từ hơn 6 đến 8 tỷ USD, trong đó khoảng : + 44% để dành của dân là mua vàng, ngoại tệ. + 20% để dành của dân là mua nhà đất, cải thiện điều kiện sinh hoạt. + 17% để dành của dân là gửi tiết kiệm, chủ yếu là loại ngắn hạn. + 19% để dành của dân là dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư, chủ yếu là ngắn hạn. Như vậy, chỉ khoảng 36% vốn hiện có trong dân được huy động cho đầu tư phát triển. Nếu tính theo hàng năm, mức huy động vốn trong dân năm sau luôn cao hơn năm trước. Cụ thể được thể hiện trong bảng sau : Năm Mức huy động (tỷ đồng) Mức tăng so với năm trước (%) 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 6.430 10.864 13.000 17.000 20.000 24.000 28.000 181,4 170 120 130 117,7 120,6 116,7 (Nguồn:Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 251-Tháng 4/1999) Xét về mặt hình thức, kết quả nổi bật là số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng nhanh chóng, khả năng thu hút vốn đầu tư, tăng mức nộp ngân sách và thu nhập lao động khá cao. Tuy nhiên, về quy mô các doanh nghiệp này còn nhỏ, công nghệ lạc hậu, hầu như không liên doanh, liên kết với nhau, 50% số doanh nghiệp không mở rộng đầu tư, chỉ 36% tăng vốn điều lệ một đến hai lần và 5% tăng trên hai lần. Ngoài ra cần kể đến khoảng 10 triệu hộ nông dân và 2 triệu hộ cá thể sản xuất tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh thương mại và dịch vụ trên cả nước. Tất cả đều ở tình trạng vốn nhỏ, công nghệ lạc hậu hơn các doanh nghiệp nói trên. Còn các hợp tác xã thì vốn cố định trung bình chiếm tới 80% số vốn hiện có, trong đó, 60% là nhà xưởng, 20% là thiết bị, tất cả đều cũ nát, lạc hậu. Nhiều hợp tác xã nằm chờ chính sách, giữ nhà xưởng… 1.3. Nguồn vốn nước ngoài : Nguồn vốn nước ngoài gồm 3 bộ phận cấu thành chủ yếu là nguốn ODA và vay thương mại, nguồn vốn FDI và nguồn kiều hối. Xét trên bình diện tổng thể, các nguồn vốn này đầu tư vào Việt Nam càng ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, mấy năm gần đây do khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực và các lý do chủ quan từ phía Việt Nam tốc độ tăng của các nguồn vốn này lại có xu hướng giảm. Hiện nay, nước ta đang cố gắng cải thiện môi trường đầu tư trong nước để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là công nghệ kĩ thuật tiên tiến hiện đại của thế giới để nâng cao trình độ sản xuất cũng như đời sống của nhân dân lao động. 2. Xét về mặt định tính: Với tất cả những hạn chế của công tác thống kê, khảo sát, phân tích và dự báo kinh tế – tài chính ở nước ta, vẫn có thể đưa ra một số nhận xét về thực tế và tiềm năng huy động các nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như sau : Thứ nhất, về đặc điểm, tính chất: các nguồn vốn có thể huy động cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước mới chỉ được khai thác không đáng kể, mà chủ yếu còn ở dạng tiềm năng và chưa được đánh giá đầy đủ và chính xác. Hơn nữa, chúng tồn tại và được huy động với quy mô nhỏ bé, trong tình trạng chia cắt, manh mún, rời rạc và nặng tính tự phát, thiếu sự hợp tác, gắn bó hỗ trợ nhau trong một kế hoạch có mục tiêu nhất quán và đồng bộ như một chỉnh thể, nếu không muốn nói là đôi khi còn chèn ép và làm giảm tác động tích cực của nhau đến mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng, tiến bộ và công bằng xã hội. Thứ hai, đến nay vẫn còn khá đậm nét sự lúng túng, phân biệt đối xử và “sự nghi kị” lẫn nhau giữa các nguồn vốn khác nhau, mà sự tồn tại của quá nhiều các đạo luật khác nhau điều chỉnh các nguồn vốn khác nhau này đã và đang cho thấy điều đó ( Hiện có tới 5 đạo luật điều chỉnh vốn đầu tư xã hội : Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật DNNN, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật khuyến Khích đầu tư trong nước, Luật Phá sản…). Vẫn còn thiếu sự công bằng trong quyền lợi và nghĩa vụ mà các chủ sở hữu các nguồn vốn này nhận được, rõ nét nhất là giữa DNNN – DNTN, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; giữa nông thôn và thành thị. Thậm chí sự thiếu công bằng còn tồn tại cả trong cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển, cho tiến bộ và công bằng xã hội. Nhìn chung, hệ thống pháp lý và cơ sở hạ tầng cùng dịch vụ nhằm khuyến khích, hỗ trợ và định hướng đầu tư phát triển vẫn còn chưa phát triển, thậm chí nhiều bất cập. Thứ ba, hậu quả chung là vốn xã hội bị chi tiêu dùng nhiều hơn chi đầu tư phát triển. Hơn nữa đang có xu hướng sụt giảm dần chỉ số hiệu quả đầu tư xã hội K= GDP (năm sau/tổng đầu tư xã hội năm trước). Cụ thể là trong khi các hình thức huy động vốn đầu tư phát triển ngày càng đa dạng và hiệu quả hơn, khiến tổng đầu tư và và chỉ số đầu tư/GDP tăng liên tục từ năm 1991 đến 1997 thì K vận động theo hướng ngược lại, nghĩa là nếu như 1 USD đầu tư năm 1992 làm tăng 1,47 USD GDP năm 1993 thì 1 USD đầu tư năm 1996 sẽ chỉ còn làm tăng 0,29 USD GDP năm 1997. Ngoài ra còn phải kể đến sự gia tăng tình trạng vốn đầu tư xã hội “bị đóng băng” trong các bất động sản và nằm ứ đọng trong ngân hàng vì không cho vay được, hoặc hao hụt dưới nhiều dạng thất thu, thất thoát chi NSNN, nợ đọng khó đòi (lên tới từ 9-20% tổng tín dụng ngân hàng) v.v…Tình trạng nhập hàng xa xỉ và hàng tiêu dùng vượt quá khả năng cho phép ở bộ phận dân thành thị vẫn không giảm. Tình trạng nằm im vốn đầu tư, kể cả chuyển đổi sở hữu từ dạng doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, tình trạng nhập khẩu công nghệ và thiết bị lạc hậu hoặc bị đội giá đang ngày càng phổ biến cũng là những tín hiệu thiếu lành mạnh trong hoạt động của các đầu tư nước ngoài những năm gần đây nói riêng, trong bức tranh toàn cảnh về huy động vốn đầu tư nói chung ở Việt Nam. Thứ tư, về triển vọng vận động, trong số các nguồn vốn nêu trên thì lượng ODA và kiều hối có xu hướng giảm dần do xu hướng giảm ODA trên thế giới, đi đôi với sự phát triển của đất nước sẽ làm giảm bớt “tính ưu tiên” của Việt Nam trong danh sách các nước nhận ODA thế giới. Còn giảm sút kiều hối là do sự “nhạt dần” các quan hệ thân hữu giữa lượng người Việt ở nước ngoài với người thân trong nước. Chỉ có kênh kiều hối của xuất khẩu lao động Việt Nam đi các nước và kênh FDI có nguồn gốc từ người Việt Nam sống ở nước ngoài có thể tăng lên. Lượng vốn đầu tư cho phát triển từ NSNN và vốn vay thương mại cũng có giới hạn do sự quy định nghiêm ngặt của giới hạn động viên GDP vào NSNN và sự an toàn tín dụng quốc tế (mà chúng ta đang sắp đạt tới“ ngưỡng” của các giới hạn này) . Có thể có sự gia tăng vốn đầu tư cho phát triển từ bộ phận tài sản công và tài sản quốc gia hiện vẫn còn nằm ở dạng tiềm năng hoặc ít được khai thác. Rút cục, sự linh động tiềm tàng và triển vọng dồi dào nhất của nguồn vốn cho đầu tư phát triển chính là FDI và vốn trong dân cư (mà vốn trong dân cư sẽ ngày càng chiếm vị trí quan trọng) nếu được nuôi dưỡng và động viên thích hợp bằng môi trường kinh doanh ngày càng được hoàn thiện và có tính cạnh tranh quốc tế cao. Tóm lại, trong suốt thời kì đổi mới đến nay, chúng ta đã thu hút được nhiều thành tích không thể phủ nhận và các nguồn vốn cho phát triển kinh tế và công bằng xã hội. Song về cơ bản, nền kinh tế mới tăng trưởng dựa trên việc khai thác các nhân tố phát triển bề rộng và đang cạn dần mà chưa coi trọng khai thác các nhân tố phát triển bề sâu.Tư tưởng “ăn sổi”, kinh doanh chụp giựt vẫn còn khá phổ biến trong đa số các nhà đầu tư trong nước lẫn một bộ phận ngoài nước, thậm chí cả trong dân chúng, lẫn một bộ phận các nhà quản lý. Cơ chế chung của nền kinh tế vẫn còn đậm nét cơ chế hao phí:hao phí lao động, hao phí nguyên vật liệu, hao phí tín dụng, chất xám, hao phí tài sản công và tài nguyên quốc gia. Tiêu dùng vẫn được đặt cao hơn tích luỹ phát triển sản xuất v.v… 3. Sự ảnh hưởng của việc gửi ngoại tệ ra nước ngoài đến nguồn vốn phát triển kinh tế Việt Nam: Trong thời gian gần đây, trên các thị trường tài chính quốc tế lãi suất ngoại tệ tăng mạnh. Nguyên nhân chính là do trong vòng 6 tháng đầu năm 2000, Cục dự trữ liên bang Mỹ(FED) đã liên tục 4 lần tăng lãi suất (nếu tính từ tháng 6/1999 là 6 lần), tổng cộng là 1% cho các mức lãi suất chủ đạo của Mỹ trong 6 tháng. Việc FED liên tục tăng lãi suất là nhằm kiềm chế lạm phát và một phần do nhu cầu về tín dụng đối với đồng USD tăng; hay nói cách khác là để tránh nguy cơ phát triển quá nóng của nền kinh tế Mỹ. Như phản ứng dây chuyền, ngân hàng trung ương (NHTƯ) Châu Âu (ECB) cũng đã 3 lần nâng lãi suất tái cấp vốn từ mức. Lãi suất cho vay liên ngân hàng LIBOR, SIBOR cũng tăng mạnh. Không nằm ngoài xu thế đó, hàng loạt lãi suất đồng tiền của các nước cũng được điều chỉnh tăng với các mức độ khác nhau phù hợp với mỗi điều kiện kinh tế của mỗi nước và trong mỗi thời kì khác nhau nhằm bảo vệ đồng nội tệ, tránh việc chuyển đổi nguồn vốn sang USD và vốn bị đào thoát ra nước ngoài. Còn đối với Việt Nam, việc tăng lãi suất như trên ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động của các NHTM và huy động vốn cho phát triển kinh tế? Trên thực tế, các NHTM trong nước cũng từng bước nâng lãi suất huy động USD. Trong dân chúng, đã và đang xuất hiện xu hướng chuyển các khoản tiết kiệm từ VND sang USD do lãi suất USD được điều chỉnh tăng lên trong khi lãi suất huy động tiết kiệm VND vẫn chỉ duy trì ở mức độ thấp, và tâm lý lo ngại về sự mất giá của đồng Việt Nam. Hiện nay, do biến động trên thị trường tài chính Mỹ, và các biện pháp của NHNN để khắc phục tình trạng đôla hoá, mức lãi suất USD đã giảm từ mức lãi suất phổ biến ở 4,4%- 5,3%/năm cho kỳ hạn 3-6 tháng xuống còn 1,75-1,85% và 5,5%-5,7%/năm kỳ hạn 12 tháng xuống còn 2,25%. Song nguồn vốn ngoại tệ huy động vẫn có chiều hướng tăng mạnh. Theo thống kê, khối lượng huy động USD tăng hơn 24,8% so với cuối năm 1999 và 18,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi gia tăng tín dụng chỉ ở mức khiêm tốn : tăng 5% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, việc tăng lãi suất ngoại tệ đã có những tác động nhất định đến thị trường ngoại hối và tín dụng USD. Xét ở một khía cạnh khác, mặc dù lãi suất USD trong nước đã được nâng lên nhưng vẫn còn khoảng cách khá lớn đối với lãi suất USD trên thị trường quốc tế chênh lệch khoảng 1,4-1,8%. Điều này đã làm xuất hiện tình trạng các NHTM trong nước tăng cường huy động ngoại tệ USD rồi gửi ra những tài khoản tiền gửi ở nước ngoài để hưởng chênh lệch lãi suất. Hoạt động tín dụng trong nước của các NHTM hiện nay đang gặp khó khăn, nguồn ngoại tệ để cho vay rất lớn nhưng không cho vay được. Trong khi đó, các NHTM lại được phép mở tài ngoại tệ ở nước ngoài. Do vậy việc họ đem số ngoại tệ “ nhàn rỗi” huy động được gửi ra nước ngoài ( được lợi hơn về mặt lãi suất mà độ an toàn lại cao ) nhằm sinh lời đồng vốn và bù đắp được chi phí huy động là điều không thể tránh khỏi và phù hợp với quy luật thị trường. Đây quả là một hiện tượng “ đầu tư ngược” , nhưng hoàn toàn hợp pháp. Như vậy, lãi suất ngoại tệ trên các thị trường tài chính quốc tế tăng đã thay đổi chiều hướng hoạt động của các NHTM ; các NHTM thay việc khai thác ( cho vay ) trong nước vốn đã khó khăn trong thời gian qua bằng việc gửi ngoại tệ ra nước ngoài, vừa được lãi cao vừa không vi phạm luật pháp. Tuy nhiên, đứng dưới giác độ quản lý vĩ mô, việc gửi ngoại tệ ra nước ngoài tiếp tục ra tăng sẽ có những tác động không tốt đến nguồn vốn phát triển kinh tế của nước ta. Đối với nguồn vốn trong nước không phát huy hết hiệu quả không được khai thác triệt để nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh ; còn đối với nguồn vốn từ nước ngoài cũng làm giảm sút lãi suất ở Việt Nam hiện nay (nước tiếp nhận vốn đầu tư ) thấp hơn so lãi suất quốc tế. Hơn nữa, việc các NHTM gửi ngoại tệ ra nước ngoài không cho vay trong nước cũng làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, càng làm xấu đi hoạt động thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài đã có chiều hướng giảm sút từ gần ba năm nay. Phân tích một số giải pháp giảm bớt tình trạng các NHTM gửi ngoại tệ ra nước ngoài trong khi nền kinh tế thiếu vốn . Hầu hết các chuyên gia kinh tế đều khẳng định rằng, hiện nay biện pháp tiếp tục hạ lãi suất VND để kích cầu ( do nền kinh tế nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng thiểu pháp – tỉ lệ lạm phát 7 tháng đầu năm 2000 là -1,6%) là khó có thể thực hiện được, song càng không thể tăng lên để tạo thế cân bằng với lãi suất USD; vì vậy, sẽ hạn chế tiêu dùng và đầu tư trong nước. Hơn nữa, hiện nay hầu hết các NHTM đều đang thừa vốn huy động nhiều hơn cho vay (tình trạng do rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng trong khuôn khổ bài viết chỉ đề cập tới hai nguyên nhân tương đối quan trọng, đó là: giới hạn phạm vi đối tượng cho vay ngoại tệ và việc tăng lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế ). Phạm vi đối tượng cho vay ngoại tệ hẹp : chỉ cho vay ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị và dịch vụ cho nước ngoài. Trong khi đó, lãi suất trên thị trường quốc tế vẫn liên tục tăng cao hơn so với lãi suất ngoại tệ trong nước. Chỉ với hai lí do này đã khiến các nhà đầu tư trong nước (NHTM) tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước ngoài (gửi ngoại tệ ). Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng nêu trên ? Theo một số chuyên gia kinh tế, để hạn chế được tình trạng các NHTM gửi ngoại tệ ra nước ngoài trong khi các doanh nghiệp trong nước đói vốn, nên sử dụng một số biện pháp hành chính như : Không cho phép các NHTM gửi ngoại tệ ra nước ngoài hoặc công bố trần lãi suất huy động USD. Điều này có thực hiện được không? Nếu đưa ra một mức trần huy động USD sẽ có những bất lợi sau : Hạn chế khả năng huy động vốn ngoại tệ của các ngân hàng, ảnh hưởng đến khả năng tăng tỷ lệ tiết kiệm của quốc gia trong khi nước ta đang cần một lượng vốn rất lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước với phương châm phát huy nội lực là chính kết hợp với việc khai thác triệt để các nguồn vốn huy động từ nước ngoài. Còn đưa ra biện pháp hành chính hạn chế các NHTM gửi tiền ra nước ngoài cũng là việc không nên làm, vì như vậy, sẽ thu hẹp phạm vi, rối loạn hoạt động của các NHTM. Do hiện nay, các NHTM huy động được nhiều USD từ nguồn tiết kiệm trong dân, trong khi đó, lại chưa tìm thấy những cơ hội cho vay vốn USD đối với các dự án trong nước. Nếu không sinh lời, thì ngân hàng không đảm bảo được hoạt động kinh doanh của mình, sẽ hạn chế việc thu hút thêm nguồn vốn tiết kiệm ngoại tệ trong dân. Điều này cũng có nghĩa là làm giảm tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế – một nguồn vốn cực kỳ quan trọng cho sự phát triển kinh tế nước nhà. Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất phải do thị trường quyết định. Trong tình hình hiện nay của nước ta, nếu chưa có điều kiện để tự do hoá lãi suất, thì cũng không nên đưa thêm các biện pháp quản lý mang tình hành chính để kiểm soát, vì như vậy sẽ tạo thêm những lực cản cho tiến trình tự do hoá mà chúng ta đang theo đuổi, hạn chế quá trình phát triển, hội nhập của nền kinh tế nước ta. Một số ý kiến khác lại cho rằng, giải pháp để khắc phục tình trạng trên là cần mở rộng phạm vi đối tượng cho vay ngoại tệ. Tuy nhiên, đứng ở giác độ NHTƯ, để giải quyết được vấn đề này, ngoài việc bổ sung, sửa đổi một số điều trong chính sách quản lý ngoại hối, chúng ta cần phối hợp với việc thực hiện một số giải pháp hỗ trợ khác như : Thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, phù hợp với cơ chế thị trường, giải quyết mối quan hệ giữa lãi suất nội, ngoại tệ giữa lãi suất trong nước với lãi suất quốc tế, giữa chính sách lãi suất với chính sách tỷ giá… tạo sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, giúp các NHTM mở rộng được cơ hội đầu tư trong nước, thu hút được các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp có thêm nhiều nguồn vốn mở rộng sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế, góp phần thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước. Phần ba: Xu hướng phát triển của vấn đề trong tương lai và một số kiến nghị. I- Sự phát triển của vấn đề trong tương lai: 1. Xu hướng phát triển của thị trường vốn trong khu vực: Việt Nam đang xúc tiến chuẩn bị hội nhập nền kinh tế trong khu vực và quốc tế. Chính vì vậy hoạt động tài chính nói chung và hoạt động trên thị trường vốn nói riêng của ngành ngân hàng phải rất tích cực nhằm đạt đến trình độ đủ điều kiện hội nhập. Chúng ta phải luôn quan tâm tới xu hướng phát triển của thị trường vốn ở trong khu vực cũng như trên thế giới. Theo các nhà phân tích thì trong những năm tới thị trường vốn trong khu vực Châu á sẽ phát triển theo xu hướng cơ bản sau : Xu hướng thành lập khối tiền tệ khu vực bằng cách liên kết một số đồng tiền và thiết lập một dạng “Euro Châu á” hoặc bằng cách liên kết xung quanh đồng Yên Nhật. Khu vực ngân hàng chuyển một phần đáng kể vai trò phân phối lại các nguồn vốn sang cho thị trường chứng khoán. Cơ cấu các công cụ tài chính đang thay đổi theo hướng chứng khoán hoá với tốc độ lưu chuyển vốn ngày càng gia tăng. Nhu cầu vay nợ Chính phủ của các nước có xu hướng giảm xuống nhờ thực thi chính sách cắt giảm thâm hụt ngân sách. Nguồn vốn trên thị trường tăng trưởng mạnh nhờ thay đổi cung-cầu và ứng dụng công nghệ cao như công nghệ Internet trong giao dịch mua bán chứng khoán. Khu vực tài chính và khu vực công ty ngày càng gắn bó chặt chẽ cùng với sự gia tăng phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty để huy động vốn cho các hoạt động kinh tế. Quan hệ qua lại giữa các nước đang phát triển với các tổ chức quốc tế và các thể chế tư nhân trong giải quyết vấn đề nợ nước ngoài đã và đang thay đổi theo hướng tập trung nâng cao trách nhiệm của chính các nước đang phát triển đối với sự ổn định của các thị trường nội địa. Nếu như trước đây các nước đang phát triển bắt đầu bằng việc tiến hành đàm phán với các tổ chức quốc tế, thoả thuận về các chương trình đó rồi mới tiến hành đàm phán song phương thông qua các Câu lạc bộ Paris và London thì giờ đây, buộc họ phải thoả thuận với các chủ tín dụng tư nhân và Nhà nước trước rồi mới thống nhất các chương trình ổn định hoá của mình với các tổ chức tài chính quốc tế. 2. Định hướng chiến lược huy động vốn của ngành Ngân hàng trong giai đoạn 5 năm 2001-2005: Đứng trước xu hướng phát triển của thị trường vốn trong khu vực tiến tới toàn cầu hoá, ngành ngân hàng nhận thấy rằng cần có một sự chuẩn bị vững chắc cho sự hội nhập của nền kinh tế cả nước ngay từ bây giờ. Từ khi chuyển sang kinh doanh các ngân hàng thương mại đã thực hiện huy động một khối lượng đáng kể vốn trong nước và nước ngoài; thúc đẩy đầu tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế, coi trọng đầu tư tín dụng ưu đãi để phục vụ xoá đói giảm nghèo và thực hiện một số chính sách xã hội. Để nước ta có được nhịp độ tăng trưởng kinh tế 7,5%/năm trong thời kì 2001-2005 như đã định, đòi hỏi phải có vốn đầu tư đi kèm không nhỏ. Theo ước tính của các nhà hoạch định chính sách, tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần cho thời kì này tương đương khoảng từ 57 đến 60 tỷ USD, theo giá năm 2000 là khoảng từ 800 đến 840 ngàn tỷ VND. Trong số đó, phần vốn trong nước chiếm khoảng 60% tương đương 34 đến 36 tỷ USD (480-504 ngàn tỷ VND), còn 40% là huy động vốn từ nước ngoài (thông qua FDI, ODA và nguồn vốn huy động khác). Với nguồn vốn dự kiến này, cơ cấu đầu tư sẽ được điều chỉnh cho hợp lý hơn (so với cùng kỳ 5 năm vừa qua). Dự kiến sẽ đầu tư vào các lĩnh vực theo tỷ trọng: 13% nông-lâm-ngư nghiệp (tăng 2%); 44% công nghiệp; 15% giao thông và thông tin; 8% khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế, văn hoá (tăng 1,3%); 20% quản lý nhà nước, thương mại, du lịch, xây dựng, cấp thoát nước và các dịch vụ công cộng khác (giảm 2,5%). Như vậy, trong 5 năm tới, cơ cấu kinh tế mới, hợp lý theo hướng Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá và phát triển bền vững, trong đó đầu tư cho nông-lâm-ngư nghiệp, cho phát triển nguồn lực được tăng cường, còn cho các lĩnh vực khác như dịch vụ công cộng giảm đáng kể so với giai đoạn trước. Từ kinh nghiệp 5 năm qua ( 1996-2000), Việt Nam có tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt gần 7% và năm 2000 đã có tổng sản phẩm quốc nội gấp hơn hai lần so với năm 1990, với số vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện đạt khoảng 40 tỷ USD (theo giá 1995), trong đó vốn trong nước chiếm 60% tương đương 24 tỷ USD, vốn FDI gần 10 tỷ USD và ODA hơn 6 tỷ USD. Trong 5 năm tới, định hướng chiến lược cả ngành Ngân hàng dự kiến: tốc độ tăng huy động vốn đạt từ 20-25%/năm và đạt trên 60% GDP vào năm 2005. Tín dụng trung, dài hạn được duy trì ở khoảng 40% trong tổng dư nợ cho vay. Với nhiệm vụ của mình, toàn hệ thống ngân hàng đang phấn đấu nhằm thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn trong nước và tranh thủ các nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, đẩy nhanh cho vay, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn trong hệ thống ngân hàng, đồng thời tập trung giảm tỷ lệ nợ quá hạn và kiểm soát chất lượng tín dụng. II- Một số kiến nghị : 1. Đề xuất để tăng cường huy động vốn từ dân cư: 1.1. Tạo sự an toàn tiền gửi tiết kiệm dân cư: Đây là một biện pháp nhằm tăng cường nguồn vốn huy động từ dân cư. Nguồn tiền gửi tiết kiệm dân cư là một nguồn vốn vô cùng dồi dào, là nguồn tiền gửi có tính vững chắc ngày một tăng tiến. Nguồn này có lúc có nơi chiếm 30-40% nguồn vốn cho vay của ngân hàng, còn bình quân nó chiếm khoảng từ 20-25% nguồn vốn hoạt động của các TCTD trong cả nước. Khi kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập của mọi tầng lớp dân cư ngày càng tăng thì nguồn vốn tích luỹ của mỗi gia đình tăng lên. Đó là lợi thế cho ngân hàng, cho Nhà nước trong việc huy động nguồn vốn phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước. Nguồn tiền gửi tiết kiệm dân cư là sở hữu của từng cá nhân, có quyền quyết định gửi vào lĩnh ra, không ai được xâm phạm quyền đó trừ trường hợp đặc biệt khi có quyết định của pháp luật. Người gửi luôn muốn bí mật số dư nên không đối chiếu hàng tháng, hàng quý, nhưng nguồn tiền gửi đó lại tồn tại mãi mãi nếu như ngân hàng không có những quy định thay đổi. Vì thế, vấn đề đảm bảo an toàn tiền gửi tiết kiệm dân cư là một vấn đề cấp thiết. Chỉ làm tốt việc bảo đảm an toàn tiền gửi gây được tín nhiệm tuyệt đối với người gửi tiền thì số dư tiền gửi tiết kiệm sẽ dễ dàng tăng lên khi nên kinh tế hàng hóa đang ngày càng đổi mới và phát triển. Hiện nay, công tác quản lý vốn tiết kiệm nói chung, kế toán tiết kiệm nói riêng chưa có quy chế thống nhất, việc hoạt động tiết kiệm đang ở mức tự phát. Xuất phát từ vấn đề đó đã đến lúc ngành Ngân hàng cần có những biện pháp tổ chức, cơ chế chính sách, biện pháp nghiệp vụ để đảm bảo an toàn từ nguồn tiền gửi tiết kiệm dân cư từ góc độ quản lý, quy trình nghiệp vụ. Xin đưa ra một số ý kiến tham khảo để giải quyết vấn đề trên: Một là, kế toán tiết kiệm hiện nay nằm trong bộ máy kế toán nhưng khi hoạt động lại mang tính độc lập chỉ giữa kế toán, thủ quỹ và khách hàng không có sự kiểm soát của kế toán trưởng, kiểm soát viên nào khác trên mỗi chứng từ hoạt động. Vì thế hoạt động tiết kiệm bố trí theo mô hình hai cấp : cấp kiểm soát và cấp thực hiện. Mô hình hai cấp này có thể ở những nơi hoạt động ít bố trí xen kẽ nhưng mục đích để tách rời sự hoạt động giữa giao tiếp với khách hàng với sự kiểm soát các hoạt động đó. Hai là, sự thống nhất về mặt tổ chức, về quy trình kế toán ở trong từng hệ thống, trong hoạt động tiết kiệm ở những nơi có máy vi tính, những nơi chưa hoạt động trên máy vi tính về thẻ lưu ở bộ phận kiểm soát ra sao cần có sự thống nhất. Thứ ba, phiếu gửi tiền, phiếu lĩnh tiền nên có mẫu in sẵn về các tiêu chí và khách hàng phải trực tiếp viết, ký, và không nên dùng các phiếu này của máy vi tính để đảm bảo an toàn món tiền gửi, người kế toán bàn làm nhiệm vụ phục vụ khách một cách tận tình nhưng phải là người kiểm soát hoạt động. Chỉ khi có chữ viết, có chữ ký của người lĩnh tiền, sự kiểm soát đa dạng này mới có tác dụng, có thể những trường hợp phải giám định mẫu chữ ký, chữ viết để xác định người lĩnh tiền là ai? Thứ tư, việc quản lý thẻ tiết kiệm trắng hiện nay chưa được chú trọng, chưa được coi là tài sản vô giá, nên có những nơi khi xảy ra vụ án mới biết bị lợi dụng thẻ tiết kiệm trắng. Vì vậy, cần đưa việc quản lý, bảo quản thẻ phiếu trắng một cách chặt chẽ coi nó như tiền, thậm chí còn hơn tiền bởi vì một tờ bạc hiện có mệnh giá cao nhất là 100.000 đồng còn một sổ tiết kiệm trắng sẽ không biết là bao nhiêu ? Khi người dân thực sự cảm thấy an tâm về khoản tiền tiết kiệm của mình trong ngân hàng, thì ngân hàng đã tạo được niềm tin, tạo được cơ sở vững chắc để huy động vốn từ dân cư ngày càng nhiều. 1.2. Về các chính sách : Chính sách lãi suất: Lãi suất áp dụng cho tiền tiết kiệm từ dân theo chủ trương thì không một ngân hàng nào có quyền hạ thấp so với quy định. Chính sách thu hút vốn: Muốn thu hút vốn trung và dài hạn thì phải chấp nhận tiền gửi trung và dài hạn (thậm chí là 20 năm). Ta cũng không thể không tính đến một thị trường vốn mà cụ thể là thị trường chứng khoán, một thị trường sẽ thu hút vốn của dân cư đặc biệt là khai thác vốn của những người giàu có. Ngoài ra việc phổ biến rộng rãi các chính sách kể cả chính sách về lãi suất và chính sách thu hút vốn là điều hết sức cần thiết. 1.3. Về vấn đề môi trường : Cần xây dựng một môi trường mà ở đó đảm bảo cho người dân có được sự tiêu dùng hợp lý phù hợp với khả năng và điều kiện sống thực tế của mình. Phải trong sạch hoạt động ngân hàng mà trước hết là cán bộ lãnh đạo ngân hàng. Cần làm rõ trách nhiệm cá nhân của những lãnh đạo ngân hàng đã làm sai trái để một mặt làm gương cho ngành ngân hàng nói chung và tạo sự tin tưởng cho người dân. Cần xử lý các vụ việc có dính líu đến ngân hàng vì hiện nay lĩnh vực này cũng là một trong những lĩnh vực rất nhạy cảm của người dân. Nếu dân thấy rằng ngân hàng là một nơi có thể đặt niềm tin tuyệt đối thì không chỉ có gửi tiết kiệm mà họ còn có thể mua cổ phiếu để chia sẻ rủi ro với ngân hàng nữa. 1.4. Vấn đề thông tin: Ngân hàng nên tận dụng hết vai trò của thông tin, sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng để tuyên truyền các chủ trương chính sách của nhà nước cũng như những chiến lược huy động vốn và phát hành trái phiếu cổ phiếu… Có như thế thông tin mới đến được dân chúng một cách thường xuyên, liên tục, đầy đủ và chính xác được. Điều này rất quan trọng, và là một trong các hoạt động marketing của các ngân hàng hiện nay, phục vụ các nghiệp vụ ngân hàng được hiệu quả. 2. Biện pháp tăng nguồn vốn trung và dài hạn: 2.1. Vai trò của vốn trung và dài hạn : Đầu tư vốn trung và dài hạn là yêu cầu mang tính khách quan của nền kinh tế trong giai đoạn công nghiệp hoá, đó là nguồn vốn để tạo lập cơ sở ban đầu, đổi mới công nghệ hay mở rộng sản xuất. Huy động vốn trung và dài hạn giữ vai trò làm tăng tính vững chắc của số dư vốn huy động, trong phạm vi từng NHTM tỷ trọng vốn trung và dài hạn cao có thể chủ động hơn về các kì hạn cho vay và chi trả. Như ta đã biết cơ cấu vốn huy động có ảnh hưởng đến cơ cấu vốn cho vay; và vì thế xác định tỷ trọng cho vay trung và dài hạn dựa vào số dư vững chắc của tài khoản các loại tiền gửi tại ngân hàng. Đây chính là tiền đề của vấn đề tạo vốn. 2.2. Những khó khăn gặp phải khi ngân hàng huy động vốn trung và dài hạn: Có nhiều người cho rằng lý do của tình trạng nhu cầu vốn lớn và lâu dài của nền kinh tế so với tỷ trọng vốn cho vay trung và dài hạn rất nhỏ là do không huy động vốn dài hạn nên thiếu vốn cho vay dài hạn ở trường hợp khác thì do tỷ lệ quy định cho vay dài hạn trong tổng huy động vốn quá thấp. Hơn nữa việc sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn có thể gặp khó khăn trong việc chi trả kịp cho khách gửi tiền vào các ngân hàng. Hiện nay do chất lượng phục vụ chưa cao, nên hầu hết các ngân hàng thương mại lấy các thể lệ huy động vốn có định kỳ dài với lãi suất cao hơn làm công cụ chính để tạo vốn. Việc các loại tiền gửi này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn chính là một bất lợi lớn trong kinh doanh. Vì lãi suất cao chính là gánh nặng cho người vay (gồm cả ngân hàng và người vay ngân hàng ). 2.3. Những tháo gỡ tình trạng trên: Trước hết cần nhận thức rằng: không có tiêu chí cố định về việc huy động vốn ngắn hạn là nguồn vốn cho vay ngắn hạn và cũng không là không huy động vốn dài hạn thì không có nguồn vốn cho vay dài hạn. Chúng ta tiến hành từ tổng nguồn vốn của cả huy động ngắn và dài hạn từ đó xác định ra một tỷ trọng có thể dùng cho vay trung và dài hạn dựa vào cơ cấu của vốn huy động và số dư của tài khoản tiền gửi (đây là số dư vững chắc, ổn định trong thời gian dài). Hiện nay, dần dần người gửi tiền không còn cân nhắc lựa chọn giữa các thể lệ có lãi suất cao (ứng với các kì dài hạn) vì chênh lệch lãi suất nhỏ và chịu nhiều ràng buộc, mà sự quan tâm của họ chính là uy tín của ngân hàng, mức độ tiện ích và sự an toàn. Như vậy việc huy động nhiều tiền gửi định kỳ có lãi suất cao không phải là cách của các ngân hàng tiên tiến. Việc xác định tỷ lệ vốn cho vay dài hạn so với huy động ngắn hạn cần thiết để NHTƯ chỉ đạo ở tầm vĩ mô khi có sự liên kết chặt chẽ ở các NHTM. Để có một tổng nguồn vốn huy động ổn định vững chắc cần có sự nỗ lức từ phía các NHTM và một sự chỉ đạo vĩ mô để cải tiến vĩ mô nâng cao chất lượng hoạt động của các ngân hàng. Ngoài ra phải tạo cơ hội tốt nhất cho các nguồn tiền lưu thông vào ngân hàng hoặc qua quỹ ngân hàng. Tính vững chắc của nguồn vốn huy động không chỉ ở bản thân việc huy động vốn mà còn phụ thuộc vào quá trình sử dụng vốn, nên cần khắc phục tình trạng cục bộ trong hoạt động của từng NHTM. Chúng ta còn phải tổ chức rộng rãi thu nhận và chi trả tiền gửi, tổ chức liên kết chặt chẽ giữa hệ thống ngân hàng trong phương diện thanh toán; tạo thói quen dùng các công cụ thanh toán cho công chúng, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. 3. Giải pháp về lãi suất : Trong cơ chế thị trường, việc hình thành một chính sách lãi suất thích hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò đó thuộc NHNN. Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng (TCTD) ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản có thể chọn lãi suất huy động vốn hoặc lãi suất cho vay. Theo các nhà kinh tế, lãi suất cơ bản hợp lý nhất là lãi suất huy động vốn, có như vậy mới đảm bảo cho sự vận hành bình thường các hoạt động huy động vốn, nhận tiền gửi và cho vay trong nền kinh tế. Có nghĩa là bất kì ngân hàng nào tìm được cơ hội trả lãi tiền gửi thấp hơn hoặc bằng lãi suất cơ bản và cho vay cao hơn hoặc bằng lãi suất cơ bản thì không bị lỗ, tạo ra khả năng cạnh tranh lớn hơn giữa các tổ chức tín dụng, giảm thiểu sự quản lý của nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính. Mặt khác, lãi suất huy động vốn có ảnh hưởng rất lớn đến nguồn vốn huy động, trên cơ sở đó mới mở rộng hay thu hẹp cho vay, nhất là trong sự nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước cần huy động nhiều nguồn vốn, gắn với sử dụng có hiệu quả (trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng). Lãi suất cơ bản hiểu theo cách trên có ưu điểm là tạo ra khả năng cạnh tranh lớn hơn giữa các TCTD. Tuy nhiên, trong lãi suất huy động vốn có nhiều mức lãi suất, do đó cần chọn mức lãi suất nào có mức vốn chiếm tỷ trọng cao nhất làm đại diện cho lãi suất huy động vốn ngắn hạn và lãi suất huy động vốn trung và dài hạn. Trong điều kiện thực tế hiện nay, đó chính là lãi suất tiền gửi tiết kiệm bình quân. Như ở trên đề xuất là nên lấy đó là lãi suất cơ bản. Do đó lãi suất cho vay được xác định như sau: Lãi suất cho vay ngắn hạn = Lãi suất tiền gửi tiết kiệm bình quân + Biên độ ngắn hạn Lãi suất cho vay trung và dài hạn = Lãi suất tiết kiệm bình quân + Biên độ trung, dài hạn Trong điều kiện hiện nay, kết quả huy động vốn trung, dài hạn của các TCTD còn rất khiêm tốn. Do đó lãi suất tiền gửi tiết kiệm bình quân trung, dài hạn có thể thay bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn, nhưng với biên độ khác nhau và đảm bảo lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn bình quân cộng với biên độ phải nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế để đảm bảo cho các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Vì vậy, NHNN cần xây dựng và củng cố thị trường tiền tệ, phát triển nghiệp vụ thị trường mở để mua bán các chứng khoán ngắn hạn, củng cố và kiểm soát thị trường liên ngân hàng, thực hiện tái chiết khấu các chứng từ có giá của các TCTD, tiếp tục củng cố và mở rộng tái khoản cá nhân, người thực hiện lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tiết kiệm bình quân để tiến tới tự do hoá lãi suất phù hợp với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước. 4. Các giải pháp chung: Về nguyên tắc, mỗi chính sách tạo ra động lực phát triển kinh tế –xã hội đều có vai trò lịch sử của mình. Động lực đó sẽ cạn dần và đòi hỏi phải có chính sách mới tạo ra động lực mới, phù hợp hơn với bối cảnh tình hình mới. Các chính sách huy động vốn đã trình bày ở trên đều phải nhất quán ở các quan điểm sau: Một là, huy động được càng nhiều càng tốt, không nên định giới hạn cho việc huy động vốn, kể cả vốn nước ngoài (tất nhiên trừ vốn vay, thương mại ) ; phát huy nội lực là chính nhưng không tự thít lại nguồn vốn nước ngoài. Hai là, vốn huy động càng rẻ càng tốt, tránh việc huy động việc huy động vốn bằng mọi giá. Tránh việc trả giá cho vốn huy động bởi những chi phí phát sinh to lớn khó lường cả về vật chất lẫn môi sinh và tinh thần về sau. Ba là, huy động vốn càng đồng bộ càng tốt cả về nguồn vốn (trong và ngoài nước, vốn nhà nước và tư nhân) lẫn biện pháp huy động. Bảo đảm bình đẳng, gắn bó, tạo điều kiện hỗ trợ nhau cùng phát triển giữa các nguồn vốn, không phân biệt đối xử, kỳ thị; không khắt khe quá cũng không nới lỏng quá nguồn vốn nào. Lấy hiệu quả kinh tế xã hội chung làm tiêu chuẩn cao nhất đo lường lợi ích các nguồn vốn. Bảo đảm sự nhất quán, đồng bộ và ổn định, có thể dự báo được của các chính sách huy động vốn, để giữ được lòng tin và kích thích các chủ sở hữu vốn hăng hái đầu tư. Bảo đảm ngày càng tiếp cận trình độ và phù hợp thông lệ quốc tế về môi trường đầu tư. Bốn là, ngày càng đa dạng hoá và hiện đại hoá hình thức huy động vốn. Trong các biện pháp trên cần chú trọng vào các điểm cơ bản sau : 1.“Hàng hoá hoá” và xác định chủ sở hữu rõ ràng, dứt khoát tất cả các nguồn lực có thể của xã hội và cho phép chúng tự do lưu thông, trao đổi, chuyển nhượng nhanh chóng, thuận tiện trên các thị trường thích hợp. Các tài sản công, các khoản nợ đọng, sức lao động, công nghệ… đều cần được khảo sát thống kê, định giá đầy đủ và chính xác để đưa vào lưu thông như các hàng hoá khác. Khai thông nhanh chóng thị trường bất động sản. 2. Phát triển cơ sở hạ tầng là điều kiện tiên quyết để khai thác và làm tăng giá trị các nguồn lực tiềm năng của đất nước. 3. Nhanh chóng cải thiện và đồng nhất môi trường kinh doanh để tạo điều kiện như nhau và thuận lợi nhất cho việc khai thác và triển khai các nguồn vốn đầu tư phát triển trong các thành phần kinh tế và dân cư. Coi trọng các hoạt động kế toán, kiểm toán, tư pháp hỗ trợ và đảm bảo kinh doanh lành mạnh, chống tham nhũng. Sửa đổi chính sách tài chính – tín dụng theo hướng khuyến khích đầu tư phát triển, hạn chế tiêu dùng. 4. Phát triển thể chế hỗ trợ huy động vốn đầu tư tư nhân. Cho phép lập các hiệp hội doanh nghiệp tư nhân ở các cấp, các địa phương và các ngành sản xuất; lập những thể chế trung gian cầu nối (có quy chế chính thức rõ ràng) giữa Chính phủ và giới doanh nghiệp để tăng quan hệ thông hiểu và hỗ trợ, cập nhật tin tức kinh doanh và quản lý. Lập các trung tâm thông tin và hỗ trợ kinh doanh để giúp đỡ các doanh nghiệp thâm nhập thị trường nước ngoài. “Xốc lại” ngành ngân hàng để thực sự trở thành kênh kinh doanh và truyền dẫn vốn đầu tư xã hội lành mạnh và hiệu quả theo nguyên tắc thị trường. 5. Xã hội hoá đầu tư thông qua hình thành các dự án đầu tư nhà nước hoặc tư nhân lớn và kêu gọi cổ phần đầu tư từ tất cả những đối tác có khả năng và nhu cầu đầu tư. Khuyến khích BOT bằng nguồn vốn trong nước. 6. Lập cơ quan Chính phủ chuyên trách và định kì xem xét, sửa đổi, đồng nhất và hoàn thiện môi trường đầu tư, trước hết là các chính sách quản lý vĩ mô, nhà nước có liên quan đến việc huy động các nguồn lực trong các thành phần kinh tế và dân cư cho tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội. Kết luận Một trong những mục tiêu chiến lược của tài chính Việt Nam trong những năm đầu thể kỉ XXI là thiết lập và vận hành hệ thống chính sách tài chính chủ động tích cực, đồng bộ để khơi dậy mọi tiềm năng, phát triển nguồn lực, huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính quốc gia. Như vậy, chiến lược huy động vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh được ưu tiên trong công cuộc Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước. Hy vọng rằng thông qua tìm hiểu nghiên cứu về vấn đề huy động vốn chúng ta có cái nhìn đẩy đủ hơn, đặc biệt trong ngành ngân hàng tài chính cùng tìm những giải pháp và phương hướng mới cải thiện khắc phục những nhược điểm góp phần hoàn thiện chính sách huy động vốn ngày càng hiệu quả hơn. Vì hạn chế về trình độ và điều kiện sưu tầm tài liệu, nên bài viết chưa được đầy đủ và chặt chẽ, em mong thầy giáo hướng dẫn và các bạn góp ý và bổ sung nhiệt tình giúp em hoàn thành tốt bài viết này. Em xin chân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo Giáo trình : “Lý thuyết tài chính tiền tệ”- Trường ĐHKTQDHN. Đề cương bài giảng môn học. Sách : “Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước”- NHNN Việt Nam xuất bản năm 1997. Tạp chí Ngân hàng các số : 4/2000, 4/2001, 5/2001, 8/2001, 9/2001. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 251 (4/1999) Và một số sách báo tạp chí khác. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35134.doc
Tài liệu liên quan