Qui luật giá trị là qui luật căn bản của nền sản xuất hàng hoá, không phải là qui luật riêng có của chủ nghĩa tư bản. Ở đâu còn có hàng hoá và sản xuất hàng hoá thì qui luật giá trị nhất định còn tồn tại.
Qui luật giá trị không chỉ hạn chế tác dụng trong lưu thông mà còn cả đối với sản xuất, do đó mà mà nó tác động đến toàn xã hội(vì quan hệ sản xuất là quan hệ trung tâm ). Trong quá trình tác động đó, nó tạo ra mặt tích cực là thúc đẩy sản xuất phát triển nhưng cũng để lại không ít những hạn chế. Đối với nước ta, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường chưa được bao lâu thì việc nhận thức và vận dụng qui luật giá trị là hết sức quan trọng trong quá trình đẩy nhanh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1689 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Qui luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iá trị
Quy luật giá trị là trừu tượng. Nó thể hiện sự vận động thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá. Qua các giai đoạn phát triển của nền sản xuất hàng hoá mà giá cả có các biến tướng như là giá cả sản xuất (giai đoạn tự do cạnh tranh)và giá cả độc quyền (giai đoạn CNTB độc quyền). Trong nông nghiệp có đôi nét khác biệt so với công nghiệp và sự biểu hiện của quy luật giá trị cũng có đôi chút khác biệt
Giá cả
Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá trị. Những biến động về cung cầu luôn luôn đưa giá của một hàng hoá đến chỗ ngang với chi phí sản xuất ra hàng hoá đó. Giá cả thực tế cố nhiên có thể cao hơn hoặc thấp hơn chi phí sản xuất ra 1 hàng hoá, nhưng xét về tổng thể thì tổng giá cả luôn bằng tổng chi phí sản xuất. Có thể trong một trạng thái nhất định thì giá cả cao hơn hoặc thấp hơn giá trị nhưng xét về tổng thể thì những trạng thái này đổ đồng lại, bù trừ cho nhau, làm mất tác dụng và tiêu diệt lẫn nhau Những trạng thái đó – Như Mác nhận xét – tưởng chừng như khiếm khuyết của quy luật giá trị nhưng thực ra nó chỉ làm phong phú thêm các hình thức biểu hiện của quy luật giá trị và trở thành vẻ đẹp của quy luật giá trị. Như vậy, ta có thể thấy rằng cái quyết định giá cả chính là chi phí sản xuất, mà chi phí sản xuất thì đo bằng TGLĐXHCT để sản xuất ra hàng hoá đó thành thử giá trị là cái quyết định giá cả của hàng hoá. Nghiên cứu về điều này cho chúng ta rút ra một kết luận :
Cho dù sự biến động của cung cầu thế nào giá cả không bao giờ tách rời giá trị, sự vận động của giá cả là do quy luật giá trị chi phối và mỗi khi TGLĐXHCT tăng lên hay giảm xuống thì nó lại làm cho giá cả tăng lên hoặc giảm xuống
Giá cả sản xuất
Giá cả sản xuất là một biến tướng của giá trị xuất hiện trong thời kỳ CBTB tự do cạnh tranh.
Giá cả sản xuất = chi phí sản xuất + lợi nhuận bình quân (1)
Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. tỷ suất lợi nhuận bình quân hình thành là do kết quả của cạnh tranh giữa các ngành, tức lặ cạnh tranh giữa các nhà tư bản kinh doanh trong các ngành nghề sản xuất khác nhau nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Chính sự di chuyển tư bản từ nơi có lợi nhuận thấp vào đầu tư lĩnh vực có lợi nhuận cao đã làm hình thành lên một lợi nhuận bình quân giữa tất cả các ngành.
Điều kiện để giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có :
+ Đại công nghệ cơ khí TBCN
+ Sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất
+ Quan hệ tín dụng phát triển
+ Tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác
Nhìn vào công thức (1) ta thấy giá cả sản xuất phụ thuộc vào hai bộ phận đó là :
Một là, chi phí sản xuất, nhưng chi phí sản xuất thì đo bằng TGLĐXHCT, hay chính là giá trị của hàng hoá
Hai là, lợi nhuận bình quân, nhưng tổng giá trị hàng hoá thì quyết định tổng giá trị thặng dư và vì qui luật giá trị thặng dư lại quyết định mức lợi nhuận bình quân
Như vậy nhìn vào hai kết luận trên, trong cả hai trường hợp giá cả sản xuất đều phụ thuộc vào giá trị của hàng hoá, hay nói cách khác quy luật giá trị đã điều tiết giá cả sản xuất.
Giá cả độc quyền
Giá cả độc quyền là hình thức biểu hiện của giá trị hàng hoá trong giai đoạn độc quyền
Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + lợi nhuận độc quyền (2)
Lợi nhuận độc quyền = lợi nhuận bình quân+lợi nhuận siêu ngạch độc quyền(3)
Lợi nhuận độc quyền là một hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư hình thành trong giai đoạn độc quyền, nó có được không phải nhờ cải tiến khoa học kỹ thuật để rút ngắn TGLĐXHCT mà chủ yếu do địa vị thống trị độc quyền mà có. Nguồn gốc và cơ cấu của lợi nhuận độc quyền là:
+ giá trị thặng dư do người công nhân trong tổ chức độc quyền tạo ra
+ giá trị thặng dư công nhân ở ngoài tổ chức độc quyền tạo ra
+ một phần giá trị mới do người sản xuất nhỏ trong nước tạo ra
+ lợi nhuận do xuất khẩu tư bản sang các nước kém phát triển
+ lợi nhuận do lợi dụng việc quân sự hoá nền kinh tế, do gây chiến tranh
Về thực chất giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất và cao hơn giá trị của hàng hoá do độc quyền đó chi phối, nhưng điều đó làm cho giới hạn về sự quy định về giá trị hàng hoá bị thủ tiêu. Giá cả độc quyền của một loại hàng hoá nào đó chỉ là đem một phần lợi nhuận của nhà sản xuất hàng hoá khác chuyển cho hàng hoá có giá cả độc quyền ấy. Sự phân phối giá trị thặng dư giữa các nhành sản xuất khác nhau sẽ do đó mà bị rối loạn một cách có tính chất cục bộ nhưng không vì thế mà giới hạn về bản thân giá trị thặng dư bị biến đổi. Cuối cùng tổng giá cả độc quyền vẫn bằng tổng giá trị hàng hoá, sự lợi lộc của các nhà độc quyền lại bị bù trừ bởi sự mất đi của người công nhân và các nhà tư bản khác, hay nói quy luật giá trị đã chi phối giá cả độc quyền, giá cả độc quyền chỉ là sự thể hiện sinh động sự vận động của quy luật giá trị trong giai đoạn độc quyền.
Sự hoạt động của qui luật giá trị trong nông nghiệp
Trong các phần trên ta nghiên cứu thì giá cả sản xuất trong công nghiệp bị quyết định bởi điều kiện sản xuất trung bình. Trong nông nghiệp, nếu như vậy thì nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất xấu không thu được lợi nhuận bình quân, và do đó họ sẽ chuyển sang ngành nghề kinh doanh khác. Song, nếu chỉ kinh doanh trên ruộng đất tốt thì sẽ không đủ nông phẩm để phục vụ toàn xã hội. Vì lẽ trên mà trong nông nghiệp, giá cả nông sản do điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu qui định.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thường thấp hơn công nghiệp, điều này phản ánh rằng: nếu một trình độ bóc lột ngang nhau, với cùng một lượng tư bản bỏ ra thì trong nông nghiệp sẽ nhiều giá trị thặng dư hơn trong công nghiệp. Tuy nhiên vì sự độc quyền về tư hữu của ruộng đất, nên nó đã ngăn cản việc tự do di chuyển luồng tư bản vào nông nghiệp và do đó ngăn cản sự hình thành lợi nhuận bình quân chung trong nông nghiệp và trong công nghiệp. Bởi vậy trong nông nghiệp không bán sản phẩm theo giá cả sản xuất chung mà bán bằng giá trị của sản phẩm.
Một số quy luật liên quan đến quy luật giá trị
Quy luật lưu thông tiền tệ
Tiền tệ xuất hiện là kết qủa lâu dài và tất yếu của trao đổi hàng hoá. Khi tiền tệ xuất hiện thế giới hàng hoá được chia làm hai, một bên là hàng hoá thông thường; một bên là hàng hoá- tiền tệ. Tiền tệ có khả năng trao đổi trực tiếp với mọi hàng hoá khác, nó trở thành phương tiện biểu hiện giá trị của các hàng hoá khác.
Theo Mác thì, tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho các loại hàng hoá khác. Nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữu những người sản xuất hàng hoá.
ở dạng khái quát, nội dung của quy luật này là:
Trong đó :
M là lượng tiền phát hành cần thiết cho lưu thông
P là mức giá cả hàng hoá, dịch vụ
Q là khối lượng hàng hoá, dịch vụ đem ra lưu thông
V là vòng quay trung bình của đồng tiền cùng loại
ở dạng cụ thể, khi Các Mác xem xét công thức khái quát gắn với các chức năng thanh toán, gắn với tín dụng, công thức biểu diễn nội dung quy luật này là:
Trong đó:
là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ đem bán
là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ bán chịu
là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ khấu trừ cho nhau
tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ đến kỳ thanh toán
là vòng quay trung bình của tiền tệ cùng tên gọi.
Lượng tiền đưa và trong lưu thông là hết sức quan trọng, nó được phát hành theo hai nguyên tắc:
+ Tiền phát hành vào lưu thông phải được đảm bảo bằng khối lượng kim loại quý, tức là phải dự trữ một lượng vàng nhất định đẩm bảo giá trị cho số tiền giấy phát ra
+ Phát hành tiền đảm bảo bằng giá trị của hàng hoá, tức là phải có một
lượng hàng hoá tương ứng với số lượng tiền phát hành .
Nhìn vào nội dung của nó ta thấy rằng qui luật lưu thông tiền tệ chịu sự chi phối của qui luật giá trị.
Quy luật cạnh tranh
Cạnh tranh là hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
Như phân tích ở trên ta thấy rõ ràng rằng trao đổi hàng hoá dựa vào giá trị của hàng hoá, chính giá trị hàng hoá đã quyết định giá cả mua bán. Tuy nhiên giá trị hàng hoá lại được xác định bằng TGLĐXHCT, đó là thời gian cần để sản xuất ra hàng hoá trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, vì thế để bán được hàng hoá, hay nói cách khác là để xã hội chấp nhận được sản phẩm của mình thì người sản xuất phải có thời gian lao động cá biệt của mình nhỏ hơn hoặc bằng với TGLĐXHCT. Ban đầu những người sản xuất hàng hoá tuân theo tiếng gọi của lợi nhuận mà luôn tìm mọi cách để hạ thấp thời gian lao động các biệt của mình so với thời gian lao động xã hội, chính động cơ cá nhân riêng lẻ này đã làm cho thời gian lao động xã hội ngày càng thấp xuống; và lúc này không chỉ còn vì lợi nhuận nữa mà còn cả vì sinh tồn mà những người sản xuất buộc phải cạnh tranh với nhau để không làm cho thời gian lao động cá biệt của mình cao hơn thời gian lao động xã hội. Đến lúc này thì sự cạnh tranh không thể dừng được nữa, nó đã thành một guồng máy khách quan và chạy một cách không phụ thuộc vào ý chí của những người khởi động nó. Chỉ có những kẻ chạy theo nó mới không bị dẫm đạp còn những kẻ cưỡng lại hoặc không theo kịp thì lập tức bị đào thải.
Có hai loại cạnh tranh đó là cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh đó là dùng khoa học và công nghệ kết hợp với tài năng quản lý để có thể tiêu thụ hàng hoá một cách tốt nhất, kết quả của nó là không những nhà sản xuất có lợi mà cả xã hội cũng được lợi, còn cạnh tranh không lành mạnh là dùng những thủ đoạn, những biện pháp trái pháp luật và đạo đức xã hội để thu lợi. Hậu quả của nó là những nhà sản xuất khác và xã hội bị thiệt hại
Quy luật cạnh tranh có tác dụng tích cực là đào thải cái lạc hậu bình tuyển cái tiến bộ, cụ thể là :
giúp sử dụng nguồn lực một cách tối ưu
đẩy mạnh tích tụ và tập trung sản xuất
khuyến khích áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
thoả mãn các nhu cầu của người tiêu dùng
thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng năng suất lao động.
Tuy nhiên mặt trái là nó đẩy đến chỗ sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn và cuối cùng thì nhà tư bản càng phải kinh doanh tư bản của mình trong điều kiện ngày một khó khăn hơn.
Quy luật Cung Cầu
Cung là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người bán có khả năng và sẵn sàng bán ở mọi mức giá
Cầu là số lượng hàng hoá và dịch vụ mà người mua có khả năng và sẵn sàng mua
Với nền sản xuất hàng hoá, tức là sản xuất ra hàng hoá không phải để tiêu dùng nữa mà là để bán thì xuất hiện một mâu thuẫn đó là người bán thì muốn giá trị nhưng phải thực hiện giá trị sử dụng, còn người mua cần giá trị sử dụng thì lại cần giá trị. Từ khi xuất hiện thương nhân và tiền thì quá trình trao đổi càng trở nên thuận tiện, song số phận cuối cùng của sản phẩm thì không ai có thể biết được. Người mua và người bán thường ngày càng không hiểu rõ về nhau, hành động không ăn khớp với nhau. Điều này xuất phát từ ba nguyên nhân :
+ Một là, Tình trạng vô chính phủ trong sản xuất và lưu thông
+ Hai là, có rất nhiều người mua và người bán tham gia trên thị trường
+ Ba là, nhu cầu của con người là hết sức phong phú và đa dạng, thay đổi liên tục và khi ấy sản phẩm và sản xuất đều phó mặc cho ngẫu nhiên quyết định. Nhưng chính trong vô vàn cái ngẫu nhiên đó lại đang tồn tại cái tất yếu, sự vô trật tự lại là trật tự của tự nhiên- đó là quy luật Cung Cầu.
+ Khi Cung vượt quá Cầu, ngay lập tức sự dư thừa về hàng hoá xảy ra và lúc này những người bán cạnh tranh với nhau để tiêu thụ được hàng hoá, điều này làm cho gía cả hàng hoá có xu hướng giảm xuống. Kết quả là một, làm cho một số người bán không chịu nổi bị bật ra; hai, gía giảm làm tăng số người mua, tựu chung lại là làm cho Cầu tăng lên, cung giảm xuống và Cung Cầu tiến tới vị trí cân bằng
+ Khi Cung nhỏ hơn Cầu, sự thiếu hụt về hàng hoá xảy ra và lúc này những người mua lại cạnh tranh với nhau để mua được hàng hoá, điều này làm cho giá cả có xu hướng tăng lên. Kết quả là, một- một số người mua không chịu nổi giá cao đã bị bật ra khỏi cuộc cạnh tranh, hai – giá cao làm người bán sản xuất nhiều hơn và nhiều người bán tham gia vào hơn, tựu chung lại là làm cho Cung tăng lên và Cầu giảm xuống và Cung Cầu lại tiến tới vị trí cân bằng
+ Khi Cung và Cầu cân bằng với nhau, lúc này hàng hoá ở trạng thái cân bằng và giá cả hàng hoá có xu hướng ổn định; khi đó giá cả phản ánh đúng gía trị của hàng hoá.
Như đã phân tích ở trên vì người bán không hề biết rằng người mua cần bao nhiêu hàng hoá và người mua lại không hề biết người bán bán bao nhiêu hàng hoá, do đó mà trước nay Cung và Cầu luôn có xung hướng cân bằng mà không đạt được trạng thái cân bằng. Nếu có, sự cân bằng đó cũng chỉ có tính chất thoảng qua và ngẫu nhiên mà không bền vững, điều này giải thích cho tại sao giá cả thường xuyên chỉ xoay quanh giá trị mà ít khi phù hợp với giá trị. Do đó, ta thấy rõ ràng rằng cung cầu chỉ ảnh hưởng tới giá cả, ngược lại giá cả không những biểu diễn quan hệ cung cầu mà còn quyết định cả quan hệ cung cầu. Hiểu được điều này không những góp phần giải thích rõ thêm về qui luật giá trị mà còn có ý nghĩa phê phán quan điểm không đúng đắn coi rằng chính quan hệ cung cầu đã quyết định giá cả hàng hoá chứ không phải là giá trị; coi qui luật Cung Cầu là một qui luật tuyệt diệu của nền kinh tế thị trường mà phủ nhận qui luật giá trị.
Tác dụng của qui luật giá trị
Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
Trong sản xuất qui luật gía trị có tác dụng điều tiết sự phân phối giữ tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất hàng hoá thông qua giá cả. Do quan hệ cung cầu chi phối mà giá cả không những chỉ biểu diễn sự biến động của quan hệ cung cầu mà còn có tác dụng điều tiết ngược lại quan hệ cung cầu. Nếu có ngành nào đó cung không đáp ứng được cầu thì giá cả hàng hoá sẽ lên cao, việc đó dẫn đến tình trạng một khối lượng tư bản sẽ được thu hút đầu tư vào ngành đó để thu được nhiều lợi nhuận, kết quả là sản xuất được mở rộng, khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động gia tăng. Ngược lại, nếu có ngành nào đó cung vượt quá cầu hàng hoá bị dư thừa, làm cho giá cả hàng hoá hạ xuống thì sẽ có một khối lượng tư bản được rút ra để đầu tư vào ngành nào đó có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Nhờ vậy tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối một cách tự phát vào các ngành sản xuất khác nhau giúp cho quá trình sản xuất giữ được trạng thái cân bằng giữa các ngành.
Trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, qui luật giá trị có tác dụng như là một dòng chảy tự nhiên đưa hàng hoá từ nơi có giá cả cao tới nơi có giá cả thấp. Tại vùng hoặc khu vực nào có giá cả cao tức là thể hiện hai nét :
+ một là, nơi đó cung ít hơn cầu
+ hai là, giá cả đang được bán cao hơn giá trị và lợi nhuận thu được sẽ lớn.
Như vậy sẽ có những nhà tư bản mang sản phẩm của mình tới đó để bán nhằm thu được lợi nhuận cao. Điều đó làm cho cung hàng hoá tăng lên và theo qui luật làm cho giá cả của hàng hoá hạ xuống, kết quả là giá cả của các vùng có xu hướng cân bằng với nhau, không có nơi nào giá cả qúa cao và quá thấp.
Tuy nhiên do tình trạng vô chính phủ trong sản xuất và lưu thông hàng hoá trong xã hội hiện thời mà trạng thái cân bằng trên đạt được (cũng như sự đạt được cân bằng của Cung Cầu) chỉ mang tính chất thoáng qua và ngẫu nhiên. Trạng thái cơ bản là không cân bằng. Suy nghĩ lý tính chỉ ra cho nhà tư bản rằng chỉ nên sản xuất vừa đủ thôi, nhưng thực tiễn thì không như thế, sự ham muốn về lợi nhuận quá mức của các nhà tư bản riêng lẻ cộng với sự thiếu quản lý chung trong sản xuất luôn dẫn tới tới tình trạng mất cân đối. Điều này được chứng minh bởi những cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ của nền kinh tế TBCN, đó là những cuộc khủng hoảng thừa cứ diễn ra đều đặn mà không sao khắc phục nổi.
Kích thích lực lượng sản xuất phát triển
Qui luật giá trị và qui luật cạnh tranh chỉ ra rằng để sống sót trong điều kiện kinh doanh ngày càng khắc nghiệt và có lãi thì nhà tư bản phải không ngừng đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất lao động, cố gắng để thời gian lao động cá biệt của mình thấp hơn thời gian lao động xã hội. Do đó trong những nhà tư bản luôn có sự thi đua về mọi mặt để tăng thêm sự phân công lao động và máy móc hiện đại. Nhà tư bản nào có năng suất lao động càng cao thì càng thu được nhiều lợi nhuận hơn so với người khác. Nhưng đặc quyền của nhà tư bản không được lâu vì sớm hay muộn gì thì những nhà tư bản khác cũng đạt được năng suất lao động như thế hoặc lớn hơn và việc cải tiến như vậy trở thành phổ biến cho đến lúc mà giá cả hạ xuống không những dưới chi phí sản xuất của hàng hoá trước kia mà còn dưới cả chi phi sản xuất mới để tạo ra hàng hoá đó. Cứ như thế ta thấy cách thức sản xuất và tư liệu sản xuất luôn luôn bị biến đổi, sự phân công lao động ngày càng trở lên tỉ mỉ hơn, máy móc thì ngày càng được áp dụng với quy mô lớn hơn và hiện đại hơn.
Qui luật giá trị luôn luôn hất sản xuất tư sản ra khỏi con đường cũ và luôn luôn buộc tư bản làm cho sức sản xuất của lao động khẩn trương thêm vì trước đó đã làm cho sức sản xuất trở thành khẩn trương. Đó là qui luật không cho nhà tư bản nghỉ ngơi một chút nào và luôn rỉ tai vào nhà tư bản: “tiến lên! tiến lên nữa đi!”(1)
Kết quả là nhờ những mưu toan thu lợi cá nhân trong cuộc chạy đua về lợi nhuận giữa các nhà tư bản mà làm cho lực lượng sản xuất được lớn mạnh không ngừng, tạo ra những tiến bộ vượt bực về khoa học kỹ thuật, Hàng hoá được tuôn ra ào ạt với khối lượng lớn hơn nhiều lần truớc đó đã tạo ra.
Thực tiễn đã chứng minh, ngày nay khoa học công nghệ đã thay đổi chóng mặt. Trước kia tuổi thọ một công nghệ khoảng chừng 20 năm thì nay được rút ngắn lại chỉ còn 5 tới 10 năm, cả thế giới đang bước vào nền kinh tế tri thức trong đó chất xám (con người) đóng vai trò quan trọng và chủ yếu. Nhiều máy móc tinh vi và hiện đại đời như máy tính điện tử đã làm thay đổi cả cuộc sống của con người. Sự phát triển đó kéo theo hàng loạt các sự phát triển khác làm cho công cụ sản xuất có những tiến bộ vượt bậc
Thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá giàu nghèo
Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị và lợi nhuận luôn xác định ra rõ ràng về hai phía của chiến tuyến- những người thắng trận và những người bại trận. Những người nhờ vào sự thông minh và khéo léo hơn, tháo vát và có sức lực sẽ làm tốt,làm giỏi có hao phí cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ thu được nhiều lợi nhuận. Họ sẽ đánh bật những đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường, cũng nhờ việc thu nhiều lợi nhuận mà họ lại có thêm tư bản để mua sắm thêm tư liệu sản xuất, đổi mới máy móc và cải tiến kỹ thuật, mở rộng quy mô, do đó mà sự tập trung và tích luỹ ngày càng gia tăng họ trở lên giàu có. Ngược lại những người yếu ớt và vụng về hơn hoặc vì gặp những rủi ro trong kinh doanh thì không cạnh tranh được, họ bị thua lỗ, thậm chí phá sản và bị hất cẳng khỏi thị truờng. Lúc này trong tay họ lại không có tư liệu sản xuất, để duy trì cuộc sống họ buộc phải bán sức lao động của mình, số phận họ lại trở thành những người lao động làm thuê thay cho là ông chủ.
(1) : Cac Mac, Lao động làm công và tư bản, C.Mac- F. Ăng ghen tuyển tập, tập 1, Nhà xuất bản sự thật, 1992.
Về phương diện tự nhiên, qui luật giá trị có ý nghĩa bình tuyển, xếp hạng người sản xuất. Người nào thành công sẽ được hưởng những phần thưởng xứng đáng còn những người thất bại sẽ phải chịu những hình phạt, về điểm này qui luật giá trị đã mang lại sự bình đẳng với những người sản xuất, giúp cho quá trình sản xuất ngày càng được nâng cao và phát triển.
Về phương diện xã hội, qui luật giá trị đã phân chia xã hội thành những người giàu và kẻ nghèo. Mỗi sự cạnh tranh hôm nay là chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh khốc liệt và mạnh mẽ hơn của ngày mai, và khi nào qui luật giá trị còn phát huy tác dụng của nó, các cuộc cạnh tranh còn diễn ra thì xã hội còn bị phân hoá giàu nghèo. Cạnh tranh càng sâu sắc hơn thì sự phân hoá giàu nghèo càng diễn ra rõ nét hơn. Lịch sử của sản xuất hàng hoá từ giản đơn cho đến phát triển như ngày hôm nay đã đang và sẽ chứng minh điều đó. Quan hệ chủ nô - nô lệ; quan hệ địa chủ – nông nô; quan hệ chủ – thợ , quan hệ tư sản – vô sản luôn là những qua hệ trái ngược và đối kháng nhau về lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đó tất yếu sẽ dẫn đến những mâu thuẫn về mặt xã hội, dẫn đến cuộc đấu tranh của những người nghèo chống lại kẻ giàu. Điều này xuất hiện như một hiện tượng tự nhiên, đó là khuyết tật cố hữu và thuộc về bản chất của nền sản xuất hàng hoá, nền kinh tế thị trường.
Qui luật giá trị mang lại sự phát triển nhưng không loại trừ được sự mâu thuẫn, mang lại sự giàu có nhưng không xoá bỏ được sự nghèo nàn. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá thì vẫn còn điều kiện cho sự tồn tại của qui luật giá trị. Hiểu được điều đó giúp chúng ta biết được phải thừa nhận qui luật giá trị như sự tồn tại khách quan, có những biện pháp phát huy vai trò tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2 : Vai trò của qui luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở nước ta và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của qui luật giá trị trong thời gian tới.
Vai trò của qui luật giá trị đối với nền kinh tế trước thời kỳ đổi mới
Để có được cái nhìn tổng thể về vai trò của qui luật giá trị đã tác động đến nền kinh tế như thế nào không thể không xem xét đến nền tảng kinh tế đang duy trì sự tồn tại của nó là gì. Bỏ qua mất điều ấy chúng ta không thể hiểu được vai trò của qui luật giá trị được thể hiện hay không thể hiện, và nếu được phát huy tác dụng thì nó có tác dụng đến đâu, từ đó ta không thể nào hiểu chính xác và có những biện pháp vận dụng qui luật giá trị một cách phù hợp. ở Việt Nam khi nghiên cứu về nền kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta cũng cần có sự nhìn nhận và đánh giá lại nền kinh tế tập trung trước kia để hiểu rõ thêm về sự cần thiết phải chuyển sang nền kinh tế thị trường và khẳng định thêm về con đường đúng đắn đó. Lịch sử không chỉ là những gì đã qua mà nó hàm chứa trong đó những bài học cần thiết và những yếu tố làm nền tảng của hiện tại và tương lai. Nghiên cứu lại lịch sử giúp cho chúng ta thấy con đường đi của tương lai và biết được con đường đi cho hiện tại.
Trước năm 1986, nước ta duy trì cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp có đặc trưng:
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, tất cả nền kinh tế được kế hoạch hoá và trung ương giao chỉ tiêu pháp lệnh đến cho các địa phương.
Các cơ quan hành chính- kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình
Bỏ qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả của nền kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng phương thức cấp phát và giao nộp. Nó được thể hiện là nhà nước bao cấp giá, bao tiêu sản phẩm, bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách nhà nước, mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn
Trong điều kiện như thế, qui luật giá trị đã không thể phát huy được tác dụng của mình, sự tồn tại của qui luật giá trị chỉ như một chiếc bóng lờ mờ trước một nền kinh tế không căn cứ vào giá trị của hàng hoá mà dựa vào chỉ tiêu pháp lệnh. Các doanh nghiệp được bao tiêu sản phẩm do đó mà không có sự cạnh tranh, cả nước sản xuất và phân phối theo kế hoạch cứng định trước nên thiếu sự năng động. Thị trường không được coi trọng do đó mà các quan hệ cung cầu bị thủ tiêu. Nền kinh tế hết sức kém phát triển.
Vai trò của qui luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta sau thời kỳ đổi mới
Thực hiện sự đổi mới.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc phải đưa nền kinh tế thoát ra khỏi sự lạc hậu và nghèo đói, Đại hội Đảng toàn quốc họp năm 1986 đã ra nghị quyết về sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của nước ta, đó là xoá bỏ cơ chế bao cấp chuyển dần sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên phải tới năm 1991, sau khi đã thực hiện một số thí điểm thành công, Đại hội Đảng toàn quốc lần VII thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì mới có sự chuyển biến thực sự mạnh mẽ.
Năm 1992, bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới ra đời đã thể chế hoá tư tưởng trên thành qui định tại điều 15 “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời nền kinh tế thị trường ở nước ta. Hiến pháp 1992 cũng ghi nhận nguyên tắc Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, từng bước mở của thực hiện hội nhập hoá nền kinh tế Việt Nam. Sự đổi mới đó đã như một luồng gió mới thổi vào nền kinh tế khô cằn của nước ta tạo nên những chuyển biến rõ rệt.
Từ đó cho tới nay mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã dần định hình với những đặc điểm:
Nền kinh tế trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính tự cấp, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường.
Nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các thành phần kinh tế đều bình đẳng, trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua bản chất và vai trò quản lý của nhà nước.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của CNXH.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn và trí tuệ vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội; tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Vai trò của qui luật giá trị đối với nền kinh tế nước ta.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ra đời đã tạo
những điều kiện cần thiết và đầy đủ để qui luật giá trị phát huy tác dụng của nó.
Ngược lại tác dụng của qui luật giá trị đống một vai trò hết sức to lớn trong việc củng cố và phát triển kinh tế thị trường. Từ một nền kinh tế lạc hậu, hàng hoá khan hiếm, kỹ thuật công nghệ lạc hậu thì nay đã trở thành một nền kinh tế có sức cạnh tranh, năng động và coi trọng khoa học công nghệ đó là nhờ những đóng góp to lớn mà qui luật giá trị đã mang lại cho sự phát triển nhanh chóng đó. Điều này được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất,về mặt tích cực
Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Sau 18 năm đổi mới lực lượng sản xuất ở nước ta đã có những sự tiến bộ rõ rệt. Đối với nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động mua bán và trao đổi đều được diễn ra ở thị trường theo nguyên tắc ngang giá, tức là trao đổi dụa vào thời gian lao động xã hội cần thiết để tạo nên sản phẩm. Khác với trước kia nhà nước không bao tiêu sản phẩm nữa, để không bị đào thải thì các doanh nghiệp phải ra sức tăng năng suất lao động, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, đổi mới máy móc và công nghệ theo hướng hiện đại hoá. Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế có tác dụng thu hút tất cả các thành viên trong xã hội tham gia vào lao động giúp cho sản lượng hàng hoá tăng nhanh chóng. Điều đó được thể hiện ở một số điểm sau:
Nhờ hoạt động chuyển giao công nghệ và những sáng kiến cải tiến kỹ thuật để tăng năng suất lao động mà công cụ lao động ở nước ta ngày một hiện đại, có một số ngành đã có những máy móc thiết bị ngang tầm khu vực và thế giới.
Trình độ tay nghề và học vấn của người công nhân được nâng cao. Số công nhân có trình độ trung học và cao đẳng, đại học ngày càng tăng; công nhân ngày nay có khả năng nắm bắt được các công nghệ hiện đại.
Khoa học kỹ thuật đang trở thành một lực lượng sản xuất chủ yếu. Hàm lượng “chất xám” chức đựng trong sản phẩm ngày một tăng. Đội các nhà khoa học tham gia và sản xuất ngày một đông
Với sự phát triển của lực lượng sản xuất như thế, nền kinh tế đã có bước tiến lên mạnh mẽ. Nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm bình quân 6,7%/năm, tổng quỹ tích luỹ tăng bình quân hàng năm gần 10%/năm. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP từ 17,2% năm 1995 tăng lên 25% năm 2000. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân 5%/năm trong đó giá trị sản xuất nông nghiệp trên một dơn vị đất nông nghiệp tăng từ 13,5 triệu đồng/ha năm 1995 lên 17,5 triệu đồng/ ha năm 2000, sản lượng thịt hơi các loại năm 2000 ước trên 1,7 triệu tấn bằng 1,3 lần so với năm 1995. Nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản khá, sản lượng năm 2000 đạt 1,9 triệu tấn vượt mức kế hoạch đề ra. Trong công nghiệp cũng đạt được những thành tựu đáng kể, nhịp độ tăng giá trị sản xuất bình quân 12,2%/năm, sản lượng dầu thô tăng 2,2 lần; điện tăng 1,8 lần; than sạch vượt ngưỡng 10 triệu tấn; thép cán gấp hơn 3 lần; ximăng gấp 2 lần…. Các ngành dịch vụ cũng có sự thay đổi rõ nét, giá trị dịch vụ tăng bình quân 6,4%/năm (số liệu của năm 2000 so với năm 1995)(1) . Tất cả các con số trên đã chứng tỏ lực lượng sản xuất đã phát triển một cách nhanh chóng và năng suất lao động được nâng cao.
Nâng cao sự cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra sự năng động cho kinh tế Việt Nam
Qui luật giá trị chỉ ra rằng muốn tồn tại và thu được lợi nhuận thì các doanh nghiệp phải có thời gian lao động cá biệt của mình nhỏ hơn thời gian thời gian lao động xã hội cần thiết, mà thời gian lao động xã hội cần thiết chính là thời gian phổ biến của những người sản xuất để sản xuất ra một hàng hoá cùng loại. Như vậy để thu được lợi nhuận thì người sản xuất luôn phải tìm cách chiến thắng đa số những
người sản xuất khác vì thế mà xảy ra cạnh tranh. ở nước ta từ khi nền kinh tế thị trường ra đời, tình trạng cũng xảy ra như thế. Với sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế đã có sự cạnh tranh mạnh mẽ, cạnh tranh của những thành phần kinh tế với nhau, cạnh tranh giữa nội bộ các doanh nghiệp trong một thành phần kinh tế thậm chí cong có cả cạnh tranh giữa những người mua với nhau để được hàng hoá chất lượng tốt và giá rẻ hoặc như phương thức đấu thầu. Sự cạnh tranh đó ngoài việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển như đã phân tích ở phần trên, còn làm cho thoả mãn người tiêu dùng. Ngày nay nguyên tắc “khách hàng là thượng đế ” là nguyên tắc phổ biến cho mọi người bán. Doanh nghiệp bằng mọi phương thức như quảng cáo, tiếp thị, xúc tiến bán… tìm đến khác hàng và thoả mãn khách hàng nhằm mục đích tiêu thụ hàng hóa của mình đã tạo ra sự năng động trong nền kinh tế. Chất lượng hàng hoá và dịch vụ ngày một được nâng cao, phong phú về chủng loại, kiểu dáng và hình thức hết sức đa dạng phù hợp với từng loại khách hàng. Tư duy và hoạt động của từng cá nhân cũng như cả xã hội cũng có sự thay đổi lớn. Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã giải phóng sức sản xuất cho toàn thể xã hội, nguồn nội lực tiềm tàng trong nhân dân bấy lâu nay ngủ yên nay được đánh thức trỗi dậy, cả nước thi đua làm kinh tế. Trước nền kinh tế thị trường dường như ai cũng thông minh hơn, nhanh nhẹn hơn và hiểu biết thông tin nhiều hơn. Xã hội đang hình thành lối sống công nghiệp- kỷ luật và năng động thay cho lối sống nông nghiệp bảo thủ và trì trệ trước kia. Sự cạnh tranh và ganh đua trở thành điều bình thường, hơn lúc nào hết tinh thần làm giàu và khuyến khích làm giàu một cách chính đáng lại đựoc coi trọng như hiện nay.
Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu nền kinh tế cảu một nước được hiểu là tổng thể các quan hệ kinh tế hay các bộ phận hợp thành của nền kinh tế; gắn liền với trình độ kỹ thuật công nghệ, qyu mô, tỷ trọng tương ứng với từng bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận; gắn liền với điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế đã đặt ra.
Vì tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng cao đi kèm với nó là mức sống đi lên mà qui luật giá trị làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế, cụ thể là:
tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và số lao động tuyệt đối trong công nghiệp tăng lên
tỷ trọng và số tuyệt đối lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thê so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội
tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất tăng nhanh hơn tốc độ tốc độ lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
Xã hội hoá kinh tế và hội nhập kinh tế đã hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý về nghành cũng như trên địa bàn lãnh thổ, giải quyết mối quan hệ về lơi ích phát triển giữa toàn cục với bộ phận , đầu tư có trọng điểm ở từng thời kỳ và gắn với thị trường
thế giới.
Về cơ cấu ngành kinh tế, qua thời gian đổi mới đã có những chuyển biến đáng
khích lệ: năm 1990 so với năm 2000, tỷ trọng trong GDP nông nghiệp từ 38,7%
giảm xuống 25%, công nghiệp tăng từ 22,7% lên 34,5%, dịch vụ tăng 38,6 lên
40,5%. Nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá phấn đấu đến năm 2010 tỷ trọng GDP của nông nghiệp từ 16%
đến 17%, công nghiệp từ 40% đến 41%, dịch vụ 42% đến 43%. Tỷ lệ lao động trong
nông nghiệp còn khoản 50%. Tỷ lệ dân cư đô thị khoảng 32% đến 33%, đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp.
Về cơ cấu vùng kinh tế, nước ta đã có nhiều các khu công nghiệp tập trung sản
xuất các hàng hoá và dịch vụ gắn liền với các vùng có thế mạnh về nguyên vật liệu
hoặc các vùng có điều kiện thuận lợi. Mỗi khu vực Bắc–Trung–Nam đều có những
tam giác trọng điểm phát triển kinh tế làm đầu tầu cho sự phát triển của cả vùng.
Đặc biệt trong những năm gần đây kinh té biển phát triển mạnh, nghề nuôi trồng và
đánh bắt thuỷ sản đã thu kết quả đáng khích lệ; khai thác và chế biến dầu mỏ; du
lịch và dịch vụ trên biển đóng góp một phần quan trọng trong tổng thu nhập quốc
dân.
Trong những năm tới Chính phủ chủ trương tiếp tục phát triển các vùng động lực
có mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn, bền vững về kết cấu hạ tầng, môi trường. Đồng
thời phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng, liên kết
với các vùng động lực tạo mức tăng trưởng khá. Đặc biệt quan tâm phát triển kinh tế
ở các vùng biên giới. Có chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng khó khăn phát
triển kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí xoá đói giảm nghèo… giúp
các vung này vượt qua tình trạng chậm phát triển và thu hẹp khoảng cách giữa các
vùng.
Thúc đẩy quá trình mở cửa giao lưu với nền kinh tế quốc tế
Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, siêu lợi nhuận . Sự đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài ngày càng phát triển, hay nói cách khác là thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế.
Mỗi nước đều có những ưu thế, lợi thế riêng. Do thời gian và trình độ xuất phát điểm của nền kinh tế khác nhau nên khi nước này cần vốn thì nước kia lại thừa.Do tốc độ phát triển khác nhau nên khi nước này phát triển thì nước kia lại quá lạc hậu ; do sự phân bố tài nguyên khác nhau nên nước này có điều kiện sản xuất cái này, nước kia có điều kiện sản xuất cái kia và tạo ra một lợi thế so sánh trên thương trường. Điều này thúc đẩy sự chuyên môn hoá, hiệp tác hoá sản xuất để có chi phí sản xuất thấp và tuân theo sự điều tiết của quy luật giá trị , chi phí sản xuất thấp sẽ làm cho giá cả thấp, và do đó thắng trên thương trường.
Hiện nay xu thế toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập hoá là xu thế tất yếu khách quan, nó là hậu quả của tác dụng lâu dài do qui luật giá trị gây lên. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì tính xã hội hoá của nó càng cao, sự phân công lao động càng chi tiết thì nhu cầu hợp tác càng gia tăng đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến toàn cầu hoá nền kinh tế. Đi đôi với toàn cầu hoá kinh tế thì xu thế hội nhập hoá là xu thế không thể tránh khỏi, vì mỗi quốc nếu không muốn rơi vào tình trạng cô lập và tách riêng ra khỏi sự phát triển của toàn thế giới thì phải hội nhập. Ngoài ra còn do kết quả lâu dài của qui luật cạnh tranh đã hình thành lên những công ty đa quốc gia khổng lồ hoạt động với phạm vi trên toàn thế giới, nhưng hoạt động của chúng luôn bị cản trở bởi tính lãnh thổ của mỗi quốc gia. Thị trường mỗi quốc gia vốn là một bộ phận của thị trường thế giới, nhưng do tính chất về chủ quyền lẫnh thổ mà lại có tính độc lập tương đối so với thị trường quốc tế, vì thế để xoá bỏ cản trở này các công ty này cũng có tác động không nhỏ tới xu thế toàn cầu hoá hiện nay.
Nhận thức được điều trên, Đảng và Nhà nước đã đề ra chủ trương cần phải từng bước hội nhập với quốc tế theo nguyên tắc :”Tôn trọng độc lập chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, Bình đảng và các bên cùng có lợi ”. Trải qua hơn một thập kỷ nước ta đã thu được một số thành quả như:
+ Về tiến trình hội nhập: Năm 1993 nước ta khai thông qan hệ với tổ chức tài chính quốc tế như IWF, WB, IMF; tháng 12/1994 ta đã viết đơn xin gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO và đã trải qua hơn 30 vòng đàm phán; Tháng 7/1995 nước ta chính thức gia nhập ASEAN và tham gia thị trường chung AFTA; Tháng 3/1996 nước ta tham gia với tư cách là thành viên sáng lập của diễn đàn hợp tác á- âu(aSEM); Năm 1998 chúng ta đã là thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái bình dương(APEC).
+ Về hoạt động xuất nhập khẩu, nhờ hội nhập ta được hưởng những ưu đãi về thuế quan nên thị trường được mở rộng. Hiện nay nước ta thiết lập với khoảng 180 nước. Năm 1990 kim ngạch xuất khẩu đạt 2,404 tỷ USD, nhập khẩu đạt 2,752 tỷ USD thì năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 15 tỷ USD, trong cơ cấu xuất khẩu cũng có sự chuyển biến tích cực theo hướng đa dạng hoá các mặt hàng, tăng dần những hàng hoá đã qua chế biến.
+ Trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài tính đến tháng 9/ 1999 chúng ta thu hút 35,9 tỷ USD vốn FDI của hơn 70 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, cùng vơí FDI chúng ta cong tiếp nhận một lượng không nhỏ nguồn vốn ODA. Tổng mức vốn này chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư của xã hội, tỷ lệ đóng góp vào GDP năm 1993 đạt 3,6% đén năm 1998 đạt 9%.
+ Cùng với việc mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp nước ta cũng đã mạnh dạn tham gia đầu tư ra nước ngoài kể cả các nước phát triển như Mỹ và Nhật, đồng thời đưa hơn 7 vạn lao động ra nước ngoài làm việc.
Thứ hai, về hạn chế
Những tác động tích cực nêu trên như một luồng gió mới thổi vào nền kinh tế Việt Nam nhưng ngọn gió đó cũng để lại cho chúng ta nhiều hạt bụi. Sự phân cách giàu nghèo ngày một gia tăng, đi kèm với nó là sự phân hoá về các loại hàng hoá và dịch vụ và sự phân biệt đối xử giữa người giàu và người nghèo.Tốc độ phát triển giữa thành thị và nông thôn ngày một cách xa, mức sống của thành thị được tăng lên rõ rệt, được hưởng lợi nhiều từ các dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, giao thông..nhưng ở nông thôn và đặc biệt là miền núi không được cải thiện là bao.Vì chạy theo mục tiêu lợi nhuận và lấy lợi nhuận làm đầu trong những Doanh nghiệp đó đây đã có sự chà đạp lên người lao động, gây ra nhiều bức xúc trong dư luận. Các ngành sản xuất thủ công truyền thống có nguy cơ bị mai một. Nhà nước trong những năm đầu đổi mới chưa có kinh nghiệm quản lý, còn các doanh nghiệp chưa ý thức đầy đủ về tác dụng vủa môi trường nên khai thác tài nguyên một cách bừa bãi, thải nhiều chất thải công nghiệp làm ô nhiễm môi trường. Qúa trình mở cửa và hội nhập hoá kinh tế dẫn đến hội nhập hoá về văn hoá, có nhiều lối sống không lành mạnh du nhập vào nước ta có xu hướng làm băng hoại những truyền tốt đẹp lâu đời. trong quá trình phát triển nhà nước cũng cần phải xây dựng những chính sách để khắc phục những hạn chế này do qui luật giá trị gây ra.
Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của qui luật giá trị ở nước ta trong thời gian tới.
Tích cực áp dụng các biện pháp nâng cao năng suất lao động
Nâng cao năng suất lao động là tác dụng và vai trò lớn nhất của qui luật giá trị. Năng suất lao động được hiểu là số lượng hàng hoá dịch vụ mà người sản xuất làm ra trong 1 khoảng thời gian nhất định; nâng cao năng suất lao động cũng có nghĩa là làm giảm được TGLĐXHCT và qua đó làm hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng suất lao động cũng có nghĩa trong cùng một khoảng thời gian khối lượng hàng hoá dịch vụ được tăng lên, điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao đời sống của nhân dân.
Năng suất lao động phụ thuộc vào 4 yếu tố là tư bản, vốn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và tri thức công nghệ. Để nâng cao năng suất lao động thì phải tác động một cách mạnh mẽ vào các yếu tố này để cho nó phát triển.
Thứ nhất, với tư bản hay là vốn đầu tư vào sản xuất, đây là yếu tố đầu tiên để có được quá trình sản xuất. Huy động vốn ở đâu như thế nào là một điều đáng phải bàn nhất là đối với nước ta từ một nền nông nghiệp nghèo nàn như nước ta. Để có được số tư bản cần thiết cho quá trình phát triển chúng ta cần phải thực hiện tốt các biện pháp:
phát huy tối đa nguồn vốn nội lực sẵn có bằng cách tạo lập một môi trường kinh doanh thông thoáng, bảo vệ tốt quyền lợi của các doanh nghiệp, bên cạnh đó là có chính sách khuyến khích người dân tiết kiệm tăng cường cho đầu tư. Đây phải được xem là nguồn lực cơ bản và lâu dài dành cho phát triển đất nước
Xây dựng chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) và sử dụng hiệu quả nguồn vốn phát triển chính thức(ODA), ngoài ra phải tìm được những nguồn vốn vay khi cần thiết. Tạo lập một khung pháp lý bình đẳng không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Xây dựng chính sách tài chính- tiền tệ hợp lý và khoa học, hình thành và phát triển thị trường tài chính, đảm bảo việc công khai hoá thông tin đi đôi với xây dựng một hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các trung gian tài chính phát triển
Thứ hai, về vốn nhân lực(nguồn lực con người). Vốn nhân lực là thuật ngữ dùng để chỉ kiến thức và kỹ năng mà người công nhân thu được thông qua giáo dục, đào tạo và tích luỹ kinh nghiệm qua đời sống và sản xuất, nó thể hiện năng lực và khả năng sáng tạo của người lao động. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng vì con người luôn đứng ở vai trò trung tâm trong sản xuất, suy cho cùng thì sản xuất và phát triển cũng là do con người và vì con người. Để phát huy nguồn lực con người hiieụ quả cần phải:
Xây dựng chiến lược giáo dục đào tạo phù hợp gắn lý thuyết với thực hành , nâng cao tính độc lập và sáng tạo của người học, đào tạo “thầy” song song với đào tạo “thợ” tránh tình trạng thừa thầy thiếu thợ như hiện nay. Phải thực sự coi đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là quốc sách hàng đầu của đất nước. Cần trọng dụng và tôn vinh nhân tài
Đi đôi với quá trình đào tạo phải có chính sách sử dụng con người thích hợp. Lâu nay chúng ta chỉ mới nói đến quá trình đào tạo con người mà chưa chỉ ra cách sử dụng con người. Đối với nhân tài phải thực sự ưu đãi và trọng dụng; đối với những công nhân bình thường cần có chính sách thưởng phạt thích hợp để kích thích họ hăng hái tham gia lao động.
Đổi mơí phương pháp quản lý lấy con người vừa là mục tiêu vừa là đối tượng; người quản lý có phương pháp thân thiện kích thích sự sáng tạo của công nhân chứ không phải biến người lao động thành cái máy biết làm việc.
Thứ ba, tài nguyên thiên nhiên cũng được coi là một yếu tố, yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến năng suất lao động. Tài nguyên thiên nhiên được chia thành 2 dạng là tái tạo được và không tái tạo được. Tài nguyên đóng vai trò quan trọng vì nó cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất, nơi nào có nhiều tài nguyên nơi đó sẽ có lợi thế đầu vào và do đó mà có khả năng giảm được chi phí sản xuất. Nước ta là nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng tuy nhiên chất lượng không cao và trữ lượng không nhiều, vì thế để sử dụng có hiệu quả nhà nước cần có những giải pháp đồng bộ để sử dụng một cách hợp lý đi đôi với việc bảo vệ môi trường. Đối với những loại tài nguyên có thể tái tạo được cần có kế hoạch tái tạo để không bị suy giảm kiệt quệ.
Thứ tư, về tri thức công nghệ. Tri thức công nghệ là những hiểu biết về cách thức tốt nhất để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ. Như vậy ngày nay công nghệ được hiểu không chỉ là những dây chuyền máy móc mà theo nghĩa rộng còn là phương pháp sản xuất để kết hợp các yếu tố đầu vào một cách tối ưu. Nước ta là nước chậm phát triển mới bước vào thời kỳ công nghiệp hoá vì thế mà kỹ thuật công nghệ hết sức lạc hậu, để phát triển cần thực hiện một số giải pháp
Ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kết hợp với các cơ sở nghiên cứu các trường đại học trong việc chuyển giao công nghệ và đào tạo
Đổi mới cơ chế đầu tư và quản lý khoa học công nghệ; đảm bảo các quyền về sở hữu trí tuệ, quyền chuyển giao, quyền công bố, trao đổi chuyển nhượng kết quả nghiên cứu công nghệ trong pháp luật cũng như trong thực tế
Thực hiện việc nhập khẩu công nghệ tiến bộ từ nước ngoài vào nhằm rút ngắn khoảng cách tụt hậu về khoa học kỹ thuật của nước ta so với trên thế giới. Trong quá trình nhập khẩu công nghệ cần học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước như Nhật, Hàn Quốc, chú ý không để nước ta trở thành bãi rác thải công nghệ.
Thực hiện các biện pháp nhằm giảm sự chênh lệch giữa giá trị và giá cả thị trường.
Yêu cầu của qui luật giá trị là trao đổi ngang giá, giá cả chỉ là hình thái biểu hiện băng tiền của giá trị vì thế để qui luật giá trị phát huy vai trò của mình cần phải làm cho giá cả phù hợp và phản ánh chính xác giá trị. Để làm tốt điều đó phải làm tôt mấy vấn đề:
Thứ nhất, kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân. Chỉ có việc kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân thì sản xuất mới thoát ra khỏi tình trạng vô chính phủ của nó khi đó nền kinh tế mới phát triển một cách cân đối và ổn định, nhờ đó mà không có những ảnh hưởng ngoại lai làm cho giá cả chênh lệch lớn so với giá trị. Tuy nhiên khi thực hiện kế hoạch hoá nền kinh tế cần lưu ý tới
+ Về tính chất, phải chuyển từ kế hoạch hoá mệnh lệnh sang kế hoạch hoá định hướng
+ Về nội dung kế hoạch, nhà nướcphải đưa ra một hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô, cơ cấu và các cân đối lớn. Việc lập và giao kế hoạch phải phù hợp với cơ chế thị trường, lấy thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch hoá. Lập kế hoạch cũng cần lưu ý tới sự chuyển dịch cơ cấu của các ngành kinh tế, tới lợi thế so sánh của các vùng các miền và lợi thế so sánh trong cả nước.
Thứ hai, dự báo cung cầu và điều tiết cung cầu. Như phân tích ở chương 1 về qui luật cung cầu, ta thấy quan hệ cung cầu có ảnh hưởng tới sự biến động của giá cả, và cũng do đó mà giá cả phản ánh thiếu chính xác về giá trị. Để giảm sự chênh lệnh quan hệ cung cầu thì nhà nước cần làm tốt công tác dự báo xu hướng của nền kinh tế cho các doanh nghiệp có định hướng sản xuất làm sao cho cung tương đối phù hợp với cầu tránh được tình trạng dư thừa hoặc thiếu hụt hàng hoá gây những biến động lớn về giá cả. Đi đôi với công tác dự báo nhà nước với tư cách là người quản lý phải chủ động điều tiết cung cầu, bằng cách mua vào và bán ra hợp lý kết hợp với các công cụ tài chính khác nhà nước giữ vai trò bình ổn thị trường không để tình trạng mất cân đối xảy ra.
Thứ ba, đảm bảo cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát độc quyền. Xây dựng văn hoá kinh doanh trong các doanh nghiệp. Qui luật giá trị chỉ thực sự phát huy tác dụng của nó trong môi trường cạnh tranh vì chỉ trong môi trường cạnh tranh thì sản xuất và trao đổi mới thực sự dựa trên TGLĐXHCT. Bảo đảm cạnh tranh có nghĩa là phải thực hiện thị trường có thông tin hoàn hảo, các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp trong cùng thành phần kinh tế được bình đẳng với nhau. Bảo đảm cạnh tranh cũng có nghĩa là chống cạnh tranh không lành mạnh, đó là những hành vi phi pháp làm pháp hỏng sự cạnh tranh. Đặc biệt trong gia đoạn hiện nay khi vấn đề mất bản quyền, mất thương hiệu sản phẩm hàng hoá đang nổi lên như một vấn đề nan giải ở nước ta thì việc bảo hộ các quyền sở hữu công nghiệp, chống các hành vi gian lận thương mại càng trở lên cần thiết. Kiểm soát độc quyền cũng là một biện pháp bảo đảm cạnh trạnh, độc quyền sinh ra từ cạnh tranh do sự tích tụ và tập trung tư bản nhưng lại có tác dụng thủ tiêu cạnh tranh. Độc quyền và cạnh tranh luôn tồn tại song song không thể chống lại, nhưng nhà nước cần phải kiểm soát độc quyền, không để độc quyền thủ tiêu cạnh tranh làm mất đi động lực phát triển của xã hội. Đối vơí nước ta khi công nhận và duy trì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì cần phải làm cho nó trở thành chủ đạo chứ không phải sử dụng độc quyền để làm doanh nghiệp nhà nước khống chế thị trường. Song song với việc thực hiện các giải pháp trên còn phải xây dựng trong các doanh nghiệp một văn hoá kinh doanh phù hợp với truyền thống tốt của dân tộc, hình thành một phong cách “chơi đẹp” và tôn trọng đối thủ.
Thứ tư, tạo lập và đồng bộ các loại thị trường. Thị trường chính là nơi thể hiện một cách sinh động quy luật giá trị, vì thế việc hình thành, đồng bộ và phát triển các loại thị trường chính là mở thêm đất cho qui luật giá trị phát huy tác dụng. Nhà nước cần tạo một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong đó xoá bỏ chế độ bao cấp trong phân phối các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra. Điều này có nghĩa là toàn bộ các yếu tố đều được mua bán trên thị trường một cách tự do. Phải tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả, nhà nước không can thiệp bằng các mệnh lệnh hành chính mà để cho người mua và người bán tự thoả thuận về giá cả.
Kết luận
Qui luật giá trị là qui luật căn bản của nền sản xuất hàng hoá, không phải là qui luật riêng có của chủ nghĩa tư bản. ở đâu còn có hàng hoá và sản xuất hàng hoá thì qui luật giá trị nhất định còn tồn tại.
Qui luật giá trị không chỉ hạn chế tác dụng trong lưu thông mà còn cả đối với sản xuất, do đó mà mà nó tác động đến toàn xã hội(vì quan hệ sản xuất là quan hệ trung tâm ). Trong quá trình tác động đó, nó tạo ra mặt tích cực là thúc đẩy sản xuất phát triển nhưng cũng để lại không ít những hạn chế. Đối với nước ta, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường chưa được bao lâu thì việc nhận thức và vận dụng qui luật giá trị là hết sức quan trọng trong quá trình đẩy nhanh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35514.doc