Đề án Quản lý với bài toán xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí khu vực miền núi phía Bắc

MỞ ĐẦU Xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí là bài toán khó mà bất kì quốc gia đang phát triển nào cũng phải đối mặt. Hậu quả do đói nghèo và dân trí thấp gây ra cho sự phát triển chung của một vùng cũng như một quốc gia là vô cùng nặng nề. Sự bất ổn về kinh tế sẽ dẫn đến sự bất ổn về chính trị, đó là điều mà bất kì nhà quản lý vĩ mô nào cũng hiểu được.Nhưng những nhà quản lý Việt Nam vẫn đang rất lúng túng trong việc giải quyết bài toán khó, mà biểu hiện cụ thể của nó là: khoảng cách giàu nghèo của việt nam ngày càng tăng, tình trạng tái nghèo vẫn diễn ra Đừng đổ lỗi cho răng sự bất bình đẳng là sự trả giá cho sự tăng trưởng, đừng dựa vào mô hình “chữ U ngược “ của Kuznes để biện minh. Nếu chúng ta, những nhà quản lý không vô trách nhiệm , sử dụng lãng phí những đồng vốn vào những dự án mía đường, dự án nuôi bò sữa hay để thất thoát, tham nhũng, chi tiêu sai mục đích hàng ngàn tỷ đồng thì mọi sự có thể sẽ khác đi. Quản lý với đầy đủ những chức năng của nó, thêm vào đó là những chính sách đúng đắn và sự quan tâm của toàn xã hội sẽ là lời giải hay cho bài toán khó xoá đói giảm nghèo. Xoá đói giảm nghèo là vấn đề trước mắt, nâng cao dân trí là vấn đề lâu dài, song hai vấn đề này cần phải được giải quyết song song, tuy không phải là trong một sớm một chiều, nhưng những nhà quản lý cần phải nhanh chóng tìm lời giải, tháo dỡ sợi dây níu giữ sự bứt phá trên con đường phát triển của Việt Nam. Đề án này đề cập đến vấn đề: Quản lý với bài toán xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí khu vực miền núi phía Bắc với mong muốn cung cấp một lời giải cho bài toán khó này. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Phần I: Cơ sở lý luận 2 I. Khái niệm về quản lý: 2 1. Quản lý và các dạng quản lý 2 2. Quản lý nhà nước về kinh tế: 3 2.1.Khái niệm: 3 2.2.Các kết luận cần lưu ý: 4 II. Khái niệm về đói nghèo: 4 1.Quan niệm chung: 4 2. Phương pháp đánh giá nghèo khổ: 7 III. Quản lý với bài toán xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí: 10 Phần II: Lời giải cho bài toán xóa đói giảm nghèo 13 I. Nguyên nhân của đói nghèo: 13 II. Thực trạng nghèo đói ở Việt nam: 19 1. Việt Nam được xếp vào nhóm các nước nghèo của thế giới : 19 2. Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh : 19 3. Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn: 20 4. Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn : 21 5. Nghèo đói trong khu vực thành thị 22 6. Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao 23 7. Tỷ lệ hộ nghèo đói đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc ít người 24 III.Các giải pháp chủ yếu để xóa đói giảm nghèo: 24 1.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn: 24 2. Các giải pháp về đất đai và tư liệu sản xuất cho các hộ nghèo: 26 3. Về chính sách đối với người nghèo vay vốn: 26 4. Chính sách đào tạo và chuyển giao công nghệ: 29 5. Chính sách đầu tư kết cấu hạ tầng cho xã nghèo: 30 6. Một số chính sách khác: 31 7. Chính sách về y tế và giáo dục: 31 8. Một số giải pháp xã hội khác: 31 9. Phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể: 32 Phần III : Kết luận 35 Danh mục tài liệu tham khảo 38

docx40 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1587 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quản lý với bài toán xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí khu vực miền núi phía Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là 2100 calo/ người/ ngày. Ngưỡng nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm ( nghèo đói ở mức thấp). Vì mức chi tiêu này chỉ đảm bảo mức chuẩn về cung cấp năng lượng mà không đủ chi tiêu cho những hàng hóa phi lương thực. Những người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được 2100 calo/ngày gọi là “nghèo về lương thực, thực phẩm”. - Phương pháp của Việt Nam: Ở Việt Nam hiện nay, có phương pháp tiếp cận với ranh giới nghèo đói như sau: + Phương pháp dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người ( phương pháp của tổng cục thống kê). Phương pháp này xác định hai ngưỡng nghèo. * Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua được một số lương thực hằng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng. Như vậy phương pháp này tương tự như phương pháp của WB. *Ngưỡng nghèo thứ hai, thường được gọi là “ ngưỡng nghèo chung”, ngưỡng này bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hóa phi lương thực. Ngưỡng nghèo Việt Nam đựoc tính toán từ cuộc điều tra mức sống dân cư năm 1998 như sau: Ngưỡng nghèo về lương thực thực phẩm: 1 287 000 đ/người/ năm. Ngưỡng nghèo chung: 1 788 000 đ/ người/ năm. + Phương pháp dựa trên thu nhập hộ gia đình( Phương pháp của Bộ Lao Động và Thương Binh Xã Hội) . Phương pháp này hiện đang được sử dụng để xác định chuẩn nghèo đói của chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia ( chuẩn nghèo quốc gia). Chuẩn nghèo áp dụng cho thời kì 2001-2005 được xác định dựa trên thu nhập theo 3 vùng. Cụ thể là: * Vùng hải đảo và vùng núi nông thôn: bình quân thu nhập là 80 000/ người/ tháng. *Vùng đồng bằng nông thôn; 100 000đ/ người/ tháng. *Khu vực thành thị là 150 000 đ/ người/ tháng. Người được coi là nghèo khổ về thu nhập là những người mà thu nhập của họ nằm bên dưới các “giới hạn’ đã được quy định nói trên. Việc nhận diện ai là người nghèo luôn là một vấn đề khó khăn. Cách thông thường và đã được các nước đang phát triển , WB sử dụng là dựa vào kết quả các cuộc điều tra về thu nhập ( chi tiêu) của hộ gia đình. Những người đang sống trong “ nghèo khổ tuyệt đối” là những ngừoi mà 4/5 chi tiêu của họ cho nhu cầu về ăn mà chủ yếu là lương thực và một chút ít cho thực phẩm ( thịt hoặc cá ); tất cả đều thiếu dinh dưỡng; chỉ khoảng 1/3 số người lớn biết chữ; và tuổi thọ trung bình của họ vào khoảng 40 năm. Một cách tiếp cận khác cũng thường được sử dụng để xem xét nghèo đói là chia dân cư thành các nhóm khác nhau ( theo 5 nhóm ), Nhóm 1/5 nghèo nhất là 20% dân số, những người sống trong các hộ gia đình có mức thu nhập ( chi tiêu) thấp nhất. III. Quản lý với bài toán xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí: Từ thực trạng đói nghèo trên thế giới, chúng ta tim những bài học kinh ngiệmchống đói nghèo của các nước trong khu vực, kinh nghiệm tổng quát bao trùm mà nhiều nước trên thế giới và khu vực đã thực hiệncó kết quả. Những kinh nghiệm đó lấp dụng những can thiệp vĩ môthuộc về vai trò quản lý kinh tế, xã hội của nhà nước để chống lại đói nghèo , xóa đói , giảm nghèo tường bước có hiệu quả. Điểm mấu chốt trong kinh nghiệm các nước này là Nhà nước kịp thời có những giải pháp và chính sách đúng đắn, đồng bộ, đồng thời đảm bảo được những điều kiện để thực thi. Những giải pháp và chính sách đó hướng vào phát triẻn sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thực hiện bằng được nhữngnhững cải thiện rõ rệt mức sống dân cư , gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Về mặt lý thuyết, ý tưởng nằm ở vị trí chủ đạo của mọi chiến lược phát triển và mọi chương trình, kế hoạch quản lyax hội của Nhà nước. Những kết quả, thành tựu đạt được trong việc khắc phục đói nghèở các nước trong mỗi giai đoạn xây dựng và cải cách kinh tế- xã hội đã vừa xác nhận, vừa làm tăng thêm ý nghĩa của bài học kinh nghiệm này. Nó như một điểm tựa, là cơ sở lý luận cho các quyết sách của chính phủ. Về mặt thực tiễn xã hội, bài học kinh nghiệm này cho thấy tần quạn trọng thiết thựccủa các chính sách hỗ trợ , phát triển cho người nghèo bằng cách tạo việc làm và tăng thu nhập thực tế cho họ, tạo cho họ cơ hội và trợ giúp các điều kiện để tự mình thoát khỏi đói nghèo. Đay là phương thức cơ bản , lâu dài vì không thể giải quyết đói nghèo trên quy mô xã hội và cộng đồng dân cư chỉ bằng cách tự cứu, cứu tế đơn thuần. Cũng không thể giản đơn cắt bớt thu nhập của người giàu để phân phối cho người nghèo. Biện pháp này có tính chất thụ động gây hiệu quả tiêu cực , tạo thêm tâm lý chờ đợi ỷ lại và đòi hỏi Nhà nước giải quyết ở những người nghèo và làm suy giảm nhân tố kích thích đối với lao động, làm triệt tiêu động lực phát triển của sản xuất , của hoạt động kinh tế. Lẽ dĩ nhiên điều tiết xã hội qua thu nhập, phân phối để khắc phục những sự phân hóa giàu nghèo bằng những chính sách hợp lý ( thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao ), tăng quỹ phúc lợi xã hội là cần thiết và được coi trọng vì mục đích công bằng xã hội. Kinh nghiệm nêu trên được rút ra từ sự tổng kết thực tiễn việc áp dụng hàng loạt các chính sách trong khu vực. Ở đó đã đưa ra các chính sách kinh tế để thúc đẩy phát triển và ổn định kinh tế , cung cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu và dịch vụ xã hội để hỗ trợ phát triển. Nó phải hạn chế những điều tiết không cần thiết hoặc qua smức gây trở ngại cho sự phát triển, đặc biệt là các doanh nghiệp, khu vực phi kết cấu. Khu vực này ( phi kết cấu ) chính là cầu nối giữa đói nghèo và dòng chảy chính của nền kinh tế , là địa bàn chính cho sự hoạt động của số đông người để tạo ra thu nhập vượt khỏi đường biên nghèo khổ. Đồng thời trong những tình huống đột xuất, Nhà nước vẫn áp dụng những can thiệp tức thời khi cần giải quyết nạn đói , các thảm họa xảy ra ở một khu vực nào đó. Kinh nghiệm cho thấy , nhà nước không nên can thiệp trược tiếp tới hộ nghèo, mà chỉ thông qua các chính sách để hỗ trợ phát triển cho người nghèo. Kinh nghiệm của các nước Đông nam Á : tăng trưởng kinh tế là cần thiết song không thể chỉ dựa hoàn toàn vào tăng trưởng kinh tế để xóa đói giảm nghèo.Thành công của Trung Quốc trong vấn đề này không chỉ do tăng trưởng kinh tế, mà còn do những biện pháp giải quyết việc làm ở nông thôn, mở rộng hệ thống dạy nghề, tăng kỹ thuật mới, giảm nhẹ đièu kiện làm việc, cải thiện điều kiện sống ( mô hình xí nghiệp hương trấn ). (Từ những kinh nghiệm trên, các nhà nghiên cứu đã khái quát hóa về mặt lý luận và thống nhất một định nghĩa là: Chương trình Xóa đói giảm nghèo là một hệ thống các giả pháp xác định rõ vai trò của Nhà nước, của các tổ chức trong xã hội, trong việc phân phối hợp lý các hành động của mình để nâng cao mức sống cho người nghèo, tạo cho họ những cơ hội phát triển trong đời sống cộng đồng bằng chính lao động của bản thân.) Nhưng có gì để đảm bảo rằng chúng ta sẽ thành công khi áp dụng những kinh nghiệm trên; Những chính sách , đường lối của Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn, vấn đề còn lại là việc thực hiện . Theo tôi có hai lý do lớn nhất cản trở việc biến các chính sách này thành hiện thực: Một là, trình độ và nhân cách nhà quản lý kém; Hai là trình độ dân trí thấp. Trình độ quản lý kém dẫn tới tình trạng sử dụng kém hiệu quả những đồng vốn của những dự án xóa đói , giảm nghèo; thiếu kế hoạch rõ ràng, tổ chức nhân sự chưa khoa học, lãnh đạo thiếu trách nhiệm, kiểm tra thiếu sát sao. Tất cả những yếu kém ấy lam lệch đi những đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, ấy là chưa kể đến sự tha hóa về đạo đức của một số nhà quản lý, gây lãng phí , thất thoát và mất niềm tin của nhân dân với Đảng. Nghèo đói và dân trí thấp dường như là đôi bạn song hành luôn đi cùng nhau. Bất kì một xã nghèo nào của Việt nam đều có dân trí thấp, trẻ em không được đi học hoặc việc đi học hết sức khó khăn, các phong tục lạc hậu ăn sâu vào cuộc sống của những người dân nghèo, việc tiếp súc với các hoạt động văn hóa tiên tiến, lối sống lành mạnh rất hạn chế… Quá trình xóa đói giảm nghèo đòi hỏi các nhà quản lý phải khắc phục được hai khó khăn trên, có thể nói việc khắc phục được hai khó khăn trên là hai tiền đề vô cùng cần thiết để những chính sách, đường lối của nhà nước phát huy hiệu quả tối đa trong việc giúp đỡ người nghèo thoát nghèo. Phần II: Lời giải cho bài toán xóa đói giảm nghèo Nguyên nhân của đói nghèo: Nghèo khổ hay đói nghèo là một hiện tượng kinh tế , xã hội, vừa là vấn đề của lịch sử để lại, vừa là vấn đề của phát triển, thường có trong quá trình phát triển, mà quốc gia nào cũng vấp phải. Nó đụng chạm trực tiếp tới cuộc sống của con người, từ cá nhân, gia đình đến cộng đồng. Mỗi quốc gia ở các mức độ khác nhau đều phải quan tâm giải quyết vấn đề đói nghèo để vượt qua những trở ngại cho sự phát triển phồn thịnh về kinh tế và từng bước đạt tới công bằng xã hội. Tất nhiên, các chế độ xã hội khác nhau thì mục đích và mức độ quan tâm cũng khác nhau. Song đây đang là vấn đề toàn cầu nên nó cũng thu hút sự quan tâm, phối hợp cac snỗ lực giải quyết của cộng đồng quốc tế. Để chống lại đói nghèo, giản bớt sự nghèo khổ, cần phải xác định đúng những nguyên nhân dẫn tới đói nghèo. Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc xác định nguyên nhân của đói nghèo. Trên thực tế không có một nguyên nhân biệt lập, riêng rẽ dẫn tới đói nghèo, nhất là đói nghèo trên diện rộng, có tính chất xã hội. Nó cũng không phải là nguyên nhân thuần túy về kinh tế hoặc do thiện tai, địch họa. Ở đây nguyên nhân của tình trạng đói nghèo là có sự đan xen, thâm nhập vào nhau cả cái tất yếu lẫn ngẫu nhiên, cả cái cơ bản và tức thời ( đột xuất ) , cả nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực tiếp, cả khách quan lẫn chủ quan, tự nhiên lẫn kinh tế- xã hội. Vì vậy phải giải thích hiện tượng này theo một hệ thống các nguyên nhân, nhận diện các nhóm nguyên nhân có tính phổ biến và đặc thù khác nhau. Cũng cần thấy sự khác biệt, tính trội theo các vùng, các nhóm dân cư, khu vực khi chịu tác động tác động của những nguyên nhân đó . Có ý kiến đưa ra 3 nhóm nguyên nhân, trong mỗi nhóm lại bao gồm nhiều nguyên nhân cụ thẻ như sau: Nhóm 1: Do bản thân người nghèo: không biết làm ăn, thiếu hoặc không có vốn, đông con, neo đơn , thiếu lao động, ăn tiêu lãng phí, lười lao động, mắc vào tệ nạn xã hội. Nhóm 2: Do điều kiện tự nhiên và môi trường: đất canh tác ít và xấu, thời tiết không thuận lợi, bất lợi về địa lý ( xa xôi, hẻo lánh, không có đường giao thông…) Nhóm 3: Do thể chế, chính sách và cơ chế lạc hậu: Không đồng bộ, không phù hợp với thực tiễn, không có sự quan tâm và khuyến khích phát triển sản xuất, hoặc áp dụng chính sách cứng nhắc… Tổng hợp các nguyên nhân trên chúng ta thấy; nhóm 1 có nguyên nhân chủ yếu là do đối tượng ( chủ quan ) ; nhóm 2 và 3 có tính chất khách quan. Cả ba nhóm này tác động vào đối tượng trong không gian và thời gian, dẫn đến tình trạng đói nghèo. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy: - Thiếu vốn : chiếm 70%-90% tổng số hộ được điều tra - Đông con: chiếm 50%-60% - Thiếu kinh nghiệm làm ăn: chiếm 40%-50%. - Rủi ro, đau ốm nặng: 10%-15% -Neo đơn, thiếu lao động: 6%-155. - Lười lao động, ăn tiêu lãng phí: 5%-6%. - Mắc các tệ nạn xã hội: 2%-3%. Kết quả thu được đã xác nhận giả thiết nghiên cứu cho rằng thiếu vốn và đông con cũng như thiếu kinh nghiệm làm ăn là những nguyên nhân quan trọng và phổ biến nhất của đói nghèo. Dùng phhương pháp điều tra xã hội học để kiểm chứng trên thực tế cho thấy: Các phân loại theo ba nhóm nguyên nhân treen là hợp lý và có sức thuyết phục. Cũng theo phươnmg pháp này, có thể nhận diện một cách cụ thể hơn thành năm nhóm nguyên nhân sau: *Nhóm 1: Những nguyên nhân chủ quan Là những nguyên nhân do bản thân người lao động , phổ biến là: - Không có kinh nghiệm làm ăn, không biết cách sản xuất , kinh doanh - Thiếu hoặc không có vốn. - đông con, ít lao động. - Neo đơn, thiếu lao động. - Rủi ro, đau ốm. - Ăn tiêu lãng phí, lại lười biếng… *Nhóm 2: Những nguyên nhân khách quan Ở đây có nguyên nhân khách quan về mặt tự nhiên và nguyên nhân khách quan về mặt xã hội: Những nguyên nhân khách quan về mặt điều kiện tự nhiên như: - Đất canh tác ít. - Đất cằn cỗi , ít màu mỡ, canh tác khó, năng suất cây trồng và vật nuôi đều thấp. - Thời tiết, khí hậu không thuận lợi cho sản xuất. - Xa xôi, hẻo lánh. - Không có đường giao thông… Những nguyên nhân khách quan về mặt xã hội như sự quan tâm xã hội (của chính quyền địa phương và trung ương). Nhóm này có ảnh hưởng khá mạnh tới tình trạng đói nghèo của nhân dân cả nước và địa phương. Chẳng hạn như: - Nhà nước ( trung ương- địa phương ) chưa có biện pháp xây dựng các cơ sở hạ tầng tối thiểu: giao thông, thủy lợi, điện… - Chưa có biện pháp hành chính và giáo dục thích đáng để hạn chế xóa bỏ tệ nạn xã hội. - Chưa có biện pháp chấn áp, giáo dục thích đáng làm cho xã hội, địa phương được an toàn như nạn trộm cắp tài sản, hoa màu, vật nuôi…làm cho dân không yên tâm sản xuất. - Hợp tác xã thu hồi bớt ruộng của người nghèo do họ không thể trả được nợ sản phẩm, làm cho họ càng nghèo hơn. *Nhóm 3: Các nguyên nhân kết hợp Các nhóm 1 và 2 nêu trên là những nguyên nhân trực tiếp có tính chất chủ quan và khách quan. Kết hợp lại tạo thành 3 dạng nguyên nhân gây nghèo đói: - Vì mắc tệ nạn xã hội mà nghèo đói ( nhất là cờ bạc, nghiện hút, số đề). - Do thiếu đất và do bị thu hồi bớt ruộng đất mà nghèo đói. - Do không biết làm gì khác ngoài nghề nông mà nghèo đói. Dĩ nhiên , thiếu vốn, đông con, thiếu tư liệu sản xuất và kinh nghiệm vẫn là trục tác động chính dẫn tới nghèo đói. *Nhóm 4: Nguyên nhân do thiếu thị trường Đối với người nghèo, tất cả mọi biện pháp cứu trợ chỉ có giá trị tức thời, không thể làm thay đổi hoàn cảnh đói nghèo kinh niên của người nghèo, do đó cũng không thay đổi thân phận của người nghèo đói được. Điều quan trọng để họ tự mình vượt qua đói nghèo là đẩy mạnh sản xuất, tăng thu nhập. Muốn vậy phải có thị trường cung cấp vật tư nông nghiệp, nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm theo giá thỏa thuận. Nguyên nhân thiếu thị trường lại có thể tìm ở các nguyên nhân khác: xa xôi hẻo lánh, thiếu đường giao thông, thiếu an toàn, thiếu các chính sách, biện pháp khuyến khích. *Nhóm 5: Những tình huống đột xuất. Những tình huống đột xuất như sự tàn phá của các điều kiện tự nhiên làm mât cân bằng, ổn định bình thường đã có như mưa đá, gió Lào, bão, lụt, hạn hán, trựot núi, sóng thần, động đất, sâu bệnh… gây ra đói gay gắt cấp tính, phải cứu trợ khẩn khấp. Để tìm độ xác thực của từng giả thiết trên, một cuộc kiểm tra theo bảng hỏi và thay đổi cách hỏi đối với đối tượng. Bảng hỏi được xây dựng thành một khung có 9 vấn đề được hiểu là 9 tình huống, nguyên nhân. Kết quả cho thấy: Thiếu vốn: có 70-90% câu trả lời Đông con: 50-60% Thiếu kinh nghiệm: 40-50% Thiếu ruộng, thiếu việc làm: 10-30% Gặp rủi ro, đau ốm: 10-15%. Neo đơn, thiếu lao động:5-10%. Lười và lãng phí: 5-6%. Mắc tệ nạn xã hội:2-3%. Thiếu thị trường: Không ai trả lời, không ai chú ý tới. Tuy nhiên, trật tự sẽ thay đổi khi gợi ý đối tượng trả lời ngay vào hoàn cảnh của chính mình. Thiếu vốn; 50-70% Thiếu kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh: 40-50% Thiếu ruộng, thiếu việc làm: 10-30%. Đông con, thiếu lao động; 10-25%. Neo đơn, thiếu lao động: 5-10%. Lười, lãng phí: 5-6%. Rủi ro, đau ốm;2-3%. Tệ nạn: 2-3%. Thiếu thị trường: o% Từ đây có thể nhận xét : Do người nghèo làm không đủ ăn nên hầu như có rất ít, hoặc không có sản phẩm để tiêu thụ trên thị trường. Mặt khác, họ cũng chưa thật sự có hoạt động kinh doanh , tư duy kinh tế hàng hóa chưa phát triển. Đây là dấu vết của kinh tế tự nhiên, thuần nông, tự cấp tự túc. Do hoàn cảnh kinh tế mang lại, người nông dân nghèo và hộ nông dân nghèo có những suy nghĩ, tâm lý khác căn bản so với người nông dân giàu có. Họ chưa có đầu óc sản xuất, kinh doanh sinh lãi, chưa dám mơ tưởng tới doanh nghiệp, chủ trại của kinh tế nông trại. Từ vị trí, đặc điểm của các nguyên nhân trên, chúng ta có thể rút ra một vài nhận xét: - Trong các nguyên nhân gây nghèo đói, có một số nguyên nhân khá ổn định, có ý nghĩa phổ biến, thay đổi không lớn. Thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm làm ăn là nguyên nhân có trọng số cao. - Rủi ro, bệnh tật, neo đơn, tệ nạn xã hội cũng là nguyên nhân ổn định nhưng có trọng số thấp. - Thị trường là một nguyên nhân tiềm tàng, có tầm quan trọng, là cơ sở để khai thông nghèo đói, vượt qua đói nghèo, tiến tới giàu có, khá giả. Đây là một xu hướng khách quan, có vùng đã chín muồi, có nơi còn ẩn dấu. Nó gắn liền với xu hướng có tính quy luật; Muốn giảm bớt đói nghèo và vượt qua đói nghèo, trở thành trung lưu, khá giả, phải chuyển kinh tế tự nhiên- thuần nông thành kinh tế hàng hóa, đa dạng cơ cấu, loại hình nghành nghề, loại hình sản phẩm, chuyển từ tư duy hiện vật sang tư duy giá trị. - Nguyên nhân đông con tuy được thừa nhận ở nhiều nơi nhưng lại có trọng số không ổn định, khác xa nhau, tùy theo vùng và địa phương ( từ 5-10% đến 50-60% ). - Các nguyên nhân về điều kiện tự nhiên cũng có sự thay đổi theo địa phương. Ở những vùng tưn nhiên quá khắc nghiệt thì tỷ lệ nghèo đói rất cao, có khi biết làm ăn mà vẫn nghèo đói. Trong trường hợp này hoặc là Nhà nước phải đầu tư để cải tạo, hoặc chuyển căn bản cơ cấu kinh tếtừ nông nghiệp sang công nghiệp, thậm chí di dân. - Nguyên nhân về đường giao thông có tính đặc thù rõ nét, nhất là vùng núi, vùng cao. Ở đây, có khi nó lại là nguyên nhân bao trùm gây nên đói nghèo và lạc hậu. Đây cũng là vùng đòi hỏi đầu tư lớn của Nhà nước trung ương. - Đặc biệt nguyên nhân về thiên tai nặng là nguyên nhân bao trùm nhất, quyết định nhất gây ra đói gay gắt cấp tính cục bộ, đòi hỏi cứu trợ khẩn cấp. Trên đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nghèo đói, tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu về thực trạng đói nghèo ở Việt nam hiện nay. Thực trạng nghèo đói ở Việt nam: 1. Việt Nam được xếp vào nhóm các nước nghèo của thế giới : Tỷ lệ hộ đói nghèo của Việt Nam còn khá cao. Theo kết quả Điều tra mức sống dân cư (theo chuẩn nghèo chung của quốc tế), tỷ lệ đói nghèo năm 1998 là trên 37% và ước tính năm 2000 tỷ lệ này vào khoảng 32% (giảm khoảng 1/2 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 1990). Nếu tính theo chuẩn đói nghèo về lương thực, thực phẩm năm 1998 là 15% và ước tính năm 2000 là 13%. Theo chuẩn nghèo của Chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia mới, đầu năm 2000 có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ trong cả nước. 2. Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh : Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công rất lớn trong việc giảm tỷ lệ nghèo, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, những thành tựu này vẫn còn rất mong manh. Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, do vậy chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến họ rơi xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo. Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện nguồn lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người nghèo rất bấp bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình và cộng đồng. Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng nghèo đói, do vậy, khi có những dao động về thu nhập cũng có thể khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo. Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp cũng tạo nên khó khăn cho người nghèo. Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức sống chung và đặc biệt so với nhóm có mức sống cao. Sự gia tăng chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất (từ 7,3 lần năm 1993 lên 8,9 lần năm 1998) cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo (trong mối tương quan với người giàu). Mặc dù chỉ số nghèo đói có cải thiện, nhưng mức cải thiện ở nhóm người nghèo chậm hơn so với mức chung và đặc biệt so với nhóm người có mức sống cao. Hệ số chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn còn rất cao. Những tỉnh nghèo nhất hiện nay cũng là tỉnh xếp thứ hạng thấp trong cả nước về chỉ số phát triển con người và phát triển giới. 3. Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn: Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa hoặc ở các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, do sự biến động của thời tiết (bão, lụt, hạn hán...) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở của các vùng nghèo đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác. Năm 2000, khoảng 20-30% trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước sạch; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% chưa đủ công trình thuỷ lợi nhỏ; 20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã. Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1-1,5 triệu người. Hàng năm số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi nghèo vẫn còn lớn. 4. Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn : Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn với trên 90% số người nghèo sinh sống ở nông thôn. Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực, thực phẩm của thành thị là 4,6%, trong khi đó của nông thôn là 15,9%. Trên 80% số người nghèo là nông dân, trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ...), thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn. Những người nông dân nghèo thường không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin, khó có khả năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp. Phụ nữ nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm nghèo dễ bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn, nhưng thu nhập ít hơn, họ ít có quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng do đó có ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang lại. Ước tính quy mô và tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn nghèo mới giữa thành thị và nông thôn năm 2000 Số hộ nghèo (nghìn hộ) So với số hộ trong vùng (%) So với tổng số hộ nghèo cả nước (%) Tổng số 2.8 17,2 100 Nông thôn: 2.535 19,7 90,5 Trong đó: - Nông thôn miền núi 785 31,3 28,0 - Nông thôn đồng bằng 1.75 16,9 62,5 Thành thị 265 7,8 9,5 Nguồn: Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo. 5. Nghèo đói trong khu vực thành thị Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và mức sống trung bình cao hơn so với mức chung cả nước, nhưng mức độ cải thiện điều kiện sống không đồng đều. Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh. Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước dẫn đến sự dôi dư lao động, mất việc làm của một bộ phận người lao động ở khu vực này, làm cho điều kiện sống của họ càng thêm khó khăn hơn. Số lao động này phải chuyển sang làm các công việc khác với mức lương thấp hơn, hoặc không tìm được việc làm và trở thành thất nghiệp. Người nghèo đô thị phần lớn sống ở những nơi có cơ sở hạ tầng thấp kém, khó có điều kiện tiếp cận tới các dịch vụ cơ bản (nước sạch, vệ sinh môi trường, thoát nước, ánh sáng và thu gom rác thải...). Người nghèo đô thị dễ bị tổn thương do sống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu nhập bằng tiền. Họ thường không có hoặc có ít khả năng tiết kiệm và gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn tạo việc làm. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa làm tăng số lượng người di cư tự do từ các vùng nông thôn đến các đô thị, chủ yếu là trẻ em và người trong độ tuổi lao động. Hiện tại chưa có số liệu thống kê về số lượng người di cư tự do này trong các báo cáo về nghèo đói đô thị. Những người này gặp rất nhiều khó khăn trong việc đăng ký hộ khẩu hoặc tạm trú lâu dài, do đó họ khó có thể tìm kiếm được công ăn việc làm và thu nhập ổn định. Họ có ít cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội và phải chi trả cho các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục ở mức cao hơn so với người dân đã có hộ khẩu. Ngoài ra, đói nghèo còn chiếm tỷ lệ cao trong các nhóm đối tượng xã hội khác như những người không nghề nghiệp, người thất nghiệp, người lang thang và người bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội (mãi dâm, nghiện hút, cờ bạc...). 6. Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao Đói nghèo mang tính chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống, có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới 64% số người nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung. Đây là những vùng có điều kiện sống khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai xảy ra thường xuyên. Ước tính quy mô và tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn nghèo mới (2001-2005) của Chương trình xóa đói giảm nghèo theo vùng đầu năm 2001 Số hộ nghèo, (nghìn hộ) So với tổng số hộ trong vùng (%) So với tổng số hộ nghèo cả nước (%) Tổng số 2.8 17,2 100 Vùng Tây Bắc 146 33,9 5,2 Vùng Đông Bắc 511 22,3 18,2 Vùng Đồng bằng sông Hồng 337 9,8 12,0 Vùng Bắc Trung Bộ 554 25,6 19,8 Vùng duyên hải miền Trung 389 22,4 13,9 Vùng Tây Nguyên 190 24,9 6,8 Vùng Đông Nam Bộ 183 8,9 6,6 Vùng Đồng bằng sông Cửu Long 490 14,4 17,5 Nguồn: Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo 7. Tỷ lệ hộ nghèo đói đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc ít người Trong thời gian qua, Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ tích cực, nhưng cuộc sống của cộng đồng dân tộc ít người vẫn gặp nhiều khó khăn và bất cập. Mặc dù dân số dân tộc ít người chỉ chiếm khoảng 14% tổng số dân cư, song lại chiếm khoảng 29% trong tổng số người nghèo. Đa số người dân tộc ít người sinh sống trong các vùng sâu, vùng xa, bị cô lập về mặt địa lý, văn hoá, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xã hội cơ bản. III.Các giải pháp chủ yếu để xóa đói giảm nghèo: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn: Nền kinh tế thuần nông không thể đem lại sự giàu có, ổn định và phồn vinh cho các hộ làm nghề nông nói riêng và nền kinh tế nông nghiệp nói chung. Hơn nữa, nền kinh tế nông nghiệp nước tảtong điều kiện canh tác lạc hậu, ruộng đất bình quân đầu người quá thấp ( 0,1 ha/ người ), lại bị lệ thuộc vào thiên nhiên ( nhiều vùng mỗi năm phải chịu đựng 4-5 cơn bão lụt, có tỉnh 3 năm liền liên tiếp bị thiên tai, mất mùa đói kém ), nếu chỉ sản xuất thuần nông sẽ gặo rủi ro và khó vượt qua được tình trạng nghèo đói. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo tinh thần Nghị quyết 5 của ban chấp hành Trung ương đảng khóa VII là một biện pháp quan trọng hàng đầu, vừa có tính cấp bách để xóa đói, giảm nghèo, vừa mang tầm chiến lược cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôntheo hướng chuyển nền kinh tế thuần nông, tự túc tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, cần chú trọng thực hiện một số giải pháp cụ thể sau đây: Một là, thực hiện kiên quyết việc chuyển nền kinh tế thuần nông gắn với xóa đói, giảm nghèo, trước hết phải giúp cho tường hộ nghèo và xã nghèo có kế hoạch sản xuất lương thực một cách hợp lý, đồng thời mở rộng phát triểncác loại cây trồng khác, nhất là cây công nghiệp, thích ứng với điều kiện đất đai, khí hậu và thị trường, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế. Làm được như vậy sẽ hạn chế được tỷ lệ rủi ro, mất ở đồng thấp, vẫn thu hoạch được ở đồng cao, mất cây ngắn ngày, vẫn thu hoạch được cây dài ngày. Hai là, Đặc biệt chú ý đến phát triển kinh tế vườn, ao , chuồng. Khắc phục tình trạng vườn tạp, ao, chuồng trống… khá phổ biến ở một số vùng nông thôn hiện nay, giải quyết tận gốc những nguyên nhân: Thiếu vốn, thiếu kiến thức, mất trật tự an ninh ( trong bảo vệ kết quả sản xuất trên đồng ruộng, đồi rừng, ao hồ…) trong địa bàn sinh sống, cư trú. Ba là,phát triển tiểu thủ công nghiệp, nghành nghề truyền thống với cả ba mô hình: - Những hộ gia đình đã có đủ điều kiện chuyển hoàn toàn thành gia đình làm nghề tiểu thủ công nghiệp - Hộ kết hợp vừa làm nông nghiệp, vừa làm nghề khi hết mùa vụ. - Hộ thường xuyên có lao động làm nông nghiệp và lao động làm nghề. Bốn là, phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ gắn với đô thị hóa nông thôn. Có thể nói nhiều sản phảm từ nông nghiệp của ta chưa được chế biến. Để có thể đưa các loại nông sản vào chế biến, vấn đề đầu tư là tốn kém và phức tạp. Song với hướng đi vào nền kinh tế hàng hóa và chất lượng tiêu dùng đòi hỏi ngày càng cao, phải tổ chức và đầu tư kết hợpcác loại quy mô nhỏ và vừa, công nghệ phù hợp với tập quán truyền thống. Ở nước ta các nông sản có thểđưa vào chế biến bao gồmlương thực, rau quả, gia cầm, gia súc, bảo đảm nhu cầu cho thị trường trong nước có chất lượng, đặc biệt cả khi trái mùa vụ. Các dịch vụ về cung ứng vật tư, về kỹ thuật sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm là vấn đề thiết thực cho phát triển kinh tế nông thôn và xóa đói, giảm nghèo. Đây là một hướng để chuyển dịch cơ cấu, công nghiệp hóa , hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Việc thực hiện theo hướng nêu trên nếu không có chính sách thuế, đầu tư kỹ thuật hợp lý để phát triển công nghiệp và dịch vụ thì cũng không xóa đói, giảm nghèo được ở nông thôn. Gắn phát triển công nghiệp, dịch vụ với đô thị hóa nông thôn, tất yếu những thị tứ, thị trân sẽ được khuyến khích hình thành và phát triển, làm cho giữa các vùng có sự giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là các vùng chưa phát triển. Ở đây cũng khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong nước đến đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ với chính sách ưu đãi “ đủ độ” về miễn thuế có thời hạn về kinh doanh, đất đai và đầu tư một số hạ tầng cơ bản như : điện, nước, giao thông... 2. Các giải pháp về đất đai và tư liệu sản xuất cho các hộ nghèo: Quy hoạch và sử dụng đất só hiệu quả, điều chỉnh thu hồi đất không sử dụng để giao quyền sử dụng đất cho hộ nghèo, thiếu hoặc không có đất trên địa bàn cũng là một giải pháp rất quan trọng góp phần thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn. Những nơi thực sự thiếu đất sản xuất lại chưa có điều kiệnphát triển nghành nghề, thì phải tổ chức khai hoang, lấn biển, tạo ra nhiều quỹ đầt để đầu tư kết cấu hạ tầng và động viên hộ nghèo đến sản xuất, sinh sông sở các vùng đất mới. Các giải pháp này ở nước ta đã thực hiện từ lâu, song phần nhiều vì mục đích dãn dân, chưa phải là biện pháp kinh tế, xã hội chủ yếu. Do vậy, cần kết hợp khuyến khích cả hộ giàu, hộ nghèo và ttùy theo khả năng mà giao quyền sử dụng đất cho các hộ để sản xuất. Những vùng thật sự không có khả năng tạo lập quỹ đất, thì tạo điều kiện cho hộ nghèo về tư liệu sản xuấtkhác như thuyền, lưới đánh bắt cá hoặc các công cụ lao động phù hợpđể họ có thể hành nghề chính đáng. Về chính sách đối với người nghèo vay vốn: Cùng với đất đai và tư liệu sản xuất khác, vốn là nguồn lực rất quan trọng đối với nông dân nói chung và người nghèo nói riêng. Thực tế từ những năm 90, với các hoạt đọng tự nguyện và phong trào quần chúngở một số địa phươngđã tổ chức huy động nguồn vốn tiết kiệm cho nhười nghèo vay để sản xuất và làm dịch vụ. Cho đến nay có tới một triệu hộ nông dân nghèo vay vốn. Phương pháp đầu tư bằng chính sách tín dụng cho hộ nghèo là một phương phápcó hiệu quả nhất. Hơn nữa trong cơ chế mới, nguồn vốn trong dân dồi dào, nếu chúng ta có chủ trương, cơ chế thích hợp sẽ huy động được nguồn vốn cho hộ nghèo vay để sản và làm dịch vụ Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ: “ Mở rộng các quỹ tín dụng cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất với lãi suất ưu đãi. Các hộ nghềo được ủy ban nhân dân xã, phương chứng nhận được vay vốn không phải thế chấp… đảm bảo 90-95% số họ nghèo được vay vốn sản xuất, trong đó các hộ thuộc đối tượng chính sách, các hộ đói nghèo nhất được ưu tiên vay trứớc”. Việc hoạch định chính sách trợ vốn cho hộ nghèo cần bám sát theo định hướng sau: Về đối tượng vay: Cần ưu tiên trứớc cho hộ chính sách nằm trong hộ đói nghèo vay trước, sau đó là hộ đói nghèo mà có sức lao động và đến hộ nghèo xã hội. Số hộ đói nghèo mà không có sức lao động thì không thẻ cho vay vốn. Về nguồn vốn: Trước hết cần coi trọng nguồn vốn tại chỗ, ở người khá, người giàu và các doang nghiệp, thương gia với các hình thức cho mượn, hoặc cho vay với lãi suất phù hợp. Cụ thể là: - Trích từ ngân sách: Ngân sách xã , huyên, tỉnh và trung ương khoảng 2% hàng năm. - Từ các ngân hàng: Ngân hàng nhà nước, ngân hàng công thương, ngân hàng nông nghiệp, đặc biệt là ngân hàng phục vụ người nghèo và khuyến khích cả các ngân hàng cổ phần… - Nguồn vốn từ các tổ chức đoàn thể xã hội, hội nghề nghiệp: Đây cũng là đặc trưng và thế mạnh ở việt nam. Các hội đều có trách nhiệmvới các hội viên của mình trong việc chăm lo đời sống kinh tế, huy động nguồn vốn từ hội viên của mình, kể cả những hội viên còn nghèo để cho hội viên nghèo vay. - Sự hợp tác quốc tế thông qua những dự án vừa và nhỏ của tổ chức đa chính phủ, song phương, phi chính phủ. Vấn đề này đã được cam kết quốc tế trong Hội nghị thượng đỉnh tại Copenhagen, Đan Mạch, tháng 3-1995. Tuy đây không phải là nguồn vốn chính, song cần thiết và có thể tranh thủ để tạo nguồn vốn hỗ trợ thêm cho người nghèo. c) Mức vay: Tùy yêu cầu về sản xuất, dịch vụ mà cho các hộ vay với mức nhiều, ít khác nhau, song mức trung bìng là 1,5 đến 3 triệu đồng cho một hộ sản xuất với các dự án nhỏ tạo việc làm tại chỗ; mức vay lớn hơn có thể dành cho các hộ nghèo góp vốn hình thành tổ hợp sản xuất đánh bắt thủy sản… Thời gian vay theo chu kỳ sản xuất song không dưới 3 năm. d)Về lãi suất: Đây là một yếu tố mang nội dung kinh tế và tâm lý đối với người nghèo. Cần phải tạo ra những nấc thang cho người nghèo tham gia vay vốn, tham gia tín dụng. Chúng ta xóa bao cấp, không cho không, và ngay từ đầu phải tập cho người nghèo có ý thức: có vay, có trả, trả cả gốc và lãi để người nghèo tự tính toán sản xuất , dịch vụ gì là có hiệu quả và nên vay bao nhiêu, nhười nghèo phải tính toán, cân nhắc trước khi vay. Cần có chính sách ưu đãi đối với người nghèo như chính quyền các cơ sở và đoàn thể chính trị, xã hội được tín chấp cho người vay vốn mà không phải thế chấp, và xác định lãi suất ưu đãi ở mức độ hợp lý. e)Về cơ chế quản lý nguồn vốn: - Cần thống nhất các nguồn vốn vay này thông qua ngân hàng Nông nghiệp và Ngân hàng phục vụ cho người nghèo quản lý, giải ngân và thu hồi vốn, lãi theo tính chất, mục tiêu của từng dự án, chính sách đối tượng của từng vùng. Danh sách được vay là theo đề nghị của Ban xóa đói, giảm nghèo xã, phường đề nghị. - Trong cơ chế cũng cần phải lập quỹ rủi ro và quy định mức độ rủi ro thế nào thì được bù đắp từ quỹ rủi ro của ngân hàng. Ngoài quy định đó, mức lớn hơn thì nhà nước can thiệp ( chính quyền địa phương và chính phủ ). 4. Chính sách đào tạo và chuyển giao công nghệ: a) Nội dung đào tạo: Trước hết là tổ chức rộng rãi việc dạy nghề cho thanh niên thuộc độ tuổi lao động, chủ yếu là các nghề về sản xuất nông nghiệp, quy trình thâm canh cây, con với những tiến bộ mới về công nghệ sinh học, canh tác… về khuyến nông-lâm-ngư. Đồng thời, quan tâm đào tạo có trọng điểm cho lực lượng lao động trẻ các nghề tiẻu, thủ công nghiệp, nghề truyền thống, và những nghề mới phục vụ cho công nghiệp nông thôn phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động trong khhu vực. b) Cách tổ chức dạy nghề và chuyển giao công nghệ: - Khuyến khích việc kết hợp hướng nghiệp, dạy nghề, chuyển giao kiến thức về công nghệ phù hợp tại các trung tâm giao dịch, đào tạo nghề ở địa phương, cở sở, đặc biệt là mở các lớp cơ động tại xã, phường. - Mở các lớp học của các hội kinh tế, kỹ thuật nghề nghiệp ( hội làm vườn, hội khoa học kỹ thuật, tổ hợp… ). - Đặc biệt chú ý đến việc phát triển hơn nữa hình thức học nghề từ xa (qua hệ thống truyền thông đại chúng ). - Khuyến khích các hộ gia đình trong làng, xã có kinh nghiêm tổ chức và phát triển sản xuất giỏi, biết làm giàu từ sản xuất, dịch vụ, nhận đỡ đầu hướng dẫn cho người nghèo. Hình thức này ở đâu cũng có thể thực hiện được mà không tốn kém, lại hiệu quả, nên động viên được những người giàu hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo. - Một số vùng còn quá lạc hậu, vung xa, vung sâu thì cần có một lực lượng tình nguyện, nhất là sinh viên, học sinh, các cán bộ kinh nghiệm giúp đỡ địa phương vận động xây dựng nông thôn mới và xóa đói, giảm nghèo. - Khuyến khích các doanh nghiệp có những dự án về đào tạo, tạo việc làm cho người nghèo. c) Về chính sách: Nhà nước đầu tư lấy từ nguồn đào tạo hoặc trích từ quỹ xóa đói, giảm nghèo ở địa phương, từ cácdự án hợp tác quốc tế. Hiện nay cộng hòa liên bang Đức đã giúp trên 10 tỷ đồng cho đào tạo cán bộ địa phương, cở sở cùng 12 tỉnh về xóa đói, giảm nghèo. Nhà nước có thể cấp học phí cho người học hoặc giảm 50%. Văn kiện Đại hội VIII chỉ rõ: “ Các cơ sở đào tạo và các trung tâm dạy nghề của Nhà nước thực hiện việc đào tạo nghề miễn phíđối với con em các hộ nghèo; đồng thời hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp nhận tuyển con em các hộ nghèo đào tạo và làm việc”. 5. Chính sách đầu tư kết cấu hạ tầng cho xã nghèo: Trước hết đầu tư cho 1.309 xã nghèo, chiếm 15% tổng số xã yếu kém nhất hoặc chưa có kết cấu hạ tầng, nhất lầ đường giao thông, điện, thủy lợi, nước sinh hoạt và y tế xã. Để xây dựng kết cấu hạ tầng cho số xã này, Nhà nước cần huy động các nguồn vốn khoảng 4.237,3 tỷ đồng; đầu tư tối thiểu cho 1 xã cũng phải mất 3,32 tỷ đồng. Tất nhiên không phải là đầu tư một lúc, nhưng cũng không thể kéo dài. Vì đầu tư kết cấu hạ tầng cho xã là điều quyết định trước tiên cho xóa đói, giảm nghèo. Nếu chúng ta kéo dài thời gian đầu tư cho vấn đề này, trên thực tế, người nghèo sẽ chậm tiếp cận được các điều kiện khác, và do đó không thể xóa đói, giảm nghèo được. - Cơ chế để tạo nguồn vốn xây dựng là: + Nhà nước và hợp tác quốc tế khoảng 50% + Nhân dân đóng góp khoảng 25%, chủ yếu là sức lao động, vật liệu tại chỗ. + Vốn vay từ các chương trình quốc gia khoảng 25%. - Ngoài ra, Nhà nước nên phát động các doanh ngiệp và những người có điều kiện nhận đỡ đầu, hoàn lại hoặc thu hồi dần các công trình hạ tầng trên ở những nơi có điều kiện. Nhà nước chỉ đầu tư vào nơi mà không thể thu hồi vốn được vì dân quá nghèo, quá xa. 6. Một số chính sách khác: - Các hộ nghèo đói cần được xem xét hoặc miễn thuế nông nghiệp, dịch vụ hàng năm cho họ. - Giảm miễn đóng góp có thời hạn về các phí ở địa phương, cơ sở, trên cơ sở Luật hóa các loại lệ phí, tránh tình trạng tự đặt ra các lệ phí tràn lan. - Tổ chức tiêu thụ sản phẩm, bán vật tư bằng giáở vùng đồng bằng, đô thị. 7. Chính sách về y tế và giáo dục: a) Về y tế: Hiện nay, Nhà nước đã có chính sách giảm một phần viện phí người nghèo, nhất là việc khám chữa bệnh cho họ, Thực tế ở một số địa phương, vận dụng hình thức khám chữa bệnh cho người được Ngân sách thanh toán theo thực tế bệnh án bằng chuyển khoản, không mua bảo hiểm. Ngoài ra cũng cần tạo ra các hình thức chữa bệnhnhân đạo cho người nghèo bởi các nhà chuyên môn hảo tâm, từ quỹ từ thiện bằng cả phương pháp Đông, tây y và phương pháp chữa bệnh truyền thống có hiệu quả và an toàn. Hỗ trợ các hộ nghèo về nước sinh hoạt. b) Về học phí và sách giáo khoa: Hiện nay ta đã miễn giảm hoc phí cho con em gia đình chính sách, dân tộc ít người và con em các hộ nghèo. Song việc hỗ trợ sách giáo khoa vẫn còn nhiều hạn chế, trong thời gian tới cần phải chú ý đến việc cho mượn, cấp với và sách giáo khoa cho con em hộ nghèo. 8. Một số giải pháp xã hội khác: a) Dân số và kế hoạch hóa gia đình: Để nâng chất lượng cuộc sống và chất lượng dân số, phải vận động và đầu tư hỗ trợ cho hộ nghèo các biện pháp y tế và đảm bảo sức khỏe trong sinh đẻ. Phải làm cho người nghèo nhận thức được hậu quả của việc sinh đẻ nhiều, cam kết chỉ đẻ hai con. Điều cơ bản nữa là có các giải pháp y tế thuận lợi và an toàn cho việc tránh nạo, phá thai. Đồng thời, sớm có quy định bảo hiểm xã hội cho nông dân và người lao đọng tự do để hạn chế đẻ nhiều con để nương nhờ tuổi già, đảm bảo công bằng xã hội. b) Bài trừ một số tệ nạn xã hội: Đảng và Nhà nước đã có những chỉ thị và Nghị quyết về bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng. Đây là cuộc vận động lớn tác động đến từng gia đình và toàn xã hội nhằm cơ bản đẩy lùi và hạn chế tối đa tệ nạn đánh bạc, số đề, nghiện hút, ma túy. Chính tệ nạn này đã làm cho nhiều gia đình rơi vào cảnh bần cùng nghèo đói và tái nghèo đói. Để thực hiện tốt cuộc vận động trên, trước hết phải làm cho mọi người hiểu tác hại của các tệ nạn này ảnh hưởng đến lối sống, nhân cánh và đặc biệt là về sự phá hoại kinh tế. Phải xóa bỏ các loại chủ chứa cờ bạc, tiêm chích ma túy, số đề. Đồng thời phải phát động phong trào đăng ký xây dựng gia đình văn hóa, xã không có tệ nạn xã hội. Những người sa vào tệ nạn xã hội phải bắt buộc chữa bệnh, cai nghiện, lao động phục hồi và hoàn lương cho họ. 9. Phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể: a) Nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp: Xóa đói, giảm nghèo là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là của chính quyền các cấp với vai trò pháp luật và chính sách hóa về các giải pháp về tổ chức toàn xã hội và chính người nghèo thực hiện xóa đói, giảm nghèo. Để biến chủ trương của Đảng, nguyện vọng của nhân dân thành chương trình hành động và thực hiện trong cuộc sống, trước hết phải làm cho mỗi cán bộ, mọi người dân có nhận thức đúng về chủ trương xóa đói, giảm nghèo; không đơn thuần rằng, đói nghèo nguyên nhân chỉ do người nghèo. Phải giác ngộ cho người nghèo về lối sống lao động, tiết kiệm và tránh tự ty, bi quan cho rằng, đói nghèo là do số phận. Từ đó mà xác định nhiẹm vụ xóa đói, giảm nghèo là trách nhiệm của từng cấp chính quyền, đặc biệt là của những người đứng đầu của mỗi cấp, mà trực tiếp là cấp xã, phường. Phải làm cho mỗi cán bộ của chính quyền sát dân, thấu hiểu và thông cảm với người nghèo. Phát huy mọi sáng kiến, tìm tòi mọi nguồn lực, tiết kiệm chi tiêu ngân sách để hỗ trợ cho người nghèo. Để xóa đói, giảm nghèo đến hộ, chính quyền xã phải tiến hành điều tra tìm cho được nguyên nhân nghèo đói của từng hộ và phải xây dựng kế hoạch, dự án dài hạn và ngắn hạn để tập trung mọi nguồn lực tại chỗ và tranh thue các nguồn hỗ trợ. Phải xác định được chỉ tiêu, biện pháp và phân công trách nhiệm cho các đoàn thể, chính quyền phụ trách đến từng hộ nhằm chuyển biến cơ bản, vững chắc về xóa đói và giảm tình trạng nghòe trong xã. Phải giáo dục và kiên quyết sử lý số cán bộ thiếu trách nhiệm với dân, gây phiền hà và tham nhũng. Phải thành lập Ban xóa đói, giảm nghèo với tinh thần xã hội hóa, phải công khai quỹ và cơ chế chính sách vay vốn, chăm sóc y tế, giáo dục và miễn giảm lệ phí cho hộ nghèo. b) Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của các đoàn thể về xóa đói, giảm nghèo: - Vận động, thuyết phục các hội viên tự nguyện tham gia phong trào bằng hành động cụ thể, thích hợp với tính chất của hội quần chúng và hội nghề nghiệp. - Động viên hội viên có kinh nghiệm hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao công nghệ đối với hộ nghèo. - Vận động mọi người tham gia đóng góp nguồn lực. - Tham gia tích cực trong Ban xóa đói, giảm nghèo. - Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương, cở sở. c) Để bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo : Các cấp Ủy Đảng cần có chủ trương, nghị quyết chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện ở các cấp, các nghành và toàn xã hội nhằm tạo phong trào rộng khắp và mạnh mẽ về xóa đói, giảm nghèo. Phần III : Kết luận Đói nghèo là hiện tượng xã hội có tính lịch sử và phổ biến đối với mọi quốc gia, dân tộc. Vào những năm cuối của thế kỷ XX, trên hành tinh chúng tavẫn còn hơn 1,5 tỷ người sống trong tình trạng đói nghèo. Đó là một trong những trở ngại trầm trọng nhất, một thách thức gay gắtđối với phát triển của thế giới hiện đại. Khắc phục hiện tượng nàyđang là mối lo toan thường xuyên của các quốc giaở mọi khu vực khác nhau trên trái đất . Nó cũng đòi hỏi cộng đồng quốc tế nâng cao hơn nữa những nỗ lựcchung của các chính phủ, thúc đẩy những hoạt động hợp tác phối hợp nhiều lĩnh vực, trước hết là lĩnh vực kinh tế- xã hội để cùng nhau giải quyết có hiệu quả vấn đề có tính toàn cầu này. Đối với nước ta, xóa đói giảm nghèo, hướng tới xã hội phồn thịnh về kinh tế, lành mạnh về xã hội, kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, là một vấn đề thời sự, bức súc hiện nay. Xóa đói , giảm nghèo, đặc biệt là xóa đói, giảm nghèo về kinh tế ở nông thôn đối với các hộ nông dân, các vùng và vệt nghèo là tiền đề kinh tế tối cần thiết để giữ vững ổn định chính trị và ổn định xã hội, đảm bảo cho công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được thực hiện và phát triển sâu rộng trong phạm vi cả nước và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, tự nó đã nói lên tính tất yếu của xóa đói giảm nghèo, tăng giàu trong cộng đồng dân cư ở nước ta. Phong trào xóa đói, giảm nghèo trong vài năm trở lại đây từ sự đi đầu của Thành phố Hồ chí Minh đã nhanh chóng trở thành một phong trào quần chúng có ý nghĩa kinh tế- xã hội sâu rông trong cả nước. Đảng ta đặc biệt quan tâm tới xóa đói, giảm nghèo không chỉ đối với cộng đồng dân cư nông dân, nông thôn và trong khu vực kinh tế nông nghiệp, mà còn đối với các cộng đồng dân cư đô thị và mọi vùng, mọi miền trong cả nước, nhấtlà đối với các vùng sâu, vùng xa, các cơ sở cách mạng, các đối tượng ưu tiên xã hội. Với đường lối đổi mới, chủ trương hội nhạp và mở cửa để phát triển, theo đà phát triển của kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường, cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và liên tục, thì hiện tượng đói nghèo, phân hóa giàu nghèo và phân tầng xã hội đã và đang diễn racó quan hệ trực tiếp và sâu xa tới chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và phát triển con người. Có thể nói không giải quyết thành công các nhiệm vụ và yêu cầu xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là xóa đói, giảm nghèo về kinh tế đối với nông dân, nông thôn, thì sẽ không chủ động giải quyết được xu hướng gia tăng ohân hóa giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hóa giai cấp, với hậu quả là sự bần cùng hóa. Và như vậy sẽ đe dọa ổn định chính trị và xã hội, làm chẹch định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế xã hội. Không giải quyết thành công các chưng trình xóa đói, giảm nghèo sẽ không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói chung. Như thế mục tiêu phát triển và phát triển bền vững cũng sẽ không thực hiện được. Không tập chung mọi nỗ lực, khả năng và điều kiện để xóa đói, giảm nghèo sẽ không thể tạo được tiền đề khai thác và phát triển nguồng lực con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm đưa nước ta tới trình độ phát triển tương xứng với quốc tế và khu vực, thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, lạc hậu. Suy đến cùng thì chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng là vì chiến lược phát triển con người, vì hạnh phúc của con người. Nói một cách khác, cụ thể và xác định hơn, đó là chiến lược con người, nguồn lực của mọi nguồn lực, hướng tới sự phát triển mức sống và chất lượng cuộc sống của người lao động. Xóa đói, giảm nghèo nhìn từ chiến lược phát triển đó, không chỉ có nội dung kinh tế, mà còn chứa đựng trong đó sự phong phú các vấn đề xã hội, có ý nghĩa xã hội, nhân văn và văn hóa sâu sắc. Để giải quyết một cách thực chất và vững chắc vấn đề đói nghèo, cần áp dụng đồng bộ và hệ thống các giải pháp kinh tế gắn liền với các giải pháp xã hội. Đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn của việc lồng ghép các chương trình, biện pháp và các nhóm giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở nước ta hiện nay. Thực hiện đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước, ở nước ta đã hình thành chương trình quốc gia về xóa đói, giảm nghèo, Ủy ban quốc gia chỉ đạo chương trình xóa đói, giảm nghèo từ trung ương tới các địa phương đã được thành lập. Nhiều hoạt động đã được triển khai theo đúng các quan điểm chỉ đạo và bằng mô hình lồng ghép Kinh tế- Xã hội - Văn hóa , Kỹ thuật- Công nghệ- Giáo dục… nêu trên. Đảng và Chính phủ cùng các nghành, các cấp, các cơ quan tham mưu, tư vấn đã súc tiến các chương trình, các dự án hỗ trợ phát triển cho người nghèo, cộng đồng quốc tế, các tổ chức xã hội trong và ngoài nước đã phối hợp và viện trợ nguồn lực hoặc các điều kiện tạo nguồn lực để đẩy nhanh các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở nước ta. Đói nghèo là vấn đề có tính xã hội, do đó mọi nỗ lực đầu tư của Nhà nước lấy từ kinh phí và ngân sách Nhà nước dù có tăng tiến bao nhiêu cũng không thể đáp ứng hết được yêu cầu to lớn của xóa đói, giảm nghèo trên quy mô toàn xã hội. Cũng do vậy cần thiết phải huy động vào phong trào quần chúng coa tính chất xã hội sâu rộng này sự tham gia đóng góp, sự hỗ trợ của mọi lực lượng, mọi tổ chức, mọi địa phương, mọi người, mọi nhà về vầt chất và tinh thần. Cũng rất cần phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ và hợp tác của cộng đồng quốc tế và khu vực mà nước ta đang có quan hệ ngày một rộng rãi hơn. Chỉ như vậy các chương trình, dự án tạo việc làm, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, hỗ trợ vốn, công nghệ, mở mang dân trí, cải thiện điều kiện ăn , ở, chăm sóc y tế, sức khỏe cộng đồng, tăng phúc lợi, bảo trợ giúp xã hội cho cộng đồng và xóa đói giảm nghèo mới có thể thực hiện thắng lợi. Trong giai đoạn tới, việc thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa chương trình xóa đói, giảm nghèo sẽ có tác dụng và ảnh hưởng rất to lớn, sâu sắc đối với sự phát triển có tính chất bước ngoặt của đất nước. Danh mục tài liệu tham khảo GS.TS Đỗ hoàng Toàn, PGS.TS Mai văn Bưu: Giáo trình Quản lý Nhà nước về kinh tế . NXB Lao động- Xã hội. Giáo trình chính sách Kinh tế xã hội. Khoa Khoa học Quản lý. NXB Khoa học kỹ thuật, HN, 2000. Phạm ngọc Côn: Đổi mới các chính sách kinh tế. NXB Nông nghiệp, HN, 1996. PGS.TS Lê du Phong, TS Hoàng văn Hoa: Kinh tế thị trường và sự phân hóa giàu nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía bắc nước ta hiện nay. Đại học Kinh tế quốc dân, Viện nghiên cứu Kinh tế và phát triển. Nguyễn thị Hồng: Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay. NXB Chính trị Quốc gia Jean Christophe Castella và Đặng quang Bình: Đổi mới ở vùng miền núi. NXB Nông nghiệp TSKH Lương Xuân Quỳ, GS.TS Lê Đình Thắng: Giá trị gia tăng hàng nông sản xuất khẩu của Việt nam. Đại học kinh tế quốc dân. NXB Đại học kinh té quốc dân. Chính sách đất đai cho tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo. Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới. NXB Văn hóa thông tin Dantri.com.vn Vnexpress.com.vn MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxDA125.docx
Tài liệu liên quan