Thật ra, thương mại điện tử không phải là một phương thức mới của thương mại. Thực ra nó đánh dấu sự bắt đầu của một hệ thống tạo ra của cải vật chất mới. Nó là một cơ hội thương mại tuyệt vời để phát triển kinh tế. Đó là lý do tại sao nhiều người đang đổ tiền vào khai thác thương mại điện tử.
Với Việt Nam, dưới tác động của thương mại điện tử có định hướng của Đảng và Nhà nước ta, chúng ta sẽ khắc phục được những nhược điểm của lối sống tiểu nông, tiểu thương ( trì trệ, bảo thủ, cô lập, thiếu lòng tin, ít coi trọng chữ tín trong kinh doanh.).Tuy nhiên, mô hình TMĐT ở Việt Nam chưa được chú trọng phát triển một cách đồng bộ. Chỉ riêng về hạ tầng công nghệ thông tin của nước ta, với tốc độ đường truyền và với độ an toàn thông tin còn quá thấp như hiện nay thì chưa thể nói đến hoạt động thương mại điện tử thực sự được. Từ góc độ này, cần khắc phục tính nôn nóng để xác định những bước đi vững chắc. Chỉ có như vậy mới có thể tránh tình trạng đầu tư tràn lan không rõ hướng, không phù hợp với thực tế cho thương mại điện tử, mới tránh được lãng phí sau đó lại là một tâm lý thất vọng do đầu tư không có hiệu quả.
83 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1558 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Sự sẵn sàng của Việt Nam trong việc thực hiện thương mại điện tử trên lĩnh vực phát triển công nghệ thông tin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mà chính vì họ thiếu tư vấn. Do chưa quen giao dịch trên mạng, lại thiếu tư vấn nên nhiều doanh nghiệp chưa hiểu được nội dung, đặc điểm và các điều kiện cần thiết để thực hiện phương thức kinh doanh mới này, từ đó dẫn đến tâm lý e ngại và chưa thật sự tin vào hiệu quả mà TMĐT mang lại. Xuất phát từ thực tế và kinh nghiệm của nhiều nước đã triển khai thực hiện TMĐT, thì muốn phát triển TMĐT cần phải có một bộ phận chuyên trách thực hiện nhiệm vụ này từ cấp trung ương đến địa phương. Bộ phận này sẽ là nơi chịu trách nhiệm hoạch định chiến lược phát triển TMĐT, xác định những ngành tiềm năng để ưu tiên thực hiện, tham mưu cho Chính phủ và chính quyền các cấp trong việc triển khai ứng dụng TMĐT. Ngoài ra họ còn có thể tư vấn nâng cao nhận thức và năng lực cho doanh nghiệp, giúp cac doanh nghiệp xác định loại hình hoạt động, phù hợp cho từng ngành hàng, xây dựng một website sân chơi chung cho các doanh nghiệp để tư vấn hỗ trợ giải đáp các thắc mắc của các đối tượng tham gia sử dụng TMĐT..., hướng dẫn các văn bản pháp luật đồng thời là nơi tập trung cơ sở dỡ liệu thương mại giúp doanh nghiệp có thể tiếp thị và tìm kiếm thị trường trực tiếp trên mạng và chủ động tổ chức thực hiện từng bước dự án phát triển TMĐT.
Đối với các doanh nghiệp, việc kinh doanh qua mạng sẽ trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh doanh tổng thể. Do vậy, khi bắt đầu thực hiện các doanh nghiệp cần xác định mục tiêu mà mình muốn đạt được trong kinh doanh nhờ TMĐT (vì TMĐT bao gồm nhiều hoạt động, nên tùy thuộc vào từng doanh nghiệp mà mục tiêu của họ sẽ khác nhau). Từ đó cân đối với những nguồn lực về tài chính, về cơ sở hạ tầng CNTT, về nguồn nhân lực của doanh nghiệp để xác định hướng đi, chiến lược phát triển và xây dựng khả năng, năng lực đạt mục tiêu.
Một điều nữa cũng cần lưu ý là TMĐT chỉ là công cụ giúp quá trình kinh doanh được thuận tiện, nhanh chóng và có hiệu quả hơn chứ không thể thay thế các kỹ năng thương mại. Do vậy cần phải phát triển và hoàn thiện cả hạ tầng CNTT - viễn thông lẫn các chính sách phát triển thương mại.
TMĐT đang mang lại nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam, song rất tiếc là nhiều doanh nghiệp còn chưa sẵn sàng. Nhuyên nhân chính là các doanh nghiệp còn chưa hiểu biết được Internet sẽ mang lại cho họ những gì và phải làm gì để nhận được các cơ hội đó. Trong hơn 8 nghìn doanh nghiệp Việt Nam mà Trung tâm Thông tin thương mại lưu trữ cập nhật tại Cơ sở dữ liệu của Nhịp cầu á - Âu Asemconneet mới có 417 doanh nghiệp có website riêng. Việt Nam có hơn 80 nghìn doanh nghiệp nhưng cho đến nay mới có chưa đầy hai nghìn rưỡi doanh nghiệp có tên miền riêng trên mạng Internet. Không có website và không có tên miền riêng là thiếu các phương tiện tối cần thiết để tham gia vào thị trường quốc tế trong thời đại kinh tế số. Cũng như Internet, TMĐT không của riêng ai, nó mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Sự khác nhau chỉ là ai đến sớm và ai nhận được bao nhiêu lợi ích từ nó.
Nhìn vào thực tế, những gì diễn ra cho thấy một bức tranh khá ảm đạm về TMĐT ở Việt Nam. Hiện nay ở Việt Nam mới có khoảng trên 3 nghìn doanh nghiệp có website, xấp xỉ 4% doanh nghiệp cả nước. Hãng IBM (theo một hợp đồng làm việc cho Ban Thư Ký ASEAN ) đã đưa ra đánh giá mức độ chuẩn bị sẵn sàng tham gia nền kinh tế thông tin của Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma là sơ khởi, mức thấp nhất, 6 nước ASEAN còn lại ở mức cao hơn là : đang phát triển ( Thái Lan, Philipin,Brunây, Inđônêxia), phổ quát (Malaixia), mở rộng (Singapo).
2. Hạ tầng cơ sở CNTT ở Việt Nam.
(Một trong những điều kiện cần thiết để thực hiện TMĐT)
Hạ tầng cơ sở công nghệ là một thách thức rất lớn đối với mỗi quốc gia khi tiến hành giao dịch TMĐT.
TMĐT vừa là đỉnh cao của quá ytình tự động hóa quy trình thương mại truyền thống vừa là hệ quả tất yếu của kỹ thuật số nói chung và CNTT nói riêng. Điều đó muốn nói rằng, để có thể triển khai TMĐT và triển khai thành công, cần thiết phải có được một hạ tầng cơ sở CNTT vững chắc.
Để đảm bảo yêu cầu cơ bản đó, hạ tầng cơ sở CNTT cần phải đảm bảo tính tuân theo chuẩn. Hệ thống các chuẩn cần thiết phải được xem như một phân hệ trong hệ thống CNTT và đạt tới mục tiêu chung là mọi thành viên tham gia TMĐT, kể cả người tiêu dùng cá thể phải tuân theo.
Hạ tầng cơ sở CNTT cần phải đạt tới một độ ổn định cao, cho dù các sản phẩm CNTT (cứng, mềm) được sản xuất trong nước hay mua của nước ngoài, yếu tố phải tính đến là sự ổn định phù hợp quá trình nâng cấp phát triển sản phẩm, sự ổn định về mức chi phí phù hợp với người tiêu dùng...
Hạ tầng CNTT liên quan chặt chẽ với an toàn thông tin, một vấn đề công nghệ vừa là cột lõi, vừa thách thức khó vượt qua của phần còn lại của thế giới từ các nước phát triển.
CNTT gồm hai phần : công nghệ tính toán và công nghệ truyền thông.
2.1 Công nghệ tính toán.
Từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước, những chiếc máy tính đầu tiên đã xuất hiện ở Việt Nam, một số ở miền Bắc do Liên Xô viện trợ, một số khác do Mỹ trang bị ở Miền Nam.
Đến cuối những năm 70, chúng ta có khoảng 40 dàn máy tính lớn đặt tại các trung tâm ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm các máy Mink, EC và IBM. Đây có thể được xem như những bước khởi đầu đánh dấu sự ra đời của ngành công nghiệp tính toán ở Việt Nam.
Vào đầu những năm 80, máy vi tính ra đời và bắt đầu được nhập vào Việt Nam, mở đầu thời kỳ phát triển nhanh chóng tin học ở Việt Nam.
Từ cuối năm 1994, đầu năm 1995, Việt Nam bắt đầu triển khai chương trình quốc gia về CNTT , các cônh ty tin học hàng đầu thế giới như IBM, Compag, Digital... bắt đầu tham gia thị trường Việt Nam, số lượng máy vi tính PC nhập khẩu tăng vọt với tốc độ 50%/năm. Cũng theo số liệu thông kê, máy tính lắp ráp trong nước đang có xu hướng tăng nhanh, khoảng 80 - 100 nghìn chiếc một năm, chiếm khoảng 70% thị phần.
Trong nhiều cơ quan, doanh nghiệp, dữ liệu đã được tổ chức thành các kho thông tin có cấu trúc (cơ sở dữ liệu) và chuẩn hóa dựa trên các phần mềm quản trị cơ sở dữ liệu nền mạng như Fox, Access,... Chúng ta đã xây dựng được 6 cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ mục tiêu tin học hóa quản lý nhà nước. Nhiều mạng máy tính chạy trên các hệ điều hành mạng đã được triển khai như mạng văn phòng Chính phủ, mạng của Bộ quốc phòng, mạng của Bộ tài chính, mạng ngân hàng, mạng Tổng cục Hải quan...
Tới năm 1993, gần 99% máy tính được trang bị là thuộc các cơ quan Nhà nước. Tình trạng này đang dần thay đổi, theo số liệu năm 1998, tỷ lệ là 75% ở các cơ quan Nhà nước và các doanh nghiệp, 10% thuộc các cơ quan nghiên cứu và quốc phòng, 10% ở các cơ sở giáo dục (trường học, trung tâm...) và 5% ở các gia đình. Xu hướng chung ngày càng có nhiều gia đình trang bị máy tính tại nhà phục vụ công nghệ và học tập.
Công nghiệp phần mềm ViệtNam đã và đang phát triển, từ chỗ chủ yếu là các dịch vụ cài đặt và hướng dẫn sử dụng các phần mềm sẵn có , đến nay đã có nhiều công ty cho ra đời nhiều sản phẩm phần mềm đáp ứng nhu cầu công việc cụ thể trrong nhiều lĩnh vực khác nhau như tài chính kế toán , địa chính , quản lí nhân sự , quản lí văn thư , điều tra thống kê ...Đặc biệt , một số công ty tin học hàng đầu như FBT, Lạc Việt ...đã có sản phẩm xuất khẩu .Tuy nhiên , các công ty trong nước mới chỉ đạt 10% thị phần thị trường phần mềm .Tình hình trên có các nguyên nhân chủ yếu là :
-Khách hàng (cả cơ quan và cá nhân ) chưa thấy được vai trò quan trọng của phần mềm trong tổng thể các dự án đầu tư tin học .
-Tình hình sao chép bất hợp pháp các sản phẩm phần mềm có tính chất phổ biến ,với các sản phẩm trong nước ,đây là yếu cản trở các công ty đầu tư vào nghiên cứu và sản xuất phần mềm ứng dụng .
Thị trường công nghệ tin học ViệtNam năm 1997 đạt tổng doanh số khoảng 450 triệu USD (bằng 1,7% GDP VN , 1,5% doanh số thị trường công nghệ tin học châu á, và khoảng 0,2% doanh số thị trường tin học toàn cầu ), trong đó phần cứng chiếm khoảng 80% ,phần mềm 5% , truyền dữ liệu 5% ,dịch vụ 10% .Năm 1998, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực , doanh số giảm xuống còn 300 triệu USD ( trong đó , các công ty ViệtNam chiếm khoảng 100 triệu phần cứng , 80 triệu USD phần mềm ; phần mềm VN bao gồm một số là các bản Việt hoá các phần mềm nước ngoài , một số chương trình quản lí mạng máy tính ngân hàng , tài chính , một số chương trình quản lý...)
Vịêt Nam tham gia mạng toàn cầu tương đối chậm : tháng 11 năm 1997 , kết nối Internet ; giữa năm 1999 mới có khoảng 20 nghìn thuê bao , chủ yếu là khách hàng của các nhà cung cấp dịch vụ lớn là VDC ( công ty dịch vụ gia tăng vàtruyền số liệu ); FPT (công ty phát triển đầu tư công nghệ ) và Net Nam (Viện công nghệ thông tin ). Lĩnh vực này đang phát triển nhanh dần ,số thuê bao Internet đang tăng với tốc độ 600-700 thuê bao một tháng .Dịch vụ Internet đang mở rộng , các báo điện tử xuất hiện ngày một nhiều .
2.2 Công nghệ truyền thông.
Ngành viễn thông Việt Nam những năm gần đây tăng trưởng tới 70%/ năm. Năm 1992 có 45 triệu phút đàm thoại , năm 1996 tăng lên 300 triệu phút. Liên lạc viễn thông được sử dụng qua vệ tinh nước ngoài .Các công nghệ và thiết bị điều khiển tự động tiên tiến đã được sử dụng trong nhiều ngành khác nhau như hệ thống định vị toàn cầu trong địa chính , thiết bị điều khiển bay trong hàng không ...
Năm 1993 ,tổng cục Bưu chính viễn thông Việt Nam đã thiết lập mạng truyền số liệu quốc gia nối 32 tỉnh thành phố ( chiếm một nửa số tỉnh toàn quốc ). Sau khi đưa vào sử dụng , mạng này nhanh chóng tỏ ra không đáp ứng nhu cầu truyền dữ liệu ngày càng tăng .Đáp ứng tình hình đó ,Tổng cục Bưu chính viễn thông Việt Nam đã phát triển mạng toàn quốc VNN kết nối Internet và các mạng lưới nội bộ của các cơ quan nhà nước và cá nhân VNN là một mạng quốc gia đường dài , có 2 cổng kết nối mạng trục quốc tế , một ở Hà Nội ,một ở thành phố Hồ Chí Minh.
Nhờ các mạng nội bộ và các mạng quốc gia , công việc quản lí của một số ngành đã được tin học hoá :Bộ Tài Chính có thể nhận được thông tin hàng ngày từ các điểm thu thuế của 61 tỉnh và thành phố trong cả nước ,và thông qua một mạng kết nối hơn 10 nghìn máy PC có thể quản lí thu chi hàng ngày trong cả nước ; Tổng cục Hải quan đã có mạng thu được thông tin hàng ngày về hoạt động xuất khẩu từ 131 cơ sở ; Hệ thống ngân hàng Việt Nam (ngân hàng Quốc gia và các ngân hàng thương mại ) đã thiết lập được mạng liên kết khoảng 15 nghìn máy tính với trung tâm ; Hàng không Quốc gia đã có mạng trên 20 nghìn máy tính liên kết các phòng vé ,sân bay và kho hàng .
Tồn tại chính đối với ngành truyền thông hiện nay là tính tin cậy của dịch vụ truyền thông còn thấp , chi phí quá cao so với thu nhập trung bình của người dân , chưa khuyến khích mọi người sử dụng các dịch vụ truyền thông ...
III Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của CNTT tới hoạt động TMĐT.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta diễn ra trong xu thế hội nhập. Thách thức lớn đối với chúng ta là vừa phải thực hiện cuộc cách mạng về thông tin, trong khi mà nhiều nước trên thế giới đã đạt tới trình độ cao về công nghiệp. Để cạnh tranh sản phẩm Việt Nam làm ra cũng phải đạt trình độ ngang bằng với sản phẩm của các nước, trước tiên là trong khu vực AFTA, sau đó là quốc tế. Nếu như yếu tố then chốt đánh giá giá trị sản phẩm tương lai là hàm lượng trí tuệ hàm chứa ngay trong chất lượng sản phẩm và trong quá trình chế tạo ra sản phẩm đó thì hàng của Việt Nam cũng phải đáp ứng yêu cầu này.
Tất cả những điều đó nói lên rằng chúng ta đang thực hiện nhiệm vụ chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh kỷ nguyên thông tin. Môi trường thuận tiện giúp chúng ta phát triển nhanh hơn chính là Internet và môi trường để cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam làm quen và thử sức hội nhập với quốc tế là TMĐT. Những phương tiện này tạo ra những điều kiện thuận lợi thúc đẩy xu thế hội nhập. Vì vậy, chúng ta phải sử dụng ngay những phương tiện đó để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Những thành tựu của CNTT đã và đang mang lại nhiều thay đổi lớn trong hoạt động thương mại. Tốc độ cao của việc chu chuyển hàng hóa và tiền tệ trong thế giới hiện đại là một ví dụ về hiện tượng này. Nhiều quốc gia đang chuyển dần từ phương thức thương mại truyền thống sang phương thức mới - TMĐT. Do vậy, TMĐT phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của CNTT. CNTT là một trong bốn điều kiện cần và đủ để thực hiện TMĐT. Bốn điều cần và đủ để tiến hành thực hiện TMĐT đó là ; Hành lang pháp lý, khả năng thanh toán điện tử, điều kiện hạ tầng CNTT, điều kiện nhân lực. Cả bốn điều kiện trên, Việt Nam còn thiếu và yếu. Vì vậy TMĐT chưa thực sự được ứng dụng ở nước ta. Thực ra, đây là đây là vấn đề quá mới mẻ đối với Việt Nam, vì chỉ mới được đề cập đến từ năm 1998. Cũng có người băn khoăn, việc triển khai TMĐT ở Việt Nam liệu có sớm quá không, khi mà nền sản xuất và trao đổi hàng hóa của chúng ta đang còn ở trình độ thấp ? Thực ra vấn đề không phải là sớm hay muộn mà là chúng ta đi theo một lộ trình như thế nào ?
Quá trình phát triển của TMĐT có thể được coi là mới bắt đầu.Tuy nhiên, nó đã trở thành một xu hướng rõ ràng và ý nghĩa của TMĐT đối với tương lai phát triển kinh tế đã được xác định. Tương lai của TMĐT được xác định bởi nhiều nhân tố trong đó có CNTT.
ứng dụng và phát triển CNTT là một trong những nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước, là một trong những động lực thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một trong những thành tựu ứng dụng CNTT là việc sử dụng các phương tiện điện tử trong toàn bộ quá trình thực hiện các giao dịch thương mại đang diễn ra phổ biến ở các nước có nền công nghệ thông tin hiện đại.Đối với nước ta, TMĐT mới bắt đầu được ứng dụng. Chúng ta đang trong quá trình khẩn trương chuẩn bị các yếu tố vật chất - kỹ thuật và nhân lực để thực sự ứng dụng nó.
Việc phát triển CNTT và viễn thông ở nước ta - lĩnh vực mang tính bao trùm ảnh hưởng tới TMĐT, cũng không tránh khỏi nhược điểm của truyền thống, nhĩa là vẫn thể hiện tính cục bộ, thiếu thống nhất , vẫn theo kiểu “ tự cấp tự túc”. Trong thực tế phát triển CNTT ở nước ta, nổi bật về mặt yếu kém là tính phi chuẩn, phi chuẩn về mã hóa thông tin, phi chuẩn về môi trường kỹ thuật, phi chuẩn về quy trình làm việc. Nước ta chỉ có một bộ chữ thống nhất trong cả nước mà có tới 44 bộ mã - phông chữ khác nhau. Tác giả bộ mã nào cũng nói rằng bộ mã của mình là chuẩn nhất. Thế nhưng tính phi chuẩn của nó lại bộc lộ rõ khi những phần mềm này sinh lỗi khi chúng được “nhúng” vào các phần mềm khác. Nguy hại hơn, các bộ mã này không giao tiếp được với nhau, phải thông qua phiên dịch - chuyển mã, gây phiền hà tốn kém cho người sử dụng. Sự phi lý ấy tiếp diễn hàng chục năm, mãi đến nay Nhà nước mới quy định kể từ ngày 1-1-2003 thống nhất sử dụng bộ mã chữ Việt TCVN 6909. 2001. Đến lúc đó tuy thống nhất sử dụng một bộ mã phông chữ, nhưng để chuyển mã cho các dữ liệu đã tích hợp cả chục năm nay và tạo thói quen sử dụng bộ mã này đâu phải chuyện một sớm một chiều.
Trong xã hội hầu như phát triển một cách tự phát việc sáng tạo các phần mềm ứng dụng, không có sự tập trung thống nhất, không có sự liên kết, hợp tác, phân công, dẫn đến tình trạng sản sinh ra nhiều phần mềm ứng dụng trùng nhau nhưng không tương tác, giao tác với nhau, tạo nên sự không thống nhất, gây lãng phí (ví dụ như cùng về quản lý nhân sự mà có hàng chục chương trình khác nhau, cùng về quản lý văn thư cũng có nhiều chương trình không giao tiếp được với nhau..). Điều đó chứng tỏ việc phát triển CNTT ở nước ta tuy về hình thức có sự chỉ đạo từ trên xuống, nhưng trên thực tế, lại thiếu sự thống nhất, có tình trạng mạnh ai nấy chạy. Những điểm dẫn trên cho thấy mang tính báo động cho hoạt động TMĐT sắp tới. Bởi vì , nếu cứ phát triển lối suy nghĩ kiểu tiểu nông, cứ hành động theo kiểu phân tán, cục bộ, thì sẽ nhăn cản bước đường phát triển TMĐT, một lĩnh vực đòi hỏi tính chuẩn mực cao, tính cộng đồng cao.
Cho đến thời điểm này, TMĐT ở nước ta mới chỉ dừng lại ở một số công đoạn như trao đổi thông tin về hàng hóa, dịch vụ mua bán lẻ...mà chưa có đủ các điều kiện cũng như chưa thực hiện đầy đủ các quy trình trong TMĐT trong đó có CNTT. Cũng như nhiều nước trên thế giới, con đường tiếp cận TMĐT ở nước ta cũng phải trải qua ba giai đoạn đan xen lẫn nhau là : chuẩn bị, chấp nhận và ứng dụng. Chúng ta đã có sự nỗ lực chuẩn bị cho giai đoạn đầu để tiếp bước cho giai đoạn sau là giai đoạn ứng dụng. Đây là những tín hiệu đáng mừng, tuy nhiên từ khi hòa mạng Internet đến nay, trình độ ứng dụng và phát triểN TMĐT ở Việt Nam còn thấp.
Thứ nhất do cơ sở hạ tầng về CNTT và viễn thông còn yếu kém, số lượng máy điện thoại và thuê bao Internet tính trên đầu người còn thấp, chất lượng và tốc độ đường truyền thấp, chi phí còn cao.Tổng số thuê bao Internet tại Việt Nam (không kể số thuê bao trả trước) mới chỉ có khoảng 250 nghìn. Dự sang năm 2005, số thuê bao sẽ là một triệu.
Thứ hai, do công nghiệp phần mềm Việt Nam tăng trưởng chậm : 13%/năm (bằng 1/2 tốc độ giai đoạn 1996 b- 2000). Mất cân đối nghiêm trọng giữa phần cứng (chiếm tỷ trọng gấp 4 lần) với tỷ trọng phần mềm và dịch vụ. Số chuyên viên tham gia ngành cônh nghiệp phần mềm hiện chỉ khoảng 8 nghìn người.
Nhìn vào thực trạng ta thấy hệ thống hạ tầng kỹ thuật CNTT của nước ta chưa đủ khả năng phục vụ phát triển TMĐT. Trong điều kiện hạn chế về tài chính, chưa có khả năng đầu tư đồng bộ thì những khâu trọng yếu cần được ưu tiên phát triển trước. Đó là hệ thống mạng trục quốc gia, hệ thống cổng Internet, hệ thống truy cập công cộng. Từ đặc điểm một nước nông nghiệp trong thời kỳ đang đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, người dân nói chung chưa có điều kiện vật chất và chưa có thói quen sử dụng Internet tại nhà thì mô hình tạo ra các điểm truy cập mạng công cộng nối với các nhà cung cấp dịch vụ mạng là phù hợp hơn cả.
Trên thực tế cũng không có tài liệu sách hướng dẫn nào viết về lĩnh vực mới mẻ này. Chúng ta chỉ thấy những bài viết chung chung về TMĐT và trào lưu TMĐT trên thế giới. Không có một tài liệu hướng dẫn chi tiết về TMĐT. Chính những điều này làm cho nhiều người không biết nên bắt đầu từ đâu : làm thế nào để đưa thông tin lên trên Internet, đưa lên có khó không, chi phí bao nhiêu , làm thế nào để có hiệu quả...
Hiện nay còn một số khó khăn và hạn chế khi triển khai TMĐT. Về kỹ thuật cơ sở hạ tầng truyền thông và các dịch vụ Internet còn rất hạn chế (số điện thoại và máy tính bình quân đầu người, số lượng máy chủ Internet rất ít), hệ thống tiêu chuẩn quốc tế mới được áp dụng ở một số doanh nghiệp. Về mặt pháp lý, chúng ta đang nghiên cứu để xây dựng các cơ sở hạ tầng pháp lý cần thiết cho TMĐT (luật về TMĐT, luật về chữ ký điện tử, an ninh bảo mật, CNTT, sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, các cơ quan công chứng và xác nhận). Dự án quốc gia về kỹ thuật TMĐT cũng chỉ giải quyết các vấn đề có tính chất khung pháp lý và tiến độ cũng chậm. Về kinh tế, thu nhập bình quân đầu người về tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam rất thấp nên nhu cầu bị hạn chế : việc thực hiện giao dịch phải thực hiện theo các luật thuế VAT, pháp lệnh kế toán thống kê, các chứng cứ pháp lý...là hệ thống văn bản pháp quy được xây dựng trên cơ sở các giao dịch trực tiếp và hóa đơn chứng từ sổ sách bằng giấy có nhiều chữ ký trực tiếp. Ngoài ra việc phát triển TMĐT cũng còn một số khó khăn và hạn chế khác như về văn hóa, quản lý...
Trước chúng ta nên biết rằng TMĐT không phải là vấn đề gì cao siêu quá. Có thể hiểu TMĐT là việc kinh doanh mà phương tiện là các trang web để trên mạng Internet mà bất cứ ai làm máy tính đều có thể tạo ra được các trang web. Một số nơi cho phép bạn để các trang web của mình lên mạng miễn phí. Như vậy mọi người đều có thể tham gia vào TMĐT. Hiện tại ở Việt Nam khả năng sử dụng mô hình bán hàng trực tuyến chưa thể phát triển ngay được. Trước tiên phải có một nền tảng pháp lý cho vấn đề TMĐT. Việc mua bán không còn nằm trong giới hạn lãnh thổ của một nước nữa. Ngoài ra còn vấn đề quan trọng là làm thế nào để có thể thanh toán được ngay trên mạng.
Vậy trở ngại cho phát triển TMĐT ở Việt Nam là gì ? Trước hết là cơ sở hạ tầng và chính sách quản lý về CNTT , có thể tóm tắt như sau : Đường truyền tốc độ thấp, giá kết nối và truy cập cao, mức độ bảo mật cho thuê bao kém. Đây là vấn đề cần được quan tâm giải quyết bởi TMĐT nhày càng trở thành hình thức kinh doanh phổ biến trên thế giới và khoảng cách về trình độ phát triển TMĐT giữa Việt Nam với 6 nước ASEAN đầu tàu ngày càng loãng ra. Những yếu kém trên sẽ được giải quyết nếu số doanh nghiệp xây dựng trang chủ tham gia TMĐT nhiều hơn. Có ba giải pháp cho vấn đề này :
Một là sớm cho ra đời Luật Cạnh tranh nhằm kiểm soát giá dịch vụ của Bưu chính Viễn thông. Mặc dù ngành đã cấp phép cho nhiều đơn vị tham gia cung cấp dịch vụ Internet nhưng TCty Bưu chính Viễn thông, với hạ tầng kỹ thuật sẵn có rộng khắp và với nhiều ưu đãi khác của ngành chủ quản vẫn là đơn vị có thị phần lớn, chi phối giá dịch vụ làm hạn chế sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp.
Hai là trong lúc còn ít các doanh nghiệp xây dựng trang chủ riêng của mình, các hiệp hội ngành nghề cần chủ động xây dựng trang chủ giúp các hội viên quảng bá, giới thiệu sản phẩm. Việc phát triển TMĐT của các hiệp hội thành công sẽ kích thích doanh nghiệp mở trang chủ riêng của mình.
Ba là, Chính phủ, các Bộ, ngành cần xây dựng trang chủ có quy mô, nhiều thông tin hữu ích để tạo thói quen truy cập, sử dụng thông tin trên mạng của doanh nghiệp, từ đó nảy ra ý muốn tham gia TMĐT.
Chương 3 : Nhiệm vụ, giải pháp phát triển CNTT trong TMĐT.
I Mục tiêu chủ trương phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam.
Đất nước ta đã bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển kinh tế xã hội đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, từng bước bắt nhịp với xu thế phát triển mới. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã định hướng phát triển “ khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa , hiện đại hóa. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại ; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định “. Quán triệt quan điểm đó, đại hội Đảng lần thứ IX nhấn mạnh : “ đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao… Tạo thị trường cho khoa học và công nghệ , đổi mới cơ chế tài chính nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dụng khoa học và công nghệ với sản xuất, kinh doanh, quản lý, dịch vụ. Có chính sách khuyến khích và buộc các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu đổi mới công nghệ.
Bám sát sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, CNTT đã có sự phát triển vượt bậc, góp phần quan trọng vào sự thay đổi nền kinh tế-xã hội nước ta cạnh phương thức thương mại truyền thống đã xuất hiện phương thức giao dịch mới- giao dịch TMĐT. Tuy đây là một lĩnh vực có nhiều điều mới mẻ chưa khám phá hết, nhưng TMĐT đã trở thành công cụ hữu ích giúp Việt Nam nhanh chóng hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời giữ vững định hướng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
ứng dụng và phát triển CNTT là một trong những nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước, là một trong những động lực thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Một trong những thành tựu ứng dụng CNTT là việc sử dụng các phương tiện điện tử trong toàn bộ quá trình thực hiện các giao dịch thương mại đang diễn ra phổ biến ở các nước có nền CNTT hiện đại. Nó góp phần thúc đẩy mạnh mẽ các nghành sản xuất, dịch vụ phát triển. Nhờ ứng dụng CNTT phát triển TMĐT các nước đang phát triển có thể dễ dàng tiếp xúc với thị trường rộng lớn ở cả trong nước và nước ngoài.
Mục tiêu phát triển CNTT ở Việt Nam là đến năm 2010 CNTT Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
CNTT được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế -xã hội , đảm bảo an ninh quốc phòng.
Phát triển mạng thông tin quốc gia phủ trên cả nước, với thông lượng lớn, tốc độ và chất lượng cao, giá rẻ, tỷ lệ người sử dụng Internet đạt mức trung bình thế giới.
Công nghiệp CNTT trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ phát triển hàng năm cao nhất so với các khu vực khác; có tỷ lệ đóng góp cho tăng trưởng GDP của cả nước ngày càng tăng.
Để thực hiện tốt mục tiêu trên, chúng ta đã chủ trương:
ứng dụng và phát triển CNTT là nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế -xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước.
Mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh, quốc phòng đều phải ứng dụng CNTT để phát triển.
Mạng thông tin quốc gia là kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội quan trọng, phải tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình ứng dụng và phát triển CNTT đảm bảo tốc độ và chất lượng cao, giá cước rẻ.
Phát triển nguồn nhân lực cho CNTT là yếu tố then chốt có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển và ứng dụng CNTT .
Phát triển công nghiệp CNTT thành một ngành kinh tế quan trọng, đặc biệt là phát triển công nghệ phần mềm.
II Nhiệm vụ và giải pháp phát triển CNTT ở Việt Nam Trong TMĐT.
1. ứng dụng rộng rãi, có hiệu quả CNTT trong toàn xã hội để sớm tiếp cận TMĐT.
Như đã phân tích, CNTT có vao trò rất quan trọng để Việt Nam cũng như các nước khác tiếp cận được với TMĐT. Chính vì thế mà việc ứng dụng rộng rãi CNTT trong toàn xã hội trở thành một trong số những nhiệm vụ quan trọng trong thời điểm hiện nay. CNTT với sự ra đời của Internet đã giúp chúng ta rất nhiều trong mọi lĩnh vực nhưng ở đây ta chỉ xet trong lĩnh vực kinh tế. Nó đã giúp con người có thể gần nhau hơn trong các cuộc giao dịch, đàm thoại.Trong xã hội thông tin tới đây, truyền thông đang mở rộng từ mức truyền thông cá nhân đến mức truyền thông xã hội. Người ta nghiên cứu truyền thông xã hội với mục đích tạo nên các diễn đàn cho truyền thông trong cái gọi là “ xã hội Internet để tạo nên khả năng con người “gặp gỡ” và “cộng tác” với nhau thông qua mạng. TMĐT có thể tiến hành ở Việt Nam, vì đây thực ra cũng chỉ là một dạng thương mại bình thường nhưng được giao kết qua mạng Internet.
Dovậy, các cơ quan của Đảng Nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội, đi đầu trong việc triển khai, ứng dụng CNTT trong mọi hoạt động theo phương châm đảm bảo tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả lâu dài.Tin học hóa mọi hoạt động của các cơ quan Đảng và Nhà nước là bộ phận hữu cơ quan trọng của cải cách nền hành chính quốc gia, là nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan nhằm tăng cường năng lực quản lý, nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả.
Các cấp ủy, tổ chức Đảng chỉ đạo khẩn trương xây dựng các hệ thống thông tin cần thiết phục vụ lợi ích công cộng của nhân dân, phục vụ sự lãnh đạo của đảng, quản lý của nhà nước. Sớm hoàn thiện thường xuyên nâng cấp và sử dụng có hiệu quả mạng thông tin diện rộng của Đảng và chính phủ. Đảm bảo đến năm 2005, về cơ bản xây dựng và đưa vào hệ thống thông tin điện tử của Đảng và chính phủ.
Tập trung phát triển các dịch vụ điện tử trong các lĩnh vực tài chính ( thuế, kho bạc, kiểm toán…), ngân hàng , hải quan, hàng không, thương mại, thương mại điện tử và các dịch vụ công cộng ( giáo dục, đào tạo từ xa, chữa bệnh từ xa, thư điện tử …); đảm bảo các điều kiện cần thiết phù hợp với tiến độ hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Các doanh nghiệp trước hết là các tổng công ty 90 và 91 cần đầu tư cho ứng dụng và phát triển CNTT, sử dụng TMĐT, coi đó là biện pháp cơ bản để đổi mới quản lý, đổi mới công nghệ, cơ cấu lại sản xuất, mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Khẩn trương xây dựng các công trình ứng dụng và phát triển CNTT, kết hợp CNTT với công nghệ sinh học để phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt phát triển vùng sâu, vùng xa.
Tạo điều kiện để mọi tầng lớp xã hội ở mọi miền đất nước có thể biết khai thác, sử dụng thông tin điện tử và ứng dụng CNTT, đặc biệt quan tâm hỗ trợ những người có hoàn cảnh khó khăn và khuyết tật.
Lực lượng an ninh quốc phòng nhanh chóng phổ cập, ứng dụng và phát triển CNTT, tạo tiền đề quan trọng góp phần xây dựng lực lượng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, từng bước xây dựng hệ thống tự động hóa chỉ huy, kiểm soát, làm chủ, cải tiến vũ khí, khí tài và phương tiện chiến đấu, đảm bảo an ninh, quốc phòng, sẵn sàng chủ động đối phó với chiến tranh thông tin hiện đại.
Các cơ quan thông tin đại chúng, báo chí, xuất bản và các dịch vụ điện tử công cộng khẩn trương phát triển các loại hình thông tin điện tử, thường xuyên tuyên truyền phổ biến, nâng cao nhận thức và kiến thức về CNTT cho toàn xã hội.
2. Tạo môi trường thuận lợi cho ứng dụng CNTT và phát triển CNTT phục vụ TMĐT.
TMĐT là các giao dịch nhằm mục đích thương mại được thực hiện bằng phương pháp điện tử trên mạng truy cập toàn cầu (Internet ) hoặc các mạng thông tin khác. Nhận thức rõ tính tất yếu của việc mở rộng và phát triển TMĐT trên thế giới, Việt Nam đã tạo mội trường thuận lợi bằng cách đã tham gia “ Chương trình hành động chung “ của APEC, trong đó phấn đấu thực hiện “thương mại phi giấy tờ “ vào năm 2010. Đồng thời Chính phủ đã ký Hiệp định khung e- ASEAN tạo thuận lợi cho phát triển TMĐT ở Việt Nam. Nghị định 44/2002/NĐ-CP của Chính phủ thừa nhận các yếu tố của chứng từ điện tử và chữ ký điện tử trong thanh toán của hệ thống ngân hàng. Luật Kế toán vừa được thông qua tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XI, cũng thừa nhận chứng từ điện tử. Nhìn xa hơn nữa, Luật Thương Mại có hiệu lực thi hành từ 1-1-1998 cũng coi điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác là hình thức văn bản của hợp đồng mua bán hàng hóa (Điều 49, khoản 3). ứng dụng phương thức giao dịch này, doanh nghiệp ẽ tiết kiệm đáng kể các chi phí quảng cáo, tiếp thị, xúc tiến thương mại ở nước ngoài mà vẫn đảm bảo tiếp cận được với người tiêu dùng trên toàn thế giới. Chỉ cần nhấn chuột khách hàng sẽ biết được sản phẩm, quy cách phẩm chất, công dụng, đặc tính, bao gói, vận chuyển, khả năng cung ứng sản phẩm...
Phát triển CNTT là một trong những cơ sở để áp dụng phương thức TMĐT vào Việt Nam. Chính vì thế phải tạo môi trường thuận lợi, để có thể nắm bắt được thời cơ để khắc phục những tồn tại hạn chế tiến tới xây dựng một cơ cở hạ tầng công nghệ hiện đại.
Ngoài ra, chính phủ nên có những cam kết rõ ràng đối với các doanh nghiệp đang phát triển hoạt động trong lĩnh vực TMĐT, đặc biệt với các doanh nghiệp đang phát triển mô hình B2B, để họ có thể yên tâm đầu tư nhiều hơn nữa vào hoạt động kinh doanh này.
Muốn đẩy mạnh ứng dụng và phát triển TMĐT, Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp. Kinh nghiệm cho Việt Nam phát triển TMĐT thì rất nhiều, tuy nhiên phải nghiên cứu và xem xét trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, cũng như phù hợp với xu hướng phát triển của TMĐT, có thể tóm tắt như sau:
Thứ nhất phải có sự chuẩn bị tốt về cơ sở hạ tầng CNTT và truyền thông, tạo điều kiện cho phát triển TMĐT của các doanh nghiệp.
Thứ hai phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện và chặt chẽ nhằm điều chỉnh sự hoạt động của TMĐT.
Thứ ba phải có một kế hoạch tổng thể nhằm xây dựng và phát triển TMĐT gắn liền với kế hoạch tổng thể về kinh tế-xã hội của Việt Nam trong thời gian tới.
Do đó Việt Nam cần từng bước thực hiện ngay những giải pháp xây dựng cơ sở hạ tầng TMĐT, có chiến lược và kế hoạch cụ thể, cũng như tạo ra một khuôn khổ pháp lý phù hợp, một môi trường cho các doanh nghiệp tham gia TMĐT theo điều kiện cụ thể của Việt Nam cũng như phù hợp với các tiêu chuẩn và xu hướng phát triển của TMĐT .
Bởi vậy,tạo môi trương thuận lợi cho TMĐT phát triển cũng đồng nghĩa với việc tạo môi trường cho CNTT phát triển. CNTT là lĩnh vực được đặc biệt khuyến khích đầu tư. Rà soát và tháo bỏ mọi nhận thức và quy định không phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất, áp dụng mức ưu đãi hiện hành cao nhất, và từng bước đạt mức ưu đãi bằng hoặc cao hơn so với các nước trong khu vực cho việc ứng dụng và phát triển CNTT đi đôi với việc thực hiện các biện pháp quản lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả.
Chuẩn hóa thông tin và các hệ thống thông tin trong từng lĩnh vực. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc trao đổi và sử dụng chung các cơ sở dữ liệu, các hệ thống thông tin trong nước và quốc tế.
Có các biện pháp chủ động và có các qui định cụ thể về an toàn an ninh thông tin, trước hết trong lĩnh vực quản lý nhà nước, an ninh- quốc phòng.
Khuyến khích và hỗ trợ việc phổ cập và nâng cao trình độ ngoại ngữ trong một bộ phận nhân dân, trước hết là trong thanh niên, thiếu niên. Có biện pháp và công cụ hỗ trợ để nhiều người Việt Nam có thể dễ dàng sử dụng và ứng dụng CNTT bằng tiếng Việt.
Xây dựng tiêu chuẩn ngành, nghề với mức lương và chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ chuyên môn về CNTT.
Ưu tiên đầu tư cho ứng dụng và phát triển CNTT trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Coi hạ tầng thông tin là hạ tầng kinh tế-xã hội quan trọng. Ưu tiên sử dụng nguồn vốn ODA cho ứng dụng và phát triển CNTT. Đảm bảo các điều kiện để thực hiện đầy đủ và đúng tiến độ các dự án ứng dụng và phát triển CNTT đã được phê duyệt.
Đưa vào hệ thống mục lục ngân sách nhà nước loại chi riêng về CNTT. Hình thành quỹ hỗ trợ, quỹ đầu tư khắc phục rủi ro cho ứng dụng và phát triển CNTT.
Các doanh nghiệp ứng dụng CNTT đổi mới quản lý, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh được hưởng các chính sách về đầu tư đổi mới công nghệ.
Khuyến khích việc sử dụng các sản phẩm dịch vụ CNTT được tạo ra trong nước. Các đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà nước phải sử dụng các sản phẩm và dịch vụ CNTT trong nước đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với điều kiện Việt Nam. Các dự án đầu tư về CNTT trước hết phải giao cho các tổ chức, cá nhân trong nước đấu thầu thực hiện, chỉ giao cho tổ chức, cá nhân nước ngoài khi trong nước chưa đủ năng lực. Xử lý nghiêm các hành vi cố ý vi phạm hoặc gây cản trở việc ứng dụng các sản phẩm và dịch vụ CNTT được tạo ra trong nước.
Các sản phẩm và dịch vụ CNTT được tạo ra trong nước không chịu thuế GTGT. Các doanh nghiệp trong ngành CNTT được hưởng mức ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập doanh nghiệp, được hưởng chế độ ưu đãi về tín dụng, về sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Xây dựng chương trình hỗ trợ xuất khẩu trong lĩnh vực CNTT, trước mắt là gia công phần mềm và xuất khẩu lao động.
Tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam làm việc trong lĩnh vực CNTT đi làm việc ở nước ngoài và trở về nước.
Tập trung đầu tư, có các chính sách và giải pháp đặc biệt để đảm bảo cho các khu công nghệ cao được triển khai theo đúng tiến độ và sớm đi vào hoạt động, trong đó chú trọng ưu tiên các khu công nghiệp, công nghệ phần mềm, ưu tiên các nguồn vốn ODA cho các khu công nghệ cao, có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công nghệ cao với mức ưu đãi cao hơn so với các nước trong khu vực. Tích cực phát triển các khu công nghệ cao ở các địa phương khác khi có điều kiện thuận lợi.
Hoàn chỉnh hệ thống văn bản qui phạm pháp luật và đảm bảo việc thực hiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có bảo hộ quyền tác giả đối với phần mềm và các sản phẩm CNTT khác.
Chính sách khuyến khích phát triển điện tử luôn luôn là đúng đối với Việt Nam trong thời gian tiến hành công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Chính sách này sẽ bao gồm việc thay đổi một số điều khoản trong luật TMĐT, việc giảm giá cước truy cập Internet, mà muốn như thế trước hết phải làm bớt tính độc quyền của ngành viễn thông Vịêt Nam.
3. Đẩy mạnh việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cho ứng dụng và phát triển CNTT trợ giúp TMĐT.
Hiện nay, nguồn nhân lực ở nước ta còn mỏng về số lượng, thiếu kinh nghiệm và hiểu biết về TMĐT. Cả nước hiện mới chỉ có khoảng 32 nghìn chuyên gia tin học. Đa số cán bộ và dân chúng chưa có thói quen làm việc trên máy tính điện tử, quản lý và kinh doanh trên mạng máy tính và các thiết bị thông tin khác. Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng để thực hiện TMĐT : đặc biệt là tư duy của những người mang trọng trách của xã hội nhằm thúc đẩy kinh tế và đời sống của người Việt Nam ngang bằng với trình độ tiên tiến của thế giới. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực là mội trong những việc làm cần thiết trong việc phát triển TMĐT.
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều nhà quản lý, nhà khoa học trong nước cũng như nước ngoài đếu thấy rằng Việt Nam có rất nhiều tiềm năng về CNTT. Tuy nhiên, cho đến giờ chúng ta vẫn phải chấp nhận một sự thật là Việt Nam vẫn ở trong nhóm thứ hai gồm Việt Nam, Myanma, Lào và Campuchia còn lạc hậu về CNTT của asean.
Mặc dù chúng ta có những tiềm năng nhất định về khoa học công nghệ nhưng trình độ ứng dụng và phát triển CNTT vẫn còn lạc hậu. Hiện thực này là điều không vui trong cộng đồng khoa học công nghệ của chúng ta. Nó phản ánh một sự thật là chúng ta có nhiều tiềm năng nhưng chưa biến thành khả năng có thể vận dụng để phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Chúng ta là những người quản lý, những người làm CNTT trực tiếp, là những người có trách nhiệm cao nhất trong việc thực hiện những chiến lược của nhà nước, các mục tiêu và chỉ thị 58 của Bộ chính trị. Trong mọi lĩnh vực nguồn nhân lực là hết sức quan trọng, những nguồn nhân lực ấy mới đang ở dạng tiềm năng chứ chưa phải ở dạng khả năng khai thác. Để chuyển từ tiềm năng thành khả năng cần có một chính sách đồng bộ, có thời gian và biện pháp thiết thực thì mới có thể chuyển biến được để phục vụ cho sự phát triển khoa học công nghệ đất nước.
KHCN phần mềm cũng là một dạng tiềm năng rất lớn. Chúng ta có nhiều sáng tạo, nhưng để trở thành một khả năng tương ứng làm ra lợi nhuận trong nền kinh tế thì chưa được nhiều.
Làm thế nào để có những sản phẩm thay thế được nhập khẩu? Làm thế nào để có thể xây dựng được ngành công nghiệp phần mềm thành một ngành kinh tế có giá trị kinh tế ngày càng cao, hiệu quả ngày càng lớn trong nền kinh tế đang phát triển?
Nếu chúng ta không cùng nhau nỗ lực, quyết tâm thực hiện để trong thời gian ngắn có một nguồn nhân lực thật tốt thì rất khó thực hiện những mục tiêu đề ra. Điều này chỉ có thể thông qua việc đào tạo một nguồn nhân lực có đủ khả năng để biến nguồn tiềm năng thành khả năng. Thực tế thì chúng ta đã hợp tác với chính phủ, các công ty CNTT hàng đầu Nhật bản và phía đối tác đã hỗ trợ cho chúng ta rất nhiều trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực. Đây là bước khởi đầu đáng khích lệ. Hội công thương và kinh tế Nhật Bản đã phối hợp với Việt Nam thành lập trung tâm phát triển kỹ sư phần mềm và đã chuyển giao công nghệ đào tạo …Hệ thống đào tạo này sẽ cấp chứng chỉ cho học viên theo học nếu đủ trình độ của Nhật Bản, trước hết có thể làm việc được với các công ty Nhật Bản.
Như vậy phát triển quy mô và tăng cường chất lượng đào tạo nguồn nhân lực về CNTT, chú trọng phát triển nhanh lực lượng cán bộ chuyên sâu, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia phần mềm, đáp ứng kịp thời và thường xuyên nhu cầu trong nước và một phần thị nước ngoài là việc làm rất cần thiết. Mục tiêu đặt ra là đến năm 2005 ít nhất phải đào tạo ra được thêm 50.000 người chuyên gia về CNTT ở các trình độ khác nhau, đặt chỉ tiêu về số lượng ( tính trên 10.000 dân ) và chất lượng chuyên gia trong lĩnh vực CNTT ngang với mức bình quân của các nước trong khu vực.
Trước mắt bằng những hình thức thích hợp, tổ chức thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về CNTT cho những người đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp thuộc các chuyên ngành khác .
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác đào tạo và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ cho nhu cầu học tập của toàn xã hội. Đặc biệt tập trung phát triển mạng máy tính phục vụ cho giáo dục và đào tạo, kết nối Internet với tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo .
Đầu tư thỏa đáng cho công tác đào tạo, nghiên cứu về CNTT, gắn trặt giữa đào tạo, nghiên cứu và sản xuất, kinh doanh. Xã hội văn hóa mạnh việc đào tạo công nghệ thông tin, khuyến khích và thu hút các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước tham gia đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực về CNTT của Việt Nam.
Xây dựng và thực hiện chương trình cử giáo viên đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước để nâng cao trình độ giảng dậy, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên, nghin cứu sinh đi học, thực tập và nghiên cứu về CNTT ở nước ngoài, áp dụng chích sách đặc biệt cho việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia giỏi, nhân tài trong lĩnh vực CNTT, có chế độ tạm ứng học phí đối với người nghèo hoặc có hoàn cảnh khó khăn muốn tham gia các chương trình đào nghề trong lĩnh vực CNTT để lập nghiệp.
Để chuyển sang nền kinh tế ”số hóa” nói chung và “TMĐT” nói riêng lại càng không thể thiếu vai trò của tầng lớp tri thức mới của nền văn minh thông tin. Đó là các chuyên gia tin học và đông đảo dân chúng có trình độ ứng dụng CNTT vào mục đích quản lý và xản suất, kinh doanh, am hiểu và nghiên cứu thực thi luật pháp để tạo dựng nguồn nhân lực mới . Đó là những người làm việc ở khu vực công việc có đủ năng lực để bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo đảm chất lượng công nghệ và thông tin, không để thị trường bị sụp đổ vì “ thông tin không đối xứng”, để bảo vệ người tiêu dùng, tạo dựng hạ tầng công nghệ kinh tế và pháp lý cũng như bảo mật an toàn của TMĐT. Đó còn là đông đảo dân chúng , những đối tượng của hoạt đông đảo thương mại nói chung và của TMĐT nói riêng – họ cũng cần phải có một tri thức nhất định để biết cách ứng xử trong môi trường TMĐT. Điều cần nhấn mạnh đối với yêu cầu nâng cao trình độ của các chuyên gia tin học cũng như các cán bộ hoạt động trên lĩnh vực TMĐT là học cần có một trình độ nhất định, hiểu sâu biết rộng về kĩ thuật và công nghệ. Chỉ khi ấy, những tri thức Việt Nam hoạt động trên lĩnh vực CNTT, hoặc TMĐT mới làm tròn sứ mạng đối với dân tộc, là đem khả năng của mình tiếp cận với kinh tế tri thức và hướng nó đi đúng định hướng XHCN, bảo vệ được lợi ích dân tộc trong khi mở rộng quan hệ hợp tác và giao lưu.
Truyền thống hiếu học và trọng dụng người có học là một giá trị văn hóa dân tộc cần được nuôi dưỡng, để tránh tình trạng bị đứt gẫy bởi thời kì tranh tối tranh sáng của giai đoạn chuyển đổi cơ chế do năng lực thể chế của nhà nước còn yếu kém, cũng như sự chuyển dịch các định hướng giá trị xã hội trước các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Trước yêu cầu rất cao của kinh tế tri thức, trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ hiện nay của các tầng lớp nhân dân trong xã hội ta là vấn đề đáng quan tâm, nếu không muốn nói là lo ngại bởi khoảng cách tiếp cận với kinh tế tri thức còn rất xa. Điều này được biểu hiện trong sự phát triển nền kinh tế đất nước: tốc độ chuyển dich cơ cấu kinh tế của nước ta diễn ra quá chậm so với kinh tế các nước đã trải qua thời kỳ công nghiệp hóa. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước cùng toàn xã hội thông qua nhận thức và hành động, càng ngày càng coi trọng “giáo dục là quốc sách” để tiếp cận kinh tế tri thức, loại bỏ nguy cơ ”tụt hậu”. Như vậy xu hướng nâng cao trình độ đang ngày càng được xã hội coi trọng, đây là điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia vào các hoạt động của TMĐT .
TMĐT như đã đề cập, là phần nổi của một tiến trình chuyển mình sang kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mà trong đó việc sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế-xã hội, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Lực lượng lao động trong kinh tế tri thức là lực lượng lao động trí thức, trong đó doanh nhân, nhà khoa học nhà quản lý có thể là một các nhà nghiên cứu đưa ra dự báo rằng kinh tế tri thức sẽ phổ cập toàn cầu vào thập niên 30 của thế kỷ XXI.
Rõ ràng việc học tập, nâng cao hiểu biết để trở thành một ” công dân tri thức” không những là điều khẳng định cần phải làm mà còn cần đặt ra như một mục đích có tính chất quốc thể. Truyền thống hiếu học và trọng dụng người có học là một giá trị truyền thống thuận lợi cho ứng dụng TMĐT vào xã hội Việt Nam.
4. Đẩy mạnh việc xây dựng mạng thông tin quốc gia, bao gồm hệ thống viễn thông và Internet Việt Nam.
Đẩy mạnh đầu tư xây dựng mạng thông tin quốc gia bao gồm hệ thống viễn thông và Internet Việt Nam. Phát triển nhanh mạng thông tin quốc gia, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài của toàn xã hội, đặc biệt sớm hình thành siêu xa lộ thông tin trong nước, liên kết với các nước trong khu vực và quốc tế.
Phát triển quản lý hệ thống viễn thông và Internet nhất thiết phải phục vụ việc đẩy nhanh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực và trong toàn xã hội, đồng thời phải có biện pháp toàn diện, đồng bộ để ngăn chặn những hành vi lợi dụng gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Có chính sách đảm bảo thúc đẩy môi trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia các hoạt động dịch vụ viễn thông và Internet. Từ năm 2001, đảm bảo cung cấp đầy đủ và thuận lợi các dịch vụ viễn thông và Internet cho người sử dụng với tốc độ và chất lượng cao, giá cước thấp hơn hoặc tương đương với các nước trong khu vực, áp dụng giá cước ưu đãi đặc biệt đối với các cơ quan Đảng, Nhà nước và các lĩnh vực giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Xây dựng củng cố hạ tầng thông tin phục vụ cho việc phát triển TMĐT phải thấm nhuần và vận dụng tư tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam về công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn thực tiễn Việt Nam, những yêu cầu về phát triển thương mại trên thế giới nói chung, để lựa chọn con đường phát triển cho TMĐT Việt Nam. Tránh tư tưởng nóng vội, phi thực tế, đầu tư ào ạt dẫn đến lãng phí, kém hiệu quả.
Hạ tầng thông tin là nền tảng để phát triển hình thành kinh tế tri thức. Hạ tầng thông tin bao gồm 2 thành phần là hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng nội dung.
Để xây dựng củng cố hạ tầng thông tin phục vụ cho việc phát triển TMĐT phải có sự quan tâm, đầu tư lớn của nhà nước và các cấp, các ngành cùng sự hợp tác của các doanh nghiệp . Việc xây dựng mạng thông tin quốc gia là nhiệm vụ cần thiết đã và đang được triển khai từng bước ở Việt Nam. Hiện nay trong khi chính phủ đang tạo ra môi trường thuận lợi cho TMĐT phát triển như : Tạo môi trường pháp luật, nâng cấp hạ tầng cơ sở thông tin, hạ giá truy cập Internet, tuyên truyền và đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT, thì các doanh nghiệp Việt Nam cần nhận thức được lợi ích của TMĐT mà chủ động chuẩn bị cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và những điều kiện cần thiết để triển khai ứng dụng TMĐT . Mặt khác phải nắm được các công nghệ tiên tiến, điều chỉnh cơ sở sản xuất, đầu tư thiết bị cải tiến phương thức kinh doanh để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa , nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm giá thành mới có thể cạnh tranh được với hàng hóa và dịch vụ, nhất là các dịch vụ bưu chính viễn thông, khi ta mở cửa hội nhập với các nước ASEAN và tham gia cuộc chơi trên phạm vi toàn cầu.
5. Tăng cường đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực CNTT :
Phát triển TMĐT cũng đồng nghĩa với việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về hạ tầng cơ sở CNTT. Nhà nước phải quản lý để TMĐT có thể phát triển theo đúng mô hình phù hợp với điều kiện của thực tiễn ở Việt Nam. Công tác quản lý trong TMĐT là rất cần thiết bởi đó là sự quản lý của cả một khâu, một chuỗi các công việc theo một quy trình nhất định. Sự quản lý đòi hỏi phải thống nhất đồng bộ, có như vậy TMĐT mới phát triển theo xu hướng chung chứ không phải là một cách tự phát.
Chính phủ sớm kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý về viễn thông và CNTT để thống nhất quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Trước mắt mỗi cơ quan Đảng, Nhà nước cấp trung ương và cấp tỉnh thành phố trực thuộc TW cử cán bộ lãnh đạo trực tiếp phụ trách về CNTT.
Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, ứng dụng và phát triển CNTT theo phương châm năng lực quản lý phải theo kịp tốc độ phát triển, đầu tư phải thiết thực hiệu quả, không được lãng phí và đảm bảo công khai, rõ ràng, minh bạch.
Một xã hội được tổ chức tốt, nhất là trong bối cảnh công nghiệp hóa, phụ thuộc rất nhiều vào giới quản lý. Cái mới được du nhập từ bên ngoài vào không thể không thông qua vai trò của giới quản lý. Đối với giới quản lý, không phải chỉ dạy cho họ kỹ thuật xúc tiến TMĐT, mà điều quan trọng hơn là làm cho họ có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí, phương hướng phát triển TMĐT để họ vận dụng vào lĩnh vực quản lý của mình. Tiếp sau đó mới là phổ biến cho họ những kiến thức cần thiết nhất để họ có khả năng xử lý những vấn đề do công tác quản lý đặt ra khi liên quan đến TMĐT.
Kết Luận
Thật ra, thương mại điện tử không phải là một phương thức mới của thương mại. Thực ra nó đánh dấu sự bắt đầu của một hệ thống tạo ra của cải vật chất mới. Nó là một cơ hội thương mại tuyệt vời để phát triển kinh tế. Đó là lý do tại sao nhiều người đang đổ tiền vào khai thác thương mại điện tử.
Với Việt Nam, dưới tác động của thương mại điện tử có định hướng của Đảng và Nhà nước ta, chúng ta sẽ khắc phục được những nhược điểm của lối sống tiểu nông, tiểu thương ( trì trệ, bảo thủ, cô lập, thiếu lòng tin, ít coi trọng chữ tín trong kinh doanh...).Tuy nhiên, mô hình TMĐT ở Việt Nam chưa được chú trọng phát triển một cách đồng bộ. Chỉ riêng về hạ tầng công nghệ thông tin của nước ta, với tốc độ đường truyền và với độ an toàn thông tin còn quá thấp như hiện nay thì chưa thể nói đến hoạt động thương mại điện tử thực sự được. Từ góc độ này, cần khắc phục tính nôn nóng để xác định những bước đi vững chắc. Chỉ có như vậy mới có thể tránh tình trạng đầu tư tràn lan không rõ hướng, không phù hợp với thực tế cho thương mại điện tử, mới tránh được lãng phí sau đó lại là một tâm lý thất vọng do đầu tư không có hiệu quả.
Cần tiến hành những bước thử nghiệm chắc chắn, có đúc rút kinh nghiệm đối với hoạt động cụ thể của thương mại điện tử để hoạch định những bước đi và giải pháp thích hợp.
Hy vọng rằng đề án đã phản ánh một cách chung nhất về tình hình thương mại điện tử hiện nay để mọi người có thể nhìn nhận lại nó và hiểu được tầm quan trọng của nó trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Chúng ta có thể tin rằng một ngày nào đó thương mại điện tử sẽ phát triển mạnh mẽ hơn để phù hợp với xu thế của thời đại và thương mại điện tử là một ngành phổ biến trong kinh doanh.
Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo.
Giáo trình Kinh Tế Thương Mại Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Thương Mại Điện Tử Nhà Xuất Bản Lao Động
Thời Báo Kinh Tế Việt Nam Số 62, 64- 2002, Số 6, 64,65-2003
Tạp chí Thương Mại Số 46,18-2003
Tạp chí Nghiên Cứu Đông Nam á Số 1-2001
Tạp chí Phát Triển Kinh Tế Tháng giêng 2003
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33779.doc