Đứng trước sự thay đổi trong nền kinh tế Việt Nam thì mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế là một vấn đề hết sực phức tạp. Bởi vì giữa chúng có sự đan xen giữa những yếu tố chủ quan và khách quan với nhau. Chúng tác động thường xuyên lên nhau, chi phối lẫn nhau. Sự liên hệ này tác động đến các yếu tố như quan hệ tổ chức, quản lý và phân phối giữa LLSX và QHSX. Bởi vậy cần có cách tiếp cận khoa học không phiếm diện khi đổi mới và xác định mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế để tránh những sai lầm mà trước đây đã mắc phải.
19 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1791 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính trị
Đề tài:
Quan hệ giữa sở hữu và
thành phần kinh tế
Thầy giáo hướng dẫn: TS Lê Thục
Người viết : Lê Thanh Hằng
Lớp : Kế hoạch 42B
Hà Nội -2002
ội 2002
Phần I: Mở đầu
Khái quát vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong thời kỳ đổi mới này, vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế chiếm một vị trí quan trọng trên con đường đi lên CNXH ở nước ta. Sở hữu là một phạm trù kinh tế xuất phát và cơ bản của kinh tế chính trị . Nó như là một tổng thể các quan hệ kinh tế và theo đó là tổng thể các quyền sử dụng, chi phối, quản lý,…gắn với một chế độ xã hội nhất định. Mối quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế là một trọng những trọng điểm mà Đảng và Nhà nước nước ta đặc biệt quan tâm trong thời gian gần đây. Nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước.
Thời gian vừa qua, Đại hội Đảng lần thứ VI nước ta đã chỉ rõ sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên sự đa dạng của các hình thức sở hữu theo định hướng XHCN, coi sở hữu vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện vì sở hữu nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung không chỉ là phương tiện như mọi phương tiện thông thường có thể thay thế, mà là một bộ phận cấu thành của xã hội nhất định. CNXN có những đặc trưng riêng về sở hữu, những quan hệ sản xuất và phân phối nảy sinh từ chế độ đó.
Vì vậy,nghiên cứu mối quan hệ giữa sở hữu với các thành phần kinh tế có ý nghĩa quan trọng và cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với quá trình xây dựng CNXH nói chung và đặc biệt đối với thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Nó đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức trước sự đổi mới của một nền kinh tế còn non trẻ đang phải đương đầu với những khó khăn trước mặt trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy vấn đề về mối quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế trở nên rất phức tạp và cần được nghiên cứu sâu sắc. Nó đòi hỏi một kiến thức sâu rộng và tổng hợp cao, có thể nắm bắt tình hình hiện tại cộng với khả năng tư duy cao, sự phân tích cặn kẽ thì mới có thể làm sáng tỏ vấn đề. Với kiến thức có hạn của em, khả năng tổng hợp còn chưa cao và còn rất nhiều hạn chế nên phạm vi bài viết của em chỉ phần nào đưa ra được lý luận về hai phạm trù trên.
Là một sinh viên nên bài viết của em còn nhiều hạn chế. Em rất mong được sự hướng dẫn và giúp đỡ của các thầy cô giáo và các bạn để cho những lần viết sau của em được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Lê Thục đã hướng dẫn em hoàn thành đề tài trong suốt quá trình viết bài.
Phần II: NộI dung
Lý luận về phạm trù ở hữu và thành phần kinh tế
Sở hữu.
Khái niệm về sở hữu.
Sở hữu là phương thức chiếm hữu cụ thể mang tính lịch xử cụ thể của con người, những đối tượng dùng vào mục đích sản xuất cũng như phí sản xuất. Sở hữu luôn luôn gắn với vật dụng (vật chất hoặc tinh thần ) - đối tượng của chiếm hữu. Đồng thời sở hữu không chỉ đơn thuần là vật dụng, nó còn là quan hệ giữa con người với nhau. Vì vậy sở hữu là hình thức lịch sử xã hội nhất định của chiếm hữu tư liệu sản xuất. Là một phạm trù kinh tế, sở hữu biểu hiện tổng thể quan hệ kinh tế xã hội và pháp lý gắn với một chế độ xã hội nhất định.
Cần xem xét phạm trù sở hữu dưới hai góc độ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. ở góc độ thứ nhất, nó được coi là phạm trù kinh tế khách quan. Với góc độ này, sở hữu được địng nghĩa là quan hệ giữa người với người trong sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất, người ta gắn sở hữu với quyền sở hữu và việc thực hiện quyền sở hữu về mặt kinh tế trong quá trình sản xuất và tái sản xuất với tư cánh là kết quả của quyền sở hữu - cái mà các chủ sở hữu phải quan tâm.
Quan hệ sở hữu là sự tổng hoà các mối quan hệ sản xuất xã hội , tức là các quan hệ của của các giai đoạn tái sản xuất xã hội. Những phương tiện sống, bao gồm quan hệ sản xuất trực tiếp, phân phối, trao đổi, lưu thông và tiêu dùng được xét trong tổng thể của chúng. Quan hệ sở hữu về kinh tế là hiện diện của bộ máy pháp lý.
Phạm trù sở hữu khi đươc luận hoá thành quyền sở hữu được thực hiện qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ cở hữu. Chế độ cở hữu là sự thế chế hoá các quan hệ sở hữu thành các quyền : sở hữu, sử dụng, kế thừa, thế chấp, chuyển nhượng … trong đó quyền sở hữu và quyền sử dụng là đáng chú ý nhất.
Đối tượng của sở hữu
Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động, biến đổi. Trong quá trình vận động, đối tượng của sở hữu cũng có sự biến động thích ứng. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, đối tượng của sở hữu là những cái có sẵn trong tự nhiên (hiện vật). Đến xã hội nộ lệ, cùng với sở hữu vật còn có sở hữu nộ lệ. Xã hội Phong Kiến đối tượng của sở hữu là TLSX (đất đai, công cụ lao động …). Trong xã hội Tư bản chủ nghĩa, đối tượng sở hữu không chỉ là hiện mà quan trọng hơn là giá trị và tiền tệ. Ngày nay, bên cạnh việc sở hữu giá trị và tiền tệ, còn có sở hữu trí tuệ, giáo dục…
Thành phần kinh tế
Khái niệm thành phần kinh tế:
- Quan niệm 1: Thành phần kinh tế là một hệ thống các mối quan hệ sản xuất xác định, đồng nhất, cùng tồn tại với hệ thống lịch sử khác trong khuôn khổ cùng một cư sở hạ tầng kinh tế. Mặt cơ bản tạo nên một TPKT, đó là: mặt hệ thống các mối quan hệ sản xuất xác đinh, đồng nhất nhưng chưa chỉ ra được mối quan hệ hữu cơ giữa hệ thống QHSX xác định với tính chất và trình độ của LLSX nhất định và do đó chưa thấy được sự vận động của nó …
- Quan niệm 2: Thành phần kinh tế là một khu vực kinh tế đại diện cho một kiểu kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản suất. Theo quan niệm này nét đặc trưng nhất của TPKT là dựa trên chế độ sở hữu nhất định về TLSX. Đây là mặt bản chất nhất, do đó nó là căn cứ để phân biệt các thành phần kinh tế với nhau.
- Quan niệm 3: Thành phần kinh tế là một loại hình tổ chức hoạt động kinh tế hoặc là chưa phát triển tới độ hoàn chỉnh để tự xác lập mình như là một PTSX hoàn chỉnh nữa.
Các thành phần kinh tế nước ta hiện nay.
-Kinh tế nhà nước.
Thành phần kinh tế nhà nước là những đơn vị tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước, hoặc phần của nhà nước chiếm tỉ trọng khống chế.
Kinh tế nhà nước bao gồm các Doanh nghiệp nhà nước (kinh tế quốc doanh), các tài sản thuộc về nhà nước.
Kinh tế nhà nước thuộc sở hữu nhà nước, sản xuất kinh doanh theo nguyên tặc hạch toán kinh tế, thực hiện phân phối theo hiệu quả sản xuất kinh doanh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để đảm bảo những mục tiêu kinh tế xã hội. Cần hoàn thiện chế độ chính sách, luật pháp bảo đảm Doanh nghiệp nhà nước thật sự là đơn vị sản xuất hàng hoá có tư cách pháp nhân. Phân định rõ quyền sở hữu nhà nước với quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước, quyền sở hữu nhà nước với quyền sử dụng quyền quản lý. Tách bạch chức năng quản lý kinh tế với quản lý tài sản của nhà nước và quản lý kinh doanh của Doanh nghiệp.
-Kinh tế hợp tác.
Kinh tế hợp tác là sự liên kết kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế với các hình thức đa dạng phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên tham gia.
Hình thức quan trọng của kinh tế hợp tác là hợp tác xã. Kinh tế hợp tác xã là hình thức liên kết kinh tế có pháp nhân, tuân thủ theo những nguyên tắc, có tổ chức chặt chẽ và điều lệ hoạt động rõ ràng, Kinh tế hợp tác xã được phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi.
Nhà nước cần xây dựng và thực hiện có hiệu lực các chính sách kinh tế vĩ mô đối với nông nghiệp , nông dận, đầu tư trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất đời sống , chính sách thịi trường để từng bước đưa kinh tế hợp tác xã cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
-Kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp cảu nhà nước vào hoạt động của các đơn vị tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Kinh tế tư bản nhà nước nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác, liên doanh sản xuất kinh doanh giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản trong và ngoài nước, nhằm sử dụng khai thác, phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia, đặt dưới sự kiểm soát, giúp đỡ cảu nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò trong việc huy động, sử dụng vốn, kỹ thuạt công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của nhà tư bản. Cần đa dạng hoá các hình thức liên doanh liên kết với các tổ chức và công ty nước ngoài, nâng dần tỷ lệ đầu tư của phía Việt nam. Đồng thời áp dụng nhiều hình thức góp vốn kinh doanh giữa nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước dưới nhiều hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp trong nước phát triển, tăng sức cạnh tranh và hợp tác với nước ngoài. Cải hiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
-Kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản trong nước hoặc nước ngoìa đầu tư để sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Nét nổi bật cảu thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp, thuê và bóc lột sức lao động làm thuê, thường đầu tư vào những ngành vốn ít, lãi cao. Kinh tế tư bản tư nhân tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…
Cần khẳng địn nhất quán chủ trương phát triển kinh tế tư bản tư nhân, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp lý, tạo điều kiện cho các nhà tư bản đầu tư phát triển.
-Kinh tế cá thể
Kinh tế cá thể của tiểu chủ, nông dân, thợ thủ công, những người buôn bán, dịch vụ và cá thể. Sở hữu cảu thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất kinh doanh phân tán, trình độ kĩ thuật thủ công. Mục đích chủ yếu là nuôi sống mình, còn tiểu chủ bản thân vừa lao động vừa thuê một số ít lao động.
Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ rất có điều kiện phát triển trên cơ sở vốn, sức lao động, tay nghề, sản phẩm truyền thống. Vì thế nó đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, có khả năng đóng góp phát triển kinh tế xã hội. Do những ưu thế của nó, nhà nước và các thành phần kinh tế không thể không tạo điều kiện, hướng dẫn thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ về vốn, kỹ thuật công nghệ, tiêu thụ sản phẩm … để từng bước tham gia kinh tế hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm vệ tinh cho các Doanh nghiệp lớn đang phát triển trong vùng.
Cơ cấu sở hữu nước ta hiện nay.
Vấn đề sở hữu trông nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Thời kỳ bao cấp, nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Giải quyết vấn đề sở hữu chúng ta mắc phải khuyết điểm khá trầm trọng. Chúng ta đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu XHCN và quan niêm rằng chỉ có chế độ công hữu mới bảo đảm mục đích mọi nhu cầu xã hội, mới thúc đẩy sản xuất theo kế hoạch nhà nước. Chúng ta coi chế độ là mục tiêu, là tiêu chí số một để đánh giá mức độ đạt được của quá trình tiến lên CNXH.
Điều đó dẫn tới một sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức là hợp tác xã càng lớn càng có nhiều “ hợp tác xã cấp cao”. Xí nghiệp có qui mô càng lớn thì chất lượng XHCN càng nhiều, càng tiến gần đến CNXH hơn. Chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động, thậm chí còn coi đó là hình thức đối lập với XHCN, là mầm mống khôi phục lại chế độ người bóc lột người.
Nhà nước ta đã thực hiện chủ trương ồ ạt xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về TLSX dưới hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Song “ sở hữu toàn dân” thực chất là “sở hữu nhà nước”, nhà nước đại diện cho người lao động thực hiện quyền sở hữu đối với các TLSX chứ không phải người lao động là chủ sở hữu trực tiếp, không đước bảo đảm bằng cơ sở kinh tế trực tiếp. Còn sở hữu tập thể” ( trong hợp tác xã ) được vận hành theo cơ chế cũ, tự nhiên biến thành ban quản lý hợp tác xã, còn xã viên thì như người đi làm thuê. Thực tế trên đã cho thấy người dân chỉ là chủ sở hữu hình thức, các quan hệ lợi ích chưa được tạo ra nhằm thúc đẩy người lao động hăng say làm việc dẫn tới năng suất lao động thấp, hàng hoá thiếu then, đời sống nhân dân trở nên ngày càng khó khăn.
Đại hội VI đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong quá trình thúc đẩy LLSX phát triển. Đảng ta đã nhận thức được LLSX lạc hậu không chỉ trong trường hợp QHSX lạc hậu mà ngay cả khi QHSX và LLSX phát triển không đồng bộ, có những yếu tố quá xa xôi với trình độ phát triển của LLSX. Trong khi nền kinh tế nước còn phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, kinh tế hàng hoá chưa phát triển, trình độ xã hội hoá còn thấp, muốn hoàn thành quá trình cải tạo XHCN trong một thời gian ngắn, đưa nhanh QHSX lên trình độ xã hội hoá cao, bỏ qua các hình thức trung gian quá đọ là thoát li tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Chủ trương đó đã kìm hãm tiềm năng phát triển to lớn của nhân dân về vốn, sức lao động và tay nghề để phát triển LLSX. Hơn nữa, việc cải tạo QHSX chỉ chú ý tới chế độ tư hữu về TLSX . Ngay cả những đơn vị thuôc sở hữu toàn dân được trang bị kỹ thuật rất đầy đủ cũng làm ăn kém hiệu quả, cồng kềnh trong họat động.
Sở hữu và tính đâ dạng của nó trong nền kinh tế thị trường.
Sở hữu là một phạm trù kinh tế xuất phát và có bản chất kinh tế chính trị.
Nó là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Phạm trù sở hữu được luật hoá thành quyền sở hữu và quyền sở hữu được thực hiện qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là vấn đề căn bản nhất của chế độ kinh tế xã hội. Chỉ có giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu mới có căn cứ để giải quyết các vấn đề động lực, lợi ích kinh tế, chính trị, pháp quyền và xã hội.
Hình thức, mức độ và phạm vi sở hữu phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Sự thay đổi các hình thức sở hữu trong lịch sử không do ý chí của con người quyết định, mà là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên.
Các Mác khi nghiên cứu phương thức sản xuất TBCN, ông quan niệm: “Trong mỗi thời đại lịch sử, quyền sở hữu đã phát triển một cách khác nhau, và trong một loạt những quan hệ xã hội khác nhau, cho nên định nghĩa quyền sở hữu tư sản không phải là cái gì khác, mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của phương thức sản xuất tư bản”.
Từ luận điểm trên, có thể hình dung phạm trù sở hữu như một tổng thể các quan hệ kinh tế và theo đó là tổng thể các quyền sử dụng, phân phối, quản lý… gắn với một xã hội nhất định. Cần xem xét phạm trù sở hữu dưới hai góc độ có mối quan hệ với nhau là: hình thức pháp lý của sở hữu và sở hữu được thực hiện về kinh tế. Bởi vậy, có thể hiểu: sở hữu là một phạm trù kinh tế, phản ánh sự thống nhất biện chứng giữa sở hữu với tư cách là hình thức pháp lý, là điều kiện cần thiết của sản xuất, với sở hữu được thức hiện về mặt kinh tế, mặt kết quả thực tế trong quá trình sản xuất và tái sản xuất.
Trong một thời gian dài chúng ta coi sở hữu là mục tiêu, cho nên đã nôn nóng xoá bỏ tư hữu để phát triển nhanh chế độ công hữu để đạt mục tiêu CNXH. Một số năm gần đây lại coi sở hữu chỉ là phương tiện. Thực tế những năm qua đã chỉ rõ việc làm đó là sai lầm. Quan điểm đúng đắn của Đảng ta hiện nay là coi sở hữu vừa là mục tiêu vừa là phương tiện. Vì “sở hữu nói riêng, quan hệ sản xuất nói chung không chỉ là phương tiện như mọi phương tiện thông thường có thể tuỳ tiện thay đổi phương tiện này bằng phương tiện khác; mà là một bộ phận cấu thành hữu cơ của hình thái kinh tế xã hội nhất định. CNXH có những đặc trưng riêng về sở hữu, những quan hệ sản xuất và phân phối này sinh từ chế độ sở hữu đó”.
Tính đa dạng của sở hữu.
Nếu như trong nền kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá giản đơn, người ta quan tâm chủ yếu đến mặt hiện vật của sở hữu (TLSX), thì trái lại trong nền kinh tế thị trường hiện đại với tính đa dạng của nó người ta không chỉ quan tâm đến mặt hiện vật mà điều quan trọng hơn là họ quan tâm đến hình thái giá trị - hình thái tiền của nó như vốn tự có, vốn cho vay, vốn cổ phần…, có đặc tính là bảo tồn vốn và sinh lợi, đó là hình thái phổ biến của kinh tế thị trường, nhất là trong thời kỳ xuất hiện và phát triển công ty cổ phần, thời ký thống trị của tư bản tài chính thay cho sự thống trị của tư bản công nghiệp.
Dưới tác động của cuộc cách mạng KHKT và công nghệ, phạm trù sở hữu không nên chỉ giới hạn trong phạm vi TLSX mặc dù đó là cơ bản, mà còn có sự phát triển và biểu hiện cao hơn, mới hơn và ngày càng có vai trò quan trọng. Chẳng hạn: sở hữu sức lao động, đất đai, KHCN, sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp, sở hữu vô hình, uy tín của Doanh nghiệp … Đó là một tài sản vô giá trong nền kinh tế thị trường.
Quyền sở hữu được tách riêng
Lần theo chiều dài lịch sử cho thấy các quyền gắn liền với phạm trù sở hữu vốn, có sự biến đổi đáng kể. Thường thời kỳ đầu quyền sở hữu và quyền quản lý, sử dụng … thống nhất trong cùng người chủ sở hữu về mặt pháp lý. Sự xuất hiện tư bản cho vay đã làm cho hai quyền này tách rời nhau “ tư bản sh tách rời tư bản sử dụng”. Sự xuất hiện công ty cổ phần và lao động quản lý trở thành một nghề, thì có sự tách rời giữa quyền sở hữu với quyền quản lý. Tất nhiên, sự tách rời này chỉ có ý nghĩa tương đối vì giám đốc thực hiện chức năng quản lý dựa theo các chiến lược sản xuất kinh doanh kĩ thuật và công nghệ do hội đồng quản lý với tư cách là người đại diện cho các chủ sở hữu đề ra, do vậy quyền sở hữu quyết định quyền quản lý và phân phối cũng không vì thế mà không còn giá trị như một số người đã ngộ nhận.
Việc tách quyến sở hữu với quyền sử dụng và quyền quản lý có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng ở nước ta hiện nay nó liên quan đến:
Chủ trương giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho các hộ nông dân.
Việc xác định người chủ sở hữu trong các Doanh nghiệp nhà nước, mối quan hệ giữa nhà nước với tư cách là người chủ sở hữu với giám đốc điều hành và tập thể người lao động. ở đây cần có tổ chức nào có thể đại diện nhà nước làm chủ sở hữu thực hiện hợp đồng giữa cơ quan này với giám đốc điều hành.
Chuyển các bộ, sở từ chỗ là hai nhiệm vụ (chủ quản và chức năng) sang làm một nhiệm vụ- gắn với chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước về chuyên ngành đó đối với các thành phần kinh tế trong cả nước.
Mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền lực
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền lực, một số nhà nghiên cứu đã phân tích rất đúng là trên thực tế toàn bộ chủ thể xã hội của không ít các quốc gia trong lịch sử đã và đang có hiện tượng chuyển dịch từ trục sở hữu sang trục quyền lực và ngược lại. Từ trục quyền lực chuyển hoá thành trục sở hữu mà các nhóm xã hội được qui định không phải ở chỗ có hay không có sở hữu, mà là ở vị trí nào trong hệ thống quyền lực. Trong thực tế kẻ có quyền sở hữu có thể không trực tiếp nắm quyền lực, nhưng có thể gián tiếp nắm quyền lực, dùng quyền lức đso phục vụ, bảo vệ quyền sở hữu của họ. Tất nhiên người có quyền lực cũng làm giàu khi làm nhệm vụ đó. Đi đôi với hệ thống quyền lực là hệ thống phân phối lại sản phẩm xã hội. Người nào có vị trí trong hệ thống quyền lực thì tìm được vị trí trong hệ thống phân phối lại. Vì vậy thay cho sự đấu tranh giai cấp bằng cuộc đấu tranh thầm lặng, nhưng không kém phần ác liệt trong bộ máy quản lý, trong các tổ chức kinh tế xã hội về quyền kiểm soát của các kênh của mạng lưới phân phối lại. Chính nó đã làm cho nền kinh tế thiếu năng động, thiếu động lực làm cản trở sự phát triển kinh tế. ở đây không chỉ có sở hữu tạo ra quyền lực mà ngược lại thông qua hệ thống phân phối lại, quyền lực cũng tạo ra sở hữu tài sản, để hình thành tầng lớp “ tư nhân mới” đầy thế lực cần được lưu ý trong quá trình xây dựng và điều chỉnh quan hệ sản xuất nhát là quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối.
Sở hữu tư nhân – hình thức sở hữu tồn tại lâu đời
Trong các hình thức sở hữu, hình thức sở hữu tư nhân là một hình thức tồn tại lâu đời qua nhiều phương thức sản xuất. Sở hữu tư nhân là hệ quả quan trọng và trực tiếp của quyền tự do cá nhân là cũng là một điều kiện để phát triển quyền tự do cá nhân. Khẩu hiệu quyền tự do cá nhân ra đời ở châu Âu vào thế kỷ XVIII. Tất nhiên cho đến nay đã có nhiều thay đổi và được bổ sung trong các luật dân sự ở các nước theo hướng vừa bảo đảm quyền từ do cá nhân vừa không xem nhẹ lợi ích của cộng đồng xã hội, của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Cơ cấu sở hữu trong thời kì quá độ.
Trước đây nước ta đã ồ ạt xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu dưới 2 hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã phát hiện và kiên quyết thông qua đổi mới để khắc phục sai lầm đó, bằng cách thừa nhận vai trò và sự tồn tại của hình thức tư hữu trong tính đa dạng các hình thức sở hữu. Đây là một bước ngoặt mang tầm vóc chiến lược mới, thể hiện sự đổi mới từ gốc của Đảng ta.
Cách tiếp cận khoa học là yếu tố cần thiết, không giáo điều, không cực đoan hoặc phiếm diện khi đổi mới và xác lập chế độ sở hữu.
Các hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ,
c1) Quan điểm trước đây về hình thức sở hữu: có hai hình thức sở hữu cơ bản là tư hữu và công hữu còn các hình thức sở hữu khác chỉ là biết đến trung gian.
c2) Quan điểm về hình thức sở hữu trong thời kỳ đổi mới : có 5 hình thức sở hữu:
-Sở hữu nhà nước: bao gồm tất cả các lực lượng kinh tế vật chất trong các Doanh nghiệp nhà nước, trong các ngân hàng kho bạc, ngân sách, dự trữ quốc gia mà nhà nước là người chủ sở hữu. Trong các xã hội còn tồn tại nhà nước tất yếu tồn tại sở hữu nhà nước. Dưới CNTB cũng có sở hữu nhà nước, bởi vậy nó không phải là hình thức sở hữu riêng có của CNXH. Sự khác nhau giữa hai hình thức sở hữu nhà nước XHCN và TBCN là do tính chất của nhà nước và tính chất của quan hệ phân phối khác nhau quyết định.
-Sở hữu tư bản tư nhân: Đây là hình thức mà là tài sản, vốn liếng thuộc về các chủ tư nhântư bản một chủ, hoặc nhiều chủ nhưng trong đó chủ tư bản chiếm tỷ trọng (hàm lượng) khống chế, dựa trên lao động làm thuê.
-Sở hữu hôn hợp: Hình thức sở hữu này tồn tại khá phổ biến trong khời kỳ quá độ lên CNXH, tồn tại trong nhiều thành phần tuỳ theo hàm lượng cổ phần của các chủ sở hữu.
-Sở hữu tập thể: là sở hữu của những chủ thế kinh tế (cá nhân người lao động) tự nghuyện tham gia hợp tác cùng với nhau để tổ chức sx kinh doanh.
-Sở hữu cá thể: là sở hữu về TLSX của bản thân người lao động. Chủ thể của sở hữu này là nông dân, cá thể, thợ thủ công,, tiểu thương,… Họ vừa là chủ sở hữu đồng thời là người lao động. Với qui mô và phạm vi rộng hơn là tư hữu tiểu chủ, chủ trang trại có lao động.
Mối quan hệ và phương hướng giảI quyết mối quan hệ giữa sở hữu với các thành phần kinh tế.
Mối quan hệ giữa sở hữu với các thành phần kinh tế.
Với chủ trương của nhà nước, đường lối phát triển của chúng ta là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân.
Vấn đề sở hữu có liên quan đến thành phần kinh tế vì nó là cơ sở kinh tế – một căn cứ để xác định thành phần kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế có những đặc trưng riêng có của nó về tính chất xã hội hoá lao động, trình độ phát triển LLSX, QHSX, lợi ích kinh tế. Trong đó quan trọng nhất là quan hệ sở hữu về TLSX quyết định bản chất của các thành phần kinh tế đó. Quan hệ sở hữu quyết định sự vận động và phát triển của các thành phần kinh tế . Còn các thành phần kinh tế là biểu hiện của quan hệ sở hữu. Mỗi thành phần kinh tế biểu hiện ra ở bề mặt cuộc sống dưới dạng các hình thức kinh tế cụ thể.
Trong thực tiễn, các thành phần kinh tế không tách biệt nhau, mà quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau, đan kết với nhau dưới nhiều hình thức kinh tế. Tuy thế không có nghĩa là bản chất cảu chúng đã bị hoà tan không còn xác định được nữa. các hình thức kinh tế bao giờ cũng là biểu hiện ra bên ngoài càu các quan hệ sở hữu khác nhau.
Trong thời kỳ quá độ của nước ta, tồn tại đa dạng hoá các hình thức sở hữu, chúng ta không tồn tại biệt lập mà đan xen với nhau và quyết định sự hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng. Mối quan hệ giữa các hình thức sở hữu và các hình thức kinh tế là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Nội dung và hình thức phải phù hợp nhau. Sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sở hữu và hình thức kinh tế được thể hiện thông qua lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, cần phân biệt sở hữu, thành phần kinh tế với các hình thức Doanh nghiệp. Với cơ chế cũ chúng ta vô tình hay hữu ý đã đồng nhất chế độ sở hữu và thành phần kinh tế. Khi đó chúng ta thừa nhận có ba thành phần kinh tế : quốc doanh, hợp tác, kinh tế cá thể . Trong đó kinh tế cá thể được coi là “phi XHCN”. Ngoài ra kinh tế quốc doanh, vốn là sở hữu nhà nước, lại đồng nhất với sở hữu toàn dân. Với cách giải thích nhà nước là đại diện cho toàn dân đã làm giảm nhẹ trách nhiệm của nhà nước, khiến chúng ta rơi vào tình trạng không xác định rõ chủ sở hữu gắn liền với trách nhiệm.
Chế độ sở hữu chỉ xét về quan hệ với những TLSX chủ yếu, còn thành phần kinh tế lại là những tác nhân kinh tế , là nguồn tạo ra những giá trị sản xuất dịch vụ cho xã hội. Cũng là sở hữu tư nhân nhưng các tác nhân kinh tế có thể là người sản xuất cá thể, tiểu chủ hay tư sản tư nhân. CNTB chỉ có hai hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Chúng ta mong muốn xây dựng một chế độ sở hữu duy nhất đó là sở hữu toàn dân. Nhưng để đi tới đó loài người phải đi một bước quá độ là xây dựng CNXH với hai hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH một mặt chế độ sở hữu đã được đa dạng hoá, xuất hiện hình thức đan xen về chế độ sở hữu. Mặt khác cũng thấy rõ nét xuất hiện 5 thành phần kinh tế : kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ , kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Rõ ràng chúng ta đã có một sự điều chỉnh có thể gọi là điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với yêu cầu phát triển của LLSX nhằm giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện dời sống nhân dân. Chính nhờ việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, công cuộc đổi mới của nước ta đã nhanh chóng đạt được những kết quả quan trọng.
Phương hướng tiếp tục đổi mới các thành phần kinh tế.
Nắm vững định hướng XHCN trong việc xây dung nền kinh tế nhiều thành phần.
a1) Nắm vững định hướng định hướng XHCN là một tất yếu khách quan khi xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta trong thời kỳ quá độ là sự nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế, nhưng do bản chất của các thành phần kinh tế khác nhau, nên sự hoạt động giữa các thành phần kinh tế không chỉ có mặt thống nhất, mà còn có mặt mâu thuẫn với nhau. Sự phát triển mâu thuẫn về lợi ích giữa các thành phần, nhất là thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể dẫn đến sự bất lợi đối với việc thực hiện mục tiêu độc lập, dân chủ giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh theo định hướng XHCN. Nhà nước cần có chính sách kết hợp hài hoà lợi ích kinh tế, để hướng sự hoạt động của các thành phần kinh tế ngoài kinh tế nhà nước đi theo định hướng XHCN đã chọn.
Mặc dù nền kinh tế nhiều thành phần là cơ sở kinh tế của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường, nhưng kinh tế thị trường với tư cách là cái chung, tự nó không thể đitheo định hướng XHCN, nếu trong quá trình xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế không nắm vững định hướng XHCN. Cần kưu ý rằng, kinh tế thị trường có xu hướngtự phát TBCN – con đường quen thuộc và đã có tiền lệ trong lịch sử hình thành và phát triển kinh tế thị trường trên thế giới. Hơn nữa, kinh tế thị trường mà nước ta định xây dựng không phải là kinh tế thị trường bất kỳ, mà là kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Lịch sử và kinh nghiệm chuyển đổi nền kinh tế vủa nhiều nước cho thấy kinh nghiệm chuyển sang kinh tế thị trường, việc xử lý vấn đề cơ cấu sở hữu và thành phần kinh tế theo hướng bất lợi (theo hướng hạ thấp) vai trò chủ đạo của sở hữu nhà nước, tăng cường vai trò của sở hữu tư nhân, đến một lúc nào đó sự tương quan về sở hữu thay đổi sữ dẫn đến sự thay đổi trong tương quan về giai cấp, về tư tưởng và tình trạng của Đảng cầm quyền. Hậu quả khó tránh khỏi khi chệch đi định hướng XHCN đã chọn.
Chính vì vậy việc nắm vững định hướng XHCN trong xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế là cần thiết và có ý nghĩa về nguyên tắc cần được coi trọng.
a2) Nội dung định hướng XHCN.
Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa các nguồn lực bên trong và bên ngoài để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; để cải thiện đời sống của nhân dân coi nó là mục tiêu hàng đầu của việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế.
Lấy kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của chế độ mới. Tất nhiên, nội dung này chỉ có thể thực hiện nếu kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể được chủ động đổi mới; phát triển và nâng cao hiệu quả; được nhà nước tạo điều kiện kinh tế, pháp lý thuận lợi cho các chủ thể kinh tế; mở rộng các hình thức liên doanh, áp dụng rộng rãi các hình thức kinh tế của CNTB nhà nước.
Xác lập, củng cố và nâng cao được địa vị làm chủ của nguồn lao động trong nền sản xuất xã hội; thực hiện ngày một tốt hơn mục tiêu công bằng xã hội. Tất nhiên, mục tiêu đó đặt trong khuôn khổ của sự tồn tại nền kinh tế thị trường. Thừa nhận tồn tại lâu dài hình thức thuê mướn lao động, nhưng không để biến thành quan hệ thống trị và sự phân hoá đối lập về giai cấp.
Thực hiện đa dạng hoá hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời dqạ trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kết quả kinh doanh để phân phối và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Điều hoà việc phân phối hợp lý các thu nhập. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với việc xoá đói giảm nghèo và không thể diễn ra sự chênh lệch quá đáng giữa các vùng, các tầng lớp dân cư.
Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nước, khai thác tối đa vai trò tích cực; khắc phục, ngăn ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Trong lĩnh vực đối ngoại và kinh tế đối ngoại, sự hoạt động của nó phải đảm bảo sao cho: độc lập và chủ quyền được giữ vững và lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc được bảo vệ.
Những nội dung và chính sách đổi mới trong trong từng thành phần kinh tế.
b1) Đối với thành phần kinh tế nhà nước.
Mặc dù qua 10 năm đổi mới, thành phần kinh tế này có những cố gắng nhất định, trụ đứng, đổi mới và vươn lên, song vẫn còn nhiều Doanh nghiệp nhà nước chưa làm tốt vai trò chủ đạo cả trong sản xuất lẫn lưu thông. Trong thời gian tới cần tiếp tục chấn chỉnh, đổi mới và xây dựng các Doanh nghiệp nhà nước hoạt động sao cho có hiệu quả, cùng với các lực lượng khác trong khu vực kinh tế nhà nước như: tài chính, ngân hàng, kho bạc, dự trữ quốc gia…, vươn lên đảm nhận vai trò chủ đạo. Vai trò này biểu hiện sự mở đường và hỗ trợ cho các thành phần khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của nền kinh tế, là công cụ có sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nề kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhà nước, thông qua việc tổ chức sắp xếp lại các Doanh nghiệp nhà nước, các Nghị định 90/CP, 91/CP để tập trong nắm những ngành, những lĩnh vực, những khâu then chốt trọng yếu như: kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng, bảo hiểm, một số Doanh nghiệp công ích trọng yếu…
Tổ chức hợp lý các tổng công ty, bảo đảm sao cho vừa tránh được phân tán lực lượng, vừa chống được độc quyền hoặc trở thành cấp hành chính trung gian. Chăm lo xây dựng đội ngũ giám đốc, đi đôi với việc tích cực giải quyết những khó khăn về vốn, công nghệ và thị trường. Các Doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm và thua lỗ kéo dài, thì xử ký bằng giải thể, hoặc thay đổi hình thức sở hữu.
b2) Đối với thành phần kinh tế hợp tác.
Đối với kinh tế hợp tác xã theo hướng phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên. Thực hiện việc nhà nước giúp đỡ, hỗ trợ và hướng dẫn phát triển các loại hình kinh tế hợp tác kiểu mới trong các ngành, các lĩnh vực ở nông thôn, dựa trên nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ, kết hợp sức mạnh của tập thể và sức mạnh của hộ xã viên trong nông, lâm, ngư nghiệp. Trên cơ sở tổ chức sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà nước và đổi mới kinh tế tập thể, làm cho chúng ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế hợp tác có nhiều dạng: có những hợp tác xã là tổ chức hoạt động chính của các thành viên; có những hợp tác xã mà thành viên tham gia chỉ đóng một phần vốn và lao động, hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế tự chủ. Hợp tác xã có thể kinh doanh đa dạng không bị giới hạn bởi địa hình giới hành chính, có nhiều hình thức và có nhiều mức độ, mỗi hộ gia đình có thể tham gia đồng thời và nhiều loại hình kinh tế hợp tác. Trong các hình thức kinh tế hợp tác, hợp tác xã cổ phần là hình thức có nhiều triển vọng. Những hợp tác xã cũ không còn tác dụng thì giải thể, tạo điều kiện ra đời của các hợp tác xã kiểu mới.
b3) Đối với thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ
Thành phần kinh tế này có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng và tồn tại lâu dài. Nhà nước cần giúp đỡ họ giải quyết các khó khăn để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của họ. Xu hướng vận động của thành phần kinh tế này là từng bước đi vào con đường kinh tế hợp tấc theo nguyên tắc tự nguyện, hoặc có thể làm vệ tinh (gia công, đại lý) cho kinh tế Nhà nước nếu họ thấy có lợi.
b4) Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân
Nhà nước đánh giá cao vai trò tích cực của thành phần kinh tế này qua 10 năm đổi mới. Bên cạnh vai trò tích cực, thành phần kinh tế này cũng nảy sinh những hạn chế và tiêu cực như: làm hàng giả, lậu thuế, trốn thuế, mua chuộc cán bộ, đầu cơ, buôn lậu… Nhà nước một mặt cần tăng cường vai trò và hiệu lực quản lý vĩ mô nhằm hạn chế mặt tiêu cực của nó. Mặt khác, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích họ bỏ vốn đầu tư vào sản xuất công, nông nghiệp, áp dụng kĩ thuật và công nghệ hiện đại. Không nên có sự phân biệt đối xử với chủ đầu tư nước ngoài và trong nước. Có thể và cần có chính sách ưu tiên, ưu đãi cho các chủ đầu tư là người Việt Nam.
b5) Đối với thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Nước ta đI lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế tư bản Nhà nước có vị trí quan trọng và mang tính phổ biến; là hình thức tốt nhất để thu hút vốn, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến; là hình thức kinh tế quá độ trung gian để đưa nước ta đi lên CNXN. Cần mở rộng việc vận dụng các hình thức kinh tế này trong thời gian tới ở nước ta.
Kinh tế tư bản nhà nước là hình thức sở hữu hỗn hợp, bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản nước ngoài.
Tóm lại, các hình thức sở hữu và do đó các thành phần kinh tế nói trên có mối quan hệ với nhau, mỗi thành phần đều có vị trí quan trọng nhất định. Chúng vừa có tính độc lập tương đối, vừa không biệt lập, mà đan xen lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn; vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau, luôn đổi mới vận động và phát triển theo định hướng mục tiêu “dân giàu nước mạnh” và “ xã hội công bằng văn minh”. Do vậy khi nói các thành phần kinh tế đều bình đẳng, nghĩa là bình đẳng trước pháp luật và đều được Nhà nước khuyến khích phát triển theo đúng pháp luật, chứ không có nghĩa là các thành phần đều có vai trò như nhau trong cơ cấu thành phần kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Đổi mới các quan hệ sở hữu và cải tạo các quan hệ sở hữu trong nề kinh tễ quốc dân.
Đổi mới các quan hệ sở hữu.
Đây là buổi hội thảo khoa học được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1991, bàn về 3 nội dung chính sau: Đổi mới nhận thức chung về quan hệ sở hữu, đổi mới sở hữu trong lĩnh vực quốc doanh, đổi mới sở hữu trong lĩnh vực nộng nghiệp.
Nhiều ý kiến tham luạn đều cho rằng do có nhận thức sai lầm và giáo đIều về CNXH mà ở các nước XHCN (trong đó có nước ta) đã có những biến dạng sâu sắc trong quan hệ sở hữu : Tuyệt đối hoá sở hữu quốc doanh, sở hữu tập thể. Quan hệ sở hữu được xem xét và thiết lập không xuất phát từ trình độ phát triển của LLSX, và trình độ xã hội hoá thức tếcủa nền sản xuất xã hội. ĐIều này làm cho nền kinh tế kém hiệu quả, dẫn đến sự tha hoá của quan hệ sở hữu, sự tha hoá của lao động, người lao động bị tách ra khỏi TLSX và kết quả lao động.
Các ý kiến đều cho rằng để cho nền kinh tế phát triển năng động và có hiệu quả tất yếu phải đổi mới các quan hệ sở hữu, mà một trong những hướng cơ bản là phải xác định cho đúng chủ thể các quan hệ sở hữu (quan hệ định đoạt, quan hệ chiếm hữu, quan hệ sử dụng), gắn được nguồn lao động với TLSX và với kết quả sản xuất trong tất cả các hình thức sở hữu .
Các ý kiến phân tích khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần, của việc đa dạng hoá các hình thức và cấp độ sở hữu . nhiều ý kiến phân tích cho thấy rằng: mặc dù chế độ sở hữu là cơ sở tồn tại của một chế độ, song nó không phải là mục đích tự thân. Do đó tính định hướng XHCN được quyết định không chỉ giản đơn ở sự tồn tại và sự chi phối của các thành phần quốc doanh, mà trước hết phải ở tính hiệu quả cảu nền kinh tế, ở sự điều tiết và chế định bằng luật pháp và các thể chế, chính sách của Nhà nước để hướng các thành phần kinh tế phát triển phục vụ cho sự nghiệp xây dựng CNXH. Cũng có ý kiến cho rằng sở hữu vừa là phương tiện vừa là mục đích.
Trong lĩnh vực quốc doanh: nhiều ý kiến cho rằng cứ để như hiện nay quốc doanh khó có thể đóng được vai trò chủ đạo bởi tính kém hiệu quả của rất nhiều đơn vị quốc doanh. Phương hướng đổi mới là trên cơ sở xét lại toàn bộ các đơn vị quốc doanh để có giải pháp cho phù hợp: quốc doanh cần tập trung vào các lĩnh vực then chốt có tính chất chi phối toàn bộ nền kinh tế quốc dân, vào các lĩnh vực hạ tầng cơ sở (đường xá, giao thông, …), và vào các lĩnh vực mũi nhọn để tạo nên sức bật cho nền kinh tế . Trong lĩnh vực quốc doanh cũng phải đa dạng hoá các hình thức và cấp độ sở hữu , vấn đề then chốt là phải làm rõ cả nội dung kinh tế và hình thức pháp lý của quan hệ sở hữu của các đơn vị kinh tế quốc doanh với tư cách là một chủ thể sản xuất hàng hoá. Nhiều ý kiến đã đi vào phân tích bản chất kinh tế – xã hội, hình thức pháp lý của các loại mô hình doanh nghiệp quốc doanh khác nhau.
Về sở hữu trong nông nghiệp: các ý kiến tham luận đã phân tích làm rõ nguyên nhân và hậu quả của sai lầm thiết lập hợp tác xã tập thể hoá. Đó là việc vi phạm qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất , và vi phạm qui luật tự nhiên- tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp, đã á dụng kiểu quản lý công nghiệp vào nông nghiệp. Điều đó dẫn đến sự tha hoá quan hệ sở hữu trong nông nghiệp, tha hoá giữa người nông dân, kìm hãm quá trình phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp. Các ý kiến đều cho rằng khẳng định hộ là đơn vị tự chủ, người nông dân phải được làm chủ về ruộng đất và các TLSX. Đa số ý kiến cho rằng ruộng đất vẫn coi là sở hữu toàn dân nhưng giao cho nông dân quyền sử dụng lâu dài, được quyền thừa kế, chuyển nhượng quyền sử dụng . Nhưng cũng có ý kiến cho rằng trong nông nghiệp cũng có nhiều thành phần kinh tế phát triển, vậy cũng phải đa dạng hoá quan hệ sở hữu ruộng đất, vẫn có thể giao quyền sở hữu ruộng đất cho người nông dân mà không sợ phát triển TBCN và có luật pháp và chính sách của Nhà nước điều tiết.
b) Cải tạo các quan hệ sở hữu trong nền kinh tế quốc dân.
Lý luận và thực tiễn chỉ ra rằng: cơ cấu sở hữu Nhà nước đơn nhất và thuần nhất đã làm mất đi cái cơ sở tư nhân và do đó, mất đi nội dung kinh tế của sở hữu, để trở về với hình thái chiếm hữu thực tế và pháp lý thuần tuý. Mà thực chất đây chỉ là thứ sở hữu xã hội hoá hình thức hay “sở hữu hành chính-danh mục”, dựa trên việc Nhà nước hoá triệt để các TLSX chủ yếu của xã hội , vì thế còn có tên gọi CNXH Nhà nước. Việc cải tạo quan hệ sở hữu Nhà nước và xây dựng cơ cấu sở hữu thích hợp của thị trường là tất yếu. Tuy nhiên, việc tư nhân hoá cấp tốc và cưỡng bức không tạo ra sở hữu kinh tế và các chủ thể tích cực của nền kinh tế thị trường, cùng lắm chỉ tạo ra các quan hệ sở hữu và thị trường “hành chính – danh mục”. Cải tạo sở hữu có những tính qui luật nhất định và cũng cần tới các khuynh hướng phát triển của sở hữu hiện đại.
Qui luật tiến hoá của sở hữu là thông qua các hình thức kinh tế quá độ; trong điều kiện ngày naym có thể là các hình thức thuê, khoán, cổ phần hoá hay hợp đồng… Về nguyên tắc, các hình thức này vốn không bắt nguồn từ các quan hệ sản xuất cũ, nhưng lại kết hợp các yếu tố cũ và mới của hai loại cơ chế kinh tế , do đó có khả năng thích ứng cao với các điều kiện kinh tế quá độ và cho phép phát triển các LLSX của thời kỳ này. Trên cái nền chung phát triển, các quan hệ sở hữu Nhà nước toàn dân được cảI biến dần để thích hợp với thị trường, nó có thể chuyển sang sở hữu tư nhân hay các hình thái sở hữu khác nhau của sở hữu tư nhân, hoặc có thể vẫn giữ nguyên hình thái Nhà nước của mình, nhưng thật ra nội dung thì đã thay đổi căn bản: là những hình thức sở hữu thị trường, mang đặc trưng liên hệ vật thể- vật chất và trao đổi tương đương. Khuynh hướng phát triển sở hữu hiện đại là xã hội hoá sở hữu và hữu sản hoá người lao động với các hình thức sở hữu xã hội, Nhà nước, tập thể , tư nhân và hỗn hợp, nhằm đảm bảo sự định hướng xã hội và dân chủ hoá các quá trình kinh tế. Một mặt, sở hữu ở đây được cụ thể hoávà gắn chặt với chủ thể sở hữu – lao động làm tăng tính tích cực trong công tác, mặt khác lại có sự tách rời phổ biến, phân chia và chuyên môn hoá các quyền sở hữu ( quyền sở hữu và
quyền sử dụng, định đoạt) nhằm đem lại hiệu quả cao cho sử dụng sở hữu. Đặc biệt, sở hữu cổ phần tỏ ra là hình thức quá độ điển hình, đáp ứng được các nhu cầu trên đây.
Kinh nghiệm nước ngoài: Chế độ sở hữu và nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu của Trung Quốc.
Trong 20 năm cải cách, mở cửa ở Trung Quốc, vấn đề chế độ sở hữu thường xuyên được quan tâm điều chỉnh và hoàn thiện về mặt kết cấu trên cơ sở kết quả của việc từng bước làm rõ “Chủ nghĩa xã hội làm gì và xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc như thế nào?” làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giai đoạn đầu xây dựng CNXH ở Trung Quốc, kết quả của những cuộc tranh luận về “họ xã”, “họ tư”, “họ công”.Trung quốc khẳng định cải cách chế độ sở hữu là một vấn đề không thể né tránh nhằm giải phóng và phát triển sức sản xuất.
Đại hội XV của Đảng cộng sản Trung Quốc khẳng định: chế độ công hữu làm chủ thể, nhiều hình thức cùng phát triển là chế độ kinh tế cơ bản của giai đoạn đầu CNXH ở Trung Quốc:
Trung Quốc khẳng định vẫn là một nớc XHCN nên một vấn đề có tính nguyên tắc là phải kiên trì chế độ công hữu làm cơ sở. Nếu không kiên trì chế độ công hữu làm cơ sở thì không thể thực hiện được mục tiêu “cùng làm giàu” của tất cả nhân dân lao động.
Khẳng định vai trò chủ thể của công hữu và vai trò chủ đạo của quốc hữu.
Những hình thức sở hữu nào thì có lợi cho sự phát triển của sức sản xuất của XHCN, có lợi cho sự tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia XHCN, có lợi cho việc nâng cao mức sống của nhân dân đều được coi là nhân tố - tích cực , đều được khuyến khích phát triển tối đa. Theo đó, công hữu và phi công hữu đều được coi là những nhân tố tích cực.
Các hình thức sở hữu và việc cải cách kết cấu chế độ sở hữu ở Trung Quốc được khẳng định là phải nhằm giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội vì sức sản xuất của Trung Quốc chưa phát triển, nền kinh tế của Trung Quốc vẫn còn lạc hậu, một bộ phận lớn dân cư còn trong tình trạng nghèo đói. Việc khuyến khích nhiều hình thức sở hữu cùng phát triển sẽ có lợi cho giải phóng và phát triển sức sản xuất. Thực tiễn 20 năm cải cách và mở cửa đã chứng minh đậm nét tính đúng dắn của quan điểm này.
Trước Đại hội XV, Trung Quốc vẫn dùng khái niệm thành phần kinh tế. Sau đại hội XV, dùng khái niệm “ nhiều hình thức sở hữu” thay cho khái niệm “nhiều thành phần kinh tế”. Theo sự lý giải của Trung Quốc thì sự thay đổi cách sử dụng khái niệm này có tác dụng nâng cao vai trò, địa vị của kinh tế phi công hữu, tôn trọng sự bình đẳng của các hình thức sở hữu phi công hữu đối với các hình thức sở hữu công hữu.
Về đại thể, nền kinh tế Trung Quốc được chia thành:
hữu
hữu
Năm hình thức này đều được coi là những bộ phận cấu thành không thể thiếu được của nền kinh tế Trung Quốc ở giai đoạn đầu xây dựng CNXH. Quan niệm phân biệt, đối lập “họ xã”, “họ tư”, “họ công” đã bị xoá bỏ.
Phần III. Kết luận
Kết quả đạt được từ việc đổi mới quan hệ sở hữu và đổi mới thành phần kinh tế sau 15 năm đổi mới.
Đất nước ta đang trên con đường đi lên CNXH, xây dựng một đất nước giàu về kinh tế, mạnh về chính trị, đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, theo kịp các nước phát triển trên thế giới. Từ khi thực hiện những đường lối đổi mới trên chúng ta đã thu được những kết quả đáng mừng. Chúng ta đã xác định: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyền dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu qủa và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyền biến mạnh về giáo dục và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói giảm nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo về vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”.
Trong 5 năm, chúng ta đã đạt được những kết đáng mừng vè các chỉ tiêu kinh tế như:
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 7,5%.
Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2000:
Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 24,3%.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng 36,6%
Tỷ trọng các ngành dịch vụ 39,1%
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 14-16%/năm.
Giải quyết thêm việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động, bình quân 1,4 – 1,5 triệu lao động/năm.
Trong những năm qua chúng ta đã cơ bản hoàn thành việc sắp xếp , đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước, tích cực đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh. Số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm đi đồng thời giữ nguyên những vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế hợp tác và hợp tác xã có bước phát triển mới nhằm hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế hộ gia đình, kinh tế trạng trại, doanh nghiệp nhỏ; các doanh nghiệp, công ty tư nhân, công ty hỗn hợp sở hữu, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển đa dạng về loại hình, về ngành nghề, góp phần quan trọng tạo ra của cải, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế ; thực hiện chính sách mới ban hành về khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ.
Khẳng định việc đổi mới quan hệ sở hữu và đổi mới thành phần kinh tế là hoàn toàn đúng đắn.
Từ khi có sự đổi mới cơ cấu sở hữu và đổi mới các thành phần kinh tế, đất nước ta có bước chuyển biên đáng kể về kinh tế. Điều này khẳng định việc chuyển đổi cơ cấu sở hữu và thành phần kinh tế là hoàn toàn hợp lý. Nếu như trước đây, chúng ta giữ đúng hình thái làm việc quan liêu, bao cấp, trì trệ về phương pháp, không chịu đổi mới cơ cấu sở hữu, chúng ta đã phải chấp nhận một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển. Thì nay chúng ta đã có những định hướng mới hoàn toàn phù hợp với sự đi lên của cả thế giới. Chúng ta thay đổi lại hệ thống sở hữu sao cho phù hợp nhất với các thành phần kinh tế trong nên kinh tế quốc dân. Kết quả là hoàn toàn khả quan. Chỉ trong vòng vài năm, đất nước ta đã thoát ra được khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu. Chúng ta đang dần dần theo kịp các nước phát triển trên thế giới. Những chỉ số phát triển trên là minh chứng cho hướng đi đúng đắn của đất nước. Việc ra đời của sự đa dạng hoá sở hữu, đa dạng hoá của các thành phần kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các đơn vị có nhu cầu tham gia vào hoạt động kinh tế.
Trên thực tế cho thấy, Việt Nam đã hoà nhập chung vào một nền kinh tế đầy sôI động, tạo nên sự biến động về chất. Đó là việc tạo ra nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia. Từ đó tạo ra một môi trường kinh tế phát triển lành mạnh không bị gò bó như thời kỳ nền kinh tế còn bao cấp. Đất nước ta đang chuyển mình thực sự từ một nước nông nghiệp lạc hậu sang nước công nghiệp phát triển. Việt Nam phấn đấu đến năm 2002 cơ bản trở thành nước công nghiệp. Những thành tựu đạt được trên chính là do nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trên con đường xây dựng CNXH. Nó phản ánh con đường định hướng mà nhân dân ta đã chọn là hoàn toàn đúng đắn. Việc chuyển đổi cơ cấu sở hữu và chuyển đổi các thành phần kinh tế là kịp thời và phù hợp với xu thế phát triển của đất nước.
Đứng trước sự thay đổi trong nền kinh tế Việt Nam thì mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế là một vấn đề hết sực phức tạp. Bởi vì giữa chúng có sự đan xen giữa những yếu tố chủ quan và khách quan với nhau. Chúng tác động thường xuyên lên nhau, chi phối lẫn nhau. Sự liên hệ này tác động đến các yếu tố như quan hệ tổ chức, quản lý và phân phối giữa LLSX và QHSX. Bởi vậy cần có cách tiếp cận khoa học không phiếm diện khi đổi mới và xác định mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế để tránh những sai lầm mà trước đây đã mắc phải.
Hà Nội ngày 2 tháng5 năm 2002
Nguyễn Quang Cường
Danh mục TàI liệu tham khảo
Giáo trình KTCT Mác – Lênin tập 2 – NXB Giáo dục.
CácMác và Ph Ăngghen to àn tập, tập 4- NXB CTQG HN1995
Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam – NXB Giáo dục HN 1996
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 6,7,8.
Tạp chí thông tin lý luận số 5/91,7/91 11/2000
Tạp chí Triết học số 2/91,1/92,2/92,44/93.
Tạp chí cộng sản số 6/91,6/93
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 249-tháng2/99.
Lương Minh Cừ. Về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Tạp chí Triết học số 3 - Tháng 6-1998.
Hoàng Xuân Nghị. Một số vấn đề về lý luận sở hữu trong thời kỳ chuyển sang thị trường. Nghiên cứu kinh tế .Số 243 Tháng 8/1998.
Nguyễn Ngọc Cừ. Bàn về khái niệm Thành phần kinh tế. Nghiên cứu Kinh tế - Tháng 2/2001.
Đỗ Hoài Nam. Một số vấn đề về chế độ sở hữu và nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu của Trung Quốc. Nghiên cứu Kinh tế số 281- Tháng 10/2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35263.doc