Nền kinh tế của một quốc gia có cất cánh lên được hay không, điều này phụ thuộc rất nhiều vào tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cũng như mọi hoạt động kinh tế khác, hoạt động ngân hàng không thể tránh khỏi rủi ro. Loại rủi ro mà đề án đề cập ở đây là rủi ro lãi suất. Rủi ro lãi suất là loại rủi ro có liên hệ đến tính chất không chắc chắn về các biến động lãi suất và lợi tức. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, rủi ro lãi suất ngày càng tăng và có nhiều biểu hiện phức tạp. Nó có thể làm sụp đổ cả hệ thống ngân hàng nếu như không có biện pháp phòng ngừa kịp thời và đúng đắn. Hiện nay các ngân hàng hiện đại trên thế giới đã có những biện pháp phòng ngừa loại rủi ro này rất hiệu quả, nhưng ở nước ta thì vấn đề này đang ở giai đoạn phôi thai. Việc nghiên cứu và tham khảo một số biện pháp mà các ngân hàng hiện đại trên thế giới đã và đang áp dụng, từ đó vận dụng vào hoàn cảnh nước ta để phòng ngừa loại rủi ro này hiện đang là vấn đề ngày càng bức xúc đối với các nhà quản trị ngân hàng
28 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1535 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và các biện pháp phòng ngừa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i lãi suất ngân hàng là khoản phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời tiền của người khác. Như vậy điều không thể tránh khỏi là lãi suất đã hàm chứa một mâu thuẫn : người cho vay muốn có lãi suất cao nhất trong khi người đi vay muốn có lãi suất thấp nhất. Vì vậy như giá cả của mọi loại hàng hoá khác, lãi suất chủ yếu được xác định bởi cung và cầu.
I.1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Rủi ro trong kinh doanh tồn tại trong mọi lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngành ngân hàng có nhiều khác biệt so với ngành kinh doanh khác cả về nguyên nhân cũng như về mức độ.
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng được hiểu là những thiệt hại trong kinh doanh có thể nằm ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng. Từ khái niệm này, ta có thể rút ra:
Thứ nhất: không được coi tất cả các thiệt hại trong hoạt động kinh doanh là rủi ro trong kinh doanh. Chỉ có những thiệt hại nằm ngoài khả năng kiểm soát trong quá trình kinh doanh mới có thể coi là rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Có rất nhiều người trong thực tiễn rất hay đánh đồng khái niệm này với khái niệm thất thoát trong kinh doanh. Hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau nhưng cả hai khái niệm này đều hợp thành trong hoạt động kinh doanh, có nghĩa là:
Thiệt hại trong Rủi ro trong Thất thoát trong
hoạt động = hoạt động + hoạt động
kinh doanh kinh doanh kinh doanh.
Thứ hai: mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào trình độ quản trị của các nhà kinh doanh ngân hàng. Không thể coi rủi ro là hoạt động bất khả kháng, coi rủi ro là điều không thể tránh khỏi và để nó tự vận động, nghĩa là rủi ro có khả năng kiểm soát được. Rủi ro có thể hạn chế khi tăng cường khả năng kiểm soát mà điều này lại phụ thuộc chủ yếu vào trình độ quản trị của các nhà kinh doanh ngân hàng.
Thứ ba: rủi ro trong hoạt động kinh doanh có nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan, có rủi ro bất khả kháng và rủi ro tự nhiên. Nhưng dù loại rủi ro nào đều có khả năng phòng ngừa với các phương pháp có thể khác nhau.
Trong hoạt động kinh doanh, ngân hàng thường gặp phải các rủi ro như rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro tỷ giá...
I.1.3 Khái niệm về rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là rủi ro có liên hệ dến tính chất không chắc chắn về các biến động lãi suất và lợi tức. để hiểu rủi ro lãi suất là gì ta hãy nghiên cứu ví dụ sau:
Giả sử bảng quyết toán tài sản của ngân hàng thương mại X được viết dưới dạng sau:
(đơn vị: tỷ đồng)
Tài sản có Tài sản nợ
I/ Những tài sản có loại nhạy cảm I/ Những tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất 20 với lãi suất 50
Cho vay ngắn hạn - Chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn
Chứng khoán ngắn hạn - Tiền gửi trên thị trường tiền tệ
II/ Những tài sản có loại có lãi suất II/ Những tài sản nợ loại có lãi suất
cố định 80 cố định 50
Tiền dự trữ - Tiền gửi có thể phát séc
Tiền cho vay dài hạn - Tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn
Chứng khoán dài hạn - Chứng chỉ tiền gửi dài hạn - Vốn cổ phần
Tổng tài sản có 100 Tổng tài sản nợ 100
Bên tài sản có gồm các loại tài sản có lãi suất cố định và các loại tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất.
Loại tài sản có lãi suất cố định là những khoản vốn sử dụng đem lại thu nhập không thay đổi cho ngân hàng, không chịu sự chi phối của lãi suất thị trường thay đổi, đó là các khoản cho vay trung và dài hạn.
Loại tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất là các khoản vốn sử dụng đem lại thu nhập thay đổi do lãi suất thị trường thay đổi, thường là các khoản cho vay ngắn hạn.
Bên tài sản nợ bao gồm nguồn vốn phải trả lãi suất cố định và nguồn vốn phải trả theo lãi suất thay đổi. Qua bảng trên , ta thấy:
ở bên tài sản có, ngân hàng X có 20 tỷ đồng là loại nhạy cảm với lãi suất , chúng thay đổi nhiều lần( ít nhất 1 lần mỗi năm ), và 80 tỷ đồng loại có lãi suất cố định, chúng giữ nguyên không đổi trong thời gian dài.
ở bên tài sản nợ, ngân hàng X có 50 tỷ đồng tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất và 50 tỷ đồng tài sản nợ loại có lãi suất cố định.
Giả sử lãi suất của tất cả các tài sản đều tăng 5%, ví dụ trung bình từ 10% đến 15%, khi đó thu nhập của ngân hàng từ các tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất tăng thêm 1 tỷ đồng (=5%x 20 tỷ đồng). Trong khi đó , tiền thanh toán cho những tài sản nợ của nó tăng thêm 2,5 tỷ đồng (=5% x 50 tỷ đồng tài sản nợ, loại có nhạy cảm với lãi suất). Do tài sản nợ lãi suất thay đổi tăng nhiều hơn tài sản có lãi suất thay đổi nên lợi nhuận của ngân hàng giảm mất 1,5 tỷ đồng (= 1 tỷ đồng - 2,5 tỷ đồng).
Mặt khác, nếu các lãi suất giảm bớt 5%, một sự suy luận tương tự cho chúng ta biết rằng lợi nhuận của ngân hàng X sẽ tăng thêm 1,5 tỷ đồng .
Qua việc phân tích trên, ta thấy : nếu một ngân hàng có nhiều tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất hơn là tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất, một sự tăng lãi suất sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, trong khi đó một sự sụt giảm lãi suất sẽ làm tăng lợi nhuận của ngân hàng .
I.2 Nguyên nhân rủi ro lãi suất
I.2.1 Sự không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ
Bằng sơ đồ, chúng ta có thể biẻu diễn trường hợp một ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn là 1 năm và đầu tư có kỳ hạn là 2 năm như sau:
0 1
Tài sản nợ
0 1 2
Tài sản có
Giả sử lãi suất huy động vốn là 9%/năm và lãi suất đầu tư là 10%/năm. Sau năm thứ nhất bằng cách vay ngắn hạn 1 năm và cho vay dài hạn 2 năm, ngân hàng thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất là 10% - 9% = 1%. Tuy nhiên, lợi nhuận của năm thứ hai chưa biết là bao nhiêu nên sẽ là một số không chắc chắn. Nếu lãi suất thị trường không thay đổi từ năm thứ nhất sang năm thứ hai thì ngân hàng có thể tái tài trợ tài sản nợ với mức lãi suất không thay đổi là 9%; và do đó mức lợi nhuận thu được trong năm thứ hai sẽ bằng năm thứ nhất và là 1%. Với lãi suất thị trường có thể thay đổi từ năm thứ nhất sang năm thứ hai, cho nên ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về sự thay đổi lãi suất. Giả sử sang năm thứ hai, ngân hàng chỉ có thể huy động vốn theo mức lãi suất thị trường hiện hành là 11%, do đó lợi nhuận của ngân hàng trong năm thứ hai sẽ là một số âm, tức là ngân hàng sẽ chịu khoản lỗ 10% - 11% = -1%. Như vậy, lợi nhuận của năm thứ nhất chỉ đủ bù đắp cho khoản lỗ của năm thứ hai. Kết quả là, trong trường hợp nếu ngân hàng duy trì tài sản có có kỳ hạn dài hơn tài sản nợ thì ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về lãi suất trong việc tái tài trợ đối với tài sản nợ. Rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy động vốn bổ sung trong những năm tiếp theo tăng lên trên mức lãi suất đầu tư tín dụng dài hạn.
Trường hợp ngược lại, ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn dài và đầu tư có kỳ hạn ngắn. Ví dụ: ngân hàng huy động vốn với lãi suất là 9%/ năm, kỳ hạn 2 năm và đầu tư vào tài sản có mức lãi suất là 10%, kỳ hạn là 1 năm.
Bằng sơ đồ, chúng ta có thể biểu diễn như sau:
0 1 2
Tài sản nợ
0 1
Tài sản có
Tương tự như trường hợp nêu trên, sau năm thứ nhất ngân hàng thu được lợi nhuận là 1%. Vì tài sản có chỉ có kỳ hạn là 1 năm, cho nên sau năm thứ nhất tài sản có đến hạn và ngân hàng lại tiếp tục tái đầu tư. Giả sử lãi suất đầu tư của thị trường trong năm thứ hai giảm xuống chỉ còn 8%, điều này đã khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro về lãi suất, đó là lỗ 8% - 9% = -1%. Như vậy, lợi nhuận thu được của năm thứ nhất vừa đủ để bù đắp khoản lỗ của năm thứ hai. Kết quả là, ngân hàng gặp phải rủi ro về lãi suất tái đầu tư trong trường hợp tài sản có có kỳ hạn ngắn hơn so với tài sản nợ. Ví dụ điển hình về rủi ro lãi suất tái đầu tư trong những năn gần đây là hiện tượng các ngân hàng hoạt động trên thị trường tiền tệ Châu âu thường huy động vốn với lãi suất cố định nhưng lại đầu tư với lãi suất thả nỗi, tức là lãi suất của khoản đầu tư tín dụng luôn được điều chỉnh (thay đổi) thường xuyên để phù hợp với lãi suất của thị trường.
Như vậy, ngân hàng duy trì cơ cấu tài sản có và tài sản nợ với những kỳ hạn không cân xứng với nhau, thì phải chịu rủi ro lãi suất trong việc tái tài trợ tài sản có và tài sản nợ.
I.2.2 Chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung Ương
Chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung Ương cũng là một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro lãi suất đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng . Chúng ta hãy xem xét chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung Ương và rủi ro lãi suất là như thế nào thông qua ví dụ sau:
Trước hết, đó là việc thay đổi mức lãi suất thuộc về chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung Ương. Lãi suất mà ngân hàng Trung Ương tính cho thị trường báo hiệu chiều hướng mà nó muốn lãi suất di chuyển theo. Ví dụ: Ngân hàng Trung Ương nâng tỷ lệ chiết khấu mua thương phiếu của nó, khi đó đến lượt mình, thị trường chiết khâu sẽ nâng tỷ lệ chiết khấu các chứng khoán ngắn hạn giao dịch trên thị trường mình. Vì vậy, lãi suất thương phiếu, trái phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi và các công cụ tài chính khác sẽ có chiều hướng tăng. Trong khi đó, các ngân hàng cung cấp vốn cho thị trường chiết khấu sẽ nâng lãi suất của họ tính trên khoản vốn này. Kết quả này sẽ lan truyền sang thị trường tiền tệ thứ cấp hay thị trường bán buôn. Nếu dự đoán lãi suất còn tăng nữa, các ngân hàng buộc phải chào lãi suất cao hơn đối với các chứng chỉ tiền gửi. Còn trường hợp họ vay mượn trên thị trường liên ngân hàng, họ phải trả lãi suất cao hơn. Điều này sẽ ép các ngân hàng nâng lãi suất cơ bản của mình để duy trì chênh lệch giữa chi phí vốn vay và lãi suất cho vay. Việc lãi suất cơ bản tăng lên trong khi làm tăng lãi suất cho vay, đồng thời cũng làm tăng lãi suất tiền gửi. Vì vậy, sự thay đổi lãi suất ngắn hạn sẽ có tác động dây chuyền thông qua một số loại lãi suất. Nó cũng sẽ có tác động lên lãi suất dài hạn.
Từ phân tích trên ta thấy rằng, nếu Ngân hàng Trung Ương điều chỉnh mức lãi suất một cách nhẹ nhàng, uyển chuyển, thì những cú sốc về thay dổi lãi suất là không lớn. Mặt khác nếu Ngân hàng Trung Ương mở rộng cung ứng tiền tệ và cho phép lãi suất tự do biến động, thì mức độ dao động lãi suất sẽ là rất lớn, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh ngân hàng .
I.2.3 Rủi ro lãi suất do giá trị của tài sản thay đổi khi lãi suất thị trường biến động
Giá trị thị trường của tài sản có hay tài sản nợ là dựa trên khái niệm giá trị hiện tại của tiền tệ. Do đó, nếu lãi suất thị trường tăng lên thì mức chiết khấu giá trị tài sản tăng lên, cho nên giá trị hiện tại của tài sản có và tài sản nợ giảm xuống. Ngược lại, nếu lãi suất thị trường giảm thì giá trị của tài sản có và tài sản nợ sẽ tăng lên. Do đó, nếu kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ không cân xứng với nhau thì đó cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất. Giả sử tài sản có có kỳ hạn dài hơn tài sản nợ, thì khi lãi suất thị trường tăng, giá trị của tài sản có sẽ giảm nhanh hơn và nhiều hơn so với sự giảm giá trị tài sản nợ, từ đó có thể dẫn đến thiệt hại về tài sản của ngân hàng.
I.3 Tác động ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đến hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Ngành kinh doanh ngân hàng là một trong những dịch vụ quan trọng và rất cần thiết trong cơ chế thị trường ngày nay. Hoạt động kinh doanh ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào tình hình biến động trong nền kinh tế thị trường. Trong đó sự tăng lên hay giảm xuống của lãi suất đã tác động đến tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có thể đưa đến lợi vốn hoặc tổn thất vốn và gây ra sự không chắc chắn về lợi tức đầu tư. Chính điều này làm cho ngân hàng trở nên quan tâm hơn với việc đối mặt với rủi ro lãi suất. Nếu như ngân hàng không có những biện pháp phòng ngừa đúng đắn và kịp thời, thì nó có thể dẩn đến sụp đổ ngân hàng. Điều này không chỉ làm tổn hại đến ngân hàng đó, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng khác, và nguy hại hơn, nó còn ảnh hưởng một cách nghiêm trọng đến nền kinh tế.
Chương II Biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất
II.1 Các phép đo rủi ro lãi suất
II.1.1 Dự đoán lãi suất
Nhìn chung dự đoán lãi suất là để đưa ra quyết định nên chọn mua tài sản nào, còn trong trường hợp này là để có thể loại trừ các rủi ro lãi suất với các danh mục tài sản hiện có của ngân hàng. Đây là một công việc hết sức khó khăn, việc dự báo thường do các chuyên gia kinh tế đảm nhận. Các nhà dự báo có thể sử dụng các mô hình lý thuyết hoặc thực nghiệm về diễn biến của lãi suất để đưa ra các dự báo lãi suất. Chẳng hạn các mô hình cung cầu trái khoán hoặc các mô hình cung cầu tiền tệ. Theo mô hình cung cầu trái khoán hoặc cung cầu tiền tệ thì lãi suất sẽ thay đổi khi mà cung, cầu trái khoán hoặc cung, cầu tiền tệ thay đổi. Cung trái khoán sẽ thay đổi khi có sự thay đổi tính hấp dẫn của các cơ hội đầu tư, của chi phí thực do tiền vay hoặc do các hoạt động của Chính phủ. Cầu trái khoán thay đổi khi có thay đổi của cải, về lợi tức dự tính, về rủi ro, về tính lỏng của trái khoán. Cung tiền tệ thay đổi lệ thuộc vào chính sách tiền tệ để đáp ứng cầu về tiền. Cầu tiền thay đổi theo sự thay đổi của cải, về mức giá...
Nhìn chung, những mô hình dự đoán lãi suất sẽ thay đổi theo chiều hướng nào trên thực tế thường hết sức phức tạp. Đồng thời cần phải thừa nhận rằng trên thực tế chưa có cách thức nào để dự báo chính xác sự thay đổi của lãi suất. Những dự đoán sai lầm có thể gây ra những thiệt hại to lớn, do đó ra quyết định dựa trên dự đoán lãi suất có thể là một sự nguy hiểm.
II.1.2 Phân tích tính nhạy cảm lãi suất của các tài sản
Sự phân tích nhạy cảm lãi suất bao gồm sự phân tích đặc tính này với từng tài sản và tổng tài sản của ngân hàng, nhằm định lượng rủi ro lãi suất phát sinh cùng với việc sở hữu tài sản
Để phân tích tính nhạy cảm lãi suất của các tài sản, người ta phải tiến hành phân tích mối quan hệ giữa mức thay đổi trong giá trị thị trường của tài sản so với mức thay đổi của lãi suất thị trường. Mối quan hệ này có thể định lượng một cách trực tiếp bằng cách sử dụng: phương pháp phân tích khoảng cách và phương pháp phân tích khoảng thời gian tồn tại.
II.1.2.1 Phương pháp phân tích khoảng cách
Nội dung của phương pháp phân tích khoảng cách là việc phân tích các luồng tiền dựa trên giá trị ghi sổ nhằm xác định chênh lệch giữa tổng số tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất với tổng số tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất hay một khe hở nhạy cảm lãi suất đã hình thành.
Khe hở Tổng tài sản Tổng tài sản
nhạy cảm = có loại nhạy cảm - nợ loại nhạy cảm
lãi suất với lãi suất với lãi suất
Nếu tổng tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất trong mỗi giai đoạn kế hoạch (ngày, tuần, tháng, năm...) lớn hơn tổng tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất , ngân hàng được xem là có khe hở nhạy cảm lãi suất dương.
Tổng tài sản Tổng tài sản
Khe hở dương = có loại nhạy cảm - nợ loại nhạy cảm > 0
với lãi suất với lãi suất
Với khe hở dương, các yếu tố khác không đổi thì: nếu lãi suất tăng, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên của ngân hàng sẽ tăng vì thu từ lãi trên tài sản sẽ tăng nhiều hơn chi phí trả lãi cho vốn huy động; nếu lãi suất giảm, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên của ngân hàng sẽ giảm vì thu từ lãi trên tài sản sẽ giảm nhiều hơn cho các nguồn vốn.
Trong trường hợp ngược lại, tổng tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất lớn hơn tổng tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất, ngân hàng lúc này được xem là có khe hở nhạy cảm lãi suất âm. Khi đó nếu lãi suất tăng lên sẽ làm giảm tỷ lệ thu nhập lãi cận biên của ngân hàng, khi lãi suất giảm sẽ làm tăng tỷ lệ thu nhập lãi cận biên của ngân hàng.
Ta xét bảng cân đối tài sản của ngân hàng X ở trên:
Khe hở nhạy cảm lãi suất = 20 tỷ đồng- 50 tỷ đồng= -30 tỷ đồng.
Biểu diễn kết quả dưới dạng % như sau:x 100=30%
Bằng cách biểu diễn ở dạng % này cho ta thấy tính chất của rủi ro lãi suất ; và mức chênh lệch tài sản có và tài sản nợ trên quy mô tài sản của ngân hàng là như thế nào.
Trong ví dụ của chúng ta, ngân hàng có tài sản có nhạy cảm với lãi suất thấp hơn tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất là 30%. Nếu lãi suất tăng 5% thì thay đổi về lợi nhuận sẽ là: -1,5 tỷ đồng (5% x -30 tỷ đồng), nghĩa là ngân hàng thiệt 1,5 tỷ đồng.
Qua phân tích trên, ta thấy phương pháp phân tích khoảng cách là một công cụ hữu ích đối với các nhà quản trị ngân hàng và những nhà định chế trong việc phòng ngừa rủi ro lãi suất. Tuy nhiên, phương pháp này bộc lộ điểm yếu: vấn đề phân nhóm tài sản trong một khung kỳ hạn nhất định đã phản ánh sai lệch thông tin về cơ cấu các tài sản có và tài sản nợ trong cùng một nhóm. Ví dụ: giá trị tài sản có và tài sản nợ trong cùng một nhóm có cùng một kỳ hạn đến hạn có thể là như nhau, nhưng tài sản nợ có thể được định giá lại tại thời điểm cuối của kỳ định giá và trong lúc đó tài sản nợ có lại được định giá lại tại thời điểm đầu của kỳ định giá. Giả sử, trong cùng một nhóm tài sản có kỳ hạn từ 3 đến 6 tháng, số lượng tài sản có và tài sản nợ là bằng nhau và bằng 50 tỷ đồng, theo phương pháp phân tích khoảng cách thì chênh lệch trong kỳ hạn này là 50 – 50 = 0 . Nhưng nếu cơ cấu kỳ hạn của tài sản có là từ 3 đến 4 tháng, trong khi đó cơ cấu của tài sản nợ lại là từ 5 đến 6 tháng, rõ ràng là kỳ hạn đến hạn giữa tài sản có và tài sản nợ là không cân xứng với nhau, trong khi đó theo phương pháp phân tích khoảng cách lại coi như không có vấn đề gì đối với thu nhập của ngân hàng.
Rõ ràng là nếu kỳ hạn định giá càng nhanh thì những hạn chế của phương pháp phân tích khoảng cách càng nhỏ. Nếu kỳ định giá được tính toán hằng ngày thì sẽ cho ta một bức tranh trung thực về sự thay đổi lợi nhuận của ngân hàng . Hiện nay các ngân hàng hiện đại đã áp dụng những kỹ thuật dựa trên máy tính mà theo đó tài sản có và tài sản nợ được phân theo tiêu thức tới hạn hoặc được định giá lại trong ngày hôm nay, trong tuần tới, trong 30 ngày tới... Nhà quản lý cố gắng tương đồng các danh mục tài sản có nhạy cảm lãi suất với tài sản nợ nhạy cảm lãi suất cho mỗi thời hạn nhằm tăng khả năng đạt được những mục tiêu lợi nhuận mà ngân hàng đề ra.
Ví dụ: chương trình mới nhất của ngân hàng có thể cho ra những số liệu sau:
(đơn vị: triệu đồng)
Tài sản có nhạy cảm lãi suất
Tài sản nợ nhạy cảm lãi suất
Khe hở nhạy cảm lãi suất
Khe hở nhạy cảm lãi suất tích luỹ
Trong vòng 24 giờ tới
40
30
+10
+10
7 ngày sau
120
160
-40
-30
1 tháng sau
85
65
+20
-10
3 tháng sáu
280
250
+30
+20
6 tháng sau
455
395
+60
+80
.....
....
......
........
Thông qua số liệu trên ta thấy rằng thời kỳ tính khe hở nhạy cảm lãi suất có vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá trạng thái nhạy cảm lãi suất thực tế của một ngân hàng. Ví dụ trong vòng 24 giờ tới, ngân hàng trên có khe hở dương, lợi nhuận của ngân hàng tăng lên nếu lãi suất tăng lên trong ngày hôm nay và ngày mai. Tuy nhiên, nếu lãi suất tăng lên trong vòng 7 ngày tới có thể là tin xấu vì ngân hàng có một khe hở âm trong giai đoạn này và kết quả là chi phí trả lãi tăng nhiều hơn là từ chi phí thu lãi. Nếu lãi suất được dự báo tăng, nhà quản lý cần xem xét có thể sử dụng một số biện pháp để có thể bảo vệ lợi nhuận của ngân hàng như: bán ngay những chứng chỉ tiền gửi dài hạn hoặc sử dụng hợp đồng kỳ hạn... ( những biện pháp này sẽ được trình bày rõ hơn trong phần sau). Xem xét phần còn lại của bảng ta thấy một điều rất rõ ràng là ngân hàng sẽ tiến triển tốt hơn trong một vài tháng tới nếu lãi suất tăng vì cuối cùng khe hở nhạy cảm lãi suất trở lại trạng thái dương.
Với sự giúp đỡ của máy tính, nhà quản lý sắp xếp giá trị của tất cả các khoản mục tài sản có và nợ trên cơ sở phân nhóm theo khoảng thời gian cho tương lai cho tới khi từng khoản mục đáo hạn hoặc được định giá kại. Trên cơ sở dự báo sự biến động lãi suất trong từng thời kỳ, nhà quản trị ngân hàng sẽ quyết định xem sẽ chấp nhận hay đối phó với rủi ro này bằng những chiến lược phòng ngừa rủi ro hoặc bằng những công cụ bảo vệ nào.
Một thước đo mang tích tổng thể và hữu ích phản ánh rủi ro lãi suất là khe hở nhạy cảm lãi suất tích luỹ. Đây là tổng mức chênh lệch giữa tài sản có nhạy cảm lãi suất và tài sản nợ nhạy cảm lãi suất trong giai đoạn nhất định.
II.1.2.2 Phương pháp phân tích khoảng thời gian tồn tại
Độ rủi ro lãi suất được quan niệm như là sự giao động của giá cả thị trường cũng tức là giao động của lượng tiền mặt chiết khấu được từ tài sản khi lãi suất thị trường thay đổi qua thời gian. Vì vậy có thể định lượng rủi ro lãi suất đối với người sở hữu một tài khoản chứng khoán thông qua thời gian đáo hạn bình quân tài sản đó trong tương quan với lượng tiền mặt với tư cách là tỷ trọng khoảng thời gian này gọi là khoảng thời gian tồn tại.
Phân tích khoảng thời gian tồn tại được dựa trên khái niệm về khoảng thời gian tồn tại của Macaulay, nó lượng định thời gian sống trung bình của dòng tiền thanh toán của một chứng khoán:
D =
Khoảng thời gian tồn tại là một khái niệm rất hữu ích vì nó mạng lại một xấp xỉ tốt tính nhạy cảm của giá trị thị trường của một chứng khoán đối với sự thay đổi về lãi suất của nó. Kỳ hạn tồn tại luôn không lớn hơn thời gian đáo hạn và có quan hệ thuận chiều với thời gian đáo hạn, quan hệ nghịch với lượng tiền mặt thanh toán ở mỗi giai đoạn và với lãi suất. Người ta chứng minh được rằng:
Thay đổi tính Thay đổi % Khoảng thời gian bằng % về về x tồn tại
giá trị thị trường lãi suất tại trong các năm
: xấp xĩ
Sự phân tích khoảng thời gian tồn tại liên quan đến việc so sánh khoảng thời gian tồn tại trung bình của những tài sản của ngân hàng đó.
Khoảng thời gian tồn tại trung bình của toàn bộ tài sản có:
DA= X1AD1A + X2AD2A + ... + XnADnA Khoảng thời gian tồn tại trung bình của toàn bộ tài sản nợ :
DA= X1LD1L + X2LD2L + ... + XnLDnL
Trong đó: X1A + X2A + ... + XnA = 1
X1L + X2L + ... + XnL = 1
i=1,2,...,n
Xi: biểu thị tỷ trọng
Di: biểu thị thời lượng của tài sản i trong tài sản có hoặc tài sản nợ
Quay trở lại ví dụ của chúng ta về ngân hàng X, giả sử rằng với bản quyết toán tài sản được thảo ra ở trên, khoảng thời gian tồn tại trung bình của những tài sản có của nó là 5 năm ( tức là thời gian sống trung bình của dòng thanh toán là 5 năm), trong khi đó, khoảng thời gian tồn tại trung bình của những tài sản nợ của nó là 3 năm.
Với sự tăng thêm 5% lãi suất :
+ Giá trị thị trường của những tài sản có của ngân hàng này giảm sút đi 25% (-5% x 5 năm = -25%)
+ Giá trị thị trường của những tài sản nợ của ngân hàng này giảm sút đi 15% (-5% x 3 năm = -25%)
Như vậy giá trị ròng đã giảm sút 10% tổng giá trị tài sản có ban đầu:
-25% - (-15%) = -10%
Một cách tương tự, sự sụt giảm 5% về lãi suất làm tăng giá trị ròng của ngân hàng X 10% tổng giá trị tài sản có.
Như vậy, cả hai cách phân tích này đều cho biết rằng ngân hàng sẽ phải đối mặt với rủi ro lãi suất ở mức độ nào. Đây cũng là căn cứ để ngân hàng tiến hành các điều chỉnh tài sản, nhằm loại trừ các rủi ro lãi suất.
II.2 Biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất ở các ngân hàng hiện đại
Sau khi đã xác định được mức độ rủi ro lãi suất đi liền với sự dự đoán lãi suất tăng lên hay giảm xuống. Nhà quản lý phải tiến hành các biện pháp khác nhau để loại trừ nó. Các biện pháp mà các ngân hàng hiện đại thường áp dụng là : vay thế chấp có lãi suất có thể điều chỉnh, thị trường kỳ hạn các công cụ tài chính, thị trường lựa chọn các công cụ nợ.
II.2.1 Vay thế chấp có lãi suất có thể điều chỉnh
Vay thế chấp là những món tiền mà ngân hàng cho các cá nhân hoặc các công ty kinh doanh vay để mua nhà, đất, những công trình kiến trúc..., trong đó các công trình kiến trúc, đất, nhà được dùng làm vật thế chấp cho món vay.
Cũng giống như các nhà đầu tư khác, các ngân hàng thấy rằng việc cho vay sẽ có sức hấp dẫn hơn nếu rủi ro lãi suất thấp. Họ không muốn thực hiện một món cho vay thế chấp ở lãi suất 10% và 2 tháng sau họ thấy rằng họ đáng ra có thể được12% ở món cho vay thế chấp đó. Để giảm rủi ro lãi suất , các ngân hàng bắt đầu cho vay thế chấp có lãi suất có thể điều chỉnh, tức là món cho vay có lãi suất thay đổi khi lãi suất thị trường (thường là tín phiếu kho bạc) thay đổi. Ví dụ, ban đầu một món cho vay thế chấp có lãi suất có thể điều chỉnh với lãi suất là 10%. Sáu tháng sau, lãi suất này có thể tăng hay giảm bằng số lượng tăng hay giảm của lãi suất thị trường (ví dụ lãi suất tín phiếu kho bạc loại 6 tháng), và tiền thanh toán cho vay thế chấp sẽ thay đổi. Các món vay thế chấp có lãi suất có thể điều chỉnh, cho phép các ngân hàng cho vay thế chấp thu được lãi suất cao hơn đối với các món cho vay thế chấp khi lãi suất tăng, lợi nhuận được duy trì trong suốt giai đoạn đó.
Đặc điểm hấp dẫn này của các món cho vay thế chấp có lãi suất có thể điều chỉnh đã khuyến khích các tổ chức cho vay thế chấp phát hành cho vay thế chấp có lãi suất ban đầu thấp hơn với lãi suất cho vay thế chấp cố định quy ước, khiến cho chúng được ưa thích hơn đối với nhiều gia đình. Tuy nhiên, do tiền thanh toán thế chấp có thể tăng lên đối với các món cho vay thế chấp có lãi suất có lãi suất thay đổi, nên nhiều hộ gia đình vẫn tiếp tục ưu tiên các món vay thế chấp lãi suất cố định. Do vậy cả hai kiểu cho vay đều được phát triển rộng rãi.
II.2.2 Thị trường kỳ hạn các công cụ tài chính
Một thị trường kỳ hạn tiến hành các vụ mua bán theo các hợp đồng kỳ hạn, trong đó người bán thoả thuận cung cấp một số hàng hoá được tiêu chuẩn hoá nào đó cho người mua vào một ngày được chỉ rõ trong tương lai theo một giá thoả thuận sẵn. Để hiểu thị trường kỳ hạn tài chính được phát triển, trước hết chúng ta cần hiểu một hợp đồng tài chính là gì và nó giúp các nhà đầu tư có thể tự bảo hộ đề phòng rủi ro lãi suất như thế nào.
Hợp đồng kỳ hạn: là sự thoả thuận giữa người mua và người bán tại thời điểm t=0 rằng người mua sẽ thanh toán tiền cho người bán theo giá kỳ hạn đã được thoả thuận tại thời điểm t=0 và người bán sẽ trao hàng cho người mua tại một thời điểm xác định trong tương lai.Ví dụ: một hợp đồng kỳ hạn 3 tháng đối với trái phiếu có kỳ hạn 10 năm và lãi suất chiết khấu là 12%, bao gồm:
Người mua và người bán thoả thuận tịa thời điểm t=0 về giá và khối lượng trái phiếu
Nhưng việc thanh toán và giao nhận trái phiếu chỉ được tiến hành sau 3 tháng.
Tại thời điểm t=0, nếu mức lãi suất kỳ hạn được thoả thuận là 12,5428%, thì trái phiếu có mệnh giá 100 USD sẽ có giá là 97 USD. Sau thời hạn 3 tháng, người mua sẽ thanh toán cho người bán 97 USD để nhận từ người bán trái phiếu có mệnh giá 100 USD. Đây chính là giá người mua phải thanh toán cho người bán và người bán phải giao hàng cho người mua không phụ thuộc vào bất cứ điều gì sẽ xảy ra đối với giá trái phiếu trong thời gian 3 tháng và giá giao ngay của nó trong thời gian 3 tháng.
Để thấy được tác dụng to lớn của hợp đồng kỳ hạn trong việc giúp ngân hàng đề phòng rủi ro lãi suất, chúng ta hãy xem xét ví dụ sau:
Giả sử nhà quản trị ngân hàng đang nắm giữ trên bảng cân đối tài sản 1 triệu USD các trái phiếu có kỳ hạn 10 năm. Bình thường, tại thời điểm t=0, nhà quản trị nhận được tin báo rằng lãi suất dự tính sẽ tăng 2% từ mức 12,5428% lên 14,5428% trong thời hạn 3 tháng tới. Với sự hiểu biết rằng, khi lãi suất thị trường tăng lên nghĩa là giá trị trái phiếu sẽ giảm xuống, nhà quản trị tiến hành tính toán khoảng thời gian tồn tại trung bình của trái phiếu có kỳ hạn 10 năm chính xác là 6 năm. Như vậy, nhà quản trị có thể dự tính khoản lỗ vốn hay sự giảm giá trái phiéu theo phương trình như sau:
Trong đó:
: khoản lỗ của trái phiếu
P: thị giá của trái phiếu, tức là P= 970.000USD
D: thời lượng của trái phiếu, tức là D=6 năm
:mức lãi suất thay đổi dự tính, tức là
1+R = 1+12,5428.
Kết quả là, nhà quản trị ngân hàng dự tính sẽ chịu một khoản lỗ từ việc nắm giữ trái phiếu do lãi suất thị trường tăng là 103.427,32USD, hay giá trái phiếu giảm 10,66% (). Tức là giá trái phiếu giảm từ 97 USD xuống 86,657 USD trên 100 USD mệnh giá. Để có thể bù đắp được sự thua lỗ này (tức là giảm rủi ro lỗ xuống 0), nhà quản trị có thể tiến hành thông qua các nghiệp vụ ngoại bảng bằng cách bán kỳ hạn 1 triệu USD mệnh giá của các trái phiếu này với kỳ hạn là 3 tháng. Giả sử rằng tại thời diểm t=0, nhà quản trị tìm được đối tác sẵn sàng mua với giá 97 USD trên 100USD mệnh giá bằng hợp đồng kỳ hạn 3 tháng. Cái gì sẽ xảy ra nếu lãi suất thực sự tăng 2% sau thời gian 3 tháng? Đó là: giá trái phiếu sẽ giảm 10,66%, tương đương với một khoản lỗ vốn là 103.427,32 USD. Mặt khác, sau khi lãi suất tăng 2%, nhà quản trị ngân hàng có hiện tượng mua 1 triệu USD mệnh giá các trái phiếu có kỳ hạn 10 năm trên thị trường giao ngay với giá là 866.573 USD và giao số trái phiếu mua được này cho đối tác theo hợp đồng kỳ hạn. Gía trái phiếu kỳ hạn 3 tháng của 1 triệu USD mệnh giá là 970.000 USD. Do đó, lợi nhuận thu được từ hợp đồng giao dịch kỳ hạn là:
970.000 USD – 866.573 USD = 103.427 USD
(Hay: lợi nhuận thu được từ hợp đồng giao dịch kỳ hạn = giá trị hợp đồng kỳ hạn – giá trị của hợp đồng giao ngay tại thời điểm sau 3 tháng)
Do đó, sự thua lỗ trên bảng cân đối tài sản (nội bảng) là 103.427USD được bù đắp đầy đủ bởi lợi nhuận thu đưọc từ hợp đồng bán kỳ hạn (ngoại bảng). Như vậy, rủi ro lãi suất đối với ngân hàng được đảm bảo, tức là bằng 0.
Từ ví dụ trên ta thấy hợp đồng tài chính kỳ hạn đã giúp cho ngân hàng có đủ khả năng bảo hộ mình đề phòng rủi ro lãi suất bất kỳ và ngân hàng ấy chắc chắn sẽ có một món lợi nhuận nhờ món cho vay của nó.
II.2.3 Thị trường lựa chọn các công cụ nợ
Một công cụ tài chính khác giúp ngân hàng có thể giảm rủi ro lãi suất là các hợp đồng chọn lựa. Hợp đồng chọn lựa bao gồm: hợp đồng chọn mua và hợp đồng chọn bán.
Một hợp đồng chọn mua mang lại một quyền mua chứng khoán tại một mức giá cố định đã được thoả thuận trước, được gọi là giá thực hiện hay giá khớp. Ví dụ: một hợp đồng chọn mua kéo dài trong 6 tháng để mua tín phiếu kho bạc loại 3 tháng với mệnh giá 1000000 USD theo giá thực hiện 975000 USD. Để có được hợp đồng chọn mua chứng khoán, người mua phải trả một khoản phí cho người bán, gọi là phí mua. Phí chọn mua phải được thanh toán cho người bán tại thời điểm ký kết hợp đồng chọn mua và đồng thời trở thành người tiềm năng thu lợi nhuận nếu giá trái phiếu tăng trên mức giá thực hiện cộng khoản phí chọn mua.
Hợp đồng chọn bán mang lại một quyền bán trái phiếu tại một mức giá cố định đã thoả thuận trước, được gọi là giá thực hiện hay giá khớp. Ví dụ một hợp đồng giao dịch chọn bán kéo dài trong 6 tháng để bán một trái khoán kho bạc với mệnh giá 100000USD theo giá thực hiện 102000USD. Và ở đây, người mua phải trả cho người bán một khoản phí gọi là phí chọn bán.
Hợp đồng chọn lựa giống như một hình thức bảo hiểm đề phòng rủi ro lãi suất . Để hiểu điều này, chúng ta hãy nghiên cứu hai ví dụ sau:
Giả sử nhà quản trị ngân hàng đang sở hữu một trái phiếu có kỳ hạn đến hạn là 2 năm. Bình thường tại thời điểm t=0, trái phiếu này có thị giá là 80,45 USD trên 100 USD mệnh giá. Giả thiết rằng những người gửi tiền lo sợ và ồ ạt rút tiền gửi ở ngân hàng, điều này làm cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản và do đó ngân hàng phải bán các trái phiếu có kỳ hạn 2 năm trước khi đến hạn. Giả sử rằng, để đảm bảo thanh khoản, ngân hàng bán trái phiếu tại thời điểm cuối năm thứ nhất. Bởi vì mức lãi suất thị trường ở năm thứ hai là chưa biết trước, cho nên ngân hàng đứng trước rủi ro là nếu lãi suất thị trường trong năm thứ hai dự tính là tăng thì giá trái phiếu tại thời điểm cuối năm thứ nhất sẽ giảm. Giả sử lãi suất hiện hành của thị trường tại thời điểm cuối năm thứ nhất là R1 =10% và chúng ta cũng giả thiết rằng lãi suất thị trường trong năm thứ hai dự tính tăng lên mức r1 =13,82% hoặc là r2 =12,18%.
Nếu lãi suất thị trường từ năm thứ nhất sang năm thứ hai dự tính tăng từ R1 = 10% lên r1 = 13,82% thì ngân hàng chỉ có thể bán trái phiếu chiết khấu có kỳ hạn đến hạn còn lại một năm với giá là:
P1 = 100/(1+ r1 ) = 100/1,1382 = 87,86 USD
Còn nếu lãi suất thị trường từ năm thứ nhất sang năm thứ hai dự tính tăng từ R1 = 10% lên r2 = 12,18% thì ngân hàng chỉ có thể bán trái phiếu chiết khấu có kỳ hạn đến hạn còn lại một năm với giá là:
P1 = 100/(1+ r2 ) = 100/1,1218 = 89,14 USD
Như vậy, theo dự tính có hai khả năng xảy ra đối với mức lãi suất trong năm thứ hai. Giả sử xác suất xảy ra đối với mức lãi suất 13,82% và 12,18% trong năm thứ hai là như nhau. Điều này có nghĩa là mức lãi suất dự tính trung bình trong năm thứ hai được tính là:
E(r1) = 0,5 . 0,1382 + 0,5 . 0,1218 = 0,13 = 13%
Như vậy, giá trái phiếu trung bình dự tính tại thời điểm cuối năm thứ nhất là:
E(P1) = 100/1,13) = 88,5 USD
Giả sử, ngân hàng muốn đảm bảo rằng trái phiếu được bán tại thời điểm cuối năm thứ nhất với giá là 88,5 USD trên 100 USD mệnh giá nhằm đáp ứng việc rút tiền của người gửi. Một giải pháp nhằm đảm bảo đạt được giá bán trái phiếu 88,5 USD là tiến hành ngay tại thời điểm t=0 mua hợp đồng chọn bán trái phiếu với giá thực hiện là 88,5 USD trên 100 USD mệnh giá tại thời điểm t=1. Nếu giá trái phiếu trên thị trường tại thời điểm cuối năm thứ nhất thấp hơn 88,5 USD, ví dụ 87,6 USD thì ngân hàng thực hiện quyền bán trái phiếu và người mua phải thanh toán với giá là 88,5 USD. Nếu giá trái phiếu trên thị trường tăng trên mức 88,5 USD, ví dụ 89,14 USD thì ngân hàng không thực hiện quyền bán trái phiếu theo hợp đồng chọn bán mà bán trái phiếu trên thị trường tự do với giá là 89,14 USD. Tương tự, nếu ngân hàng muốn mua trái phiếu tại thời điểm cuối năm thứ nhất với giá là 88,5 USD trên 100 USD mệnh giá nhằm mục đích đầu tư (lãi suất tối thiểu có thể thu được là 10%). Một giải pháp nhằm đảm bảo mua trái phiếu với giá 88,5 USD là tiến hành ngay tại thời điểm t=0 mua một hợp đồng chọn mua trái phiếu với giá thực hiện là 88,5 USD trên 100 USD mệnh giá tại thời điểm t=1. Nếu giá trái phiếu trên thị trường tại thời điểm cuối năm thứ nhất cao hơn mức 88,5 USD, ví dụ 89,14 USD thì ngân hàng thực hiện quyền mua trái phiếu và người mua phải thanh toán với giá là 88,5 USD. Nếu giá trái phiếu trên thị trường thấp hơn 88,5 USD, ví dụ 87,6 USD thì ngân hàng không thực hiện quyền mua trái phiếu theo hợp đồng chọn mua mà mua trái phiếu trên thị trường tự do với giá là 87,6 USD.
II.3 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất trong điều kiện Việt Nam
II.3.1 Tình hình diễn biến lãi suất ở Việt Nam và tác động ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngân hàng
II.3.1.1 Giai đoạn 1988 – 1997
Thực tế ở nước ta, trong khoảng thời gian này đã có sự chuyển biến rất rõ nét về lãi suất . Năm 1988 lãi suất của Việt Nam không theo quy luật lãi suất thực nên lãi suất âm do Ngân hàng Trung Ương áp đặt là một trong những nguyên nhân và kéo dài lạm phát phi mã. Đến tháng 3-1989, với quyết định 39/HĐBT, quy luật lãi suất thực mới được công nhận, nhưng tư tưởng “lãi suất ngân hàng phải áp sát lãi suất thị trường” ( lãi suất của nước hoa Thanh Hương đã bị ngộ nhận là lãi suất thị trường), từ đó dẩn đến lãi suất tiết kiệm cực kỳ cao 12%/tháng dù tỷ lệ lạm phát nữa cuối 1989 chỉ còn 7%/ tháng và tháng 5 - 1989 chỉ còn 0,87% .
Giai đoạn cuối 1992 chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương khi mà lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi tương đối thấp, lúc này Ngân hàng Nhà Nước mới có điều kiện thực hiện chính sách lãi suất dương tức là lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động và lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát. Tháng 10 – 1992, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu từng bước thực hiện lãi suất dương và đến tháng 3 – 1993 thì lãi suất dương hoàn toàn, nhưng Ngân hàng Nhà nước vẩn quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể có sự phân biệt lãi suất giữa các thành phàn kinh tế: cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất cho vay ngắn hạn còn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn.
Năm 1994, Ngân hàng Nhà nước đã công bố chủ trương hạ lãi suất trong cuộc họp giám đốc đầu năm. Nhưng chủ trương này không được thực hiện với lý do tỷ lệ lạm phát bị đẩy cao lên gấp đôi năm 1993, mặc dù lạm phát vẫn gần với một con số. Trong 3 năm chậm hạ lãi suất, tiền gửi các ngân hàng chỉ sử dụng hết 1/2, cụ thể các ngân hàng thương mại cổ phần từ chổ sử dụng nguồn vốn tiền gửi để cho vay tới 87,02% năm 1993, tụt xuống chỉ còn có 74,75% năm 1994, 71,70 năm 1995 và 58,98% vào giữa năm 1996.
Năm 1996, khi đồn dập hạ lãi suất 4 lần, số dư nguồn vốn tiền gửi đã giảm đột ngột vào quý IV năm đó, chuyển các ngân hàng thương mại từ vị trí thừa vốn thành thiếu vốn. Tình hình thừa vốn nửa đầu năm 1996, đã khiến cho các ngân hàng thi nhau hạ lãi suất tiền gửi 3 tháng từ 1,4%/tháng, xuống còn 0,7%/tháng và có ngân hàng chỉ nhận tiền gửi không kỳ hạn lãi suất 0,3%/tháng để khỏi phải tăng lượng tiền gửi dư thừa phải trả lãi cao mà không cho đem vay được. Nhưng đến tháng 11/1996, các ngân hàng lại lâm vào tình trạng trái ngược là thiếu vốn vì lượng tiền gửi của nước ngoài đã rút đi gần hết, có ngân hàng số dư tiền gửi giảm tới 20%/tháng. Điều ngược lại đã xảy ra, các ngân hàng lại thi nhau nâng lãi suất tiền gửi để giữ cho số dư tiền gửi khỏi giảm sút. ở các ngân hàng nông thôn, lãi suất tiền gửi loại 6 tháng được nâng lên phổ biến tới 1,5% - 1,6% mà vẩn không đủ vốn cho vay, phải vay ở các ngân hàng đô thị với lãi suất 1,2%, trong khi trần lãi suất cho vay ở đô thị chỉ có 1,25%. Cộng với cái vô lý là bắt các ngân hàng thương mại phải gánh chịu số lỗ do thực hiện chính sách hạ lãi suất, và áp đặt chênh lệch lãi suất 0,35%, các ngân hàng thương mại và nhất là các ngân hàng cổ phần đã bị giảm lợi nhuận nặng nề.
Năm 1997, trần lãi suất cho vay lại được hại xuống chỉ còn 1% để kích thích kinh tế phát triển, nhưng các ngân hàng cổ phần không tán thành vì các nước láng giềng phải nâng lãi suất tiền gửi lên đề chống làn sống rút tiền gửi ra để mua USD. Để phòng ngừa cơn bão tiền tệ có thể lướt qua, các ngân hàng trong nước cũng phải giữ lãi suất gần như cũ, đến mức lãi suất tiền gửi có kỳ hạn chỉ còn chênh với lãi suất cho vay từ 0,05% đến 0,1% gây lỗ về tín dụng.
II.3.1.2 Giai đoạn 1998 – nay
Đến đầu năm 1998, Ngân hàng Nhà nước đã nâng trần lãi suất từ 1% lên 1,2%/tháng đối với cho vay ngắn hạn, còn cho vay trung và dài hạn tăng từ 1,1%/tháng lên 1,25%/tháng. Việc nâng mức trần lãi suất như trên có phù hợp với cung cầu về vốn tín dụng đối với nền kinh tế. Hơn thế nữa, điều chỉnh nâng trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế là cơ sở để các tổ chức tín dụng tăng lãi suất huy động vốn tương ứng, tạo điều kiện huy động vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu cho vay, phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh những mặt ưu điểm của chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng trong thời gian này, có thể kể đến những mặt tồn tại chủ yếu như chênh lệch lãi suất cho vay và huy động vốn bình quân của các tổ chức tín dụng ở mức thấp, chỉ khoảng 0,15 – 0,2%/tháng. Mức chênh lệch này không đảm bảo cho các tổ chức tín dụng bù đắp chi phí và có lãi, mức chênh lệch giữa trần lãi suất cho vay trung dài hạn so với trần lãi suất cho vay ngắn hạn 0,05% là thấp, chưa đủ bù đắp rủi ro và kích thích tổ chức tín dụng mở rộng cho vay trung và dài hạn. Những yếu tố này tạo áp lực phải giảm cho vay lãi suất .
Trần lãi suất trong năm 1999 được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh liên tục, lãi suất năm 1999 luôn có xu hướng giảm các lần điều chỉnh kéo theo giảm lãi suất huy động vốn (cả ngắn hạn và trung, dài hạn) đã tác động tốt đến sản xuất kinh doanh, làm tăng nhu cầu về tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng ở thời kỳ này có nhiều ngân hàng thương mại đo lường không hết biến động của lãi suất theo chiều hướng liên tục giả, đã huy động vốn từ 1-> 3 năm để cho vay trung và dài hạn. Trong năm này, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định 5 lần giảm trần lãi suất cho vay tối đa. Có đợt giảm lãi suất , Ngân hàng Nhà nước còn quy định buộc các ngân hàng thương mại giảm ngay cả lãi suất dư nợ đã cho vay; trong khi đó vốn huy động theo lãi suất thời kỳ trước vẫn được giữ nguyên cho tới khi đáo hạn. Tình hình này đã làm cho các ngân hàng thương mại rơi vào tình trạng rủi ro lãi suất. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn rất nhỏ, có khi không có chênh lệch, thậm chí lãi suất cho vay thời kỳ hiện tại thấp hơn lãi suất huy động vốn của thời kỳ trước đó đang còn có số dư có. Trường hợp khi Ngân hàng Nhà nướcquy định không giảm lãi suất đối với các khoản cho vay trước đây, người vay lập tức đến vay ở một ngân hàng khác có lãi suất thấp hơn để trả nợ cũ có lãi suất cao. Kết cục rủi ro lãi suất luôn đặt gánh nặng lên các ngân hàng thương mại.
II.3.2 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất trong điều kiện Việt Nam
Mặc dù các ngân hàng thương mại nước ta trong thời gian qua chưa hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường, nhưng thiệt hại do lãi suất thay đổi cũng rất lớn. Do đó các ngân hàng cần phải tiến hành các biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất. Trong điều kiện nước ta hiện nay, các ngân hàng có thể tiến hành các biện pháp sau để đề phòng rủi ro lãi suất: áp dụng chính sách mềm dẻo cho các khoản vay, thay đổi bảng tổng kết tài sản, trao đổi chéo lãi suất và các biện pháp khác.
II.3.2.1 áp dụng chính sách mềm dẻo cho các khoản vay
Để phòng ngừa rủi ro lãi suất , ngân hàng có thể đưa ra chính sách lãi suất mềm dẻo cho các khoản vay và các tài sản của ngân hàng có kỳ hạn dài.
Đối với khoản vay có kỳ hạn dài, ngân hàng có thể đưa ra các mức lãi suất thay đổi theo lãi suất trên thị trường như từng tháng, từng quý, nửa năm, một năm; hoặc là trong thời gian đầu ngân hàng có thể đưa ra mức lãi suất cao hơn một chút so với lãi suất của các đối thủ cạnh tranh, sau đó lãi suất này được giảm dần đi ở các năm tiếp theo. Ngoài ra ngân hàng có thể áp dụng mức lãi suất thay đổi theo thị trường nhất là khi lãi suất ở trong thời kỳ thường xuyên biến động mạnh.
II.3.2.2 Thay đổi bảng tổng kết tài sản
Để hiểu rõ hơn về biện pháp này, chúng ta lấy ví dụ về một ngân hàng thương mại A
(Đơn vị: triệu đồng) Tài sản có Tài sản nợ
Những tài sản có loại nhạy cảm với Những tài sản nợ loại nhạy cảm với
lãi suất 300 lãi suất 500
Những tài sản có loại có lãi suất Những tài sản nợ loại có lãi suất
cố định 700 cố định 500
Nếu nhà quản trị tin rằng lãi suất trong tương lai giảm thì ngân hàng không cần làm gì cả vì rằng ngân hàng có nhiều tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất hơn so với những tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất. Do đó ngân hàng A sẽ có lợi khi lãi suất giảm. Tuy vậy lãi suất dự tính trong tương lai chắc chắn tăng (giả định 5%) thì số thiệt hại của ngân hàng là 10 triệu đồng. Ngân hàng có thể loại bỏ rủi ro lãi suất bằng cách biến đổi bảng tổng kết tài sản của ngân hàng có một khe hở tích cực hơn. Bằng cách: tăng tổng số tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất và giảm tổng các tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất, với một lượng như thế nào đó sao cho có một khe hở không âm. Chẳng hạn ngân hàng A có thể đổi 300 triệu đồng tài sản có loại có lãi suất cố định thành 300 triệu loại tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất, khi đó khe hở sẽ dương và rủi ro lãi suất sẽ được loại trừ. Điều đó cũng có nghĩa là phải thu ngắn khoảng thời gian tồn tại của những tài sản có của ngân hàng này, hoặc một cách tương tự là kéo dài khoảng thời gian tồn tại của các tài sản nợ. Do có sự điều chỉnh lại những tài sản có và tài sản nợ, ngân hàng này sẽ bớt bị tác động những chao đảo của các lãi suất.
Rõ ràng đây là cách làm tích cực, nhưng thực tế thì quá trình thay đổi này có thể rất tốn kém với những hoạt động ngắn hạn. Ngân hàng này có thể bị ràng buộc vào những tài sản có và tài sản nợ những khoảng thời gian tồn tại riêng biệt nên khó có khả năng thay đổi. Các công cụ tài chính đã được phát triển giúp các ngân hàng quản lý rủi ro lãi suất của họ một cách dễ dàng hơn. Phương pháp “ trao đổi chéo lãi suất ” là một ví dụ về một công cụ tài chính như vậy.
II.3.2.3 Biện pháp trao đổi chéo lãi suất
Đổi chéo lãi suất giúp một tổ chức tài chính có nhiều tài sản có loại nhạy cảm về lãi suất hơn so với những tài sản nợ loại nhạy về lãi suất, có thể trao đổi các dòng tiền thanh toán với một tổ chức tài chính có nhiều tài sản nợ loại nhạy cảm về lãi suất hơn so với những tài sản có loại nhạy cảm về lãi suất. Như vậy giảm được rủi ro cho cả hai phía.
Giả sử Ngân hàng thương mại B có bảng cân đối tài sản như sau:
Đơn vị: triệu đồng
Tài sản có Tài sản nợ
Những tài sản có loại nhạy cảm với Những tài sản nợ loại nhạy cảm với
lãi suất 700 lãi suất 500
Những tài sản có loại có lãi suất Những tài sản nợ loại có lãi suất
cố định 300 cố định 500
Nhìn vào bảng cân đối tài sản của ngân hàng A và ngân hàng B, ta thấy với sự tăng hay giảm của lãi suất đều làm cho ngân hàng A và ngân hàng B đối diện với nguy cơ rủi ro lãi suất. Nhằm loại bỏ nguy cơ rủi ro lãi suất và làm tương xứng tính nhạy cảm về lãi suất của những tài sản có và những tài sản nợ của mình, ngân hàng A thực tế muốn chuyển 200 triệu đồng tài sản có loại có lãi suất cố định thành 200 triệu tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất. Còn ngân hàng B thực tế muốn chuyển 200 triệu đồng tài sản có loại nhạy cảm lãi suất thành 200 triệu tài sản có loại có lãi suất cố định. Hai bên này có thể thông qua môi giới để ký kết hợp đồng, trong đó ngân hàng A sẽ thanh toán cho ngân hàng B tiền lãi thu được của 20 triệu đồng tài sản có loại có lãi suất cố định. Đồng thời ngân hàng B sẽ thanh toán cho ngân hàng A tiền lãi thu được của 20 triệu đồng tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất. Cuộc đổi chéo lãi suất này nay sẽ dẩn đến loại bỏ hoàn toàn rủi ro lãi suất cho cả hai phía: ngân hàng A nay sẽ có thu nhập loại nhạy cảm với lãi suất của 20 triệu đồng tài sản có, món này sẽ cân xứng một cách chính xác với tiền thanh toán loại nhạy cảm với lãi suất của 20 triệu đồng tài sản nợ của nó; và ngân hàng B sẽ có thu nhập loại theo lãi suất cố định của 20 triệu đồng tài sản có, món này sẽ cân xứng một cách chính xác với tiền thanh toán theo lãi suất cố định của 20 triệu đồng tài sản nợ .
Cái hay của sự dàn xếp này là ở chổ nó không đòi hỏi một phía nào phải sắp xếp lại bảng quyết toán tài sản của mình. Như vậy biện pháp trao đổi lãi suất là biện pháp tương đối ít tốn kém để giảm rủi ro lãi suất.
II.3.2.4 Những biện pháp phòng ngừa rủi ro khác
Trên đây là một số biện pháp mà ngân hàng có thể tiến hành để đề phòng rủi ro lãi suất. Ngoài ra, để hạn chế rủi ro lãi suất một cách có hiệu quả, các nhà quản trị ngân hàng cần phải có tầm nhìn sâu rộng trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh cuả ngân hàng.
Ngay bên trong nội bộ của ngân hàng, cần phải có những người có chuyên môn giỏi, thành thạo với công việc kinh doanh của ngân hàng và có tính linh hoạt cao. Trong quá trình hoạt động ngân hàng có thể mời những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực ngân hàng để hợp tác, nghiên cứu, giảng dạy với mục đích nâng cao trình độ nghiệp vụ cho những cán bộ ngân hàng. Trong công tác tuyển chọn, cần phải chọn những người thực sự có năng lực, hiểu biết. Khả năng thích ứng nội tại chính bằng việc nâng cao nghiệp vụ, tư duy kinh doanh mới là cơ sở vững chắc nhất cho việc phòng ngừa loại rủi ro này.
C KếT luận
Nền kinh tế của một quốc gia có cất cánh lên được hay không, điều này phụ thuộc rất nhiều vào tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cũng như mọi hoạt động kinh tế khác, hoạt động ngân hàng không thể tránh khỏi rủi ro. Loại rủi ro mà đề án đề cập ở đây là rủi ro lãi suất. Rủi ro lãi suất là loại rủi ro có liên hệ đến tính chất không chắc chắn về các biến động lãi suất và lợi tức. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, rủi ro lãi suất ngày càng tăng và có nhiều biểu hiện phức tạp. Nó có thể làm sụp đổ cả hệ thống ngân hàng nếu như không có biện pháp phòng ngừa kịp thời và đúng đắn. Hiện nay các ngân hàng hiện đại trên thế giới đã có những biện pháp phòng ngừa loại rủi ro này rất hiệu quả, nhưng ở nước ta thì vấn đề này đang ở giai đoạn phôi thai. Việc nghiên cứu và tham khảo một số biện pháp mà các ngân hàng hiện đại trên thế giới đã và đang áp dụng, từ đó vận dụng vào hoàn cảnh nước ta để phòng ngừa loại rủi ro này hiện đang là vấn đề ngày càng bức xúc đối với các nhà quản trị ngân hàng. Trong đề án này, em cũng mạnh dạn trình bày những biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất mà các ngân hàng thương mại có thể áp dụng trong điều kiện nước ta hiện nay. Mặc dù hiểu biết của em còn hạn hẹp, em hy vọng rằng đề án này sẽ góp phần vào bước đường nghiên cứu nhằm xây dựng một hệ thống ngân hàng ngày càng ổn định và phát triển.Với bản thân em, hiện đang là sinh viên của khoa ngân hàng – tài chính có truyền thống học tập tốt, em sẽ cố gắng hơn nữa trong học tập, tu dưỡng đạo đức để mai này có thể đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng đất nước.
Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn cô giáo Nguyễn Thị Bất đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Mục lục
Lời nói đầu
Nội dung
Chương I Rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
I.1 Khái niệm về rủi ro lãi suất
I.1.1 Khái niệm về lãi suất
I.1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
I.1.3 Khái niệm về rủi ro lãi suất
I.2 Nguyên nhân rủi ro lãi suất
I.2.1 Sự không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ
I.2.2 Chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung Ương
I.2.3 Rủi ro lãi suất do giá trị của tài sản thay đổi khi lãi suất thị trường biến động
I.3 Tác động ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đến hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Chương II Biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất
II.1 Các phép đo rủi ro lãi suất
II.1.1 Dự đoán lãi suất
II.1.2 Phân tích tính nhạy cảm lãi suất của các tài sản
II.1.2.1 Phương pháp phân tích khoảng cách
II.1.2.2 Phương pháp phân tích khoảng thời gian tồn tại
II.2 Biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất ở các nhân hàng hiện đại
II.2.1 Vay thế chấp có lãi suất có thể điều chỉnh
II.2.2 Thị trường kỳ hạn các công cụ tài chính
II.2.3 Thị trường lựa chọn các công cụ nợ
II.3 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất trong điều kiện Việt Nam
II.3.1 Tình hình diễn biến lãi suất ở Việt Nam và tác động ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngân hàng
II.3.1.1 Giai đoạn 1988 – 1997
II.3.1.2 Giai đoạn 1998 – nay
II.3.2 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất trong điều kiện Việt Nam
II.3.2.1 áp dụng chính sách mềm dẻo cho các khoản vay
II.3.2.2 Thay đổi bảng tổng kết tài sản
II.3.2.3 Biện pháp trao đổi chéo lãi suất
II.3.2.4 Những biện pháp phòng ngừa rủi ro khác
C. Kết luận
Tài liệu tham khảo
1. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính Frederic S.Mishkin
2. Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng Nguyễn Văn Tiến
3. Tạp chí ngân hàng Số 3,11 - 1996
4. Tạp chí ngân hàng Số 7 - 1999
5. Tạp chí ngân hàng Số 1+2,3 - 2000
6. Thị trường tài chính tiền tệ Số 1,12 - 1999
7. Thị trường tài chính tiền tệ Số 1 - 2000
7. Tạp chí Con số và sự kiện
8. Nghiên cứu kinh tế
9. Kinh tế và phát triển
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35280.doc