Nhìn chung, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều quốc gia. Khủng hoảng nổ ra dữ dội trong năm qua, hệ thống ngân hàng của nhiều quốc gia lâm vào đõ vỡ. Khủng hoảng đang lan nhanh đến Châu Âu và Châu Á và toàn thế giới. Chắc chắn khủng hoảng tiêu cực sẽ ảnh hưởng đến Việt Nam (cũng như nhiều nước khác) trên cả góc độ trực tiếp và gián tiếp, tuy mức độ chưa thể xác định. Song, khi mọi việc còn đang nằm trong tầm kiểm soát thì chính các biện pháp cũng như chính sách điều hành của nhà nước lúc này là đặc biệt quan trọng. Vì thế, khi Việt Nam là một quốc gia mới hội nhập vào nền kinh tế thế giới, chịu tác động chưa sâu, chúng ta còn có thể điều chỉnh và khống chế được tác động từ bên ngoài thì không có lý do gì mà chúng ta không tự bảo vệ mình trước khi quá muộn. Đó là các biện pháp, các chính sách tiền tệ, các công cụ tài chính dược sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế lúc này được đặt lên hàng đầu.
Ngành ngân hàng Việt Nam đang cần bàn tay của Chính Phủ. Bằng pháp luật, nhà nước tác động đến thị trường nhằm làm giảm những khiếm khuyết của thị trường, đưa thị trường phát triển theo một trật tự, ổn định theo sự điều tiết của nhà nước. Phát triển thị trường theo hướng đầu tư đa cực, từ nhiều nguồn sẽ khiến hệ thống ngân hàng VN có tính cạnh tranh cao hơn, đưa đến một tương lai chuyên nghiệp và minh bạch hơn. Bình ổn thị trường một cách độc lập.
55 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1723 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Suy thoái kinh tế và tác động của nó đến hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện tử- máy tính, cà phê. Trong các thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm 2008, Hoa Kỳ vẫn là đối tác lớn nhất, đạt 11.6 tỷ USD, tăng 14.5% so với năm 2007; thị trường ASEAN tuy có giảm trong các tháng cuối năm, nhưng ước tính cảc năm vẫn đạt 10.2 tỷ USD, tăng 31% so với năm trước, thị trường ED đạt 10 tỷ USD, tăng 15% so với năm trước. Xuất khẩu năm 2008 cảu các loại hàng hoá tăng 29.5% so với năm 2007.
Từ năm 2001 Việt Nam đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế hướng tới xuất khẩu và chiến lược này thực sự đã gặt hái được một số thành công. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đã trở nên phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu khi xuất khẩu chiểm đến 70 % GDP. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng toàn câu hiện nay đã ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu của Việt Nam do các thị trường tiêu thụ sản phẩm chính bị thu hẹp. Thống kê cho thấy xuất khẩu 3 tháng đầu năm 2009 khả ảm đạm. Mặc dù xuất khẩu của VN trong tháng 3 giảm 2,8% so với cùng kỳ năm 2008, chỉ có 9/35 mặt hàng xuất khẩu được thống kê tăng, còn lại là giữ nguyên và giảm nhưng nhờ lượng tái xuất vàng, đá quý tăng vọt lên tới trên 2 tỉ USD trong ba tháng đầu năm, giúp xuất khẩu cả quý 1 tăng 2,4%. Tuy nhiên, ba tháng kim ngạch xuất khẩu mới đạt khoảng 19% kế hoạch năm. Xuất khẩu ba tháng qua của hơn mười mặt hàng chủ lực như điện tử và linh kiện máy tính, thủy sản, cà phê, hạt điều, dầu thô... giảm 10-20%, có mặt hàng giảm gần 50% như cao su, dây cáp điện... Điều này chứng minh các doanh nghiệp (DN) VN đang chịu ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng kinh tế thế giới. Mặc dù 3 tháng đầu năm Việt Nam xuất siêu nhưng chủ yếu là nhờ tái xuất vàng và đây không phải là điều đáng mừng bởi không ảnh hưởng gì tới sản xuất.
Tóm lại năm 2009 nền kinh tế Việt Nam sẽ gặp phải những thử thách hết sức khốc liệt và nguy cơ suy giảm tăng trưởng vẫn đang hiện hữu. Tuy nhiên với những chính sách điều hành kinh tế linh hoạt của Chính phủ và nỗ lực của toàn xã hội, kinh tế Việt Nam sẽ đứng vững tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững trong những năm tiếp theo.
6. Nhập khẩu
Giá trị nhập khẩu hàng hoá tính chung cả năm 2008 ước tính đạt 80.4 tỷ USD, tăng 28.3% so với năm 2007, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 51.8 tỷ USD, tăng 26.5%. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28.6 tỷ USD, tăng 31.7%. Ba nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim nghạch hàng hoá nhập khẩu năm 2008 là tư liệu sản xuất( chiếm 88.8%); hàng tiêu dùng( chiếm 7.8%) và vàng( chiếm 3.4%). Nhập siêu hàng hoá năm 2008 đạt 17.5 Tỷ USD, tăng 24.1% so với năm 2007 và bằng 27.8% kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu. Tuy nhập siêu đã giảm nhiều so với dự báo những tháng trước đây nhưng nhập siêu năm nay vẫn khá cao. Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu từ khu vực ASEAN ước tính đạt 19.5 tỷ USD, tăng 22.5% so với 2007. Các mặt hàng nhập khẩu chủ lực nhàm đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất trong nước đều tăng so với 2007. Tuy nhiên, nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất cho những tháng cuối năm có xu hướng giảm nhiều. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng trong các tháng cuối năm cho thấy hàng tiêu dùng nước ngoài đang tạo sức ép lớn lên hàng tiêu dùng Việt Nam ngay tại thị trường trong nước.
7. Thị trường khoán và bất động sản co hẹp
Năm 2008 thị trường chứng khoán có nhiều biến động xấu. Chỉ số VN – Index giảm mạnh, thiết lập đáy của năm tại 285 điểm (ngày 10/12), mức thấp nhất kể từ năm 2006 tới nay. Sau 8 năm hoạt động kể từ khi khai trương đến nay, năm 2008 là năm thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động khó khăn nhất, chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh nhất từ những bất ổn của kinh tế vĩ mô trong nước và bất ổn của thị trường tài chính tiền tệ thế giới. Thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong giai đoạn trầm lắng.
Những bất ổn của kinh tế vĩ mô trong năm 2008 khiến thị trường chứng khoán Việt Nam tuy có lúc lên lúc xuống, nhưng về toàn cục là suy giảm mạnh. Cuối tháng 6, thị trường có dấu hiện phục hồi khi các chính sách nhằm kiểm chế lạm phát của Chính phủ bắt đầu có tác dụng. Nhưng sau đó, do sự bất ổn của thị trường tài chính Mỹ và ảnh hưởng của nó tới thị trường chứng khoán toàn cầu, thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục giảm điểm và cắt xuống dưới mốc 300.
Về thị trường bất động sản, trong năm 2008, các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tăng lãi suất huy động vốn, gần như ngừng cho vay bất động sản, khiến các dự án liên quan đến bất động sản gần như đóng băng.
8. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Tốc độ tăng trưởng trung bình của các doanh nghiệp, theo báo cáo điều tra của VCCI, đạt 10,9% trong 6 tháng đầu năm 2008, mức tăng trưởng được đánh giá là khá tốt so với năm 2007 (5%). Tuy nhiên, kết quả này có được chủ yếu là do thừa hưởng đà tăng trưởng từ năm 200. Doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn lớn với việc lạm phát trong nước năm 2008 tăng cao, suy thoái kinh tế toàn cầu đang lan rộng. Khoảng giữa năm 2008, doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất cao, trong khi giá các nguyên vật liệu cơ bản tăng cao. Song gần đây, giá của nhiều mặt hàng giảm nhanh, khiến họ phải đầu tư với chi phí cao nhưng phải bán sản phẩm với giá thấp. Nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng hoạt động cầm chừng và không tìm được hướng giải quyết đầu ra.
Với những biến động bất thường của kinh tế như năm 2008, các doanh nghiệp muốn duy trì sản xuất đều phải tự tìm ra hướng giải quyết. Nhiều doanh nghiệp đã thu hẹp quy mô sản xuất do càng sản xuất càng lỗ để lại hậu quả là phải cắt giảm hoặc sa thải lao động gây ra những vấn đề không nhỏ về mặt xã hội. Trong khi đó, giá cả tăng cao, lương công nhân không có khả năng tăng theo dẫn đến tình trạng đình công và đình trệ kinh doanh ở nhiều doanh nghiệp sản xuất.
9. Chỉ số giá tiêu dùng- giá vàng- giá USD
Trái ngược với quy luật “Mùa tiêu dùng nóng” của thị trường cuối năm, CPI cả nước tháng 12/2008 đã tiếp tục giảm tháng thứ ba liên tiếp với mức 0.68% so với tháng 11, đưa chỉ số CPI tháng 12 ở mức 19.89% so với tháng 12/2007 và bình quân cả năm 2008 đạt 22.97%. Tính tổng cả năm, chỉ có một nhóm hàng giảm CPI so với năm trước là bưu chính- viễn thông. Các mặt hàng tăng giá mạnh nh t vẫn tập trung vào lương thực( h ơn 49%), thực phẩm(h ơn 32%), phương tiện đi lại( 16%), nhà ở và vật liệu xây dựng( 20.51%). Nhìn chung, giá tiêu dùng cả năm 2008 tăng khá cao và diễn biến phức tạp so với xu hướng giá tiêu dùng các năm trước. Giá tăng cao ngay từ quý I và liên tục tăng lên trong quý II, III, nhưng các tháng trong quý VI liên tục giảm.
Giá vàng năm nay tăng mạnh so với năm ngoái, thêm gần 32%. Giá vàng tháng 12/2008 so với tháng trước tăng 0.78% và so với tháng 12/2007 tăng 6.83%. Giá vàng bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 31.93%.
Đồng USD trong năm 2008 gần như không có biến động mạnh. Tháng 12/2008, giá đồng USD so với tháng 11 tăng 1.14%, so với cùng kỳ năm trước tăng 6.31% và bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 2.35%
10.Vấn đề điều hành kinh tế chưa đồng bộ kịp thời
Báo cáo Chuyên đề “Dự báo triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2009” đã đưa ra những bất cập trong điều hành kinh tế như:
• điều hành tiền tệ, tín dụng. Lạm phát trong nước tăng cao một phần lý do là giá cả thế giới tăng, nhưng phần khác là do chính sách điều hành tiền tệ của chính phủ còn chưa phù hợp. Chính sách nới lỏng tiền tệ trong nhiều năm, đặc biệt là năm 2007, làm tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng tăng cao, gây áp lực trực tiếp đến lạm phát. Sang quí III/2008 khủng hoảng tài chính từ Mỹ đã bắt đầu lan rộng, giá cả trên toàn thế giới suy giảm, góp phần kiềm chế lạm phát những tháng cuối năm, nhưng Ngân hàng nhà nước vẫn duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ, lãi suất ngân vẫn duy trì quá cao, đến tận tháng 10/2008 lãi suất cơ bản vẫn ở mức 14%/năm và lãi suất cho vay vẫn ở khoảng 19-21%/năm. Chỉ đến khi nền kinh tế bộc lộ sự phát triển trì trệ, giá tiêu dùng giảm phát vào tháng 10 và có dấu hiệu tiếp tục giảm phát CPI, chính phủ mới mạnh dạn nới lỏng hơn chính sách tiền tệ mạnh tay giảm lãi suất cơ bản 4% xuống còn 10% trong vòng 6 tuần.
• chính sách quản lý đầu tư. Đây là vấn đề đã tồn tại nhiều năm nhưng Chính phủ vẫn chưa có những chính sách thích hợp để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư trong khu vực nhà nước. Theo Báo cáo của Kiểm toán nhà nước thì tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ hữu ở khối doanh nghiệp nhà nước chỉ đạt 17,04% trong khi chiếm đến 50% vốn đầu tư nhà nước, 70% tổng dư nợ quốc gia và 80% tổng dư nợ tín dụng.
• vấn đề ổn định vĩ mô. Thu chi ngân sách mất cân đối, bội chi ở mức cao, đầu tư dàn trải... là những vấn đề còn tồn tại. Dự kiến tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2008 đạt 399 nghìn tỷ đồng, vượt 23,5% so với dự toán và tăng 26,3% so với kết quả thực hiện năm ngoái chủ yếu là từ chênh lệch giá dầu,các khoản thu về nhà và đất, và thu từ xuất khẩu . Cả ba yếu tố này đều rất bấp bênh, đặc biệt trong bối cảnh giá dầu thô tiếp tục giảm mạnh, xuất khẩu bị đe dọa khi thế giới đối mặt với nguy cơ suy thoái. Sản xuất kinh doanh năm 2008 có biểu hiện chững lại, phát sinh nhiều khó khăn ở các khu vực kinh tế, khiến thu ngân sách vốn đã lệ thuộc nhiều vào các yếu tố bên ngoài, càng trở nên bấp bênh, thiếu ổn định. Theo đánh giá của Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội, thực hiện dự toán chi ngân sách chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao, tiết kiệm chưa triệt để. Chi đầu tư phát triển ước cả năm đạt 118 nghìn tỷ đồng, tăng 18,3% so với dự toán, chiếm 24,9% tổng chi ngân sách Nhà nước. Nhưng giải ngân vẫn chậm, đầu tư dàn trải, vi phạm đầu tư xây dựng cơ bản phổ biến. Tỷ lệ giải ngân vốn xây dựng cơ bản dự tính cả năm chỉ đạt 20 nghìn tỷ đồng, bằng 54% kế hoạch ban đầu và 70% kế hoạch điều chỉnh của Chính phủ.
• Cuối cùng là vấn đề yếu kém trong công tác dự báo và thông tin thị trường. Công tác nghiên cứu dự báo và thông tin thị trường chưa được coi trọng đúng mức, năng lực tham mưu tổng hợp về kinh tế vĩ mô chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý điều hành. Ví dụ, vào cuối tháng 3/2008 giá gạo thế giới tăng cao (khoảng 1000USD/tấn), Bộ Công Thương tham mưu cho Chính phủ tạm dừng ký hợp đồng mới xuất khẩu gạo tới hết tháng 6/2008, sau đó mới cho xuất khẩu gạo lại, thì lúc đó giá gạo thế giới đã xuống thấp (còn khoảng 700USD/tấn vào tháng 7/2008 gây thiệt hại cho thu ngân sách nhà nước và người nông dân.
Tóm lại, những báo cáo trên đã cho thấy năm 2008 nền kinh tế nước ta đã gặp nhiều khó khăn lớn. Đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, lạm phát và nhập siêu tăng cao, tỉ lệ đầu tư trên GDP giảm xuống, thị trường chứng khoán, bất động sản không ổn định, sản xuất của các doanh nghiệp gặp khó khăn, thu nhập và mức sống dân cư giảm sút. Phân tích cũng chỉ ra nguyên nhân của những vấn đề khó khăn đó không chỉ do tác động của suy thoái kinh tế thế giới mà chủ yếu do những yếu kém nội tại đã tích tụ từ nhiều năm nay mà chưa được xử lý một cách phù hợp. Bên cạnh đó, các biện pháp điều tiết của Chính phủ tuy đã cải thiện được một phần tình hình nhưng quá trình thực hiện vẫn còn biểu hiện lúng túng, chưa nhất quán, thiếu đồng bộ, ảnh hưởng không lợi cho nền kinh tế như các chính sách hạn chế xuất khẩu gạo, tăng thuế xuất khẩu thép, thắt chặt tiền tệ quá mạnh làm giảm tính thanh khoản của các ngân hàng.
PHẦN II : THƯC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC TÁC ĐỘNG CỦA SUY THOÁI LÊN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng
a. Kết quả của các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Trong bối cảnh bức tranh kinh tế toàn cầu suy giảm, ngành Ngân hàng Việt nam đã có những chuyển biến tích cực góp phần giảm bớt tác động tiêu cực của suy thoái. Hệ thống ngân hàng đã có những điều chỉnh hợp lý phù hợp với các biến động phức tạp của thị trương. Vì vậy, cho dù năm qua nên kinh tế có chịu nhiều ảnh hưởng của suy thoái nhưng kết quả kinh doanh của các ngân hàng vẫn có nhiều tín hiệu khả quan. Ta sẽ đến với kết quả kinh doanh của một số ngân hàng trong năm qua:
Ngày 11/1/2009 Ngân hàng Công Thương Việt Nam (vietinbank) công bố tổng tài sản của ngân hàng này tăng 18%, vốn tự có đạt hơn 10800 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 1563 tỷ đồng; trích dự phòng rủi do 1500 tỷ đồng. Đến hết 31/12/2008, vietinbank đạt số dư nguồn vốn gần 20000 tỷ đồng với đầu năm. Dư nợ cho vay và đầu tư đạt 180.3 nghìn tỷ đồng, tăng gần 27.8 nghìn tỷ đồng; hoạt động cho vay và đầu tư chiếm 92% tỷ trọng tài sản có. Cũng tính đến hết 2008, dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 119.9 nghìn tỷ đồng, tăng 14.8%; nợ xấu là 1303 tỷ đồng, chiếm 1.09% dư nợ..
Ngày 10/1/2009 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam ( agribank) công bố kết quả kinh doanh 2008, với tổng nguồn vốn tài sản đạt 386.8 nghìn tỷ đồng, tăng 18.35 so với đầu năm; lợi nhuận trước thuế tăng 43%; quỹ tiền lương tăng 32%; lãI suất thực tế đầu vào bình quân/ tháng tăng 0.3%; dư nợ cho vay đầu tư tăng trưởng 14.2% so với 2007.
Năm 2008, tổng tài sản của Ngân hàng đầu tue và Phát triển Việt Nam ( BIDV) đạt trên 243.8 nghìn tỷ đồng, huy động vốn đạt 201.1 nghìn tỷ đồng, tổng tín dụng đạt 154.8 nghìn tỷ đồng, dư nợ tín dụng cho vay nền kinh tế đạt 149.4 nghìn tỷ đồng, kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo đúng chỉ đạo, kiềm chế tăng trưởng tín dung ở mức 27%.
Bên cạnh đó, các ngân hàng như: Ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội ( habubank) và ngân hàng cổ phần Sài Gòn (SCB)… vừa công bố kết quả kinh doanh năm 2008. Tổng vốn điều lệ của Hagubank đạt 2800 tỷ đồng, tổng tài sản đạt 24863 tỷ đồng, tổng huy động vốn ước đatj 19758 tỷ đồng, tổng dư nợ đạt 10000 tỷ đông và lợi nhuận trước thuế đạt 525 tỷ đồng.
Ta có thể đến với một số mặt hoạt động của các ngân hàng:
Trên lĩnh vực huy động vốn: toàn bộ hệ thống Ngân hàng thương mại đã tập trung đẩy mạnh công tác huy động vốn, đảm bảo đủ vốn cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế. Mặc dù lãi suất huy động vốn đang có xu hướng giảm nhưng nguồn tiền gửi của khách hàng đều tăng. Điều đó cho thấy các Ngân hàng đã có chủ trương đúng đắn, năng động về điều hành lãi suất, chính sách khách hàng và đã chú ý đến việc huy động vốn có thời hạn dài để cân đối nguồn vốn cho vay chung và dài hạn. Trong những năm đầu của thế kỷ 21, hệ thống Ngân hàng đã kiên trì thực hiện chủ trương tạo cân đối lành mạnh giữa nguồn vốn với nhu cầu cho vay, với phương châm: có nhu cầu mở rộng tín dụng thì mới huy động nguồn vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu mở rộng kinh doanh và hạn chế đến mức thấp nhất sự thừa, ứ đọng vốn, dành một lượng vốn thỏa đáng để kinh doanh trên thị trường mở, đấu thầu tín phiếu kho bạc, tranh thủ vốn khả dụng để gửi qua đêm, tuần...
Việc ra đời thị trường Chứng khoán Việt nam là một bước tiến quan trọng trong việc phát triển các giao dịch thị trường vốn ở Việt nam, cùng với sự thành lập các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, các định chế tài chính phi tín dụng như quỹ bảo hiểm, công ty tài chính trực thuộc các tổng công ty lớn đã làm cho các đồng tiền nhàn rỗi từ dân cư và doanh nghiệp không còn tập trung chảy vào Ngân hàng thương mại như trước đây nữa. Mặc dù vậy, nhịp độ tăng trưởng nguồn vốn huy động ở các Ngân hàng thương mại trong những năm đầu thế kỷ 21 ở mức trên 20%, trong đó nguồn vốn Việt nam đồng có tốc độ tăng nhanh hơn ngoại tệ.
b. Cách sử dụng vốn
Gần đây, thoát ra tình trạng cầu tín dụng quá thấp như giai đoạn trước, qui mô tín dụng của Ngân hàng thương mại tăng trưởng một cách khá khả quan, đồng thời nâng cao về mặt chất lượng đầu tư. Ngoài các khách hàng truyền thống trong các lĩnh vực sản xuất, thương mại, nông thôn… Ngân hàng đã mở rộng đối tượng khách hàng và các loại hình cho vay như: cho vay các chương trình phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo, cho vay tiêu dùng… Đối với tín dụng trung và dài hạn, các Ngân hàng tiếp tục đầu tư vào nhiều dự án của Chính phủ, của doanh nghiệp nước ngoài, tư nhân... đó là những dự án có ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế đất nuớc. Trong quá trình thực hiện cơ cấu lại các khoản nợ, các Ngân hàng tích cực chủ động trong công tác khai thác tài sản xiết nợ để giảm bớt tỷ lệ nợ xấu, một số Ngân hàng đã tham gia thường xuyên các hoạt động mua bán tín phiếu, trái phiếu mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc, các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, việc đầu tư vào lĩnh vực này luôn là nguồn dự trữ thứ cấp đảm bảo thanh toán an toàn cho các Ngân hàng.
Nhìn chung, chất lượng của tín dụng đã dược chú ý hơn ở từng cấp, các hoạt động đầu tư đã được chú trọng hơn vào các dự án trọng điểm và nhất là việc đầu tư trên Thị trường chứng khoán đã góp phần nâng cao chất lượng của đồng vốn bỏ ra.
c. Dich vụ của trung gian tài chính
Hiện nay, để phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước cũng như toàn cầu, tất yếu các Ngân hàng hiện đại đã hoạt động, kinh doanh với các dịch vụ đa năng đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, mặt khác bản thân các Ngân hàng thương mại với mục tiêu kinh doanh xuyên suốt là thu được nhiều lợi nhuận thì lẽ đương nhiên phải phát triển các dịch vụ, tiện ích để vừa có thu nhập, vừa phân tán bớt rủi ro trong kinh doanh. Các Ngân hàng thương mại đã đưa các qui trình kỹ thuật, công nghệ, tổ chức thanh toán hiện đại đang được ứng dụng triển khai và bước đầu đã phát huy được tác dụng tăng vòng luân chuyển vốn trong nền kinh tế, giảm tỷ trọng thanh toán dùng tiền mặt... Một số nghiệp vụ và dịch vụ mới được hình thành như: dịch vụ tư vấn, dịch vụ cho thuê tài chính, dịch vụ rút tiền tự động, bảo lãnh thanh toán...
Như vậy, hệ thống Ngân hàng thương mại ở Việt nam hiện nay đã có những bước tiến mới vượt xa so với trước, các hoạt động của Ngân hàng đã được mở rộng ra rất nhiều không còn bó buộc trong hai hình thức là cho vay và nhận tiền gửi. Chất lượng và hiệu quả của nghiệp vụ và dịch vụ của Ngân hàng đã dần hoàn thiện hơn trước rất nhiều.
d. Hạn chế
Trên thực tế, việc hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt nam thời gian qua đã có những thành công nhất định, rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên xem xét một cách khách quan thì: thứ nhất, trong toàn bộ hệ thống vẫn được chưa đa dạng hóa các hình thức huy động vốn. Một số Ngân hàng chưa nhận thức rõ tầm quan trọng, tính vững chắc của nguồn vốn huy động tại địa phương nên vẫn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào trung ương, việc mở rộng thị trường, thị phần ở thành thị còn hạn chế, chưa xứng đáng với tiềm năng của khu vực này. Thứ hai, trong hoạt động tín dụng, tình trạng nợ xấu, nợ quá hạn vẫn còn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số tài sản của Ngân hàng thương mại, các khách hàng vẫn lợi dụng khe hở của pháp luật hoặc sơ xuất của cán bộ tín dụng để lừa đảo, không trả nợ. Hình thức hoạt động đầu tư trên Thị trường chưng khoán vẫn còn non kém về trình độ chuyên môn, lượng vốn giao dịch còn quá thấp, hiện tượng đầu tư theo phong trào như kiểu đầu tư xi măng, đường ... vẫn còn phổ biến ở khắp nơi. Về các dịch vụ mà hệ thống Ngân hàng cung cấp vẫn còn mới ở “điểm xuất phát”, dùng các công cụ truyền thống là chủ yếu, hơn nữa các loại dịch vụ còn bị hạn chế chưa trở thành phổ biến đượcnhư công cụ thanh toán thẻ, séc…
e. Hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng thương mại
Trước tiên, về mặt kiểm soát chi phí, các Ngân hàng thương mại Việt nam có chi phí rất cao so với tổng thu nhập (57- 110%). Trong đó, chi phí hoạt động chiếm một tỷ trọng lớn so với tổng thu nhập (trên 65%), điều đó ảnh hưởng nhiều đến lợi nhuận ròng của mỗi một ngân hàng. Chi phí nhân sự, chi phí gián tiếp và các khoản cho vay thất thu… ở mức cao.
Về cơ cấu tiền gửi của ngân hàng cũng chưa có sự phù hợp, các ngân hàng huy động tiền gửi thanh toán rất ít (thường dưới 20%), mà đây lại là khoản tiền gửi có lãi suất thấp, thậm chí không phải trả lãi, tuy luôn mang theo phí dịch vụ đối với khách hàng nhưng chính nó đem lại thu nhập nhiều hơn cho mỗi một ngân hàng. Việc các ngân hàng thu hút và giữ một số lượng khiêm tốn tiền gửi cơ sở-tiền gửi có giá trị danh nghiã nhỏ từ cá nhân và các doanh nghiệp nhỏ- mang lãi suất thấp và tỏ ra trungthành với ngân hàng hơn các khoản tiền gửi khác là một sự lãng phí rất lớn cần lưu ý.
Năng suất lao động của ngân hàng còn rất thấp, do vậy việc trả lương cho nhân viên cao hơn gặp rất nhiều khó khăn. Về quy mô ngân hàng cũng cần phải lưu ý, tỷ lệ thu nhập trên tài sản (ROA) còn nhỏ so với các ngân hàng nước ngoài (thường dưới 30%) điều này chứng tỏ lợi nhuận của các tài sản quá thấp. Mặt khác, khi đo bằng ROE, tình trạng sử dụng vốn chủ sơ hữu nhiều và sử dụng ít nợ để tài trợ cho tài sản còn phổ biến.
Việc mở rộng các dịch vụ thu phí trở thành một yếu tố then chốt trong chiến lược tăng cường thu nhập của ngân hàng ngững năm gần đây. Một mặt, các dịch vụ mới được phát triển nhiều như: dịch vụ cho thuê, bảo lãnh phát hành, thanh toán bằng thẻ, môi giới chứng khoán… Mặt khác, do có sự thay đổi một số quy định đối với ngành ngân hàng nên đã gia tăng sức ép buộc các ngân hàng phải thu phí với nhiều dịch vụ mà trước đây “miễn phí”: hoạt động chào bán chứng khoán, bán cổ phiếu cho quỹ tương hỗ, dịch vụ uỷ thác, hoạt động tư vấn cho khách hàng…Chính điều này lại làm giảm số khách hàng sử dụng và hiểu biết về các dịch vụ ngân hàng đưa ra trong khi trình độ hiểu biết bình quân của người dân Việt nam còn quá thấp.
Ngoài ra, các ngân hàng cổ phần ngoài quốc doanh còn đưa ra rất nhiều hình thức khác đa dạng hơn nhằm thu hút nhiều nhất khách hàng cho mình. Hiệu quả hoạt động của họ ngày càng được nâng cao thể hiện ở việc tăng trưởng đều đặn về tài sản, tiền gửi và các khoản cho vay, điều này phản ánh sự quản lý mạnh dạn hơn của ngân hàng, sự chấp nhận rộng rãi hơn của khách hàng đối với các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Song tỷ trọng của ngân hàng cổ phần còn quá nhỏ so với cả hệ thống ngân hàng…
f. Nguyên nhân
Những hạn chế nêu trên của Ngân hàng thương mại là do :
Nền kinh tế Việt Nam mới phát triển ở giai đoạn thấp, sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã hình thành nên các yếu tố cần thiết của nền kinh tế thị trường nhưng còn thiếu rất nhiều. Nhu cầu về các dịch vụ Ngân hàng, nhất là các dịch vụ gắn với công nghệ hiện đại chưa thật bức xúc, thu nhập của đại bộ phận dân cư còn thấp. Mặt khác, tập quán ưa dùng phương tiện thanh toán truyền thống như tiền mặt, gửi tiết kiệm vẫn còn rất nặng nề.
Cơ chế hoạt động của Ngân hàng thương mại theo hướng kinh doanh đa năng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong tình hình mới, đồng thời vốn, tiềm năng tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật của Ngân hàng thương mại còn quá thiếu và yếu chưa có đủ điều kiện để thực hiện dịch vụ mới.
Trình độ quản lý kỹ thuật của đội ngũ cán bộ Ngân hàng còn nhiều bất cập hạn chế. Cơ chế, chính sách của nhà nước về các lĩnh vực có liên quan dến hoạt động kinh doanh đa năng của Ngân hàng thương mại còn mang nặng tính hành chính, thiếu đồng bộ thậm chí còn chồng chéo ảnh hưởng bất lợi cho việc kinh doanh đa năng.
Các Ngân hàng thương mại có thể thực hiện việc kinh doanh đa năng và phải thực hiện việc kinh doanh đa năng, cơ cấu lại tình hình tài chính theo cơ chế thị trường để tồn tại phát triển trong môi trường cạnh tranh quyết liệt ở trong nước cũng như trên thị trường quốc tế.
Đặc biệt, trong hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại thì hoạt động tín dụng vẫn nổi bật nhất, cần chú ý hơn là hoạt động cho vay chiếm trên 60% tổng tài sản có. Nguyên tắc cơ bản của tín dụng là cho vay phải hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi song do phụ thuộc vào nhiều yếu tố ở trong nền kinh tế nên xảy ra rủi ro rất lớn. Nguyên nhân có thể là do môi trường cho vay: cơ chế chính sách thay đổi thường xuyên trong thời gian qua, môi trường pháp lí cho kinh doanh Ngân hàng chưa đầy đủ, đồng bộ, việc quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp còn nhiều sơ hở. Cũng có thể từ phía khách hàng còn hạn chế về tư tưởng và sử dụng các thủ đoạn lừa đảo tinh vi hơn ... Từ phía Ngân hàng, việc chấp hành quy trình nghiệp vụ cho vay, bảo lãnh, thế chấp chưa nghiêm túc, các thủ tục hồ sơ pháp lý còn nhiều thiếu sót, việc kiểm tra, kiểm soát và theo dõi sử dụng vốn vay của Ngân hàng chưa chặt chẽ, chưa ngăn chặn kịp thời những trường hợp sử dụng vốn sai mục đích của khách hàng, chưa có thẩm định các phương án vay vốn một cách chặt chẽ.
2. Những điều kiện thuận lợi và thách thức của Ngân hàng thương mại trước tình hình hội nhập kinh tế quốc Tế
a. Cơ hội
Hội nhập quốc tế trong hoạt động ngân hàng mở ra các cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế về các vấn đề tài chính- tiền tệ. Trong đó, ngành Ngân hàng Việt nam có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ các nước có trình độ phát triển cao về tính chuyên nghiệp trong các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn, mở rộng quá trình tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng mới ưu việt, có nhiều cơ hội hơn để khai thác và sử dụng có hiệu quả các ưu thế của các mô hình ngân hàng đa năng, hoạt động không chỉ trong phạm vi nội địa mà ngày càng có tính quốc gia, tạo tiền đề cho Ngân hàng Việt nam vươn ra thị trường quốc tế.
Tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, hệ thống ngân hàng sẽ có điều kiện đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, không ngừng tăng cường nguồn lực trí tuệ đáp ứng nền văn minh ngân hàng trong bối cảnh nước ta đang trong thời kỳ thực hiện công cuộc CNH- HĐH.
Hội nhập để vừa thực hiện cam kết với các tổ chức thương mại toàn cầu và khu vực ASEAN, hiệp định thương mại Việt- Mỹ và WTO), vừa tạo môi trường để ngành ngân hàng Việt nam đẩy mạnh công cuộc cải cách sâu rộng và triệt để hơn trong các lĩnh vực tổ chức, công nghệ và đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp lý về hoạt động để Ngân hàng ngày càng phù hợp hơn với các chuẩn mực quốc tế.
b. Thách thức
Thách thức lớn nhất đối với quá trình hội nhập quốc tế của ngân hàng Việt nam là xuất phát điểm về công nghệ, tổ chức và trình độ quản lý còn yếu so với nhiều nước trong khu vực và quốc tế. Hơn nữa hoạt động Ngân hàng Việt nam trong bối cảnh của một nền kinh tế chuyển đổi, môi trường pháp lý chưa đồng bộ, chưa thích hợp theo các quy định và chuẩn mực quốc tế. Mỗi một quốc gia, kể cả Việt nam, đều muốn có lợi ích riêng trong quá trình toàn cầu hóa nhưng lại phải tuân thủ quy luật chung và phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, không có cách nào khác là hệ thống Ngân hàng Việt nam cần phải đối mặt với những thách thức này càng sớm càng tốt, trước hết là học cách hiểu đúng các thông lệ quốc tế .
Do còn có những hạn chế về chất lượng quản lý tài sản “Có”, sự nghèo nàn về dịch vụ tài chính, còn luẩn quẩn trong môi trường pháp lý chưa thích hợp, theo đó tỷ lệ tiết kiệm nội địa thấp, đầu tư và công nghệ còn dựa nhiều vào nước ngoài, nền văn minh ngân hàng còn ở trình độ một nền kinh tế tiền mặt, công nghệ lạc hậu... khiến cho hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng khó tránh khỏi phải chịu sức ép cạnh tranh lớn và phải chịu thua thiệt khi tham gia cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên không thể né tránh, chỉ có chấp nhận cạnh tranh và dựa vào những lợi thế vốn có, đặc biệt là lợi thế tiếp cận khách hàng, hệ thống Ngân hàng Việt nam mới có điều kiện phát triển thực sự.
Khi các nước mở cửa thị trường của họ, hệ thống Ngân hàng Việt nam có thể dễ bị tổn thương. Trong bối cảnh đó thậm chí sẽ kéo theo hiện tượng chảy máu chất xám tại chỗ, vốn đã rất hiếm hoi trong bộ phận những người được đào tạo bài bản tại các nền kinh tế phát triển, nay dễ dàng từ bỏ nơi có thu nhập thấp để tới nơi có thu nhập và điều kiện làm việc tốt hơn nếu không có một cơ chế thu hút thích hợp. Việc mở cửa và tiến tới tự do hóa trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng ở Việt nam cùng với sự phát triển các hoạt độngcủa tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt nam cũng đặt ra những thách thức mới về quản lý và giám sát của Ngân hàng nhà nước.
Khi hội nhập, áp lực về vốn đối với hệ thống Ngân hàng Việt nam là rất lớn. Giải pháp cho vay hợp vốn hay đồng tài trợ đã được nhiều ngân hàng áp dụng song cũng chỉ là một cách thể hiện cho có vẻ phong phú về loại hình tín dụng, và mỗi nhà doanh nghiệp ngân hàng vẫn giữ cho mình những mánh riêng nghề nghiệp. Chính vì vậy, đã nảy sinh tình trạng cạnh tranh cả về lãi suất lẫn dịch vụ. Tính chất cạnh tranh ngày càng quyết liệt khi mà khách hàng đang trở thành thượng đế, khi mà tiềm năng tài chính quá chênh lệch giữa các ngân hàng trong nước và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đặc biệt khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ đang từng bước được thực thi.
Trong thực tế kinh doanh tiền tệ và hoạt động tín dụng vẫn còn những quy chế bó buộc như không phân biệt quy mô doanh nghiệp (doanh nghiệp có vốn lớn cũng như doanh nghiệp vừa và nhỏ), tỷ lệ cho vay không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng khi đó vốn của tổ chức tín dụng không đủ lớn mà khách hàng lại cần tiền để thực hiện một dự án lớn...
Ngày nay, áp lực về thông tin và công nghệ cũng đè nặng lên các Ngân hàng thương mại. Nhiêù dự án hiện đại hóa ngân hàng đã và đang được các Ngân hàng thương mại thực thi, song không thể phủ nhận những khó khăn về con người để thao tác, khó khăn về tài chính để nâng cấp. Thời gian thì không cho phép kéo dài về sự bất cập, sự trì trệ và tình trạng lạc hậu, tính cạnh tranh ngày nay là tốc độ và chất lượng làm cho các Ngân hàng Việt nam không thể làm ngơ. Sự sống còn trong kinh doanh là vấn đề luôn được đặt ra trong cơ chế thị trường, cần phải đủ bản lĩnh để bước vào hội nhập với quốc tế.
Nguyên tắc khi hội nhập: chấp nhận cạnh tranh, mở cửa để phát triển với bước đi thích hợp, đảm bảo nguyên tắc an toàn, hiệu quả, độc lập tự chủ bình đẳng và cùng có lợi.
Sức mạnh của hệ thống ngân hàng Việt nam phải được gấp rút củng cố cả về mô hình tổ chức, cả về vốn, công nghệ và hoạt động nghiệp vụ đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Quá trình mở cửa của thị trường tài chính Việt nam phải chú ý đến những hạn chế và những lợi thế căn bản của hệ thống ngân hàng Việt nam, đồng thời cũng phải đảm bảo các nguyên tắc của các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế mà Chính phủ đã cam kết (AFTA, hiệp định thương mại Việt –Mỹ, WTO).
II.CÁC TÁC ĐỘNG CỦA SUY THOÁI LÊN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
1. Các tác động tích cực
Đối với lĩnh vực ngân hàng thì số lượng ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam sẽ giảm do các ngân hàng nước ngoài chịu những ảnh hưởng lớn từ sự suy thoái của nền kinh tế thế giới năm qua. Họ đang phải oằn mình để chống đỡ à tìm mọi giải pháp khắc phục hậu quả của suy thoái, nên họ sẽ không mở thêm ngân hàng hoặc chi nhánh tại Việt Nam mà còn có thể bị giải thể một số. Vì vậy sức ép lên các ngân hàng trong nước bớt căng thẳng.
Những cam kết đầu tư rót vốn vào lĩnh vực ngân hàng vẫn phải tiếp tục thực hiện vì đã ký hợp đồng, dù nền kinh tế thế giới hay công ty cam kết đầu tư có gặp khó khăn như thế nào.
Mặt khác, trong lúc một số ngân hàng trên thế giới bị đổ bể, sẽ dư thừa một lượng lớn nhân lực giỏi và họ sẽ dồn số nhân lực này đến các ngân hàng của họ tại Việt Nam. Điều này là cơ hội tôt để các ngân hàng Việt Nam thu hút nguồn nhân lực giỏi cũng như các phương thức quản lý tân tiến từ các nước phát triển trên thế giới.
Việt Nam cũng là một nước ổn định về chính trị với nhiều tiềm năng phát triển kinh tế. Vì vậy: các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tìm đến vào Việt Nam trong thời kỳ thế giới nói chung và tình hình chính trị thế giới nói riê ng có nhiều biến động và bất ổn như hiện nay.
2. Các tác động tiêu cực
Chính sách thắt chặt tiền tệ ban đầu năm 2008 đã thành công trong việc làm vỡ bong bóng bất động sản và giảm tỷ lệ lạm phát. Song, nó đồng thời cũng làm giảm tính thanh khoản và làm hoạt động kinh tế chậm lại, khiến các ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn. Tình trạng khó khăn thanh khoản từ cuối năm 2007 đã buộc các ngân hàng thương mại chạy đua lãi suất huy động và làm giảm tỷ suất lợi nhận của ngân hàng cũng như khan hiếm các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. M ặt kh ác , Việt Nam còn quy định mức trần lãi suất cho vay bằng 150% lãi suất cơ bản. Trong giai đoạn từ tháng sáu đến tháng mười, tỷ suất lợi nhuận của các ngân hàng thương mại đã bị thu hẹp giữa mức trần này và lãi suất tiền gửi. Nếu tính thêm chi phí quản lý và giao dịch thì các ngân hàng thương mại hoàn toàn không có lãi. Mức trần chovay tăng cao khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ dường như gần hết cơ hội vay ngân hàng. Các ngân hàng nhỏ hơn đã cho vay quá nhiều trong thời kỳ phát triển quá nóng, đặc biệt là để hỗ trợ hoạt động đầu tư bất động sản, là những ngân hàng bị ảnh hưởng nhiều nhất do chính sách bình ổn.
Chính sách tiền tệ nới lỏng hiện nay dường như đã cho phép các ngân hàng thương mại cải thiện khả năng thanh toán và có lãi. Chính sách này cũng cho phép mua lại hoặc thanh lý t ín phiếu NHNN, bổ xung hoặc giảm bớt yêu cầu về d ự tr ữ bắt buộc, cũng như cắt giảm lãi suất. Tuy nhiên các ngân hàng vẫn bị ảnh hưởng do thu nh ập bị giảm bớt vì lãi suất cho vay cao của các ngân hàng yếu nhất.
Về phía khách hàng, việc thị trường bất động sản giảm đáng kể từ năm 2007 đã làm giảm giá trị của các tài sản thế chấp được dùng để vay vốn tín dụng ngân hàng. Rất may là các quy định về cho vay nghiêm nghặt đã giúp giảm nhè rủi do trong trường hợp này. Quả thực, các ngân hàng Việt Nam không được phép cho vay trên 50% giá trị tài sản và 70% giá trị thị trường. Với quy định cho vay không vượt quá 35% giá trị ban đầu của tài sant htế chấp( 0.5x0.7), giá tài sản sẽ giảm xuống rất nhiều. Một mối quan ngại khác lớn hơn vào lúc này là tác động to lớn của tình hình kinh tế phát triển chậm lại trên thế giới đối với năng lực trả nợ của các công ty xuất khẩu.
Cho tới khi tất cả các ngân hàng thương mại đều tuân thủ các quy định kế toán mới của Việt Nam, số liệu hiện có không cho phép ước tính chính xác tổng nợ xấu của các ngân hàng là bao nhiêu. Chiếu theo quyết định 493 của NHNN thì tổng số nợ xấu chỉ chiếm khoảng 3% tông dư nợ của toàn hệ thồng ngân hàng. Con số này dựavào điều 6 của quýât định 493 khi chỉ tính đến các khoản nợ qua hạn đã thực sự xảy ra trong quá khứ. Tuy nhiên, với tình hình kinh tế xấu đi thì cần lưu tâm đến điều 7, điề này khá sát với tiêu chuẩn quốc tế. Nếu áp dụng theo điều 7 thì số nợ xấu sẽ cao hơn nhiều. Rất tiếc là cần phải có thời gian để thống kê nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng vì các ngân hàng cần phải triển khai hệ đánh giá rủi do tín dụng đối với khách hàng cảu mình.
PHẦN III : PHƯƠNG HƯỚNG VA GIẢI PHÁP CHO CÁC TÁC ĐỘNG CỦA SUY THOÁI LÊN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
I.GIẢI PHÁP
1. Đối với 6 tháng đầu năm
Sự gia tăng mạnh của giá dầu, giá lương thực, sự giảm giá của thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, cùng với những bất ổn chính trị đã gây áp lực lạm phát mang tính toàn cầu và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia gặp khó khăn trước áp lực lạm phát
Ngân hàng Nhà nước đã xác định 11 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm của ngành Ngân hàng năm 2008:
Hoàn thiện hệ thống thể chế về tiền tệ và hoạt động ngân hang
Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Đáp ứng có hiệu quả các nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế, đồng thời kiểm soát chặt chẽ qui mô và chất lượng tín dụng
Cơ cấu lại tổ chức, bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hang
Đẩy nhanh chương trình tái cơ cấu, nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng trong nước
Đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, hệ thống thanh toán, hệ thống thông tin ngân hang
Tuân thủ lộ trình mở cửa hoạt động ngân hàng đã cam kết khi gia nhập WTO
Thực hiện tốt công tác in đúc, lưu thông tiền mặt phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế; củng cố, sắp xếp lại bộ máy tổ chức, điều hành, chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước
Tập trung thực hiện các nhiệm vụ về cải cách hành chính; đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các mặt hoạt động ngân hàng.
NHNN đã có những phản ứng chính sách kịp thời, sử dụng đồng bộ và quyết liệt về điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô.
Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của thị trường ngoại hối và của các tổ chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn hệ thống của các tổ chức tín dụng.
2. Đối với 6 tháng cuối năm
Giá dầu giảm mạnh từ mức kỷ lục 147USD/thùng vào giữa tháng 7 và xuống mức thấp xung quanh dưới 40 USD/thùng vào trung tuần tháng 12, giá lương thực cũng giảm mạnh cùng với tỷ lệ thất nghiệp tăng cao gây ra áp lực giảm phát. Vì vậy:
Ngân hàng Nhà nước đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ bằng các giải pháp linh hoạt để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động ngăn ngừa nguy cơ suy giảm kinh tế.
Các NHTM đã hạ thấp lãi suất cho vay.
Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các NHTM điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, cơ cấu tín dụng phù hợp với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, của ngành đi đôi với kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng….
Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hoàn thiện các thể chế về tiền tệ, hoạt động ngân hàng; kiến nghị với Chính phủ, Quốc hội sửa đổi, bổ sung những qui định chưa đồng bộ giữa các bộ luật để tạo môi trường thuận lợi cho hệ thống ngân hàng phát triển ổn định, bền vững; Chỉ đạo các tổ chức tín dụng đẩy mạnh chương trình tái cơ cấu, nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh và đẩy mạnh hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, phát triển thanh toán không dùng tiền mặt để tận dụng tối đa nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội cho đầu tư, mở rộng sản xuất.
II. KẾT QUẢ CỦA CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU CHỈNH
Có thể khẳng định, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong năm 2008, ngành Ngân hàng đã cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó. Hoạt động của hệ thống ngân hàng đã góp phần quan trọng kiềm chế lạm phát, hạn chế nhập siêu, duy trì tăng trưởng kinh tế. Thị trường tiền tệ giữ được bình ổn; lãi suất, tỷ giá biến động ở mức hợp lý; khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng được đảm bảo; tín dụng tăng trưởng ở mức phù hợp, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế. Hoạt động của các tổ chức tín dụng vẫn đảm bảo an toàn và có bước phát triển. Đến cuối năm 2008, vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống ngân hàng tăng 30% so với cuối năm 2007, tỷ lệ an toàn vốn tăng từ 8,9% lên 9,7%. Các tổ chức tín dụng tiếp tục chú trọng phát triển nhiều công nghệ, dịch vụ, tiện ích ngân hàng hiện đại; mạng lưới hoạt động tiếp tục được củng cố và mở rộng hiệu quả, tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận với dịch vụ ngân hàng; đặc biệt, trong năm 2008, đã có một NHTM cổ phần mở chi nhánh hoạt động tại nước ngoài.
Kết quả đạt được của ngành Ngân hàng đã được Đảng, Quốc hội, Chính phủ đánh giá cao, 10 tập thể trong Ngành đã vinh dự được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen vì có thành tích trong việc thực hiện các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho phát triển sản xuất, xuất khẩu, đảm bảo an sinh xã hội. Đạt được những kết quả đó, bên cạnh sự chỉ đạo đúng đắn, sát sao, kịp thời, quyết liệt của Đảng, Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, chính quyền địa phương là sự nỗ lực vượt bậc của toàn ngành Ngân hàng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong bối cảnh tình hình kinh tế vĩ mô, tài chính thế giới và trong nước liên tục có những biến động phức tạp, khả năng phân tích, dự báo còn hạn chế, nên quá trình thực thi các giải pháp điều hành tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước có thời điểm còn thiếu nhịp nhàng, đồng bộ; thị trường tiền tệ, ngoại hối trong những tháng đầu năm còn có những biến động gây khó khăn nhất định cho hoạt động của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp; hoạt động của các tổ chức tín dụng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; chất lượng dịch vụ ngân hàng còn có những bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội…
III. MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG, NHIỆM VỤ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NĂM 2009
1. Những thách thức
Kinh tế thế giới bước sang 2009 với nhiều lo âu và thấp thỏm. Mỹ, đầu tầu kinh tế toàn cầu sau khi “lên dốc” không thành vào quý III năm 2008, đã trượt dốc không phanh. Các kế hoạch cứu trợ khẩn cấp liên tiếp được đưa ra, với mức cứu trợ đã lên tới hơn 2.000 tỉ USD, nhưng chưa thể ngăn chặn được sự “bốc hơi” của lượng tài sản tài chính (bao gồm cả bất động sản đã tiền tệ hóa) lên tới hơn 30.000 tỉ USD.
Toàn thế giới đã chịu “chấn động” của “cơn sóng thần thế kỷ”. Lạm phát, giá hàng hóa, vật tư tăng cao. Giá dầu ngự trị trên “ngai” 149 USD/thùng, và đã từng được tiên đoán có thể vượt 200 USD/thùng. “Co rút” tín dụng và mất thanh khoản dòng vốn toàn cầu. Và rồi, giá dầu tụt xuống ngưỡng 40 USD, chẳng bao lâu sau “cái đỉnh” sắp chạm tới là 150 USD/thùng. DJIA xuống dưới 8.000 sau những phiên “co giật” kỷ lục, cả tăng và giảm, những mức dao động lớn mà chỉ có dịp thấy như thời kỳ sau vụ khủng bố ngày 11-9-2001. Người ta còn cho rằng, DJIA có thể xuống tới 6.500, một con số đáng sợ. Trung Quốc, quốc gia láng giềng của nước ta, cũng dốc túi trong kế hoạch 600 tỉ USD cứu trợ...
Nếu tăng trưởng kinh tế năm 2008 của nước ta diễn ra theo đúng kịch bản 6,5%, thì hy vọng rằng trong năm 2009 chúng ta vẫn tiếp tục là nền kinh tế thu hút nhiều sự quan tâm của cộng đồng kinh doanh và tài chính quốc tế. Tuy vậy, khó khăn về nguồn vốn và tín dụng quốc tế chưa đi qua. Thu hút vốn FDI trong năm tới sẽ gặp nhiều khó khăn. Quy mô vốn cam kết mới khó vượt qua con số kỷ lục của 2008. Ưu tiên đẩy nhanh tiến độ và tăng cường giải ngân các dự án đã có cam kết vốn trong những năm trước là lựa chọn hợp lý so với nỗ lực thu hút thêm các cam kết đầu tư mới. Ngân hàng Thế giới dự báo, dòng vốn tư nhân chảy sang các nước đang phát triển sẽ giảm mạnh từ 1.000 tỉ USD (năm 2007) xuống còn 530 tỉ USD trong năm 2009.
Bên cạnh đó, giá các tài sản tài chính tại Việt Nam đang ở mức rất thấp. Có thể coi đây là thời điểm thuận lợi cho khoản 10 tỉ USD - đang nằm tại các quỹ đầu tư, giải ngân vào Việt Nam. Lượng vốn FPI này gần tương đương với vốn FDI đã thực hiện trong năm 2008. Ưu thế của dòng vốn này là có khả năng nhân lên trong thời gian ngắn và tiếp tục vận động trong nền kinh tế Việt Nam cho tới hết thời gian hoạt động của quỹ, thường từ 7 đến 10 năm. Khả năng xuất hiện tình trạng rút vốn hàng loạt (capital flight) như từng xảy với nhiều quốc gia Đông á trong khủng hoảng 1997 hầu như không có với Việt Nam. Lý do căn bản là vì thị trường chứng khoán Việt Nam đã qua rất lâu thời kỳ đỉnh cao. Muốn khai thác hiệu quả dòng vốn FPI, cùng với hỗ trợ chính sách từ Chính phủ, tự thân các doanh nghiệp cần làm tốt công tác truyền thông tài chính, đẩy mạnh và phát triển thương hiệu.
Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao sẽ trở thành vấn nạn của năm 2009, kéo theo hiệu ứng là các tệ nạn tiêu cực xã hội. Ước tính đến hết năm 2008, số người mất việc tại Mỹ lên tới nửa triệu, bao gồm cả nhóm lao động có kỹ năng và trình độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng và quản trị. Tại các quốc gia đang phát triển, áp lực việc làm tiếp tục gia tăng khi tăng trưởng kinh tế không theo kịp đà phát triển của lực lượng lao động. Việt Nam cũng không nằm ngoài nguy cơ này, hiện đã có những doanh nghiệp tại Hà Nội, Đồng Nai và một số tỉnh khác phải cắt giảm nhân lực để duy trì sản xuất.
Tạo đủ công ăn việc làm cho người lao động là một thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2009. Khu vực doanh nghiệp, đặc biệt khối tư nhân, còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Thu hẹp quy mô và giãn sản xuất, đồng nghĩa với việc cắt giảm nhân công hoặc sử dụng không hết thời gian làm việc, là những giải pháp phổ biến tại nhiều đơn vị sản xuất thời gian qua. Ngay trong khu vực vốn tạo nên cơn sốt nhân lực trong năm 2006 - 2007 là các ngành tài chính, ngân hàng và chứng khoán, cũng hình thành xu thế cắt giảm mạnh. Giá cổ phiếu xuống thấp cộng với quy mô giao dịch giảm mạnh đẩy không ít công ty chứng khoán lâm vào cảnh thua lỗ và hoạt động cầm chừng. Đơn cử như Chứng khoán Bảo Việt, công ty thuộc nhóm dẫn đầu của ngành có lịch sử hoạt động gắn bó với thị trường chứng khoán Việt Nam từ những ngày đầu tiên, sau 9 tháng đầu năm 2008 đã công bố khoản lỗ trên 300 tỉ đồng. Tại thời điểm công bố, ngày 22-10-2008, Vn-Index đang ở mức 374 điểm.
Mặt bằng lãi suất đã được điều chỉnh giảm dần suốt 6 tháng cuối năm 2008 nhưng trên thị trường tín dụng, ngân hàng và doanh nghiệp vẫn chưa tìm được tiếng nói chung. Quá trình tự điều chỉnh sẽ dẫn tới điểm chung. Vấn đề của hệ thống ngân hàng là sàng lọc tốt và lựa chọn các dự án thực sự có chất lượng, chỉ cần được tiếp đủ vốn là sẽ đạt tới quy mô sản xuất kinh doanh hiệu quả. Trong thời gian thị trường chứng khoán nước ta tăng trưởng đầy hào hứng kể từ giữa 2006 đến hết 2007, nhiều dự án đầu tư mở rộng hoặc phát triển mới đã được triển khai mà không có các đánh giá đầy đủ và cẩn trọng về mức độ khả thi thương mại, cũng như rủi ro thị trường. Đa phần các ngân hàng hiện nay đều có quy trình tín dụng với nhiều thủ tục nhằm bảo đảm mức độ an toàn cao cho các khoản vay. Tuy nhiên, phần cơ bản nhất là đánh giá tín nhiệm để phân cấp tín dụng, làm căn cứ xác định lãi suất và hạn mức cho từng khách hàng hay nhóm khách hàng vẫn chưa hoàn chỉnh.
Do tình trạng suy thoái kinh tế và thất nghiệp còn gia tăng, nhu cầu tiêu dùng trong năm 2009 sẽ giảm mạnh. Ngân hàng Thế giới ước tính mậu dịch thế giới sau khi tăng 6,2% trong năm 2008 sẽ suy giảm còn 2,1% trong năm tới. Từ đó, có thể xác định một năm khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam đang ở phía trước. Mặc dù giá nhập khẩu cũng có xu thế giảm, nhưng muốn bảo đảm nhập siêu ở mức an toàn, cần tiếp tục kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu và cổ vũ thực hành tiết kiệm trong tiêu dùng và đầu tư.
2. Mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ của ngành ngân hàng trong năm 2009
Toàn ngành Ngân hàng tập trung xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật về ngân hàng phù hợp với định hướng, chiến lược phát triển ngành Ngân hàng và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, cụ thể là tập trung xây dựng, hoàn thiện dự án Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm tiền gửi và Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng; tập trung nghiên cứu, chỉnh sửa, hoàn thiện các qui định về ngoại hối,về đảm bảo an toàn, về cơ cấu tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng…
Chính sách tiền tệ bám sát mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, ổn định thị trường tiền tệ và bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng trước những biến động của tình hình tài chính quốc tế. Để đạt được mục tiêu đó, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, kết hợp hài hoà, linh hoạt giữa điều hành tỷ giá và lãi suất; tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành để đảm bảo nhất quán giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa; nâng cao hiệu quả công tác thống kê, dự báo, phản ứng kịp thời trước những diễn biến kinh tế, tiền tệ trong nước và quốc tế; đảm bảo tính thanh khoản của các tổ chức tín dụng.
Phát triển vững chắc và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng, nhằm huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn đó cho đầu tư phát triển sản suất. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản xuất, xuất khẩu, phát triển nông nghiệp, nông thôn, mở rộng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ; nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng trong nước.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về thanh tra, giám sát ngân hàng và các quy định về đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, đi đôi với việc củng cố bộ máy tổ chức, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ thanh tra ngân hàng.
Phát triển mạnh công nghệ ngân hàng và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội về các hoạt động dịch vụ ngân hàng.
Tăng cường hợp tác quốc tế, nâng vai trò, vị thế của Việt Nam trong cộng đồng tài chính, tiền tệ quốc tế.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động ngân hàng, nhằm tạo sự đồng thuận của xã hội đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng, đồng thời, tạo thêm kênh giám sát của xã hội đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng.
KẾT LUẬN
Nhìn chung, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều quốc gia. Khủng hoảng nổ ra dữ dội trong năm qua, hệ thống ngân hàng của nhiều quốc gia lâm vào đõ vỡ. Khủng hoảng đang lan nhanh đến Châu Âu và Châu Á và toàn thế giới. Chắc chắn khủng hoảng tiêu cực sẽ ảnh hưởng đến Việt Nam (cũng như nhiều nước khác) trên cả góc độ trực tiếp và gián tiếp, tuy mức độ chưa thể xác định. Song, khi mọi việc còn đang nằm trong tầm kiểm soát thì chính các biện pháp cũng như chính sách điều hành của nhà nước lúc này là đặc biệt quan trọng. Vì thế, khi Việt Nam là một quốc gia mới hội nhập vào nền kinh tế thế giới, chịu tác động chưa sâu, chúng ta còn có thể điều chỉnh và khống chế được tác động từ bên ngoài thì không có lý do gì mà chúng ta không tự bảo vệ mình trước khi quá muộn. Đó là các biện pháp, các chính sách tiền tệ, các công cụ tài chính dược sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế lúc này được đặt lên hàng đầu.
Ngành ngân hàng Việt Nam đang cần bàn tay của Chính Phủ. Bằng pháp luật, nhà nước tác động đến thị trường nhằm làm giảm những khiếm khuyết của thị trường, đưa thị trường phát triển theo một trật tự, ổn định theo sự điều tiết của nhà nước. Phát triển thị trường theo hướng đầu tư đa cực, từ nhiều nguồn sẽ khiến hệ thống ngân hàng VN có tính cạnh tranh cao hơn, đưa đến một tương lai chuyên nghiệp và minh bạch hơn. Bình ổn thị trường một cách độc lập.
Hoàn thiện hệ thống chính sách để phát triển hệ thống ngân hàng là một quá trình phấn đấu của cả hệ thống chính trị, cần có sự thống nhất và phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng. Đây là điều khó khăn, tuy nhiên chúng ta sẽ tìm ra một giải pháp khả thi nhất có thể bao quát toàn bộ sự vận động và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam, một thị trường đầy tiềm năng sẽ góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-Báo cáo tình hình kinh tế Việt Nam của Ngân hàng thế giới 4-5/12/2008
-Kinh tế Việt Nam 2009-NGUYỄN TIẾN DŨNG 26/12/2008
-Thị trường tài chính Việt Nam-T.S VÕ TRÍ THÀNH
-Kinh tế Việt Nam 2008-VIETREES
PHỤ LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22424.doc