Cùng với tiến trình đổi mới của đất nước, trong những năm qua ngành du lịch nước ta đã có những bước phát triển nhảy vọt, những thành tựu mà ngành du lịch đạt được là rất đáng ghi nhận. Du lịch phát triển kéo theo sự phát triển của nhiều ngành có liên quan như giao thông vận tải, thông tin liên lạc, thương mại., Đảng và Nhà nước ta đã ngày càng đánh giá cao vị trí và vai trò của du lịch, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển. Để du lịch phát triển nhanh, bền vững thì vai trò quản lý Nhà nước về du lịch là hết sức quan trọng. Với sự ra đời của Tổng cục du lịch, hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch từ Trung ương đến địa phương ở nước ta đã được hình thành và phát huy vai trò tích cực vào việc phát triển du lịch.
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1810 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quản lý Nhà nước về du lịch - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữ khách du lịch''(2). Định nghĩa này đã nêu bật lên được mối quan hệ, tác động qua lại của cả hệ thống con người, tổ chức thực hiện du lịch.
Như vậy, du lịch được coi như một quá trình mà ở đớ có sự gặp nhau giữa lợi ích tinh tần của khách du lịch và lợi ích kinh tế của người kinh doanh du lịch. Nhu cầu của khách du lịch càng cao thì đòi hỏi của hệ thống tổ chức thực hiện, kinh doanh du lịch càng phải hoàn thiện.
2. Vị trí và vai trò của ngành du lịch trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ở nước ta.
Hoạt động du lịch trên toàn thế giới mặc dù co giai đoan bị ngưng trệ do chiến tranh thế giới thứ I và thứ II, nhưng từ thập kỷ 60 trở lại đây, du lịch đã dần phát triển với tốc độ nhanh.Sự phát triển của kinh tế thế giới đã tạo điều kiện cho nhân loại mơe rộng và tăng cường hoạt động du lịch. Du lịch đã và đang trở thành hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến, thành ngành kinh tế mũi nhọn của một số nước, ngành ''công nghiệp không khói''. Hiện nay, ngành ''công nghiệp'' này chỉ đứng sau công nghiệp dầu khí và ô tô. Đối với các nước đang phát triển thì du lịch được coi là một trong những cứu cánh để vực dậy nền kinh tế ốm yếu của quốc gia.
Nước ta là một nước đang phát triển, nền kinh tế trong những năm gần đây đã có nhiều bước phát triển so với thời kỳ những năm 80 song so với một số nước trong khu vực thì nền kinh tế của chúng ta vẫn còn thấp kém bởi nước ta phải trải qua hai cuộc chiến tranh lớn và hậu quả mà chúng để lại là một khó khăn thách thức lớn đôí với nước ta. Khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát triển du lịch và coi du lịch như một ngành kinh tế thực sự.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp đóng vai trò quan trong trong việc thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển. Những lợi ích mà ngành du lịch nói riêng cũng như ngành dịch vụ nói chung đem lại rất to lớn. Nhận thức được tầm quan trọng của du lịch, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến việc định hướng và phát triển nhằm đưa du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước thể hiện ở những chương trình phát triển du lịch, gắn phát triển du lịch với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn phát triển du lịch với bảo vệ và hoàn thiện môi trường. Biểu hiện cụ thể của những nhính sách đó là chương trình hành động quốc gia về du lịch:'' Việt Nam - điểm đến của thiên niên kỷ mới''. Vì vậy tại đại hội Đảng IX, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định phát triển du lịch gắn liền với tăng cường quản lý Nhà nước, làm cho du lịch phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, có nghĩa là làm sao cho du lịch thực sự là cơ hội của đông đảo quần chúng nhân dân.
II. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về du lịch.
1. Khái niệm quản lý Nhà nước và quản lý Nhà nước về du lịch.
Kể từ khi xã hội phân chia giai cấp, Nhà nước xuất hiện thì quản lý Nhà nước cũng xuất hiện. Nhà nước nào cũng có chức năng quản lý đất nước, đảm bảo sự an toàn quốc gia và quản lý kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên vai trò kinh tế của Nhà nước trong mỗi giai đoạn lịch sử không giống nhau. Vậy thế nào gọi là quản lý? Thuật ngữ quản lý có thể hiểu là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự khác cùng chung một tổ chức. Tuy nhiên theo quan điểm chung nhất thì: '' Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đật được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.
Dựa trên khái niệm quản lý, ta có thể hiểu: Quản lý Nhà nước về kinh tế hay còn gọi là quản lý hành chính kinh tế là sự tác động của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế bằng quyền lực của Nhà nước thông qua các công cụ như: pháp luật, chính sách, chương trình phát triển kinh tế, làm cho các thành phần kinh tế phát triển theo một trật tự, quỹ đạo nhất định với mục tiêu phát triển tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước nhằm phát triển kinh tế.
Du lịch là một ngành kinh tế tương đối mới mẻ đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là đối với nước ta. Tuy vậy đây là một ngành kinh doanh dịch vụ mang tính chiến lược trong giai đoạn phát triển của đất nước. Do vậy, quản lý Nhà nước về du lịch là hết sức cần thiết. Bởi vì quản lý Nhà nước về du lịch chính là làm cho du lịch phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi tiềm năng du lịch, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch đóng góp vào ngân sách Nhà nước.
Quản lý Nhà nước về du lịch là quá trình tác động của Nhà nước đến du lịch thông qua hệ thống chính sách pháp luật với mục tiêu phát triển du lịch đúng định hướng của Nhà nước tạo nên trật tự trong hoạt động du lịch, làm cho du lịch thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn. Đối tượng của quản lý đó chính là hoạt động du lịch, cơ quan tổ chức hoạt động du lịch và cả chính các du khách.
2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về du lịch.
2.1_ Đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Thực tế chỉ ra rằng, mọi nền kinh tế đều cần có sự quản lý của Nhà nước. Song do tính đa dạng của thực tiễn ở các nước là khác nhau, do đó, việc quản lý Nhà nước ở mỗi nền kinh tế, mỗi quốc gia là không giống nhau. Thực tế cho thấy, nền kinh tế muốn phát triển nhanh đòi hỏi đất nước phải có cơ sở hạ tầng (phục vụ sản xuất và đời sống) hiện đại, lĩch vực mà ngoài Nhà nước ra không ai đảm nhiệm được. Cho nên người ta ngày càng ý thức rõ kinh tế phát triển ngày càng cao, xã hội hoá sản xuất ngày càng mở rộng, thị trường ngày càng phát triển, càng cần có sự quản lý của Nhà nước về kinh tế.
ở nước ta, trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh lập trường của chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Một yêu cầu đặt ra là chúng ta phải biết tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Đặc biệt là những tư tưởng, học thuyết về kinh tế thị trường, một vấn đề hết sức mới mẻ ở nước ta.
Do xu hướng hội nhập nền kinh tế của nước ta vào nền kinh tế thế giới, mở rộng hợp tác, giao lưu quốc tế. Cho nên Nhà nước co vai trò quan trọng trong việc ổn định môi trường chính trị, xã hội, tạo cơ hội tốt cho nền kinh tế phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, do định hướng phát triển kinh tế nước ta là phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, cho nên sự quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế là tất yếu khách quan. Chỉ có Nhà nước mới co đủ sức mạnh và cơ sở vật chất để thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế.
2.2_ Đối với ngành du lịch.
Ngành kinh doanh du lịch giống như một cơ thể sống và luôn đòi hỏi sự quản lý sáng tạo để duy trì và phát triển. Việc thành công hay thất bại của ngành du lịch cũng như nhu cầu nền kinh tế của một nước phụ thuộc hoàn toàn vào việc xây dựng một cách sáng tạo những chính sách thích hợp với điều kiện và trình độ phát triển của một đất nước. Do vậy, vấn đề quản lý Nhà nước đối với du lịch là một vấn đề cần thiết được đặt lên hàng đầu. Hơn nữa, du lịch mới trong giai đoạn đầu phát triển, còn gặp nhiều khó khăn và thách thức lớn do vậy cần có sự tham gia chỉ đạo và định hướng của Nhà nước để du lịch phát triển. Vì vậy, quản lý du lịch trong nền kinh tế thị trường của Nhà nước là cần thiết và khách quan:
- Một mặt do những khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường gây nên, mặt khác, do Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thể hiện ở việc định hướng phát triển kinh tế xã hội nói chung cũng như ngành kinh tế du lịch nói riêng trong từng thời kỳ.
- Để giải quyết các mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường, duy trì sự ổn định cũng như thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Tạo ra sự thống nhất trong tổ chức và phối hợp các hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch. Đồng thời giúp cho việc khai thác các thế mạnh của từng vùng, từng địa phương đạt kết quả. Hơn nữa, phát huy lợi thế so sánh của quốc gia trong phát triển du lịch quốc tế.
- Du lịch là một ngành kinh tế mũi nhon của nước ta. Nó liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau do vậy cần có sự quản lý của Nhà nước để điều hoà mối quan hệ giữa du lịch với các ngành, các lĩnh vực liên quan.
Tóm lại, khi nền kinh tế của đất nước cần đến sự quản lý của Nhà nước thì công tác quản lý đối với một ngành trong nền kinh tế là tất yếu khách quan.
3. Chức năng và nội dung của quản lý Nhà nước về du lịch.
3.1_ Chức năng quản lý.
a_ Chức năng hoạch định.
- Nhà nước thực hiện chức năng hoạch định để định hướng hoạt động du lịch, xác lập các chương trình, các dự án, cụ thể hoá các chiến lược, đặc biệt là các lộ trình hội nhập khu vực và quốc tế.
- Thiết lập khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, tạo ra môi trường pháp lý cho hoạt động du lịch.
- Chức năng hoạch định giúp cho các doanh nghiệp du lịch có phương hướng hình thành các phương án chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Nó vừa giúp tạo lập môi trường kinh doanh vừa cho phép Nhà nước có thể kiểm soáthoạt động của cacs doanh nghiệp và các chủ kinh doanh du lịch trên thị trường.
b_ Chức năng tổ chức và phối hợp.
- Nhà nước bằng việc tạo lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý về du lịch, sử dụng bộ máy này để hoạch đinh các chiến lược, quy hoạch, các chính sách,các văn bản quy phạm pháp luật... đồng thời thực hiện những vấn đề thuộc về quản lý Nhà nước nhằm đưa chính sách phù hợp về du lịch và thực tiễn, biến quy hoạch, kế hoạch thành hiện thực, tạo điều kiện cho du lịch phát triển.
- Hình thành cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch với các cấp trong hệ thống quản lý du lịch của trung ương, tỉnh ( thành phố), quận (huyện, thị xã).
- Trong lĩnh vực du lịch quốc tế, chức năng này được thể hiện ở sự phối hợp giữa các quốc gia có quan hệ song phương hoặc trong cùng một khối kinh tế, thương mại du lịch trong nỗ lực nhằm đa dạng hoá đa phương thức quan hệ hợp tác quốc tế trong du lịch đạt tới các mục tiêu và đảm bảo thực hiện các cam kết đã ký.
- Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, bảo vệ tài nguyên du lịch , môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc trong hoạt động du lịch.
c_ Chức năng điều tiết các hoạt động du lịch và can thiệp thị trường.
- Nhà nước hướng dẫn, kích thích các doanh nghiệp du lịch hoạt động theo định hướng đã vạch ra. Can thiệp, điều tiết thị trường khi cần thiết đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
- Nhà nước sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để điều tiết, can thiệp thị trường và hoạt động kinh doanh du lịch, xử lý đúng đắn mẫu các quan hệ trao đổi.
- Nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp về thông tin, tài chính, kết cấu hạ tầng của thị trường và bảo vệ kinh tế Nhà nước đúng pháp luật nhằm chống thất thoát, đảm bảo sinh lợi và tăng thu cho nhân sách Nhà nước.
d_ Chức năng kiểm soát.
- Giám sát hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh du lịch cũng như chế độ quản lý của các chủ thể đó. Cấp và thu hồi giấy phép, giấy hoạt động trong hoạt động du lịch.
- Phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạp pháp luật và những quy định của Nhà nước.
- Kiểm tra đánh giá sức mạnh của hệ thống tổ chức quản lý du lịch của Nhà nước cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ công chức quản lý Nhà nước về du lịch.
- Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực du lịch, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
3.1_ Nội dung quản lý Nhà nước về du lịch
Tại điều 41 của pháp lệnh về du lịch có quy định nội dung quản lý Nhà nước về du lịch như sau:
- Ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch.
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển du lịch.
- Quy định về tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch, về việc phối hợp của các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý Nhà nước về du lịch.
- Tổ chức và quản lý công tác xúc tiến và hợp tác quốc tế về du lịch.
- Cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận.
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo...
Thực tế đã chỉ rõ, hoạt động du lịch trong cơ chế thị trường cũng như trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hôị chủ nghĩa ở nước ta hiện nay rất cần đến sự điều hành, quản lý của Nhà nước. đặc biệt trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá của hoạt động du lịch, việc hợp tác, liên kết luôn đi liền với cạnh tranh đòi hỏi mỗi nước phải có chiến lược phát triển tổng thể du lịch. Xuất phát từ điều kiện của mình, mỗi nước phải vừa biết phát huy đặc thù, huy động nội lực để tăng khả năng hấp dẫn khách du lịch, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, tranh thủ được điều kiện bên ngoài để có điều kiện hội nhập. Đây là vấn đề thuộc quyền Nhà nước và cũng là trách nhiệm của Nhà nước trong phát triển du lịch.
Chương II
Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta hiện nay
I. Khái quát chung về sự ra đời Tổng cục du lịch - cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch.
1. Sự ra đời của Tổng cục du lịch
Tính đến nay ngành du lịch Việt Nam đã có hơn 40 năm hình thành và phát triển. Nghị định 26/CP ngày 09/07/1960 của Hội đồng chính phủ, Công ty du lịch Việt Nam đầu tiên được thành lập là mốc đánh dấu sự ra đời của ngành du lịch Việt Nam. Là một công ty trực thuộc Bộ ngoại thương nhưng nhiệm vụ của công ty du lịch đầu tiên là phục vụ cho các đoàn khách của Đảng và Chính phủ. Tổ chức du lịch đầu tiên của Việt Nam ra đời với cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu, đội ngũ công nhân viên it ỏi về số lượng, non kém về nghiệp vụ nên gặp nhiều khó khăn trong công tác phục vụ và đón tiếp khách. Nhưng với tráh nhiệm và lòng nhiệt tình, với tính cần cù vốn có của 112 cán bộ nhân viên đầu tiên của ngành du lịch Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ được giao. Về ý nghĩa, tổ chức này đã đặt nền móng cho sự hình thành một ngành kinh tế mới mẻ ở nước ta.
Do lượng khách ngày một tăng và nhu cầu tham quan, du lịch ra nước ngoài xuất hiện đòi hỏi ngành du lịch phải không ngừng đầu tư về mọi mặt nhằm giảm bớt nhứng khó khăn về tài chính. Trước sự phát triển không ngừng về mọi mặt của ngành du lịch, một đòi hỏi thực tiễn là phải có một cơ quan có đủ thẩm quyền và chức năng quản lý du lịch. Với sự đầu tư lớn mạnh về cơ sở vật chất, quyền hạn, chức năng quản lý mở rộng, giai đoạn này Tổng cục du lịch Việt Nam trực tiếp quản lý trên 30 công ty du lịch trong cả nước cùng với hàng trăm khách sạn, nhà hàng, biệt thự, hàng ngàn phương tiện, hàng vạn cán bộ công nhân viên có trình độ và kinh nghiêm để phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước. Tình hình hoạt động kinh doanh du lịch ngày một phong phú đa dạng và là một lĩnh vực không thể thiếu được trong ngành du lịch.
Do trực thuộc một bộ, không mang tính kinh tế, chưa được sự chỉ đạo phù hợp về mặt chuyên môn và đặc biệt còn non về mặt hoạt động kinh doanh, nhiều công ty lâm vào tình trạng thua lỗ, vi phạm quy chế, pháp luật, gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế nước nhà. Bên cạnh đó còn phải kể đến công tác quản lý chưa sát với thực tế, chuyên môn do trình độ thấp kém nên sản phẩm du lịch khá đơn điệu, chất lượng thấp. Bản chất của du lịch không chỉ là một ngành kinh tế nên công tác tổ chức, quản lý còn một số vướng mắc nhất định, hiệu quả của hoạt động du lịch chưa đồng bộ.
2. Bộ máy quản lý của Tổng cục du lịch.
Xuất phát từ mục tiêu, phương hướng phát triển của mỗi quốc gia, từ chức năng nhiệm vụ của ngành du lịch mà mỗi quốc gia thiết lập một hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước tương ứng nhằm đảm bảo hiệu lực quản lý và sự linh hoạt. Các nước trên thế giới và trong khu vực châu á - Thái Bình Dương lựa chọn những mô hình tổ chức hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước khác nhau.
ở nước ta, bộ máy quản lý hành chính Nhà nước về du lịch cấp Trung ương hiện nay ở nước ta là Tổng cục du lịch, dưới Tổng cục du lịch là các Sở du lịch và Sở thương mại du lịch.
Chính phủ
Tổng cục du lịch
Tỉnh ,Thành phố
Sở du lịch
Quận, huyện
Xã, phường
Phòng du lịch
Tổng cục du lịch là một cơ quan độc lập trực thuộc chính phủ. Tại điều 1 Nghị định 53/CP đã quy định cơ cấu tổ chức của Tổng cục du lịch như sau:
- Các tổ chức giúp Tổng cục du lịch thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về du lịch.
- Tổng số các đơn vị giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về du lịch là 7 đơn vị gồm 6 vụ và 2 cơ quan ngang vụ là văn phòng Tổng cục và thanh tra Tổng cục. Vụ du lịch và khách sạn ở Nghị định 20/CP được tách ra thành hai vụ riêng biệt là Vụ lữ hành và Vụ khách sạn.
Tại điều 4 của Nghị định 20/CP đã quy định: '' Tổng cục trưởng Tổng cục du lịch chịu trách nhiệm trước Thủ tướng chính phủ điều hành hoạt động của Tổng cục du lịch. Các Tổng cục phó do Tổng cục trưởng phân công công tác và chịu trách nhiệm về công việc được phân trước Tổng cục trưởng. Tổng cục trưởng và các Tổng cục phó do Thủ tướng chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm''.
3. Chức năng quản lý của Tổng cục du lịch.
Điều 1 của Nghị định 20/CP ngày 27/12/1992 quy định: '' Tổng cục du lịch là cơ quan thuộc chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động du lịch trong phạm vi cả nước. Bao gồm: hoạt động về du lịch của các thành phần kinh tế, cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội, công dân Việt Nam và người nước ngoại tại Việt Nam''.
Tại điều 43 của pháp lệnh du lịch ngày 20/12/1999 quy định:'' Tổng cục du lịch là cơ quan thuộc chính phủ, chịu trách nhiệm trước chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về du lịch''.
II. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta.
1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật.
Để quản lý được các hoạt động kinh tế xã hội của đất nước, Nhà nước phải sử dụng các công cụ quản lý. Một trong những công cụ hữu hiện nhất của Nhà nước là ban hành pháp luật vì pháp luật tạo ra môi trường pháp lý để điều chính các hoạt động quản lý, hoạt động kinh doanh du lịch, ghi nhận quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc kinh doanh và phát triển du lịch. Với công cụ pháp lý, Nhà nước sẽ điều chỉnh vĩ mô hoạt động du lịch. Pháp luật cũng là kênh quan trọng để đưa những chủ trương chính sách của Đảng và phát triển du lịch ở nước ta vào cuộc sống.
Các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực du lịch đã bao quát được những vấn đề cấp bách và thời sự của hoạt động kinh doanh du lịch. Về quan hệ quốc tế, Những văn bản quy phạm pháp luật về du lịch cũng đã tạo ra sự tin tưởng yên tâm của bạn bè quốc tế đến với Việt Nam tham gia hợp tác vào lĩnh vực kinh tế, du lịch.
Nhìn chung các công tác ban hành và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật du lịch trong thời gian qua là hợp lý, cần thiết và đạt được kết quả to lớn, thể hiện ở lượt khách, cơ sở vật chất, đội ngũ lao động...đều co bước phát triển nhanh chóng và đáng ghi nhận. Tuy nhiên bên cạnh đó còn bộc lộ những hạn chế cần được giải quyết.
2. Công tác tổ chức bộ máy quản lý du lịch và việc phối hợp các cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch.
Du lịch được coi là một ngành kinh tế tổng hợp, có liên quan đến nhiều ngành kinh tế. Do đó công tác quản lý du lịch là phải làm sao phối hợp được với các ngành, các cấp liên quan đến ngành du lịch nhằm đưa du lịch pháp triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch từ Trung ương đến địa phương đang dần được hoàn thiện và phát huy chức năng quản lý Nhà nước về du lịch.
Tổng cục du lịch - cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch được thành lập đã góp phần vào công tác chỉ đạo, phối hợp thực hiện kế hoạch quy hoạch, phát triển du lịch. Từ khi thành lập đến nay, Tổng cục du lịch, các Sở du lịch và Sở thương mại - Du lịch đã từng bước tăng cường hiệu lực quản lý của mình đối với hoạt động du lịch: rà soát, cấp giấy phép kinh doanh, đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh lữ hành quốc tế.
Bên cạnh đó, cùng với các sở địa phương, Tổng cục du lịch đã xây dựng chế độ báo cáo định kỳ về việc thực hiện quy hoạch du lịch đều đặn cho các Sở du lịch điều chỉnh, sửa đổi bổ sung các chính sách cho phù hợp với điều kiện của từng địa phương, từng doanh nghiệp. Đây là bước cố gắng của Tổng cục Du lịch, cũng như của các sở Du lịch trong quản lý thông tin hai chiều từ Tổng cục Du lịch tới các doanh nghiệp và ngược lại.
3. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp.
'' Doanh nghiệp du lịch là tổ chức kinh doanh một hoặc một số dịch vụ du lịch có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập và hoạt động theo pháp luật''.
Trong hệ thống doanh nghiệp du lịch, bên cạnh phân loại doanh nghiệp theo hình thức sở hữu, theo quy mô... như các ngành kinh tế khác thì theo các bộ phân cấu thành trong hệ thống kinh doanh du lịch, hệ thống các doanh nghịêp du lịch được phân thành: doanh nghiệp lữ hành, doanh nghiệp khách sạn, doanh nghiệp vận chuyển khách du lịch,... và cũng theo các quan niêm về doanh nghiệp nêu trên, đồng thời dựa trên cơ sở pháp lệnh du lịch Việt Nam hiên hành, các loại doanh nghiệp đó có thể được hiểu:
- Doanh nghiệp lữ hành: làm nhiêm vụ giao dịch ký kết với các tổ chức kinh doanh du lịch trong và ngoài nước để xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch bán cho khách du lịch.
- Doanh nghiệp khách sạn: làm nhiệm vụ tổ chức, đón tiếp, phục vụ việc lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, bán hàng cho khách du lịch.
- Doanh nghiệp vân chuyển khách du lịch: được thành lập nhằm mục đích sinh lời bằng việc kinh doanh dịch vụ, vân chuyển thông qua các phương tiện vận chuyển, phục vụ các chương trình du lịch của khách.
Ngoài các loại hình doanh nghiệp trên, trong hệ thống các doang nghiệp du lịch còn có các loại hình doanh nghiệp du lịch khác cung ứng các dịch vụ như: tuyên truyền, quảng cáo du lịch; tư vấn, đầu tư du lịch; cung ứng các hoạt động giải trí.
Các công tác quản lý Nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp du lịch chủ yếu tập trung vào việc ban hành các văn bản quản lý, quy chế, quy định, tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho các doanh nghiệp du lịch hoạt động; kiểm tra việc kinh doanh, hoạt động của các doanh nghiệp; cấp, đình chỉ, thu hồi giấy phép kinh doanh du lịch.
Hiện nay, văn bản quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch nói chung được thực hiện theo nghị định số 09/CP ngày 05/02/1994 của Thủ tướng chính phủ về tổ chức và quản lý các doanh nghiệp du lịch. Thông tư số 715/TCDL ngày 09/07/1994 của Tổng cục du lịch hướng hẫn thực hiện nghị định 09/CP. Đây là văn bản cao nhất của Nhà nước về quản lý các doanh nghiệp du lịch.
4. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chiến lược phát triển du lịch.
Từ năm 1992, sau khi được thành lập, Tổng cục du lịch dưới sự lãnh đạo của chính phủ đã bắt tay vào xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chiến lược phát triển du lịch Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể. Đến tháng 8/1994, bản quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 1995 - 2010 đã được Tổng cục du lịch hoàn tất và được Thủ tướng chính phủ phê duyệt theo quyết định số 307/TT ngày 25/05/1995.
Có thể nói trong những năm qua việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với công tác quy hoạch, kế hoạch của ngành du lịch đã được triển khai mạnh mẽ và có kết quả. Những nội dung và kết quả nghiên cứu, quy hoạch của ngành đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta và mỗi địa phương. Mặt khác, quy hoạch du lịch cũng có cơ sở giúp cho ngành trong công tác chỉ đạo, quản lý, xây dựng các kế hoạch phát triển du lịch của cả nước, đồng thời phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong việc quản lý thực hiện quy hoạch tạo điều kiện cho du lịch phát triển.
5. Quản lý Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành du lịch.
Do tình hình phát triển nhanh của các doanh nghiệp trong ngành du lịch đã thu hút được một lực lượng lao động trực tiếp khá lớn. Năm 1993, cả nước có 43.210 lao động trực tiếp trong ngành du lịch, năm 1997 đã lên đến 150.000 lao động và năm 2001 là 200.000 lao động. Tuy nhiên chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành. Mới có khoảng 7% đạt trình độ đại học và trên đại học, 50% được đào tạo qua ác trường dạy nghề còn lại chưa qua đào tạo. Chất lượng của lực lương lao động có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của sản phẩm du lịch. Vì vậy sự quản lý của Nhà nước đối với việc đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch là rất cần thiết.
Cho đến nay cả nước có 15 trường và trung tâm dạy nghề du lịch và khách sạn, hon 10 trường đại học có khoa, tổ hoặc bộ môn chuyên ngành du lịch. Các cơ sở này hàng năm cung cấp khoảng 4000 công nhân kỹ thuật và hàng trăm cử nhân. Các cơ sở đào tạo sau đại học trong cả nước và quốc tế hàng năm cung cấp cho ngành từ 5 đến 10 thạc sỹ, tiến sỹ.
Công tác thu hút các chuyên gia hoặc các tổ chức đào tạo nguồn nhân lực về du lịch từ nước ngoài được chú ý hơn. Các trường đào tạo du lịch của các quốc gia như: Cộng hoà liên bang Đức, Cộng hoà Pháp, Austraylia... cùng với các tổ chức du lịch thế giới và khu vực như: WTO, ASIA, PATA... đều muốn hợp tác giúp đỡ ngành du lịch nước ta trong công tác đào tạo nguồn nhân lực.
Đầu năm 2002 vừa qua, tại Wasington, Tổng cục du lịch đã làm việc với hội đồng du lịch quốc tế (I IC) và công ty tư vấn - đào tạo du lịch Hoa Kỳ về chương trình đào tạo tại Hoa Kỳ và Việt Nam cho một số cán bộ quản lý và nhân viên phục vụ trong các khách sạn 4 - 5 sao trong những năm sắp tới.
Nhìn chung công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch trong những năm qua đã dần được hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu phát triển về du lịch. Trong những năm tới, công tác này cần tiếp tục phát huy để ngày càng theo kịp với trình độ khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
6. Quản lý Nhà nước về công tác quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc tiến du lịch.
Đối với mọi ngành sản xuất và du lịch thì vấn đề quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc tiến thương mại chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình tạo một sản phẩm có chỗ đứng trên thị trường. ở nước ta, du lịch đang trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, vì vậy công tác tuyên truyền, quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc tiến du lịch ngày càng được quan tâm. Tổng cục du lịch đã tham gia nhiều hội thảo, hội nghị, diễn đàn quốc tế và phối hợp với các tổ chức quốc tế tại Việt Nam với mục tiêu quảng bá, thúc đẩy quan hệ quốc tế, giới thiệu hình ảnh Việt Nam với thế giới. Các chương trình du lịch, sản phẩm du lịch của Việt Nam giới thiệu trên thị trường thế giới thông qua các hội chợ du lịch quốc tế.
Hợp tác đa phương được đẩy mạnh và chủ động hơn những năm trước, du lịch Việt Nam xuất hiện trong các diễn đàn, các sự kiện quốc tế với một vị thế mới, cao hơn.
Du lịch Việt Nam chú trọng và bắt đầu tham gia hợp tác du lịch APEC: tham dự nhóm cộng tác du lịch APEC lần thứ 18 và diễn đàn du lịch APEC lần thứ 2. Tổng cục du lịch đã chuẩn bị phương án cam kết trong lĩnh vực du lịch để phục vụ cho Việt Nam đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới.
Các hoạt động trên đã nâng cao vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch, phát huy tác dụng xúc tiến, quảng bá cho du lịch Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
III. Những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta.
1. Về hệ thống pháp luật du lịch.
Mặc dù pháp lệnh du lịch đã được công bố và là một văn bản pháp luật mang tính pháp lý cao nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực du lịch nhưng việc ban hành các văn bản thi hành vẫn còn chậm chạp. Do đó đã gây ra những hạn chế nhất định trong công tác quản lý Nhà nước về du lịch và bản thân hoạt động của các doanh nghiệp du lịch. Các văn bản hiện nay mới chỉ là các văn bản pháp quy dưới luật nên tính ổn định pháp lý của các văn bản này không cao mà du lịch lại là lĩnh vực rất rộng, có liên quan đến nhiều ngành và lĩnh vực khác. Hơn nữa công tác tuyên truyền, hướng hẫn thực thi còn hạn chế, chưa nhanh nhay vơí những biến động của nền kinh tế thị trường.
Việc ban hành nghị định, nghị quyết, chỉ thị, văn bản hướng dẫn trong thời gian qua là phù hợp tuy nhiên việc triển khai thực hiện chưa được tốt ở doanh nghiệp, nguyên nhân là do:
- Việc nhận thức của các doanh nghiệp về văn bản pháp luật chưa đúng đắn.
- Việc ban hành các văn bản pháp luật đôi khi chưa hợp lý, còn chồng chéo giữa các ngành hoặc chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành hữu quan trong việc ban hành pháp luật.
- Các văn bản pháp luật ban hành mới chỉ nhằm giải quyết kịp thời từng vấn đề nảy sinh trong hoạt động du lịch vì vậy các văn bản chưa có hệ thống trong một khung pháp lý gắn bó chặt chẽ với nhau.
Môi trường pháp lý là hết sức quan trọng đối với mọi lĩnh vực kinh doanh đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh du lịch. Do vậy để xây dựng một môi trường pháp lý phù hợp thì trước tiên hệ thống pháp luật du lịch phaỉ được nhất quán, đồng bộ và phù hợp với điều kiện của đất nước. Đó là cơ sở pháp lý để xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng, tổ chức doanh nghiệp và các cá nhân trong hoạt động và phát triển du lịch ở nước ta.
2. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch.
Mặc dù công tác quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch (chủ yếu là doanh nghiệp khách sạn, doanh nghiệp lữ hành và vận chuyển khách du lịch) đã có nhiều cố gắng song vẫn còn một số hạn chế sau:
- Các văn bản quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh khách sạn chưa phát huy hết hiệu lực trong thực tế. Nguyên nhân do các bộ các ngành không quan tâm đúng mức và không có sự chỉ đạo kiên quyết của Chính phủ.
- Chức năng quản lý Nhà nước về khách sạn còn chồng chéo, ảnh hưởng đến hoạt động king doanh của khách sạn do cung vượt quá cầu.
- Đối với các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước ngày càng gay gắt, thiếu lành mạnh, môi trường kinh doanh lộn xộn. Điều này tạo điều kiện cho các hãng lữ hành nước ngoài lợi dụng ép giá cũng như can thiệp sâu hơn vào hoạt động kinh doanh của Việt Nam.
- Tình trạng kinh doanh lữ hành trái phép, nép bóng, bán chức năng đang diễn ra ngày càng phức tạp. Một số doanh nghiệp lữ hành quốc tế tự ý hình thành nhiều trung tân du lịch mà không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chúng ta buông lỏng để các trung tâm này hoạt động trái pháp luật, gây phá giá, trốn thuế, làm xáo trộn thị trường du lịch, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc.
Nhiều doanh nghiệp lữ hành trong nước còn thụ động, không chủ động vươn ra thị trường nước ngoài để tiếp cận mở rộng thị trường và tìm kiếm nguồn khách hoạt động, đối tác vì vậy hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này còn thấp.
Nguyên nhân là do công tác quản lý, kiểm tra, kiển soát của các cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch nói chung và về lữ hành nói riêng còn bị buông lỏng. Việc xử lý không nghiêm túc các vi phạm cũng đã tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp kinh doanh trái phép, coi thường pháp luật kỷ cương; việc áp dụng luật thuế VAT còn nhiều bất cập, một số thuế suất dịch vụ chưa phù hợp, gây trở ngại cho các hoạt động doanh nghiệp. Chính sách thuế, chính sách ưu đãi về vốn và đầu tư đổi mới ngành du lịch còn ít được quan tâm. Chính sách tiền lương còn bất cập chưa khuyến khích được các doanh nghiệp tích luỹ vốn, đổi mới phương tiện và công nghệ, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên.
3. Về công tác quản lý và quy hoạch du lịch.
Có thể nói công tác quản lý và quy hoạch du lịch ở nước ta đã đạt được những kết quả nhất định nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế. Năm 1995, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt dự án '' Quy hoạch tổng thể và phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 - 2010'', song nhiều khu tài nguyên du lịch được xác định để xây dựng các điểm du lịch đã bị khai thác, chen lấn hoặc xây dựng cho những mục đích khác nhau.
Trong những năm qua, việc phát triển du lịch thiếu quy hoạch, kế hoạch đã dẫn đến việc xây dựng hàng loạt các cơ sở lưu trú, các khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ một cách nhanh chóng, ồ ạt. Nhiều nhà nghỉ, nhiều khách sạn thiếu thẩm mỹ kiến trúc, không tuân theo các quy định về cấu tạo địa chất, về độ cao, cấu trúc không gian mở, gây ảnh hưởng cho cảnh quan, mất đi vẻ tự nhiên cho phong cảnh khu, điểm du lịch.
Ngoài ra tại các điểm khu du lịch, nạn hàng rong, chèo kéo khách, cướp giật, ăn xin, mất vệ sinh... vẫn tồn tại bất chấp các cơ quan quản lý. Nguyên nhân là do các cơ quan này còn buông lỏng công tác quản lý cũng như việc xử phạt hành chính nên các vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Những tình trạng trên do một số nguyên nhân sau:
- Việc phối hợp giưa UBND các tỉnh, thành phố với Tổng cục du lịch còn chưa thống nhất.
- Việc đầu tư vốn để thực hiện quy hoạch còn chưa hợp lý.
- Thiếu vốn đầu tư, thủ tục hành chính phức tạp, rắc rối, cản trở không nhỏ đối với nguồn đầu tư nước ngoài, khả năng huy động vốn trong nước thấp.
- Nguồn nhân lực phục vụ trong các khu vui chơi giải trí đang rơi vào tình trạng dư người. Kinh nghiệm tổ chức, quản lý khai thác ở các khu vui chơi giải trí còn yếu.
- Việc quản lý các khu, điểm du lịch còn chồng chéo giữa UBND các địa phương với các sở du lịch và Tổng cục du lịch.
- Theo kết luận của Tổng cục du lịch: du khách nước ngoài đến ta không có gì để mua. Từng địa phương, từng điểm du lịch đáng lẽ phải có những vật kỷ niệm mang đặc điểm, sắc thái của riêng mình nhưng lại toàn những thứ y như nhau và có thể mua ở Hà Nội.
Những tình trạng trên cần được khắc phục để đẩy mạnh công tác quản lý Nhà nước về du lịch.
4. Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho du lịch.
Đội ngũ cán bộ của ngành tuy có sự trưởng thành về số lượng và chất lượng, nhưng cơ cấu thiếu hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Các cán bộ công nhân làm việc trong ngành vẫn còn hạn chế nhiều về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch chưa phát triển đồng bộ, thiếu thống nhất và thiếu sự phối hợp giữa các cơ sở đào tạo. Do đó, chất lượng đào tạo không đều, ảnh hưởng đến việc thực thi nghiệp vụ du lịch.
Chưa có sự phối hợp giữa các Sở đào tạo với các doanh nghiệp du lịch trong việc tổ chức cho các sinh viên trong ngành du lịch được tham gia làm một hoặc một số công việc cụ thể tại các cơ sở mà họ thực tập. Mà đối với sinh viên việc kết hợp lý thuyết vơí thực hành là vô cùng quan trọng vì kỹ năng của sinh viên sau khi ra trường kém, doanh nghiệp du lịch phải mất tiền của, thời gian để đào tạo lại gây lãng phí.
Vấn đề tồn tại lớn nhất của du lịch nước ta về công tác đào tạo đội ngũ trong ngành là chưa tiến hành đánh giá, phân loại chất lượng đội ngũ lao động doanh nghiệp vì vậy chưa xây dựng được chiến lược phát triẻen nguồn nhân lực lâu dài.
5. Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch.
Công tác quảng bá, tiếp thị cho du lịch là một công việc quan trọng hàng đầu nhằm tăng cường thu hút khách du lịch. Nhưng cho đến nay, ngành du lịch nước ta vẫn chưa xây dựng được kế hoạch và chiến lược thực thi cho công tác tiếp thị toàn ngành.
Việc nghiên cứu thị trường vẫn chưa tập trung, còn mang tính chất tự phát ở một số doanh nghiệp chứ chưa mang tầm quốc gia. Vì thế du lịch Việt Nam chưa nắm được xu thế vận động của từng loại thị trường để so sánh nhằm đầu tư, khai thác cho từng loại thị trường cụ thể.
Kinh phí cho công tác quảng bá còn quá thấp, chỉ khoảng 100.000 USD/năm. Trong khi đó bình quân một năm Tổng cục du lịch Thái Lan đã phải chi 60 triệu USD, Singapo là 80 triệu USD. Điều này cho thấy việc đầu tư quảng bá, xúc tiến du lịch ở nước ta còn quá ít, không đủ điều kiện để thực hiện.
Trên thực tế, cho đến nay, du lịch Việt Nam chưa có một văn phòng đại diện nào ở nước ngoài. Trong toàn ngành có 100 công ty lữ hành quốc tế thì chỉ có 13 công ty có văn phòng đại diện ở 12 nước trên thế giới.
Nhiều công ty lữ hành đã hoạt động 3-4 năm nhưng chưa một lần tham gia hội chợ du lịch thế giới. Công tác hợp tác quốc tế của ngành mới chỉ là bước đầu và đang trong quá trình chuẩn bị cho hội nhập nên chưa thật chủ động và đạt hiệu quả cao.
Chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về du lịch.
I. Mục tiêu, phương hướng phát triển ngành du lịch và những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta trong giai đoạn tới.
1. Mục tiêu, phương hướng phát triển ngành du lịch Việt Nam.
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống kinh tế xã hội và trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia, có nước coi du lịch như một nguồn thu chủ yếu, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, lại có những nước coi du lịch như một ngành kinh tế mũi nhọn, có sức hút nhiều ngành. ở nước ta trong suốt 40 năm hình thành và phát triển, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, ngành du lịch nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về du lịch với các nước trong khu vực, trở thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, du lịch Việt Nam con có những hạn chế, chưa phát huy đầy đủ những tiềm năng và lợi thế của mình.
Quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ chính trị về phát triển du lịch trong tình hình mới để du lịch Việt Nam thực sự phát huy vai trò ngành kinh tế mũi nhọn, đảm bảo sự phát triển bền vững trong bối cảnh còn nhiều khó khăn và cạnh tranh gay gắt, từng bước đưa nước ta thành trung tâm du lịch, thương mại, du lịch có tầm cỡ trong khu vực và trên thế giới khi bước vào thế kỷ 21. Để đạt được điều đó, du lịch Việt Nam cần có một chiến lược phát triển lâu dài, phù hợp.Chiến lược này phải dựa trên cơ sở bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn phát triển du lịch thế giới nói chung và phát triển du lịch Việt Nam nói riêng, cũng như tư tưởng về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2001 - 2010 và xa hơn đến năm 2020.
Cùng với việc đưa ra các mục tiêu phát triển chiến lược, những định hướng cơ bản về phát triển thị trường, xúc tiến du lịch, tuyên truyền, quảng bá du lịch; về phát triển du lịch; về đầu tư du lịch; về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ; bảo vệ, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch; về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực du lịch... đã được xác định. Những định hướng chiến lược này nhằm hướng tới việc tạo ra những hình ảnh mới về du lịch Việt Nam trong khu vực và thế giới với các sản phẩm du lịch sinh thái và văn hoá lịch sử mang đậm bản sắc dân tộc, có sức cạnh tranh trên cơ sở khai thác có hiệu quả những tiềm năng về lợi thế du lịch trên phạm vi cả nước nói chung và ở từng vùng du lịch nói riêng, đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế.
2 Những vấn đề dặt ra cho công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta trong giai đoạn tới.
Tự do hoá thương mại hợp tác và cạnh tranh kinh tế toàn cầu là một xu thế tất yếu khách quan. Nước ta nói chung và ngành du lịch Việt nam nói riêng đang phát triển theo xu hướng đó và chấp nhận nó như một thực tế.
Để nhanh chóng thu hẹp những bất lợi trong cạnh tranh Du lịch và khẳng định vị thế của sản phẩm Du lịch trên thị trường Du lịch quốc tế thì công tác quản lý Nhà nước về du lịch trong thời gian tới đã được xác định dựa trên những quan điểm phát triển ngành du lịch trong chỉ thị 46/CT/TW khoá IX của ban Bí thư Trung ương Đảng :
-Phát triển bền vững kinh tế
-Phát triển bền vững về sinh thái
-Phát triển bền vững văn hoá
-Phát triển bền vững an ninh quốc gia
Để thực hiện tốt các mục tiêu này ,ngành du lịch cần thực hiên những vấn đề sau:
+Tuyên truyền giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân có trách nhiệm tham gia tích cực vào công tác giữ gìn vệ sinh môi trường ở những nơi công cộng ,tham gia bảo vệ giữ gìn an ninh,trật tự trị an,đảm bảo tốt tính mạng ,và tài sản của khách du lịch,có thái độ đúng mực, lịch thiệp và mến khách.
+ Ưu tiên đầu tư nâng cấp và nâng cao chất lượng đối với hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội.
+ Cải cách nhanh chóng thủ tục hành chính theo hướng cải thiện nhanh, thuận lợi, hoà nhập quốc tế.
II- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về du lịch.
1. Tạo lập môi trường pháp lý cho du lịch.
Ngày nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu cần thiết và là tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng cuộc sống. Hơn nữa, hoạt động du lịch có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, vì vậy một môi trường kinh doanh thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho du lịch phát triển. Luật du lịch sẽ tạo môi trường pháp lý định hướng cho các doanh nghiệp du lịch phát triển, ngăn chặn các tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường nói chung và ngành kinh tế dịch vụ nói riêng đến đời sống kinh tế xã hội và môi trường của đất nước. Hiện nay công tác xây dựng dự án luật du lịch đang được Tổng cục du lịch và các cơ quan hữu quan khẩn trương xúc tiến và hoàn thiện dần trên cơ sở đóng góp ý kiến của các ngành chức năng và các doanh nghiệp hoạt động du lịch. Tin chắc rằng khi luật du lịch được chính thức ban hành sẽ là động lực để du lịch Việt Nam phát triển.
2. Hoàn thiện bộ máy tổ chức du lịch.
Việc quản lý thực hiện chức năng quản lý Nhà nước theo lãnh thổ của ngành du lịch được thực hiện trên cơ sở điạ giới hành chính của từng tỉnh, thành phố. Công tác phối hợp, tổng kết báo cáo với Tổng cục du lịch về việc thực hiện các quy hoạch, chiến lược du lịch còn chậm và thiếu thống nhất.
Để khắc phục hạn chế này, Tổng cục du lịch nên đề nghị với Chính phủ thành lập thêm một số Sở du lịch ở các tỉnh, tách khỏi Sở thương mại du lịch hoặc Văn phòng kinh tế tổng hợp. Việc đưa hoạt động du lịch dưới sự quản lý của các sở du lịch sẽ giúp tăng cường công tác quản lý Nhà nước cho toàn ngành trong việc triển khai thực hiện các quy hoạch du lịch doanh nghiệp do Tổng cục du lịch soạn thảo.
3. Sắp xếp, kiện toàn hệ thống các doanh nghiệp làm du lịch
Đây là việc làm cần thiết tạo điều kiện cho việc quản lý các doanh nghiệp du lịch đạt hiệu quả. Việc sắp xếp kiện toàn hệ thống các doanh nghiệp du lịch nên theo một số hướng sau:
- Củng cố và phát triển các doanh nghiệp du lịch có chuyên môn hoá cao, quy mô thích hợp.
- Thành lập các tập đoàn, các tổng công ty kinh doanh du lịch, khách sạn, khuyến khích phát triển các hình thức công ty cổ phần. Tạo quá trình khép kín giữa kinh doanh khách sạn, kinh doanh vận chuyển du lịch, kinh doanh điểm du lịch.
- Thành lập hiệp hội về du lịch trên cơ sở kinh doanh chính như lữ hành, khách sạn, vận chuyển khách du lịch.
- Tiến hành công tác kiểm tra, thành tra các doanh nghiệp du lịch một cách thường xuyên.
Trong quá trình sắp xếp, kiện toàn lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước về du lịch cần chú ý đến việc tách hẳn chức năng quản lý kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước, làm cho các doanh nghiệp Nhà nước tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
4. Tăng cường phối hợp liên ngành nhằm cải cách, tháo gỡ một số vướng mắc trong du lịch.
Về thủ tục xuất nhập cảnh: Tổng cục du lịch cần phối hợp với bộ nội vụ và Tổng cục hải quan cải tiến hơn nữa thủ tục xuất nhập cảnh sao cho nhanh nhất, thuận tiện và an toàn nhất.
Chi phí về các loại dịch vụ: Hiện nay ở Việt Nam, cước phí viễn thông, điẹn, nước hay giá truy cập internet còn khá cao. Mặc dù gần đây đã xuất hiện một số đơn vị quan đội đưa ra cước phí viễn thông thấp hơn so với ngành bưu chính viễn thông Việt Nam như dịch vụ 171 và 178 song các dịch vụ này vẫn chưa đáp ứng được nguyện vọng của người dân trong nước và khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Vì vậy Tổng cục du lịch nên kiến nghị với chính phủ và các ngành liên quan giảm bớt cước phí điện thoại, điện nước, loại bỏ việc áp dụng chế độ 2 giá, thực hiện một giá chung cho cả hai khách, nhằm đem lại sự công bằng cho khách quốc tế.
Về việc quản lý các điểm, khu du lịch: còn lỏng lẻo, chưa thống nhất, không phân định rõ trách nhiệm, dẫn dến tình trạng nhiều cấp ngành quản lý. Song trên thực tế lại chẳng có cấp ngành nào quản lý. Tổng cục du lịch nên xem xét và kiến nghị với chính phủ, ban hành những quy chế quản lý các điểm, khu du lịch nhằm đưa các hoat động tại các khu vực đó vào nề nếp.
Phối hợp chặt chẽ các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền các trương trình hành động quốc gia về du lịch,các chủ trương chích sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước ,thông tin du lịch trong nước và quốc tế nhằm nâng cao nhận thức của người dân về du lịch.
5.Tăng cường sự quản lý của Nhà nươc trong công tác đào tạo,bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch .
Để khai thác tiềm năng du lịch của đất nước và đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch ttrong tình hình mới .Nhà nước cần có các chính sách cụ thể ,thích hợp cho việc đào tạo , bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch:
- Thực tế bất cứ một đơn vị kinh doanh du lịch nào cũng muốn tìm và sử dụng những người đã qua các lớp đào tạo,. Do vậy việc kiện toàn hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công nhân viên trong ngành du lịch là hết sức cần thiết. Ngoài ra cũng nên cử hoặc tạo điều kiện cho cá giáo viên ra nước ngoài học tập kinh nghiệm giảng dạy về du lịch của các nước phát triển.
- Trong cơ cấu đào tạo cần xác định tỷ lệ hợp lý giữa thầy - thợ, giữa cử nhân - công nhân kỹ thuật, để tránh tình trạng đào tạo đại học nhiều hơn đào tạo công nhân kỹ thuật, thợ lành nghề ở từng khâu.
- Cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo đội ngũ lao động cho ngành du lịch là một yếu tố hết sức quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Mặt khác đẩy nhanh việc phát triển mạng lưới đào tạo nguồn nhân lực trong cả nước.
6. Tăng cường công tác quảng bá, xúc tiến du lịch, gắn thị trường du lịch Việt Nam với thị trường quốc tế và khu vực.
Cũng như đối với bất kỳ ngành kinh tế nào nằm trong sự vận hành của cơ chế thị trường, công tác tiếp thị, xúc tiến cần được coi trọng đặc biệt, tiến hành thường xuyên liên tục trong phạm vi rộng lớn không chỉ trong nước mà cả trên thị trường quốc tế. Đối với hoạt động du lịch, việc thu hút khách đóng vai trò quyết định sự tồn tại của nó. Cho nên cần xác định vai trò hàng đầu của công tác tiếp thị, xúc tiến trong du lịch.
Song song với công tác tiếp thị quảng bá du lịch, Tổng cục du lịch cần mở rộng hợp tác quốc tế hơn nữa, gắn thị trường Việt Nam với thị trường du lịch quốc tế và trong khu vực.
Trên cơ sở chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, Tổng cục du lịch cùng với các Sở du lịch, Sở thương mại- du lịch tiến hành tổng kết đánh giá những mặt làm được và những mặt chưa làm được, rút ra kinh nghiệm và xây dựng chiến lược phát triển, hợp tác quốc tế của du lịch Việt Nam trong những năm tới.
7. Khai thác và bảo vệ tài nguyên môi trường.
Ngành du lịch Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên việc khai thác tiềm năng này còn khiêm tốn do nhiều lý do cả khách quan lẫn chủ quan. Việc bảo vệ môi trường du lịch không những làm thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam mà còn bảo vệ nguồn lợi kinh tế do kinh doanh du lịch mang lại, góp phần phát triển kinh tế xã hội cho đất nước. Tuy nhiên, theo nhận xét của nhiều du khách cũng như các chuyên gia trong nước và nước ngoài, môi trường du lịch VIệt Nam ở một số nơi hiện nay đang bị ô nhiễm và sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động du lịch.
Đây chính là vấn đề cần được sự quan tâm của bộ khoa học công nghệ và môi trường cùng với ngành du lịch cũng như các ngành có liên quan để tìm ra các giải pháp tích cực nhằm ngăn ngừa ô nhiễm môi trường du lịch ở Việt nam hay nói một cách khác là phải bảo vệ môi trường để phát triển du lịch bền vững.
Kết luận
Cùng với tiến trình đổi mới của đất nước, trong những năm qua ngành du lịch nước ta đã có những bước phát triển nhảy vọt, những thành tựu mà ngành du lịch đạt được là rất đáng ghi nhận. Du lịch phát triển kéo theo sự phát triển của nhiều ngành có liên quan như giao thông vận tải, thông tin liên lạc, thương mại..., Đảng và Nhà nước ta đã ngày càng đánh giá cao vị trí và vai trò của du lịch, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển. Để du lịch phát triển nhanh, bền vững thì vai trò quản lý Nhà nước về du lịch là hết sức quan trọng. Với sự ra đời của Tổng cục du lịch, hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch từ Trung ương đến địa phương ở nước ta đã được hình thành và phát huy vai trò tích cực vào việc phát triển du lịch.
Công tác quản lý nhà nước về du lịch ở nước ta trong những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều mặt: tạo lập cơ quan pháp lý, tăng cường công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, tăng cường quảng bá du lịch, quan hệ hợp tác quốc tế...,Du lịch Việt nam phát triển cả về số lượng và chất lượng, hình ảnh của Việt Nam nói chung và của du lịch Việt Nam nói riêng đã được khẳng định trên thế giơí và khu vực. Bên cạnh những thành tựu cơ bản và hết sức quan trọng, du lịch Việt nam và công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế cần được khắc phục: về tổ chức xác định thẩm quyền, chức năng chưa rõ ràng, sự phối hợp ngành du lịch với các ngành có liên quan còn chưa đồng bộ và thống nhất dẫn đến hiệu quả quản lý thấp; đội ngũ quản lý còn hạn chế về năng lực, trình độ, công tác quản lý, đào tạo còn nhiều bất cập, chưa xứng với tiềm năng và sự phát triển của ngành du lịch.
Để đáp ứng được đòi hỏi của quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, du lịch Việt nam và công tác quản lý Nhà nước về du lịch cần được hoàn thiện. Một yêu cầu đặt ra là phải có luật du lịch, cơ sở pháp lý để hoàn thiện tổ chức, công tác quản lý Nhà nước về du lịch. Các doanh nghiệp du lịch phải được sắp xếp lại, tạo nên sức mạnh để đủ sức cạnh tranh với các hãng du lịch trên thế giới. Công tác quản lý nhà nước về đào tạo nhân lực du lịch phải được củng cố và nâng cao hiệu quả quản lý. Tổng cục du lịch phải là đầu mối để phối hợp các ngành liên quan tạo nên cơ sở thông thoáng nhằm phát huy mọi tiềm năng cả trong và ngoài nước vào phát triển du lịch. Ngoài ra cũng cần có chính sách thống nhất, chiến lược phát triển du lịch tạo điều kiện cả về cơ sở vật chất lẫn nhân sự cho ngành du lịch thực sự là '' ngành kinh tế mũi nhọn'' trong nền kinh tế nước ta.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33887.doc