Khi lạm phát gia tăng, nó làm mặt bằng giá cả hàng hoá chung tăng, nó tác động đến mọi mặt của nền kinh tế- xã hội, làm sai lệch các chỉ tiêukinh tế; làm phân phối lại thu nhập; kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản, vàng bạc. gây tình trạng khan hiếm hàng hoá giả tạo; giảm sức mua dân chúng về hàng hoá tiêu dùng. Do đó đời sống của người lao động sẽ khó khăn hơn; gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng vì ngân hàng sẽ không thu hút được các nguồn tiền nhàn rỗi cho hoạt động của mình.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác hại mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế, trong chừng mực nào đó, với một tỷ lệ lạm phát vừa phải, lạm phát lại là yếu tố để kích thích kinh tế tăng trưởng. Khi đó lạm phát trở thành công cụ điều tiết. Các nhà kinh tế còn gọi đó là liều thuốc bổ cho nền kinh tế. Tình hình lạm phát ở Mỹ và cộng hoà liên bang Đức những năm 1960 là một ví dụ điển hình. Do vậy, cần phải chấp nhận sự tồn tại của lạm phát trong nền kinh tế để có những quyết sách kiềm chế chứ không phải triệt tiêu nó. Vấn đề quan trọng là cần phải kiểm soát được lạm phát, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đảm bảo đời sống co người lao động.
Thi hành chính sách tiền tệ chặt chẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát. Thời gian gần đây, ngân hàng nhà nước đã nhận về mình trách nhiệm ổn định giá trị đồng tiền, chống lạm phát, và đã áp dụng khá thành công các công cụ của chính sách tiền tệ như: chính sách, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, mở các thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, đấu thầu tín phiếu kho bạc. Tuy nhiên, lạm phát là hiện tượng thường trực của lưu thông tiền giấy trong nền kinh tế đang chuyển đổi của chúng ta, nguy cơ lạm phát cao cũng thường xuyên phải đề phòng. Do đó một công cụ nhạy cảm như chính sách tiền tệ không thể xem nhẹ. Mặt khác ngày càng cần hoàn thiện hơn nữa chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát ở mức phù hợp, với tăng trưởng kinh tế nhanh trong sự ổn định kinh tế vĩ mô góp phần đưa đất nước không bị tụt hậu so với các nước trong khu vực.
37 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Sử dụng chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợng tiền tệ và song song với việc đó là chính phủ chi số tiền đó vào guồng máy kinh tế. Khối lượng tiền tệ sẽ không thay đổi vì nó được tăng giảm một lưọng như nhau. Tuy nhiên, nó có thể làm thay đổi kết cấu giữa tiêu dùng và tiết kiệm. Trong khi chính phủ dúng số tiền thu được để cấp phát cho những người có thu nhập thấp thì số tiêu thụ chung lại tăng lên, số đầu tư giảm dẫn đến giá cả tăng lên. Nếu chính phủ dùng số chi ngân sách để đầu tư thì đầu tư nhà nước tăng lên, đầu tư tư nhân giảm đi nhưng tổng đầu tư chung không thay đổi vì vậy vần lưu ý 2 trường hợp sau:
Chính sách tiền tệ chống suy thoái: ngân sách thăng bằng, có thể dịch chuyển thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ .
Chính sách tiền tệ chống lạm phát: ngân sách thăng bằng, vẫn có thể tác dụng ngược với chính sách tiền tệ, làm tăng vật giá.
Cho nên, ngay trong trường hợp ngân sách thăng bằng, cơ cấu thu chi ngân sách không cùng chiều vẫn có khả năng gây mất cân đối cục bộ trong quan hệ tiền- hàng.
b. Trường hợp ngân sách thiếu hụt.
Trong trưòng hợp này, chính phủ phải đi vay để bù đắp cho sự thiếu hụt ngân sách. Tác động của nó đối với nền kinh tế như thế nào sẽ tuỳ thuộc vào chính phủ vay ở đâu. Có bốn nguồn mà chính phủ có thể vay để bù đắp thiếu hụt ngân sách, đó là:
Vay dân cư
Vay hệ thống tín dụng và tài chính trong nước
Vay NHTW
Vay nước ngoài
Trường hợp vay NHTW thì sẽ được phát hành thêm, làm tăng khối lượng tiền trong nền kinh tế; khi chính phủ vay nước ngoài, thường là bằng vàng hay ngoại tệ thì phải ký quĩ số vay được tại NHTW để rút tiền mặt ra chi tiêu, làm khối lượng tiền tệ trong lưu thông tăng lên. Như vậy, cả hai trường hợp đều làm tăng khối lượng tiền tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng.
Trường hợp vay của dân cư và vay thị trường tài chính trong nước chỉ tác động nhẹ đến việc tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông nên hầu như không gây áp lực lạm phát tiềm tàng.
Do vậy, cách tốt nhất là phải thực hiện một ngân sách nhà nước thăng bằng. Không nên bội chi để bù đắp chi phí hành chính mà tối thiểu ngân sách phải phấn đấu thu để trang trải các nhu cầu chi tiêu thường xuyên. Chi cho đầu tư, nếu thiếu thì phải được tài trợ bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ để vay nhân dân, các ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ và trên thị trường vốn.
c. Trường hợp thặng dư ngân sách.
Đây là trường hợp rất quí tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và cầu tiền tệ, tuy nhiên trường hợp này hiếm khi xảy ra.
5. Các công cụ của chính sách tiền tệ được sử dụng trong việc kiểm soát lạm phát.
Để thấy rõ tác động của chính sách tiền tệ tới tỷ lệ lạm phát ta sẽ đi tìm hiểu từng công cụ một của chính sách tiền tệ.
5.1. Dự trũ bắt buộc.
5.1.1 Khái niệm.
Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các ngân hàng thương mại có khả năng biến những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả năng sinh ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để khống chế khả năng này, ngân hàng trung ương buộc các ngân hàng thương mại phải trích một phần tiền huy động được theo một tỷ lệ quy định gửi vào ngân hàng trung ương không được hưởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phưong tiện thanh toán cần khống chế (bị "vô hiệu hoá" về mặt thanh toán) trên tổng số tiền gửi nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán và khả năng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
5.1.2 Cơ chế tác động.
Khi lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng).
Như vậy công cụ DTBB mang tính hành chính áp đặt trực tiếp , đầy quyền lực và cực kỳ quan trọng để cắt cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hoà mức cung tiền tệ cho nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng lên rất lớn khó kiểm soát. Mặt khác một điều bất lợi nữa là khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ngừng cũng gây nên tình trạng không ổn định cho các ngân hàng.
Chính vì vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát ít đưọc sử dụng trên thế giới (đặc biệt là những nước phát triển , có nền kinh tế ổn định)
5.2. Tái cấp vốn.
5.2.1 Khái niệm.
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các ngân hàng thương mại. Khi cấp một khoản tín dụng cho ngân hàng thương mại, một mặt, NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các ngân hàng thương mại tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán cho họ.
Tuỳ từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác nhau. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, tái cấp vốn được thực dưới hình thức tái chiết khấu. Vì vậy đối với các quốc này, công cụ này được gọi là tái chiết khấu. Tại nhiều quốc gia khác( trong đó có Việt Nam), hoạt động tái cấp vốn của NHTW đối với NHTM được thực hiện dưới không chỉ được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu mà còn dưới nhiều hình thức khác nữa, thí dụ:
Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Cho vay dưới hình thức cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá ngắn hạn.
Cho vay trong thanh toán bù trừ.
Cho vay theo hình thức chỉ định.
Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng.
5.2.2 Cơ chế tác động.
Tái cấp vốn là phương thức để ngân hàng trung ương đưa tiền vào lưu thông, thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái cấp vốn, ngân hàng trung ương đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện việc tạo tiền, đồng thời khai thông thanh toán. Tái cấp vốn là đầu mối tăng tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lượng tiền và điều hành chính sách tiền tệ. Tuỳ theo tình hình từng giai đoạn, tuỳ thuộc yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần thực hiện chính sách "nới lỏng" hay "thắt chặt" tín dụng mà ngân hàng trung ương quy định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái cấp vốn đặt ra từng thời kỳ phải có tác dụng hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai đoạn đó.
Khi ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương mại cũng phải nâng lãi suất tín dụng của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên, giảm "cầu" về tín dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ (nhu cầu về giữ tiền của nhân dân giảm đi). Do đó đầu tư giảm đi dẫn tới tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Trường hợp ngược lại tức là ngân hàng trung ương kích thích tăng cung cầu tiền tệ và làm cho giá tăng (tỷ lệ lạm phát tăng). ở các nước công cụ nghiệp vụ trực tiếp để thực hiện tái chiết khấu là thương phiếu, hoặc các loại tín phiếu là những công cụ rất thông dụng trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn nhưng ở nước ta chưa có công cụ truyền thống để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu. Mặt khác công cụ tái chiết khấu vừa có khả năng giải quyết khả năng thanh toán vừa có khả năng mở rộng khối lượng tín dụng cho nền kinh tế. Cho nên có thể ví công cụ tái chiết khấu là cáí bơm hai chiều vừa hút vừa đẩy. Khi bơm đảy ra là cung thêm tiền cho nền kinh tế, khi có hiện tượng thiểu phát. Và bơm hút vào thu hồi lượng tiền khi nền kinh tế có hiện tượng lạm phát.
Tuy nhiên khi NHTW ấn định lãi suất chiết khấu tại một mức nào đó sẽ xảy ra những biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu vì khi đó lãi suất cho vay thay đổi. Những biến động này dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay chiết khấu và do đó thay đổi trong cung ứng tiền tệ làm cho việc kiểm soát cung ứng tiền tệ vất vả hơn. Đây chính là hạn chế của công cụ tái chiết khấu trong việc kiểm soát lạm phát.
5.3. Hoạt động thị trường mở.
5.3.1 Khái niệm.
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua và bán các giấy tờ có giá chủ yếu là ngắn hạn( Tín phiếu kho bạc, Tín phiếu NHTW, Chứng chỉ tiền gửi...) trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung- cầu giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng thương mại dẫn đến tăng hay giảm khối lượng tiền tệ, cụ thể :
Bằng cách bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để giảm lạm phát.
Ngược lại, khi NHTW mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại.
5.3.2 Cơ chế tác động.
a. Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng.
Nếu như công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW, tức là NHTW phải chờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu... đến để xin "tái cấp vốn" thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của ngân hàng trung ương để điều khiển khối lượng tiền, qua đó đã kiểm soát được lạm phát.
Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động phát hành tiền trung ương vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách mua bán các loại trái phiếu ngân hàng quốc gia nhằm tác động trước hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của các NHTM và các tổ chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh toán của các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ chúng ta. Khi nghiên cứu phần trước đã biết rằng khối lượng tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát , việc thay đổi cung tiền tệ sẽ làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.
Trong nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương điều khiển cả khối lượng tiền tệ và lãi suất tín dụng thông qua "giá cả" mua và bán trái phiếu. Tất cả những cuộc can thiệp vào khối lượng tiền bằng công cụ thị trường mở đều được tiến hành dường như là lặng lẽ và vô hình, "không can thiệp thô bạo", điều khiển mạnh mà không chứa đựng "một chút mệnh lệnh". Một mặt nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại. Khi có một sai lầm trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở, như khi thấy cung tiền tệ tăng hoặc giảm quá nhanh ngân hàng thương mại có thể lập tức đảo ngược lại bằng cách bán trái phiếu hoặc mua trái phiếu và ngược lại.
Đây là công cụ cực kỳ quan trọng của nhiều NHTW, và được coi là vũ khí sắc bén nhất đem lại sự ổn định kinh tế nói chung, ổn định lạm phát nói riêng.
b. Tác động qua lãi suất.
Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất thị trường thông qua hai con đường:
Thứ nhất, khi dự trữ của các ngân hàng bị ảnh hưởng nó có tác động đến cung cầu vốn của NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền NHTW sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động Arbitrage và dài hạn trên thị trường tài chính. Tổng cầu của nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định một mức lãi suất thị trường xác định.
Thứ hai, việc mua bán chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại chứng khoán đó trên thị trường mở và do đó tác động đến giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu đó là loại chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, tổng cầu AD và sản lượng.
Nhưng ở nước ta đang ở trong thời kỳ đặt nền móng. Bởi vì nghiệp vụ này đòi hỏi phải có môi trường pháp lý nhất định. Trong thời kỳ lạm phát đến 3 con số, Việt nam đã áp dụng chính sách lãi suất để đẩy lùi lạm phát rất nhanh chóng. (nhờ vào đặc điểm riêng biệt của lạm phát ở Việt nam). Chúng ta sẽ nghiên cứu xem chính sách lãi suất tác động tới lạm phát như thế nào.
5.4. Lãi suất tín dụng.
5.4.1 Khái niệm.
Lãi suất được xem là công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ gián tiếp, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền trong lưu thông. Nhưng sự tăng, giảm lãi suất có thể kích thích sản xuất hoặc kìm hãm sản xuất. Vì vậy, nó là một công cụ rất lợi hại, có sức phản công ghê ghớm. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ.
5.4.2 Cơ chế tác động.
Lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Nó được áp dụng nhất quán trong một lãnh thổ và được ngân hàng nhà nước điều hành chặt chẽ và mềm dẻo tuỳ theo từng thời kỳ cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng lãi suất tác động làm thay đổi cầu tiền tệ trong dân cư, và làm thay đổi tỷ lệ lạm phát. Thật vậy, khi có lạm phát. Ngân hàng nhà nước sẽ tăng lãi suất tiền gửi. Chính vì thế người dân và các công ty sẽ đầu tư vào ngân hàng (gửi tiền vào ngân hàng) có lợi hơn là đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Như vậy cầu tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm, làm cho tổng cầu giảm dẫn tới giá giảm. Nhưng chúng ta biết rằng in= ii + ir trong đó in là tỷ lệ lãi suất danh nghĩa, il: tỷ lệ lãi suất thực tế và ii là tỷ lệ lạm phát, do đó khi có lạm phát cao, áp dụng chính sách lãi suất ở đây chính là việc tăng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa cao hơn hẳn tỷ lệ lạm phát (để duy trì lãi suất thực dương) qua đó mới tạo được cầu tiền danh nghĩa tương ứng với cầu tiền thực tế. Tóm lại khi lãi suất tiền gửi cao thì động viên được nhiều người gửi tiền vào NHTM và ngược lại. NHTM mua tín phiếu NHNN với lãi suất kinh doanh có lãi thì sẽ giảm được khối lượng tín dụng. Nếu lãi suất tiền (cho vay) cao sẽ làm nản lòng người vay vì kinh doanh bằng vốn vay NHTM không có lợi nhuận. Như vậy dùng công cụ lãi suất có thể tăng hoặc giảm khối lượng tín dụng của NHTM để đạt được mục đích của chính sách tiền tệ (ổn định tỷ lệ lạm phát). Tuỳ từng thời điểm mà chính sách lãi suất được áp dụng thành công trong việc chống lạm phát.
ở Việt nam đã áp dụng rất thành công chính sách lãi suất vào những năm cuối thập kỷ 80 trong việc giảm tỷ lệ lạm phát từ 3 con số xuống còn một con số do nền kinh tế ở nước ta lúc đó là nền kinh tế tuy đã mở cửa nhưng chưa mở hẳn, do đó chỉ có tác động trong nước đầu tư bằng Việt nam đồng chứ quốc tế ít đầu tư vào. Chính vì thế ngày nay không thể áp dụng chính sách lãi suất với tỷ lệ lãi suất rất cao để giảm tỷ lệ lạm phát mà phải quan tâm đến mối quan hệ giữa lãi suất trong nước và lãi suất nước ngoài . Trong việc kiểm soát lạm phát đây là công cụ cổ điển, các nước ngày càng ít sử dụng hơn. Tuy đây là một công cụ rất quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát và huy động vốn cũng như cung cấp vốn.
5.5. Hạn mức tín dụng.
5.5.1 Khái niệm
Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp một cách trực tiếp mang tính hành chính của NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ chức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà ngân hàng trung ương phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng đó, trong định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể và nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
5.5.2 Cơ chế tác động.
Ngoài những công cụ cơ bản trên, ngân hàng nhà nước còn sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để điều hành, làm cho khối lượng tín dụng đối với NHTM không vượt quá mức cho phép để từ đó bảo đảm mức lạm phát đã được phê duyệt. Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng tối đa mà NHTW có thể cung ứng cho tất cả các NHTM trong thời kỳ nhất định phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ.
Đây là một chỉ tiêu có quan hệ trực tiếp đến khối lượng tiền trung ương được cung ứng thêm (hay giảm bớt) đối với các NHTM. Khi hạn mức tín dụng giảm, dẫn tới cung tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm làm cho tổng cầu giảm và cuối cùng là giá giảm. Với mục tiêu ổn định đồng tiền và chống lạm phát được coi là mục tiêu số 1, thì công cụ hạn mức tín dụng là cần thiết.
Song việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng cũng là vấn đề khó khăn không nhỏ cho các ngân hàng thương mại. Tiền gửi của nhân dân không thể không thu nhận hàng ngày hàng giờ. Nếu nhận tiền gửi mà không được cho vay thì chẳng khác nào có đầu vào mà không có đầu ra. Như vậy đầu ra của vốn huy động bị bế tắc bởi hạn mức tín dụng. Việc xác định hạn mức tín dụng là rất cần thiết, để thực hiện mục tiêu chống lạm phát. Song nó cũng có những mặt trái gây khó khăn cho NHTM. Cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn đó.
Phần II
II/ Thực trạng của việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát Lạm phát những năm qua ở Việt Nam.
1. Dự trữ bắt buộc.
Tại điều 45 pháp lệnh ngân hàng nhà nước đã quy định "NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất ở mức 35% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Trong trường hợp cần thiết hội đồng quản trị ngân hàng nhà nước quyết định tăng tỷ lệ dự trữ trên mức 35% và NHNN trả lãi mức tăng đó. Trên thực tế công cụ này được bắt đầu sử dụng từ cuối năm 1989 với tổng số tiền các NHTM phải ký gửi hơn 100 tỷ đồng, năm 1990 là 356 tỷ đồng và các năm sau vẫn được thực hiện theo mức 10% tính trên số tiền gửi của khách hàng.
Trong thời gian đầu, tuy pháp lệnh ngân hàng đã quy định như trên nhưng thực tế trong một thời gian dài, tỷ lệ 10% được ổn định một cách cố định, mặc dù chính sách tín dụng từ năm 1989 đến nay đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau theo chủ trương lúc thì thắt chặt, lúc thì nới lỏng (nhằm kiểm soát lạm phát). Nghĩa là việc thực hiện đưa tiền vào lưu thông điều khiển khối lượng tiền lưu thông luôn được thực hiện theo những dự kiến nhất định, bằng những công cụ khác nhau. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc vẫn được thực hiện với một tỷ lệ cố định.
Đầu năm 1994, Ngân hàng trung ương đã có quy định bổ sung : tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi không kỳ hạn là 13%, đối với loại tiền gửi là 7% nhưng cũng là để thi hành cho một thời gian dài. Sự ổn định như vậy đã nói lên rằng, ở nước ta vào thời kỳ này mới bước đầu sử dụng công cụ này , nên chưa có khả năng điều khiển nó một cách linh hoạt theo tình hình tiền tệ luôn biến động trong lưu thông, nên chưa thực hiện đầy đủ vai trò điều khiển khối lượng tiền lưu thông hạn chế bội số tín dụng của các NHTM như chức năng vốn có của công cụ này. Đặc biệt ở năm 1991-1992 các ngân hàng quốc doanh ngoài số vốn dự trữ tối thiểu theo luật định còn có một lượng vốn tiền gửi khá lớn taị NHTW. Điều này trong một chừng mực nhất định đã vô hiệu hoá công cụ dự trữ bắt buộc vì như vậy khi nâng cao hay hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì hầu như cũng chẳng ảnh hưởng gì đến khả năng thanh toán và khối lượng tín dụng cung ứng. Mặt khác một số vấn đề tồn tại về mặt nghiệp vụ và tổ chức thực hiện dự trữ bắt buộc đã giảm tính chất nhaỵ cảm của công cụ.
Tuy nhiên, thời gian qua NHNN cũng đã sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc nhằm mục tiêu góp phần điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc kiểm soát lạm phát ở mức thấp. Đến nay để chuẩn bị cho luật NHNN có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/10/1998, vấn đề cần đặt ra là phải nghiên cứu nội dung của luật NHNN nhằm đưa ra quy chế dự trữ bắt buộc phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn mới trong đó mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế cũng như kiểm soát lạm phát là quan trọng nhất.
2. Tái chiết khấu.
Tái chiết khấu là một công cụ khá nhạy cảm trong quá trình điều hành khối lượng tiền tệ và đã được nhà nước cho phép sử dụng tại điều 41 và 43 pháp lệnh NHNN Việt Nam. Nhưng trong thực tế ở nước ta những năm qua do thừa hưởng tiềm thế của một nền lưu thông trong đó không được phép tồn tại tín dụng thương mại, vì vậy chưa có các công cụ truyền thống trực tiếp để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu như các loại kỳ phiếu, thương phiếu... Luật thương mại nước ta mới được công bố và từ ngày 1-1-1998 mới có giá trị thi hành, bởi vậy nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu của NHTM chưa được quy định. Do đó việc tái chiết khấu được thực hiện dựa trên căn cứ các chứng từ do NHTM đã cho vay, nhưng chưa đến hạn các doanh nghiệp phải trả nợ lãi. Căn cứ vào chứng từ đó NHNN cho các NHTM vay lại những khoản nợ mà các NHTM đã cho các doanh nghiệp vay. Một mặt NHTW còn thực hiện phương thức "mua lại" các dự án đã được các ngân hàng thẩm định trước khi đầu tư nhưng NHTM không đủ vốn. Trong thời gian qua do chưa có những công cụ nghiệp vụ để thực hiện công cụ lãi suất tái chiết khấu nên ngân hàng nhà nước Việt Nam đã sử dụng hình thức cho vay cầm cố. Hình thức này được thực hiện bằng cách, các NHTM và các tổ chức tín dụng đem một số loại giấy tờ có giá trị đến NHTW làm vật thế chấp để vay tiền. Loại tín dụng này nhằm giải quyết khó khăn tài chính tạm thời cho các NHTM. Hình thức mua lại các dự án đầu tư tái cấp vốn theo hình thức cho vay thế chấp một thời gian dài là công cụ thay thế cho thương phiếu và kỳ phiếu . Những hạn chế của công cụ tái chiết khấu ở nước ta trong thời gian qua đó là tất yếu trong thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường . Tuy nhiên cùng với các công cụ khác của chính sách tiền tệ công cụ tái chiết khấu (chưa hoàn thiện) đã góp phần đưa tỷ lệ lạm phát ở nước ta từ mức 2 con số ở các năm trước xuống mức 1 con số ở năm 1993.
3. Hoạt động thị trường mở.
Đây là một trong những công cụ quan trọng được NHTW các nước sử dụng để điều hành có hiệu quả chính sách tiền tệ. Thậm chí một số ngân hàng coi đây là công cụ sắc bén nhất trong các hoạt động của mình.
Nhưng ở Việt Nam, nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp gồm suốt 4 thập kỷ qua, phù hợp với cơ chế đó NHNN Việt Nam không thể sử dụng các công cụ gián tiếp (dự trữ bắt buộc, thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu) để điều hành chính sách tiền tệ. Công cụ đó chỉ có thể và trên thực tế bước đầu đã phát huy tác dụng khi hệ thống NHVN đã thực sự đổi mới. Điều 21 luật NHNN Việt nam được quốc hội nước CHXHCN Việt nam khoá 10 kỳ họp thứ 2 thông qua quy định "NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Quy định trên về mặt phương diện pháp lý luật NHNN Việt Nam đã mở ra cho công cụ thị trường mở một lối đi khá thông thoáng, không bị ức chế bới khía cạnh nào. Trên thực tế ở Việt Nam từ năm 1996 đã có những đợt hoạt động của các thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, ngoại tệ bên ngân hàng. Trong đó năm 1996 là 19 đợt, năm 1997 là 35 đợt đấu thầu trái phiếu, khối lượng trúng thầu là 2912,5 tỷ đồng trong đó các công ty bảo hiểm mua 828 tỷ đồng, án tổ chức tín dụng mua 2.084,5 tỷ đồng. Điều này cho thấy vốn nằm trong các định chế tài chính còn khá nhiều nhưng cho vay ra có nhiều rủi ro. Các định chế tài chính quay trở lại mua tín phiếu kho bạc để đảm bảo an toàn và chống lỗ. Tuy nhiên do thị trường đấu thầu chỉ bán tín phiếu kho bạc có kỳ hạn một năm nên không tạo ra công cụ tiền tệ để thúc đẩy sự ra đời của hoạt động thị trường mở của NHTW. Năm 1998 NHNN phối hợp với bộ tài chính tiếp tục phát hành thường xuyên trái phiếu kho bạc, số dư trái phiếu đến cuối tháng 9/1998là 3478,7 tỷ đồng. Tuy nhiên đến nay cho thấy các điều kiện để đưa thị trường mở vào hoạt động là chưa chín muồi, và chưa thực sự trở thành công cụ theo đúng nghĩa của nó. Chúng ta có thể thấy rằng nghiệp vụ thị trường mở là yếu tố tác động quyết định nhất đến những biến động trong cung ứng tiền tệ, làm thay đổi cơ sở tiền tệ trên thị trường. Chính vì vậy đây là công cụ hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát. Do đó việc chính phủ tìm những giải pháp để mau chóng đưa thị trường mở hoạt động một cách đầy đủ là vô cùng quan trọng và cấp thiết.
4. Lãi suất.
Trước năm 1933, hệ thống ngân hàng ở Việt nam là hệ thống ngân hàng một cấp, về thực chất nó là một bộ phận của ngân sách nhà nước. Mối quan hệ của ngân hàng với kinh tế ngoài quốc doanh và với dân chúng là hạn chế : khi ngân sách nhà nước thâm hụt, các ngân hàng phát hành thêm tiền để bù đắp. Khi các DNNN thiếu vốn thì ngân hàng phát hành tiền cho vay tín dụng. Vì vậy dẫn tới lạm phát trầm trọng tới mức 3 con số (trong thời kỳ này ngân hàng đã áp dụng chính sách lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất tiền gửi và nhỏ hơn tốc độ trượt giá. Đây là sự bất hợp lý, cho nên không huy động được vốn trong dân và làm cho hệ thống ngân hàng tê liệt) Tháng 3 năm 1988, đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong chính sách tiền tệ ở Việt nam bằng nghị định 53 và tháng 5 năm 1990 là việc ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng HTX tín dụng và công ty tài chính. Sự hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp cùng với việc áp dụng chính sách lãi suất đã góp phần rất cơ bản vào việc kiềm chế lạm phát những năm sau đó.
Vào đầu năm 1989, chính phủ đã quyết định thay đổi một cách cơ bản chính sách lãi suất. Quyết định số 39/HĐBT ngày 10/4/1989của HĐBT đưa ra các nguyên tắc cơ bản để xác định lãi suất tiền gửi và cho vay của NHNN. Các nguyên tắc đó là:
- Lãi suất áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế và được điều chỉnh theo sự biến động của chỉ soó giá cả trên thị trường xã hội.
- Mọi nguồn vốn mà ngân hàng huy động để cho vay đều được hưởng lãi, mọi khoản vốn ngân hàng cho vay đều phải thu lãi.
- Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi bình quân 0,6% tháng.
- Trong cơ cấu lãi suất tiền gửi và cho vay phải bao gồm lãi suất cơ bản (lãi suất thực dương) và chỉ số trượt giá của thị trường xã hội.
Cụ thể từ giữa tháng 3-1989 đã đưa lãi suất tiền gửi tiết kiệm lên cao hơn chỉ số lạm phát hàng tháng. Tháng 1 và tháng 2 năm 1989 chỉ số giá chỉ tăng hơn 7,4% và 4,2% nhưng lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng và không có kỳ hạn đã được mạnh dạn đưa lên 12% và 9% mỗi tháng . Biện pháp lãi suất thực dương này lần đầu tiên được thực thi đã phá vỡ sự trì trệ của các kênh thu hút tiền thừa trong dân và khắc phục căn bản sự tê liệt của chính sách lãi suất cần ổn định từ năm 1985 đến quý I năm 1989. Số dư tiền tiết kiệm tăng lên nhanh chóng ngay tháng đầu, quý đầu. áp dụng chính sách này ngay lần đầu đã giảm lạm phát một cách nhanh chóng (cũng bất lợi và khó khăn đó là chỉ 3 tháng sau đã trở thành thiểu phát. Tháng 6/1992. NHNN đã điều chỉnh lãi suất theo hướng :
- Đảm bảo lãi suất dương, tức là lãi suất cho vay không thấp hơn lãi suất huy động bình quân.
- NHNN chỉ quy định mức lãi suất cho vay tối đa và mức lãi suất tiền gửi tối thiểu, còn mức lãi suất cụ thể sẽ do các NHTM quyết định.
- Xoá bỏ cơ chế nhiều mức lãi suất phân biệt theo thành phần kinh tế cũng như theo các loại hình doanh nghiệp , thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế .
Đây là bước cải tiến cơ bản theo hướng từng bước tự do hoá lãi suất. Trong những năm tiếp theo biện pháp chủ yếu để kiểm soát cung ứng tiền tệ (qua đó kiểm soát được lạm phát) là nâng cao lãi suất bằng biện pháp hành chính lên mức cao, thực hiện thắt chặt tín dụng cấp cho khu vực kinh tế quốc doanh và ngân sách nhà nước. Tiếp theo một bước cải cách chính sách lãi suất nữa đó là với quyết định 381/QĐ-NH ngày 28-12-1995 của thống đốc ngân hàng nhà nước, kể từ ngày 1-1-1996 lãi suất trần chính thức trở thành một trong những công cụ chủ chốt để điều hành chính sách tiền tệ. Đây là quyết định vĩ mô có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất trong năm 1996. Từ mức trần 1,75%/tháng dành cho khu vực thành thị và 2% /tháng dành cho khu vực nông thôn, cho đến thời điểm này lãi suất trần đã áp dụng thống nhất cho cả hai khu vực thành thị và nông thôn là 1,2% tháng đối với cho vay ngắn hạn và 1,25% /tháng đối với trung và dài hạn, không chỉ góp phần biến đổi cơ bản thực trạng tín dụng mà còn chứng minh sự vận dụng khá chuẩn xác những giải pháp đặc thù trong hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Bước đầu áp dụng không tránh khỏi những vướng mắc nhưng sau một thời gian khá ngắn, hệ thống NHTM dường như đã thích nghi được với cơ chế lãi suất trần, tự điều chỉnh nhằm tối ưu hoá cơ cấu tín dụng và cân đối tài chính để sẵn sàng ứng chiếu với 5 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất của NHNN trong 2 năm 1996-1997 và lần đầu chỉnh tăng lãi suất trần gần đây trong tháng 1/1998 (lãi suất cho vay ngắn hạn từ 1% lên 1,2% /tháng, lãi suất cho vay trung, dài hạn từ 1,1% lên 1,25%/tháng. Hai mức lãi suất cơ bản này áp dụng chung cho cả thành thị và nông thôn).
Thành quả lớn nhất mà cơ chế lãi suất trần mang lại chính là đã tạo ra các cơ hội giảm chi phí một cách bình đẳng đối với mọi thành phần doanh nghiệp , tăng cường thêm động lực cho guồng máy kinh tế cũng như góp phần kiềm chế tốt tốc độ lạm phát.
Qua thực tiễn cho thấy, trong những năm gần đây chính sách lãi suất của NHNN đã được sử dụng như một công cụ quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát.
5. Hạn mức tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường phát triển hệ thống các NHTM và các tổ chức tài chính được hình thành rất đa dạng, thì việc điều khiển khối lượng tiền được thông qua các công cụ lãi suất chiết khấu và các công cụ truyền thống khác là chủ yếu. Nhưng đối với nước ta, công cụ truyền thống chưa thể phát huy được tác dụng thì việc định ra công cụ trung gian trong thời gian chuyển tiếp đã có một ý nghĩa lớn và tác dụng thiết thực cho việc điều hành khối lượng tiền tệ. Đó là hạn mức tín dụng.
Việc đưa ra và áp dụng công cụ hạn mức tín dụng trong những năm qua đã có những kết quả chứng tỏ công cụ này phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.
Năm 1992, mức dự kiến tăng trưởng kinh tế 4,5% , chỉ số lạm phát dự kiến/mức cho phép) là 30%/năm; NHTW đã khống chế hạn mức tín dụng đối với tất cả hệ thống NHTM ở mức 34,5%. Kết quả thực tế năm đó, mức tăng trưởng kinh tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến, mức lạm phát 17,5% tiền tệ đi dần vào ổn định. Tất nhiên theo các chỉ số đó NHTW cũng chỉ đưa thêm tiền vào lưu thông mức 23% (thấp hơn mức dự kiến). Các năm sau, NHTW cũng điều hành công cụ này theo phương thức tương tự và đã có tác dụng tốt.
Tuy nhiên cuối năm 1995 do hạn mức tín dụng đã có ngân hàng thừa hơn 1 ngàn tỷ đồng, gửi NHTW hưởng lãi suất 1,1% nên gây lỗ. Vì vậy việc xác định hạn mức tín dụng là rất cần thiết để thực hiện mục tiêu trên chống lạm phát. Nhưng việc điều hành công cụ này chỉ có hiệu quả khi hệ thống NHTM quốc doanh còn chiếm lĩnh phần lớn thị trường tiền tệ, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ (lãi suất tín dụng, can thiệp thị trường hối đoái...), cùng các biện pháp hành chính khác.
Chính sách tiền tệ đã góp phần quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát những năm qua. Nhưng đứng trước nguy cơ có thể dẫn tới tái lạm phát (tuy rằng tỷ lệ lạm phát năm qua rất thấp 3,6%), việc hoàn thiện hơn nữa chính sách tiền tệ trong điều kiện hiện nay là cần thiết.
Phần III
III/ Giải pháp
1. Các nguy cơ dẫn tới việc tái lạm phát.
Mặc dù mấy năm qua lạm phát đã được kiềm chế. Song nền kinh tế Việt nam vẫn tồn tại nhiều vấn đề chưa ổn định vững chắc, có thể dẫn tới việc tái lạm phát. Các nhân tố tiềm tàng làm phát sinh lạm phát cần phải được tính đến khi kiểm soát lạm phát là.
- Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội chậm được cải thiện, có mặt tiếp tục xuống cấp, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư còn thấp, nhiều tiềm lực của dân chưa được khai thác vào phát triển sản xuất , tài sản công và vốn đầu tư của nhà nước còn bị thất thoát lãng phí lớn.
- Sức sản xuất của xã hội chưa được giải pháp triệt để, hiệu quả kinh tế còn thấp, hạn ché nguồn tích luỹ vốn đầu tư cũng như khả năng cải thiện đời sống.
- Nền kinh tế thị trường Việt Nam đang ở trình độ ban đầu, vừa chưa được phát triển đầy đủ, vừa chưa được quản lý tốt, chủ yếu do hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, năng lực và hiệu lực quản lý vĩ mô chưa đáp ứng yêu cầu. Bộ máy nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng và khu vực doanh nghiệp nhà nước còn bộc lộ nhiều yếu kém.
- ở nước ta những năm qua, nhu cầu đầu tư về xây dựng cơ bản tăng nhanh trên cả hai khu vực nhà nước và tư nhân. Đầu tư nước ngoài vào Việt nam ngày một gia tăng do đó ảnh hưởng tới thị trường tiền tệ và thị trường hàng hoá .
- Ngân sách nhà nước đứng trước những yêu cầu lớn về cân đối thu chi và tạo nguồn bù đắp thiếu hụt hàng năm, trong khi đó môi trường luật pháp môi trường tài chính còn đang trong quá trình tạo lập và hoàn cảnh. Vì vậy, khả năng mất cân đối trong ngân sách nhà nước lạm phát tiền tệ là chưa thể lường hết được.
Những nhân tố trên có thể gây ra lạm phát trong những năm tới.
2. Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát
Để hoàn thiên chính sách tiền tệ chúng ta phải biết hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ cũng như phối hợp điều hành các công cụ đó.
2.1. Dự trữ bắt buộc.
Công cụ dự trữ bắt buộc có ưu điểm lớn trong việc kiểm soát cung tiền tệ là nó có thể tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng đầy quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Tuy vậy, khi mà dự trữ bắt buộc không được trả lãi, chúng tương đương với một khoản thuế và có thể dẫn tới tình trạng phi trung gian hoá hơn nữa, dự trữ bắt buộc thiếu tính mềm dẻo, hoặc những thay đổi lớn và thường xuyên ở mức dự trữ cũng sẽ gây nên hỗn loạn và tổn thất cho các NHTM. Nhưng trước tình trạng lạm phát thấp như hiện nay theo tôi cần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Bởi vì nhu cầu vốn của nền kinh tế khá lớn, nhưng khả năng huy động vốn hạn chế, cho nên việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong giai đoạn này sẽ hỗ trợ thêm nguồn vốn cho các tổ chức tín dụng cho vay nền kinh tế. Mặt khác sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán ở mức kiểm soát được, và tỷ lệ lạm phát cũng có thể kiểm soát được sao cho phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế. Do vậy hạ thấp tỉ lệ dự trữ bắt buộc có thể chấp nhận và phù hợp trong thời kỳ này.
Một mặt khi quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần chú ý tới quy mô hoạt động của các tổ chức tín dụng hiện nay sao cho hợp lý. Còn về đối tượng thi hành quy chế dự trữ bắt buộc cần bổ sung thêm ngân hàng HTX quỹ tín dụng nhân dân và HTX tín dụng để phù hợp với quy định nội dung luật NHNN. Trong giai đoạn hiện nay, các NHTM gặp khó khăn trong việc huy động vốn đối với loại tiền gửi từ 12 tháng trở lên (chiếm 15% so với tổng nguồn vốn huy động). Chính vì vậy nếu muốn huy động được loại tiền gửi này các NHTM phải nâng mức lãi suất tiền gửi (huy động vốn) lên cao sát lãi suất tiền cho vay. Do đó nếu quy định loại tiền gửi này cũng phải chịu tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì sẽ gây khó khăn cho các NHTM trong hoạt động kinh doanh cũng như không khuyến khích được huy động vốn trung và dài hạn để cho vay và đầu tư phát triển . Vì vậy trong giai đoạn hiện nay chưa nên quy định dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên mà chỉ tạm thời quy định dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi huy động dưới 12 tháng. Việc quy định trên sẽ khuyến khích các NHTM bằng các nghiệp vụ của mình (phát hành trái phiếu NHTM phát hành kỳ phiếu...v.v) thu hút nguồn vốn cho mục tiêu đầu tư và phát triển .
Nhưng để đảm bảo khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng, cần xử lý kỷ luật việc thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng. Do đó ngoài việc phạt nặng các tổ chức tín dụng bằng hình thức lãi suất, ban thanh tra NHNN và các vụ liên quan ở NHTW cần tăng cường kiểm tra việc thực hiện chế độ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác.
2.2. Tái chiết khấu
Để thực hiện được công cụ tái chiết khấu có hiệu quả đòi hỏi phải có các công cụ truyền thống của nó là kỳ phiếu và thương phiếu. Thương phiếu là giấy chứng minh cho hành vi mua chịu bán chịu hàng hoá , hành vi này gọi là tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại sẽ giúp cho các doanh nghiệp rút ngắn chu kỳ kinh doanh của mình, tăng vòng quay của vốn. Do đó sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế cao. Vì vậy muốn áp dụng công cụ tái chiết khấu như là một công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát đòi hỏi phải có nền tảng vững chắc cho sự ra đời của tín dụng thương mại.
Lãi suất tái chiết khấu có mối quan hệ chặt chẽ với lãi suất chiết khấu của NHTM. Vì vậy để hoàn thiện công cụ tái chiết khấu cần hoàn thiện việc chiết khấu kỳ phiếu do Ngân hàng thương mại phát hành cụ thể ở đây là chứng từ có giá. Hiện nay các ngân hàng thường dùng hình thức nhận cầm cố để cho vay hơn là nhận chiết khấu các chứng từ có giá. Nhưng theo tôi hình thức nhận cầm cố cho vay có nhiều nhược điểm hơn so với hình thức chiết khấu. Thứ nhất đó là thủ tục phức tạp hơn, thứ hai là nhu cầu về vốn được thoả mãn ít hơn. Vì vậy bản thân cho rằng các ngân hàng nên mở rộng các hình thức chiết khấu chứng từ có giá để tạo thuận lợi hơn và bảo đảm lợi ích cho khách hàng.
- Nên xác định mức chiết khấu bằng với lãi suất cho vay được tính bằng phí ngân hàng cộng với lãi suất sinh lợi của các chứng từ có giá, nhưng tối đa không vượt quá mức tiền của lãi suất cho vay ngắn hạn.
Mặt khác ngân hàng trung ương cần định rõ hơn việc vận dụng chính sách và công cụ tái chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu: có như vậy mức kích thích việc xuất hiện các loại thương phiếu, kỳ phiếu và chính chúng là cơ sở cho phép ngân hàng nhà nước trung ương vận dụng công cụ tái chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu hữu hiệu để thực thi chính sách tiền tệ.
2.3. Hoạt động thị trường mở.
Về mặt lý luận cũng như trong thực tế thị trường mở là một công cụ quan trọng điều tiết linh hoạt khối lượng tiền tệ trong lưu thông và liên quan trực tiếp đối với cơ chế phát hành tiền của ngân hàng trung ương. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay cần đưa công cụ thị trường mở vào hoạt động và tăng cường sử dụng công cụ này. Tuy nhiên đến nay cho thấy các điều kiện để đưa thị trường mở vào hoạt động còn chưa chín muồi. Vì vậy cần có các giải pháp hoàn thiện công cụ này để mau chóng đưa công cụ này vào hoạt động. Trước hết việc vận dụng công cụ thị trường mở đòi hỏi trước mắt không chỉ đối với tín phiếu kho bạc mà ngay cả với trái phiếu kho bạc và các chứng chỉ đầu tư của nhà nước (trái phiếu công trình), cần phải phát hành theo phương thức đấu thầu thông qua hoạt động của NHNNTW và án NHTM trong đó tăng cường vai trò của NHNNTW trong việc phát hành tiền để mua trái phiếu chính phủ và sau đó thực hiện mua bán lại trái phiếu chính phủ với các NHTM, với các tổ chức kinh tế theo tín hiệu thị trường .
Một mặt :
- Cần ban hành chính thức các quy chế hoạt động thị trường mở phù hợp với luật.
- Thành lập ban chỉ đạo thị trường mở để tiến hành mua bán thử
- Làm việc với bộ tài chính phát hành các tín phiếu kho bạc có kỳ hạn dưới 12 tháng để tạo công cụ cho thị trường mở. Đồng thời làm việc với Bộ tài chính để chuyển số nợ hiện nay của Bộ tài chính vay NHNN thành các trái phiếu chính phủ để NHNN sử dụng công cụ này cho hoạt động thị trường mở.
- NHNN phát hành tín phiếu NHNN thường xuyên, định kỳ với thời hạn ngắn.
- Hoàn thiện hệ thống thanh toán bù trừ để các ngân hàng tiến hành các giao dịch ngắn, phát triển nghiệp vụ vay mượn thúc đẩy thị trường liên ngân hàng phát triển là cơ sở để phát triển nghiệp vụ thị trường mở.
Song để nghiệp vụ thị trường mở phát huy hiệu quả vốn có của nó trong việc điều hành chính sách tiền tệ, thì bên cạnh việc khẩn trương tạo ra các điều kiện như trên cho thị trường mở có thể hoạt động, cần thiết phải đổi mới đồng thời các công cụ chính sách tiền tệ như công cụ tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc, lãi suất các điều kiện cần thiết cho sự phát triển của thị trường liên ngân hàng.... để NHNN có thể điều hành một cách đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ, qua đó có thể nâng cao năng lực điều hành của NHNN nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
2.4. Lãi suất.
Trong những năm gần đây, chính sách lãi suất của NHNN đã được sử dụng như một công cụ quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Bằng các biện pháp điều hành linh hoạt theo chỉ đạo của chính phủ NHNN đã chuyển từ chính sách lãi suất âm sang lãi suất thực dương, lãi suất trần đã dần dần bám sát chỉ số trượt giá, và quan hệ cung cầu vốn tín dụng trên thị trường tiền tệ bảo toàn giá trị đồng tiền cho người gửi và được người vay chấp nhận từ đó ngày càng thu hút thêm nguồn vốn vào hệ thống ngân hàng , đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng cho sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển. Tuy nhiên, công cụ lãi suất khá quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát hiện nay. Do đó, tôi cũng đưa ra những ý kiến về các giải pháp để hoàn thiện hơn nữa công cụ lãi suất.
- Nên kiên trì nguyên tắc lãi suất thực dương để kích thích tiết kiệm đồng thời linh hoạt điều chỉnh lãi suất theo diễn biến lạm phát nhằm hỗ trợ đầu tư.
- Trong thời gian tới, trước mắt vẫn duy trì cơ chế lãi suất trần nhưng về phương diện tiến hành cần xúc tiến nhanh việc hình thành các cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tạo tiền đề mở rộng quá trình tự do hoá lãi suất.
- Cần phải có chính sách lãi suất linh hoạt (lãi suất cho vay và vay). Về việc xây dựng chính sách lãi suất, NHNN cần có chính sách ưu đãi cho một số ngành hoặc đối tượng kinh tế quan trọng.
Mặt khác lãi suất và tỷ giá là hai vấn đề nhạy cảm, có tác động tức thời và ảnh hưởng sâu rộng đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Do giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, chính sách lãi suất và tỷ giá phải được xử lý đồng bộ trong quan hệ phù hợp. Chính vì vậy biện pháp điều chỉnh lãi suất đồng Việt Nam cần đi đôi với việc quy định lãi suất thích hợp đối với tiền gửi bằng USD để phát huy tối đa vai trò của công cụ lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Tóm lại, điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với các diễn biến kinh tế và mục tiêu chính sách là một biện pháp thông thường của các chính phủ và NHTW trong thời gian tới, dưới sự chỉ đạo của chính phủ cùng với các biện pháp chính sách khác, NHNN sẽ tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt phù hợp với tình hình và các diễn biến kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước trong từng thời kỳ.
2.5. Hạn mức tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường , hoạt động tín dụng đóng vai trò điều tiết thường xuyên đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Dựa vào việc mở rộng tín dụng người ta có thể đạt đến sự mở rộng sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản. Ngược lại thu hẹp tín dụng là một trong những cách thức quan trọng để hạn chế sự tăng trưởng kinh tế quá nhanh và sự gia tăng của lạm phát. Vì vậy công cụ hạn mức tín dụng có ý nghĩa quan trọng và việc xác định hạn mức tín dụng là rất cần thiết để thực hiện mục tiêu chống lạm phát. Song nó cũng gây khó khăn cho NHTM vì thế cần phải có những giải pháp hỗ trợ tiếp nối để làm giảm bớt những khó khăn cho NHTM.
Thứ nhất: để NHTM kinh doanh được tốt, huy động được nhiều vốn trong dân cư (đây là sự cần thiết để chống lạm phát) nên mở hướng cho chi nhánh NHTM cấp tỉnh có thể được mua tín phiếu NHNN khi thừa vốn. Như vậy nâng cao được tính năng động, sáng tạo vì nó gắn với lợi ích trực tiếp của nơi thừa vốn.
Thứ hai: để giảm bớt khó khăn cho Ngân hàng nông nghiệp, NHNN và chính phủ nên cho phép ngân hàng nông nghiệp không phải ký quỹ bắt buộc hoặc để 1 tỷ lệ rất nhỏ trên số tiền gửi.
Thứ ba: chính phủ nên giao cho các NHTM huy động thay cho kho bạc và theo chủ định của chính phủ về mức huy động và lãi suất đảm bảo kinh doanh . Số huy động được theo chỉ định sẽ chuyển giao cho kho bạc để đáp ứng yêu cầu chi tiêu của chính phủ.
Thực hiện tốt những giải pháp nêu trên vừa đảm bảo chống lạm phát vừa giúp cho các NHTM hoạt động có hiệu quả.
Qua các phần trên tôi đã trình bày các giải pháp để hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ. Nhưng một mặt hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ, mặt khác cần phối hợp đồng bộ các công cụ đó trong việc kiểm soát lạm phát. Như công cụ dự trữ bắt buộc do quá nhạy cảm do đó công cụ này cần phải được sự bổ trợ của các công cụ tinh vi hơn (tái chiết khấu, thị trường mở). Ngược lại trong khi NHNNTW cần coi trọng việc sử dụng công cụ thị trường mở, công cụ tái chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu trong việc điều hành chính sách tiền tệ thì công cụ dự trữ bắt buộc được sử dụng để hỗ trợ hai công cụ nêu trên. Các phần trên chúng ta đã nghiên cứu và thấy được quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và tỷ giá . Do đó cần thiết lập nhiều công cụ thực sự có mối quan hệ chặt chẽ gồm cả các công cụ bổ trợ và công cụ trung gian. Bởi vì khi phối hợp đồng bộ các công cụ, thì việc điều khiển một công cụ sẽ làm cho các công cụ khác được cộng hưởng về sức mạnh.
Chính vì vậy, không những phải hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ mà còn phải phối hợp các công cụ đó với nhau trong việc kiểm soát lạm phát.
Kết luận
khi lạm phát gia tăng, nó làm mặt bằng giá cả hàng hoá chung tăng, nó tác động đến mọi mặt của nền kinh tế- xã hội, làm sai lệch các chỉ tiêukinh tế; làm phân phối lại thu nhập; kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản, vàng bạc... gây tình trạng khan hiếm hàng hoá giả tạo; giảm sức mua dân chúng về hàng hoá tiêu dùng. Do đó đời sống của người lao động sẽ khó khăn hơn; gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng vì ngân hàng sẽ không thu hút được các nguồn tiền nhàn rỗi cho hoạt động của mình.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác hại mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế, trong chừng mực nào đó, với một tỷ lệ lạm phát vừa phải, lạm phát lại là yếu tố để kích thích kinh tế tăng trưởng. Khi đó lạm phát trở thành công cụ điều tiết. Các nhà kinh tế còn gọi đó là liều thuốc bổ cho nền kinh tế. Tình hình lạm phát ở Mỹ và cộng hoà liên bang Đức những năm 1960 là một ví dụ điển hình. Do vậy, cần phải chấp nhận sự tồn tại của lạm phát trong nền kinh tế để có những quyết sách kiềm chế chứ không phải triệt tiêu nó. Vấn đề quan trọng là cần phải kiểm soát được lạm phát, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đảm bảo đời sống co người lao động...
Thi hành chính sách tiền tệ chặt chẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát. Thời gian gần đây, ngân hàng nhà nước đã nhận về mình trách nhiệm ổn định giá trị đồng tiền, chống lạm phát, và đã áp dụng khá thành công các công cụ của chính sách tiền tệ như: chính sách, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, mở các thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, đấu thầu tín phiếu kho bạc... Tuy nhiên, lạm phát là hiện tượng thường trực của lưu thông tiền giấy trong nền kinh tế đang chuyển đổi của chúng ta, nguy cơ lạm phát cao cũng thường xuyên phải đề phòng. Do đó một công cụ nhạy cảm như chính sách tiền tệ không thể xem nhẹ. Mặt khác ngày càng cần hoàn thiện hơn nữa chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát ở mức phù hợp, với tăng trưởng kinh tế nhanh trong sự ổn định kinh tế vĩ mô góp phần đưa đất nước không bị tụt hậu so với các nước trong khu vực.
Tài liệu tham khảo
1. Thị trường chứng khoán : Đại học KTQD
2 . Thị trường chứng khoán : Đại học ngoại thương .
3 . Lý thuyết tài chính tiền tệ : Đại học KTQD
4 . Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính : Feredric S. Miskin
5 . Kinh tế vĩ mô : Đại học kinh tế quốc dân .
6 . Thời báo kinh tế các số năm 2005 , 2006.
7. Thời báo ngân hàng các số năm 2006.
Nguyễn Trần Hoàn
Lớp NH45C
đề cương đề án lý thuyết tài chính- tiền tệ
Đề tài: Sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát
A. Lời mở đầu
B. Nội dung.
Phần 1. Lạm phát và vai trò của công cụ chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát.
1. Các quan điểm khác nhau về lạm phát.
- Quan điểm của Friedman Miltơn
- Quan điểm của J.Keynes
- Quan điểm của Trường phái lạm phát giá cả
- Quan điểm của K.Marx
2. Tác động của lạm phát
- Lạm phát và lãi suất
- Lạm phát và thu nhập thực tế
- Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng
- Lạm phát và nợ quốc gia
3. Khái niệm và đặc trưng của chính sách tiền tệ.
a. Khái niệm.
b. Đặc trưng.
- Chính sách tiền tệ là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách tài chính quốc gia.
- Chính sách tiền tệ là công cụ thuộc tầm vĩ mô.
- NHTW là người đê ra và vận hành chính sách tiền tệ.
- Mục tiêu tổng quát của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền và góp phần thực hiện một số mục tiêu kinh tế vĩ mô khác.
4. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ.
- Kiểm soát hoạt động tín dụng.
- Kiểm soát cung ứng tiền tệ và điều hoà lưu thông tiền tệ.
- Kiểm soát ngoại hối.
- Chính sách đối với ngân sách nhà nước.
5. Các công cụ của chính sách tiền tệ sử dụng để kiểm soát lạm phát.
a. Kiểm soát hoạt động tín dụng.
- Khái niệm.
- Cơ chế tác động
b. Kiểm soát cung ứng tiền tệ và điều hoà lưu thông tiền tệ.
- Khái niệm.
- Cơ chế tác động
c. Kiểm soát ngoại hối.
- Khái niệm.
- Cơ chế tác động
d. Chính sách đối với ngân sách nhà nước.
- Khái niệm.
- Cơ chế tác động
Phần 2. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát Lạm phát những năm qua ở Việt Nam.
1. Dự trữ bắt buộc.
2. Tái chiết khấu
3. Hoạt động thị trường mở.
4. Lãi suất.
5. Hạn mức tín dụng.
Phần 3. Giải pháp.
1. Các nguy cơ dẫn tới tái lạm phát.
2. Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát.
- Dự trữ bắt buộc.
- Tái chiết khấu
- Hoạt động thị trường mở.
- Lãi suất.
- Hạn mức tín dụng.
Kết luận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0743.doc