Ngày 7/11/2006,Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO là một sự kiện vô cùng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế Việt Nam. Chắc chắn nó sẽ tạo ra những động lực giúp Việt Nam khắc phục có hiệu quả tình trạng kém phát triển hiện nay, có kiều kiện thu hẹp dần khoảng cách với các nước trên thế giới về trình độ phát triển. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, được hưởng quy chế tối huệ quốc, đặc biệt sẽ tạo điều kiện cho một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong đó có xuất khẩu gạo dễ dàng thâm nhập vào thị trường thế giới, tham gia vào nhịp sống chung của nền kinh tế toàn cầu. Nhưng với sức cạnh tranh còn yếu, lại chua có được thương hiệu mạnh về gạo nên Việt Nam cũng sẽ gặp phải rất nhiều thách thức trong môi trường cạnh tranh quốc tế khốc liệt. Song lâu dài việc gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam phát triển thuận lợi, mặc dù trước mắt còn nhiều khó khăn.
64 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1641 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam (Minh hoạ bằng ngành xuất khẩu gạo Việt Nam), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của ta chủ yếu là đổi hàng và trả nợ, còn bán theo phương thức thanh toán L/C chỉ ở mức độ nhỏ, do đó khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới của Việt Nam thời gian này rất kém.
Qua nhiều năm xuất khẩu gạo phương thức thanh toán có nhiều tiến bộ, phương thức L/C dần chiếm tỷ trọng cao hơn và đã trở thành phương thức thanh toán chủ yếu. Điều đó, đã từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên trường quốc tế.
Do khó khăn về thị trường, bạn hàng và giá cả nên trong những năm đầu Việt Nam quay lại thị trường xuất khẩu thì phương thức đổi hàng vẫn còn chiếm tỷ trọng không nhỏ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hiện tượng này lại ,có tác dụng quan trọng đôí với Doanh nghiệp để có chỗ đứng trên thị trường gạo thế giới. Đến năm 1994 - 1995 thì hai phương thức thanh toán trực tiếp và đổi hàng không còn nữa mà thay vào đó là hình thức thanh toán qua L/C, gần như chiếm tỷ trọng tuyệt đối.
Hiện nay trong phạm vi quy định chung của Nhà nước, phương thức kinh doanh và thanh toán được vận dụng linh hoạt ở tầm Doanh nghiệp, đảm bảo nguyên tác thu hồi vốn và kinh doanh có hiệu quả. Hiệp Hội Xuất khẩu lương thực Việt Nam cảnh báo, các Doanh nghiệp tham gia vào thị trường gạo thế giới muốn làm ăn có lãi và tránh thua thiệt thì cần phải có phương thức kinh doanh và thanh toán linh hoạt, đa dạng.
Phương thức thanh toán của hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam hiện nay khá đa dạng và linh hoạt cụ thể là: bán trả chậm, đại lý, gửi bán, đổi hàng, tham gia đấu thầu bán lẻ cho các siêu thị, hợp tác liên doanh với người tiêu thụ. Kết quả đó, đã có tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta.
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay trên thị trường gạo quốc tế, các Doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam đã luôn linh hoạt phương thức thanh toán để chiếm được nhiều thị trường khác nhau. Ví dụ như ở thị trường Châu Phi, hiện nay khối lượng gạo Việt Nam được tiêu thụ nhiều hơn gạo Thái Lan đó là do Việt Nam đã xác định rằng, thị trường này tuy nhập khẩu nhiều gạo nhưng lại có khả năng thanh toán kém, do đó Việt Nam đã áp dụng phương thức trả chậm, phương thức trả sau và phương thức tuần hoàn cho thị trường này, nhờ vậy mà gạo Việt Nam có ưu thế hơn gạo Thái Lan. Hay với thị trường Irắc, ngoài các hợp đồng mua bán gạo thông thường Việt Nam còn xuất khẩu gạo sang nước này theo chương trình “Đổi dầu lấy lương thực”, qua đó Việt Nam không chỉ bán được gạo mà còn giữ vững và mở rộng hơn thị trường này.
Trong giai đoạn hiện nay Việt Nam đang nghiên cứu và mở rộng phạm vi thanh toán nhằm đa dạng hoá phương thức thanh toán. Đây cũng là điều kiện để thu hút và giữ khách hàng, mở rộng thị trường xuất khẩu, giúp gạo của Việt Nam có khả năng bán được và phù hợp với những đặc điểm mới của thanh toán quốc tế.
III. Đánh giá tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian qua
1. Những thành tựu đạt được
Thứ nhất, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà Nước, kinh tế nông nghiệp và nông thôn nước ta đã có những bước phát triển đáng kể. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng với nhịp độ cao và khá ổn định (tăng bình quân 4,5% một năm). sản xuất lúa, gạo là ngành chủ lực, giữ vị trí then chốt trong nền nông nghiệp. Nếu như năm 1989, Việt Nam chính thức tham gia thị trường gạo quốc tế với vai trò khiêm tốn, thì nay quy mô và chất lượng gạo xuất khẩu Việt Nam đã tăng cao. Từ năm 1989 đến nay, sản xuất lúa gạo tăng trưởng không ngừng với tốc độ bình quân 5%/năm. Kim ngạch xuất khẩu gạo thường chiếm khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản và chiếm khoảng 15-17% thị phần gạo thế giới. Tính ưu việt của Việt Nam trong xuất khẩu gạo những năm qua là sự ổn định cao so với các nước trong khu vực. Theo đánh giá của FAO, khu vực Châu á - Thái Bình Dương, ngoài cường quốc xuất khẩu gạo Thái Lan, còn có 3 nước khác có khả năng cạnh tranh với Việt Nam trong xuất khẩu gạo là ấn Độ, Pakistan, Trung Quốc. Song 19 năm qua, sản lượng gạo xuất khẩu của cả 3 nước này đều không ổn định. Còn Việt Nam phát triển ổn định và tăng trưởng nhanh, tốc độ tăng sản lượng (5%) luôn luôn cao hơn tốc độ tăng dân số (1,9%), nên lương thực bình quân đầu người tăng dần, năm sau cao hơn năm trước. Phải thừa nhận rằng, xu hướng này ít thấy trong lịch sử sản xuất lúa gạo ở các nước Châu á, và lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam. Cũng theo FAO, trong 18 năm qua sản lượng lúa gạo thế giới tăng thêm khoảng 70 triệu tấn, thì Việt Nam đã đóng góp 10 triệu tấn. Và chính sự tăng nhanh và ổn định của sản lượng lúa gạo Việt Nam đã góp phần tích cực giảm sự căng thẳng về thiếu lương thực trên thế giới, và xu hướng này cũng khắc phục cơ bản tình trạng thiếu đói giáp hạt ở Việt Nam kéo dài nhiều thập kỷ trước đổi mới, biến một nước nhập khẩu gạo trở thành nước xuất khẩu gạo với sản lượng liên tục ở mức cao năm liền. Ngay cả những năm thiên tai dồn dập, hạn hán và bão lụt gây hậu quả hết sức nặng nề trên phạm vi cả nước thì an ninh lương thực quốc gia vẫn giữ vững, xuất khẩu gạo vẫn tăng cả về số lượng và chất lượng, thị trường, giá cả ổn định. Nhìn lại 19 năm xuất khẩu gạo, bên cạnh sự tăng tiến về số lượng, sự tiến bộ về chất lượng là thực tế rất đáng tự hào.
Bảng 2.16: Thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam
Năm
Xuất khẩu (nghìn tấn)
Tổng lượng xuất khẩu gạo của thế giới (nghìn tấn)
Thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam (%)
1997
3575
21.046
16,98
1998
3730
28.796
12,84
1999
4508
25.986
17,70
2000
3476
23.500
14,80
2001
3729
23.000
16,20
2002
3240
27.900
11,61
2003
4295
27.116
15,84
2004
5100
28.291
18,03
2005
5000
26.790
18,66
2006
4800
28600
16,78
Nguồn: Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA)
Thứ hai, trong những năm gần đây để phù hợp với yêu cầu thị trường, cùng với sự tăng tiến về số lượng, chủng loại, chất lượng gạo của Việt Nam đã đạt được cải thiện một bước đáng kể dần dần được thị trường thế giới chấp nhận. Trong những năm đầu xuất khẩu gạo, tỉ lệ gạo chất lượng cao 5% tấm gần như không có, chỉ chiếm 0,3% tổng lượng gạo xuất khẩu, trong khi gạo cấp loại xấu, tỷ lệ tấm cao (35% và 45%) chiếm tới 92,4% tổng lượng gạo xuất khẩu. Đến năm 2006, loại gạo xuất khẩu chất lượng cao 5% tấm đã tăng lên chiếm tới 35%, loại gạo 15% tấm chiếm 40%, ngược lại, cấp loại gạo xấu, phẩm chất thấp (35 - 40% tấm) đã giảm xuống còn 11%. Nhờ cải thiện chất lượng gạo, trong những năm gần đây, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tương đương với giá gạo Thái Lan (khi Việt Nam mới tham gia vào thị trường xuất khẩu gạo thế giới, giá gạo Việt Nam luôn thấp hơn 40-55 USD/tấn so với giá gạo của Thái Lan những năm 1989-1994, hiện giá gạo của Việt Nam chỉ còn thấp hơnbình quân 5-10 USD/tấn). Và đến 2006, giá gạo 5% tấm đã tăng lên đến 310-310 USD/tấn. Không chỉ có vậy, thu nhập về xuất khẩu gạo nước ta cũng tăng nhanh qua các năm đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách của đất nước đặc biệt là 2 năm 1998 và 1999 xuất khẩu gạo thu về cho đất nước hơn 1 tỷ USD, và sau một thời gian xuất khẩu giảm sút, từ năm 2004 cho đến nay kim ngạch xuất khẩu gạo đã tăng trên 1 tỷ USD, thu về cho ngân sách nhà nước một lượng ngoại tệ.
Thứ ba, thị trường cũng ngày càng được mở rộng, nếu trong những năm đầu thập kỉ 90, gạo Việt Nam mới chỉ xuất khẩu sang các nước Liên Xô, Đông Âu, và chủ yếu là các nước trong khu vực, trong khi các nước Châu Phi, và Châu Mỹ Latinh thì chiếm tỉ lệ nhỏ, thì những năm gần đây, thị trường chính của xuất khẩu gạo Việt Nam đã chuyển sang các nước TBCN thuộc Châu á- Thái Bình Dương, trong đó có cả những thị trường khó tính như Nhật Bản, Hong Kong, Singapore, ngoài ra còn mở rộng sang Châu Phi, Tây Âu, và một số nước Trung Đông. Như vậy, rõ ràng xuất khẩu gạo là một lợi thế của Việt Nam và lợi thế này nếu biết khai thác hợp lý sẽ tồn tại lâu dài và là một hướng làm giàu cho đất nước ít có sản phẩm nào sánh kịp.
Thứ tư, tỷ trọng gạo cao cấp của Việt Nam ngày một tăng, chủng loại gạo cũng được mở rộng. Trước đây, Việt Nam xuất khẩu phần lớn gạo trắng thường hạt trung bình và hạt dài (độ dài hạt từ 6,2- 7 mm), tỷ lệ tấm từ 5% đến 45%, chưa đa dạng về quy cách sản phẩm, không có loại gạo nào nổi bật về phẩm chất khả dĩ biểu hiện được nét độc đáo riêng của sản phẩm gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Thêm vào đó, các nhà xuất khẩu thường không đảm bảo đồng bộ, đồng nhất về qui cách chất lượng ngay trong từng lô gạo, càng khẳng định thêm tính đúng đắn của ý kiến đánh giá gạo xuất khẩu chưa đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng của thị trường thế giới. Nhưng trong thời gian gần đây, chất lượng gạo Việt Nam qua mỗi năm được nâng cao một bước phần nào đã đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới. Từ năm 1994, Việt Nam còn sản xuất hai mặt hàng gạo mới có chất lượng thơm ngon phù hợp với thị trường thế giới như: siêu cao cấp thơm super, gạo đồ, tuy với số lượng còn khiêm tốn song cũng đã góp phần thúc đẩy việc mở rộng thị trường với các chủng loại gạo phong phú hơn, đa dạng hơn, phù hợp với yêu cầu mà khách hàng đòi hỏi. Riêng loại gạo đồ đòi hỏi thị trường chọn lọc mà chủ yếu là các nước thuộc khu vực Trung Đông.
2. Những hạn chế
ở chừng mực nào đó, có thể nói gạo Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới, vị trí đó đang từng bước được khẳng định và củng cố. Tuy nhiên, khó khăn và yếu kém trong xuất khẩu gạo hiện nay còn nhiều.
Thứ nhất, Việt Nam đã có 15 năm kinh nghiệm xuất khẩu gạo, đã trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, thế nhưng trong nhiều năm qua hoạt động xuất khẩu gạo vẫn rơi vào cái vòng luẩn quẩn: lúa trúng mùa rớt giá, nhà nứơc bỏ tiền bù giá mua tạm trữ, gạo xuất khẩu lỗ Nhà nước lại dốc tiền bù lỗ cho doanh nghiệp. Do đó, xét đến cùng ngân sách Nhà nướcvẫn phải bù đắp thường xuyên cho hoạt động xuất khẩu gạo, và tất nhiên hiệu quả kinh tế thực sự từ việc xuất khẩu gạo là không cao cho dù được mùa hay mất mùa, giá gạo xuất khẩu cao hay thấp.
Thứ hai, so với đối thủ cạnh tranh xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam là Thái Lan, mặc dù có tỷ lệ đất canh tác được tưới nước của Việt Nam bằng 2 lần Thái Lan, lượng phân bón hoá học cho 1 ha đất trồng lúa Việt Nam bằng 103%, năng suất lúa Việt Nam bằng 1,5 lần của Thái Lan, dân số Thái Lan chỉ bằng 3/4 dân số Việt Nam, còn sản lượng gạo của Việt Nam mỗi năm là 33 triệu tấn trong khi Thái Lan chỉ có hơn 20 triệu tấn nhưng Thái Lan có khối lượng xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, chất lượng, phẩm cấp cũng cao hơn, đặc biệt hệ thống thị trường xuất khẩu của Thái Lan hơn hẳn Việt Nam. Do có hệ thống thị trường và thương hiệu như vậy nên thậm chí ngay cả trường hợp chất lượng gạo như nhau, nhưng giá gạo của Thái Lan vẫn cao hơn gạo Việt Nam từ 5-10 USD/tấn.
Thứ ba, về chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Chúng ta nói chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam có sự tiến bộ nhiều cũng chỉ là tương đối, chỉ là so với chính gạo xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian đầu xuất khẩu chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Còn nếu so với chất lượng gạo của các nước xuất khẩu lớn như Thái Lan và Mỹ, Pakistan, thì chất lượng gạo của Việt Nam còn thua kém nhiều.
Bảng 2.17: So sánh 9 tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu loại gạo IR 5%
giữa Mỹ và Việt Nam
9 tiêu chuẩn cơ bản
Gạo Mỹ
Gạo Việt Nam
(1)
(2)
(3)
1
Long- grain (hạt dài)
Tối thiểu 6,7-7 mm, ít nhất phải trên 35%
Số lượng rất ít
2
Red streaked Kernet
(chỉ đỏ)
Tối đa không quá 2% và không có hạt đỏ
Sông Tiền: 2,5%
(còn lẫn hạt đỏ)
3
Chalky Kernet (bạc bụng)
Tối đa 2,5%
Sông Tiền: 7%
Sông Hậu: 4%
4
Yellow Kernet (hạt vàng)
Tối đa 0,5%
Sông Tiền: 2%
5
Glutinous Rice (lẫn gạo nếp)
Tối đa 0,25%
Tối đa 0,5%
6
Damaged Kernet (hạt bị hư)
Tối đa 0,25%
Sông Tiền: 1%
Sông Hậu: 0,5%
7
Hạt thóc còn sót lại
Tối đa 03 hạt/1kg
Thường <= 5 hạt/1 khách hàng
8
Độ ẩm
Tối đa 14%
Thường <= 14,5%
9
Ngoại chất
Tối đa 0,1%
Thường còn 0,5-1%
Nguồn: FAO: Thông tin Thương mại toàn cầu trên mạng internet
Mặc dù, gạo chất lượng cao của Việt Nam (5-10% tấm) đã tăng nhiều trong những năm gần đây so với những năm đầu xuất khẩu, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn thấp hơn so với tỷ lệ gạo chất lượng cao của Thái Lan, ở Thái Lan tỉ lệ này chiếm trên 70% tổng lượng xuất khẩu. Bên cạnh đó, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn nhiều nhược điểm cần khắc phục như: độ trắng không đều, còn lẫn tạp chất, thóc, đặc biệt là lượng gạo xuất khẩu trong vụ Hè Thu thường có độ ẩm cao, bạc bụng, hạt vàng, tỷ lệ gãy không đều, như vụ Đông Xuân 95 - 96, Hè Thu 96 và Đông Xuân 96 - 97 nông dân trồng quá nhiều giống lúa IR504, là loại lúa có năng suất cao, chiếm trên 18% do đó không thể xuất khẩu gạo cấp cao được mà chủ yếu chỉ xuất khẩu gạo trung bình và phẩm cấp thấp. Thêm vào đó, điều kiện đóng gói, bao bì, kỹ thuật bảo quản chưa tốt làm giảm chất lượng gạo xuất khẩu.
Thứ tư, xuất khẩu gạo của ta mới chỉ nặng về số lượng (khối lượng, và trọng lượng xuất khẩu) mà chưa quan tâm nhiều đến giá trị xuất khẩu. Vì vậy, về cơ bản, những người trồng lúa không thể giàu lên được và đất nước cũng không thu lợi được nhiều qua hoạt động xuất khẩu gạo.
Thứ năm, thị trường xuất khẩu của Việt Nam vẫn là thị trường có sức mua thấp thiếu tính bền vững, tính rủi ro cao. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam chủ yếu vẫn là thị trường các nước trong khu vực và thị trường Châu á chiếm đến 6% đến 65% kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu tuy nhiều nhưng không vững chắc, gạo trong nhiều thời điểm còn phải xuất qua trung gian, nên bị ép cấp và bị thua thiệt về giá. Hơn nữa thị trường sức mua thấp hoặc tái chế, tái xuất không phù hợp với định hướng chiến lược xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao của Việt Nam trong giai đoạn tới. Triển vọng về mở rộng thị trường các nước và khu vực (Châu Âu, Châu Mỹ, EU, Nhật Bản, Mỹ) vẫn gặp nhiều khó khăn trước yêu cầu đổi mới và cải tiến liên tục về tiêu chuẩn vệ sinh thành phẩm, chất lượng, mẫu mã và kể cả các quy định và thông lệ thương mại quốc tế.
Thứ sáu, về các doanh nghiệp xuất khẩu gạo.Tuy đã có 19 năm tham gia thị trường lúa gạo thế giới, nhưng nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn không khỏi lúng túng mỗi khi thị trường có nhiều biến động. Gạo Việt Nam vẫn chua có thương hiệu riêng của mình. Các doanh nghiệp trong nước vẫn phải dựa vào những công ty nước ngoài để xuất khẩu. Gạo có chất lượng kém vẫn được các doanh ngiệp đưa vào tham gia thị trường xuất khẩu đã ảnh hưởng đến uy tín gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới.Hơn nữa, khả năng hạn chế của Doanh nghiệp xuất khẩu về maketing trong việc tiếp cận thông tin nắm bắt thị trường cũng như trong khâu giao dịch và ký kết hợp đồng
Thứ bảy, nhiều chuyên gia còn cho rằng sản xuất lúa gạo xuất khẩu của Việt Nam còn thiếu quy hoạch, chưa đa dạng hoá chủng loại gạo hàng hoá. Hệ thống chế biến bảo quản phục vụ xuất khẩu còn nhiều yếu kém lại phân bổ không hợp lý. Chẳng hạn hệ thống nhà máy xay xat đánh bóng đã thiếu lại tập trung chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Mỹ Tho.. là những nơi sản lượng lúa hàng hoá không nhiều trong khi các địa phương có nhiều lúa hàng hoá xuất khẩu lại không có các nhà máy. Hoặc như đầu mối xuất khẩu tập trung quá lớn vào thành phố Hồ Chí Minh, xa các trung tâm sản xuất đã làm tăng chi phí vận chuyển và các chi phí trung gian. Quan trọng hơn là Việt Nam vẫn chưa có được chiến lược về thị trường và chiến lược sản phẩm rõ ràng và chủ động, chưa thiết lập được hệ thống thị trường bạn hàng ổn định, vẫn còn tình trạng bán qua trung gian, tranh mua tranh bán, công tác điều hành xuất khẩu còn nhiều lúng túng, không kịp thời gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu về nguồn hàng và ký kết hợp đồng, việc phân phối hạn ngạch xuất khẩu cũng phát sinh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.
Chương III
Định hướng và Một số Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO
I. Cơ hội và thách thức của hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam trong qúa trình hội nhập wto
1. Cơ hội hội nhập:
Thứ nhất, thị trường xuất khẩu sẽ được mở rộng và ổn định. WTO điều chỉnh những hoạt động buôn bán đa phương mang tính chất tương đối tự do, công bằng tuân thủ những luật lệ rõ ràng. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng nhiều lợi ích, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Là một nước nông nghiệp xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu gạo hơn vì các hạn chế về số lượng đối với gạo sẽ được chuyển thành thuế và thuế phải cắt giảm theo Hiệp định nông nghiệp của WTO. Hiệp định yêu cầu loại bỏ tất cả các hàng rào thuế quan đang tồn tại (giấy phép nhập khẩu, hạn chế định lượng...) bằng việc thuế hoá các hàng rào này với mức thuế không cao hơn so với mức bảo hộ tương đương trong thời gian cơ sở (1986-1988), đồng thời không đưa ra các hàng rào phi thuế quan mới. Quy định tất cả các dòng thuế với nông sản phải được rõ ràng vào cuối giai đoạn thực hiện (năm 2005), yêu cầu tất cả các loại thuế phải được cắt giảm, cam kết tiếp cận thị trường tối thiểu nhằm mở cửa các thị trường vẫn được bảo hộ cao. Hơn 20 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá hướng ra xuất khẩu. Tuy nhiên nông sản Việt Nam nói chung và gạo Việt Nam nói riêng thâm nhập thị trường thế giới còn gặp nhiều khó khăn. Một phần do khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam còn thấp, phần khác là do các nước nhập khẩu gạo còn bảo hộ cho sản xuất trong nước rất cao nên mức thuế nhập khẩu đầu vào của gạo Việt Nam cao và nhiều rào cản phi thuế quan khác. Khi gia nhập WTO, Hiệp định nông nghiệp xác định rõ những loại trợ cấp và hỗ trợ trong nước đối với sản xuất nông nghiệp bị cấm sử dụng. Khi các nước giảm trợ cấp cho gạo xuất khẩu của họ, giá gạo thế giới sẽ tăng lên và do đó gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ được lợi từ quy định mới này. Một tác động nữa là nhiều nước nhập khẩu lương thực trước kia có thể nhập khẩu lương thực với giá rẻ do sự “trợ cấp xuất khẩu” từ các nước phát triển thì nay sẽ mất nguồn nhập khẩu giá rẻ do giá lương thực có thể tăng lên vì không còn được trợ cấp xuất khẩu nữa. Các nước này có thể chuyển sang mua gạo Việt Nam nhờ đó chúng ta có thể mở rộng thị trường. Hơn thế nữa, Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi của 149 nước thành viên WTO, gạo Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường các nước này không chỉ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) như gạo của các nước khác mà còn được đối xử như gạo của nước sở tại (nguyên tắc đối xử quốc gia NT) với những mức thuế nhập khẩu ưu đãi hơn. Đặc biệt là nếu vòng đàm phán mới thành công theo tinh thần của tuyên bố Doha thì tác động của việc mở cửa thị trường gạo sẽ lớn hơn. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu gạo, mở rộng hạn ngạch thuế quan, giảm dần thuế luỹ tiến đối với gạo và xoá bỏ các rào cản phi thúê quan khác sẽ tạo điều kiện cho gạo của Việt Nam thâm nhập được vào thị trường các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc.... Thị trường tiêu thụ được mở rộng không những trong khu vực mà cả trên thế giới. Xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ có hiệu quả cao hơn nhờ nâng cao khả năng cạnh tranh do có lợi thế cạnh tranh mà WTO mang lại.
Thứ hai, trong những năm gần đây, Việt Nam đã tích cực chủ động hội nhập quốc tế một cách mạnh mẽ như gia nhập vào ASEAN và AFTA năm 1995, ký kết Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ năm 2000... là tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập vào WTO trong thời gian tới. Gia nhập vào AFTA, Việt Nam đã đưa trên 75% số dòng thuế vào chương trình cắt giảm thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Hiệp định thuế quan này quy định loại bỏ tất cả các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong thời gian ngắn, đồng loạt giảm thuế nhập khẩu hàng hoá xuống còn 0-5% trong 10 năm, bắt đầu từ năm 1993 và kết thúc năm 2003 (Việt Nam kết thúc năm 2006 do tham gia muộn hơn 3 năm), riêng các mặt hàng nhạy cảm trong đó có gạo, quá trình này chỉ bắt đầu từ năm 2001 và kết thúc vào năm 2010 (Việt Nam là từ 2004-2013)... điều này tạo điều kiện cho gạo Việt Nam với chi phí thấp cạnh tranh có hiệu quả với gạo các nước trong khu vực tại thị trường của chính các nước đó
Đối với xuất khẩu gạo Việt Nam, có một sự kiện đáng quan tâm là vào quý II năm 1994, gạo xuất khẩu của Việt Nam đã xâm nhập vào thị trường Mỹ, một thị trường mà hàng năm luôn giữ vị trí là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, một thị trường khó tính với hệ thống pháp luật kinh tế thương mại đòi hỏi rất nghiêm ngặt. Vì vậy, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được thông qua thì cơ hội thâm nhập vào thị trường này càng lớn. Theo cam kết trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đến năm 2005, mức thuế trung bình của nông sản nói chung từ Mỹ nhập khẩu vào Việt Nam giảm từ 35,5% xuống 25,7%. Ngoài ra Việt Nam còn cam kết loại bỏ dần các hàng rào phi thuế, mở rộng quyền kinh doanh, quyền phân phối cho thương nhân Mỹ trong vòng từ 3-5 năm khi kinh doanh có hiệu lực, thực hiện các biện pháp vệ sinh dịch tễ theo đúng quy định của WTO, tham gia các công ước quốc tế về bảo vệ giống cây trồng. Việc giảm hàng rào thuế quan và tiến tới loại bỏ hàng rào phi thuế quan của cả Mỹ và Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá tiếp cận thị trường dễ dàng hơn, do đó thúc đẩy thương mại hai chiều trong ngành nông nghiệp nói chung và gạo xuất khẩu nói riêng. Khả năng tiếp cận thị trường Mỹ dễ dàng hơn, cùng với những điều kiện ưu đãi về đầu tư vào ngành nông nghiệp sẽ làm tăng đầu tư của Mỹ vào các nước khác vào các ngành hàng nông sản của Việt Nam để xuất khẩu sang Mỹ. Hệ quả của 2 điều trên là Hiệp định thương mại sẽ tạo điều kiện cho ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển hơn nữa theo chiến lược mới: tăng khả năng cạnh tranh của nông sản nói chung và gạo Việt Nam nói riêng, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham ra sản xuất kinh doanh xuất khẩu.
Thứ ba, tiếp nhận chuyển giao, phát triển khoa học công nghệ. Các quan hệ kinh tế quốc tế không chỉ bao hàm quan hệ thương mại hàng hoá và đầu tư, mà còn bao hàm các hoạt động hợp tác khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực công nghệ của các bên hữu quan. Ngay trong quan hệ trao đổi hàng hoá và đầu tư cũng chứa đựng sự chuyển giao và phát triển khoa học và công nghệ. Hiện nay các nhà máy chế biến gạo xuất khẩu gạo Việt Nam có công nghệ và thiết bị kém, công nghiệp chế biến gạo của Việt Nam chậm phát triển, chủ yếu thủ công, xay xát và chế biến tại các cơ sở nhỏ không được trang bị đồng bộ về phơi, sấy, kho chứa. Về hạ tầng phục vụ sản xuất, lưu thông xuất khẩu gạo (chợ, kho chứa, bến bãi) còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, hoạt động hợp tác KHKT, công nghệ và xây dựng năng lực là nội dung bao trùm tất cả các lĩnh vực của WTO dưới nhiều hình thức khác nhau. Các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam hi vọng sẽ nhận đựơc nhiều hơn vào các chương trình hợp tác về KHCN cũng như tăng thêm các nguồn hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực khi gia nhập WTO. Gia nhập WTO, gạo Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận với nhiều nguồn công nghệ mới, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng gạo và khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
Thứ tư, thu hút đầu tư vào phát triển ngành sản xuất và chế biến gạo. Với trình độ phát triển hiện tại, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế nói chung, đặc biệt là từ nông nghiệp và nông thôn còn hết sức nhỏ bé, không có khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư. Trong những năm qua, mặc dù Nhà nước đã ưu tiên tăng dần đầu tư cho gạo trong đó có cả đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên so với các nứơc trong khu vực gồm cả các đối thủ cạnh tranh thì đầu tư của Việt Nam rất thấp: phẩm cấp gạo xuất khẩu vẫn còn thấp, gạo có phẩm cấp cao vẫn còn hạn chế, khả năng tăng sản lượng do mở rộng diện tích của Việt Nam rất hạn chế, giống lúa có năng suất cao, chống được sâu bệnh nhưng chất lượng gạo lại có tỷ lệ gãy, bạc bụng cao, khó đảm bảo tiêu chuẩn gạo cao cấp. Vì vậy, gia nhập vào WTO, là điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cả về vốn đầu tư, thiết bị công nghệ, thị trường tiêu thụ, và cơ sở hạ tầng. Điều này được lý giải bởi những điểm chủ yếu sau đây:
* Việt Nam là nước có tiềm năng và lợi thế phát triển nền nông nghiệp có giá trị kinh tế cao;
* Nhiều hàng nông sản Việt Nam trong đó có gạo đã khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế;
* Nông nghiệp và nông thôn là khu vực được Nhà nước Việt Nam khuyến khích đầu tư, do vậy, nhận được sự ưu đãi đầu tư cao;
* Hội nhập quốc tế thúc đẩy việc cải thiện môi trường đầu tư, tạo nên sự yên tâm cho các nhà đầu tư.
Có thể hi vọng rằng, với chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong tương lai nông nghiệp và nông thôn nói chung, gạo Việt Nam nói riêng sẽ trở thành địa bàn và lĩnh vực hấp dẫn mạnh hơn các nhà đầu tư nước ngoài so với hiện nay.
Thứ năm, nâng cao sức cạnh tranh của các DNNN. Gia nhập WTO, Việt Nam không những được hưởng quyền lợi mà các nước thành viên dành cho nhau ngược lại Việt Nam cũng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dành ưu đãi cho các thành viên khác. Có nghĩa là, Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường cho gạo của các đối thủ cạnh tranh nhiều hơn, chính sách minh bạch và bình đẳng hơn, các chính sách trợ cấp hoặc hỗ trợ cho gạo không phù hợp WTO cũng dần phải loại bỏ. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam nhất là các DNNN không còn ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước được nữa. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chấp nhận cạnh tranh. áp lực này buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tự vươn lên nâng cao cạnh tranh của của doanh nghiệp. Hơn nữa, theo đánh giá của IFPRI (Viện quốc tế nghiên cứu chính sách lương thực), trong mô hình cân bằng không gian nông nghiệp Việt Nam (VASEM) còn lạc quan hơn khi cho rằng nếu bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu gạo cho phù hợp với quy định của WTO thì hiệu quả ròng của nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng khoảng 800 triệu USD/năm về thu nhập quốc dân và với mức thuế xuất khẩu 10% sẽ mang lại thêm cho Chính phủ ít nhất 100 triệu USD.
Thứ sáu, gia nhập WTO, cạnh tranh phát triển sẽ giúp các doanh nghiệp và người tiêu dùng được lợi nhiều hơn. Vì cạnh tranh phát triển và thuế nhập khẩu giảm giúp chi phí nguyên liệu máy móc nhập khẩu giảm, giá gạo giảm do Việt Nam sản xuất mang tính cạnh tranh về giá hơn, trong khi đó, chất lượng gạo, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm tăng lên do đòi hỏi cao của các nước trong hệ thống mậu dịch quốc tế, đồng thời tạo điều kiện kỹ thuật cho nông dân nâng cao năng suất lao động.
Thứ bảy, Việt Nam được xếp vào các nước kém phát triển có thu nhập bình quân đầu người dưới 1000 USD/năm nên khi là thành viên của WTO, sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ được hưởng nhiều ưu đãi nhập khẩu, khi thâm nhâp vào thị trường của nước phát triển. Ngoài ra Việt Nam còn được phép duy trì các loại trợ cấp xuất khẩu bị cấm đối với đa số các nước thành viên WTO khác, và theo Hiệp định nông nghiệp, Việt Nam cũng sẽ không phải đưa ra các cam kết giảm trợ cấp xuất khẩu gạo (trong khi đối với các nước công nghiệp phát triển phải cắt giảm 36% nguồn ngân sách trong vòng 6 năm, các nước đang phát triển nói chung phải cắt giảm 24% trong vòng 10 năm). Việt Nam cũng không bị yêu cầu cắt giảm hỗ trợ trong nước đối với nông dân (trong khi các nước nông nghiệp phải cắt giảm 20% trong 6 năm, các nước đang phát triển khác là 13,3% trong vòng 10 năm).
2. Thách thức hôị nhập:
Khi gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam nói chung là quá thấp, lại thêm những quy định của WTO đòi hỏi ngày càng khắt khe hơn. Chắc chắn sẽ đem lại cho gạo Việt Nam những thách thức lớn.
Thứ nhất, mặc dù Việt Nam với tư cách là một nước đang phát triển nghèo, được miễn trừ cắt giảm trợ giá xuất khẩu cũng như giảm mức hỗ trợ cho nông dân trong nước, nhưng đổi lại Việt Nam sẽ phải cam kết nhượng bộ cho các đối tác nước ngoài ví dụ như giảm thuế nhập khẩu, tăng hạn ngạch nhập khẩu, cho phép các DNTN và nước ngoài vào thị trường trong nước. Điều đó, có nghĩa là trên thị trường trong nước các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải tham gia cạnh tranh thực sự với các doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực xuất khẩu gạo. Mà như chúng ta đã biết gạo Việt Nam hiện nay mặc dù ngày càng được cải thiện về chất lượng nhưng so với gạo Thái Lan Mỹ, Pakistan vẫn thua kém cả về chất lượng lẫn sự đa dạng về chủng loại (Bảng 3.1)
Bảng 3.1: Biểu thuế và mức cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu với WTO đối với một số mặt hàng nhập khẩu Việt Nam
Đơn vị: %
Nhóm mặt hàng
Thuế suất nhập khẩu hiện hành
Cam kết với WTO
- Chè, cà phê
- Nông lâm sản thô
- Cao su sơ chế
- Thóc gạo
- Thuỷ hải sản
- Phân bón
- Hoá chất
- Dược phẩm
- Rau quả
20
5
3
30
30
0
3
5
25
10
10
10
20
20
20
20
20
30
Nguồn: Bộ Tài chính
Hơn thế nữa, việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu của ngân sách nhà nước. Bởi vì sau khi giảm thuế nhập khẩu, ngân sách nhà nước mất một nguồn thu nhập từ thuế nhập khẩu. Đây là tác động trực tiếp của thuế quan mà giảm thu ngân sách nhà nước. Không những thế, tác động của việc cắt giảm thuế quan nhập khẩu còn làm giảm đáng kể sự tăng trưởng của một số ngành, cụ thể: đối với nông nghiệp nói chung và gạo nói riêng tác động của cắt giảm thuế nhập khẩu làm giảm sự tăng trưởng của ngành này là 3,3%.
Bảng 3.2: Tác động của thực hiện các cam kết hội nhập đối với một số ngành sản xuất (mức thay đổi %)
Đơn vị: %
Tên ngành
AFTA
APEC
WTO
Nông nghiệp
0,2
-2,6
-3,3
Thực phẩm
-10,2
-18,6
-23,2
Khai khoáng
0,1
-0,1
-0,3
Dệt
-2,7
3,6
6,4
May
-1,4
20
28,0
Các ngành công nghiệp nhẹ khác
-2,6
-6,5
-7,4
Nguồn: Thời báo Sài Gòn, Trung tâm kinh tế Châu á - Thái Bình Dương, 2005
Thứ hai, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến và kinh doanh gạo còn thấp. Đa số nhà máy chế biến quy mô nhỏ, công nghệ, thiết bị lạc hậu hơn nhiều so với trình độ công nghệ của các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, áp lực của việc mở cửa thị trường sẽ là thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam. Bên cạnh đó, ngay sau khi gia nhập WTO hàng rào bảo hộ sẽ phải loại bỏ dần, mức độ trợ cấp sẽ phải giảm bớt trong vòng từ 1 đến 3 năm, các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh thấp sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nguy cơ phá sản, đây sẽ là đòn giáng mạnh vào việc xuất khẩu gạo Việt Nam. Bởi vì hiện nay, Chính phủ vẫn tiến hành trợ cấp xuất khẩu cho các DNNN khi họ xuất khẩu gạo ra nước ngoài. Chẳng hạn, hàng năm Chính phủ thường tìm kiếm giúp thị trường thông qua việc ký kết Hiệp định với nước ngoài, tổ chức các hội trợ triển lãm ở nước ngoài giúp cho các doanh nghiệp trong nứơc có điều kiện giới thiệu gạo của Việt Nam với khách hàng thế giới. Kể từ năm 2001, để khuyến khích xuất khẩu nông sản nói chung và gạo nói riêng, chúng ta đã thực hiện thưởng theo kim ngạch xuất khẩu cho nhiều mặt hàng trong đó mức thưởng đối với gạo là 180 đồng/USD. Ngoài ra còn áp dụng mức giá sàn để tránh tình trạng bị ép giá, gây thiệt hại cho người sản xuất, khi thị trường thế giới có biến động bất lợi cho xuất khẩu gạo.
Thứ ba, một thách thức khác là hệ thống cơ sở hạ tầng, dịch vụ, hệ thống quản lý còn nhiều bất cập so với yêu cầu của hội nhập. Hạ tầng dịch vụ thương mại phục vụ xuất khẩu gạo còn thiếu nhiều: thiếu cảng chuyên dụng, chi phí bốc xếp chờ đợi cao. Các chi phí tại cảng cho mỗi tấn gạo của Việt Nam cao gấp 2 lần của Thái Lan. Theo đánh giá của các chuyên gia thì chi phí tại cảng Sài Gòn bao gồm chi phí bốc dỡ, xếp hàng và các chi phí liên quan khác là khoảng 400.000 USD/tàu với công suất 10.000 tấn, chiếm tới 1,6% giá xuất khẩu gạo, trong khi đó chi phí này tại Băng Cốc Thái Lan chỉ bằng 1/2 so với Việt Nam. Ngoài chi phí cảng, tốc độ bốc dỡ rất chậm, so với Băng Cốc, Việt Nam chậm hơn 6 lần, nghĩa là tại Sài Gòn bốc được 1.000 tấn/ ngày thì ở Băng Cốc đã bốc được 6.000 tấn/ ngày.
Thứ tư, hệ thống tiêu chuẩn và quản lý chất lượng gạo trên thế giới, nhất là ở các thị trường lớn, đòi hỏi cao và khắt khe đối với gạo của Việt Nam thông qua các tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm, ngoài ra, các thành viên WTO yêu cầu Việt Nam thực hiện Hiệp định SPS ngay khi gia nhập. Trong khi đó, khả năng đáp ứng của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, thiếu đồng bộ điều này sẽ làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam khi thâm nhập vào các thị trường lớn. Thêm vào đó, việc gia nhập vào WTO càng về sau càng phải chấp nhận những cam kết lớn hơn, mức thuế thấp hơn, và điều kiện cũng khắt khe hơn. Ngược lại, vì còn ở trình độ phát triển thấp, hiện tại Việt Nam hầu như chưa sử dụng các hàng rào kỹ thuật nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Mặc dù, theo một chuyên gia, hệ thống các tiêu chuẩn hiện có của Việt Nam về kiểm dịch động thực vật khá phù hợp với các quy định của WTO về nội dung và tính minh bạch của các quy định này. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực thi các quy định còn kém hiệu quả cả trên phương diện bảo vệ sức khoẻ con người và tạo hàng rào bảo hộ cho sản xuất trong nước.
Thứ năm, mặc dù vòng đàm phán Urugoay đã có nhượng bộ chút ít về nông nghiệp, song hỗ trợ nông nghiệp của các nước phát triển hiện vẫn rất cao, theo số liệu của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD thì tổng số trợ cấp cho nông nghiệp đã đạt tới 361 tỷ USD/năm, gấp khoảng 2 lần tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước đang phát triển, trong đó Mỹ và EU chiếm khoảng 80% tổng số đó. Các nước này sẽ lạm dụng các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp và các rào cản kỹ thuật hết sức khắt khe nhằm bảo hộ sản xuất trong nước của họ (chẳng hạn, dư lượng kháng sinh, điều kiện về vệ sinh và kiểm dịch thực vật) để gây khó dễ cho một số nông sản có hàm lượng lao động cao như gạo Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường các nước này.
Thứ sáu, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào các mặt hàng gạo sẽ gặp khó khăn hơn khi phải cạnh tranh với các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng quyền tương tự mình: xoá bỏ cơ chế hai giá, xác lập cơ chế một giá, quyền tự do đầu tư nhiều hơn..
Thứ bảy, một số doanh nghiệp Việt Nam sẽ mất quyền sử dụng phát minh, sáng chế, công thức chế tạo, thương hiệu...của nước ngoài bất hợp pháp. Họ phải tự xác lập thương hiệu cho gạo, nghiên cứu giống lúa, hoặc mua các giống lúa của nước ngoài năng suất cao do đó chi phí sản xuất sẽ tăng hơn, khả năng cạnh tranh về giá sẽ giảm.
Như vậy, gia nhập WTO với nền kinh tế Việt Nam vừa là cơ hội, vừa là thách thức, vừa là sức ép vừa là sức đẩy, vừa có ảnh hưởng tích cực vừa có ảnh hưởng tiêu cực. Vấn đề là làm thế nào biến thách thức thành cơ hội, chuyển sức ép thành sức đẩy, biến những ảnh hưởng bất lợi thành có lợi, tìm ra đối sách để đưa nông nghiệp tiến lên thành một ngành kinh tế hiện đại có sức cạnh tranh cao trên thế giới.
II. Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO
Với những định hướng trên đây, để phát huy thế mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường gạo trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, để từng bước là “thành viên chính thức của WTO”, chúng ta cần thực hiện các giải pháp cơ bản sau:
1. Củng cố thị trường hiện có và mở thêm thị trường mới:
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước về xuất khẩu gạo như hiện nay và các năm tới, để hạt gạo Việt Nam ngày càng đi xa hơn và gây được nhiều tiếng tăm trên thế giới, Việt Nam nhất thiết phải có hệ thống các giải pháp hữu hiệu về thị trường tiêu thụ và xuất khẩu gạo. Đó là:
Để củng cố và mở thêm thị trường mới, Việt Nam cần tăng năng suất và chất lượng sản xuất lúa gạo trong nước để giảm chi phí đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lao động xã hội, từng bước tham gia vào công cuộc hợp tác quốc tế, thực hiện chính sách thương mại mở.
Trên cơ sở tăng cường công tác tiếp thị, không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ lúa gạo ngoài nước. Đối với thị trường truyền thống đặc biệt là thị trường các nước Châu á có mối quan hệ tốt đối với nước ta (Inđônêsia, ấn Độ) và một số nước Trung Đông (Iran, Irắc) Việt Nam cần nâng cao sức cạnh tranh của gạo Việt Nam. Với thị trường Châu Phi, tuy có nhu cầu lớn về gạo nhưng khả năng thanh toán lại có hạn và một phần còn dựa vào nguồn vốn viện trợ quốc tế để thanh toán, do đó ta sẽ bán gạo cho Châu Phi qua phương cách khai thác các nguồn vốn viện trợ quốc tế. Việc mở rộng thị trường xuất khẩu gạo sang những thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, thì bên cạnh việc tiếp thị thì Việt Nam cần phải sản xuất, chế biến các loại gạo phù hợp với yêu cầu của thị trường và thị hiếu của người tiêu dùng, chỉ bán gạo ở thị trường cao cấp thì mới có hiệu quả cao do bán được giá cao.
Cần đa dạng hoá các kênh lưu thông với các cấp độ lưu thông lúa gạo, chú trọng các hình thức lưu thông vừa và nhỏ tương ứng với quy mô cung- cầu ở thị trường từng vùng và cơ sở hạ tầng, đồng thời xây dựng các kênh và cấp độ lớn nhằm thúc đẩy mở rộng và thống nhất thị trường toàn quốc, tạo điều kiện cho việc xuất khẩu gạo của Việt Nam nhằm đáp ứng thị trường thế giới. Ngoài ra trong tương lai cần giảm bớt và dần dần đi đến chấm dứt việc bán gạo qua trung gian, đẩy mạnh bán trực tiếp để tăng khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam.
Tóm lại để tăng sức cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam trong bối cảnh hiện nay còn phải có nhiều giải pháp đồng bộ hơn, bên cạnh việc mở rộng và ổn định thị trường theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá cần đảm bảo chữ tín với khách hàng, tăng cường tiếp thị, đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường…..bỏ Quota xuất khẩu gạo, mở rộng và khuyến khích sự tham gia của tư nhân vào hoạt động xuất khẩu gạo, tiến tới thành lập các tập đoàn xuất khẩu gạo lớn có quan hệ với các tập đoàn xuất khẩu gạo của Thái Lan. Việc thực hiện đồng bộ các biện pháp trên sẽ xây dựng được thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
2. Nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu.
Chất lượng gạo là quyết định hiệu qủa của kinh doanh xuất khẩu gạo, bởi nó là yếu tố quan trọng nhất quyết định giá cả và khả năng cạnh tranh, trên thị trường, gạo chất lượng càng cao bán được giá càng cao. Gạo chất lượng cao được hiểu là gạo được xay xát ở mức độ vừa phải sao cho giữ được phần lớn hoặc toàn bộ giá trị dinh dưỡng. Vấn đề chất lượng liên quan đến nhiều yếu tố do đó phải giải quyết đồng bộ các yếu tố đó:
Giống lúa: Để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu cần tăng cường đầu tư và mở rộng dự án giống lúa xuất khẩu có năng suất cao và phù hợp với thị hiếu của thị trường quốc tế. Trước hết cần hoàn thiện bộ giống lúa xuất khẩu, xây dựng vùng lúa nguyên liệu tập trung sản xuất 1-2 giống chủ lực có đủ cơ sở hạ tầng (cơ sở nhân giống, giao thông thuận lợi, cụm thu mua, chế biến, hệ thống kho, bến bãi). Có chính sách hỗ trợ giá giống, xác nhận, khuyến cáo nông dân chỉ sử dụng nhóm giống lúa xuất khẩu. Việt Nam cần nghiên cứu thị hiếu của từng khu vực thị trường để có những giống lúa thích hợp với đòi hỏi của thị trường đó, hiện nay, ở nước ta đa số giống lúa đang trồng phục vụ cho xuất khẩu như: IR 64, OM 2031, OM 1490, 23MTL 250, VNĐ 95-20 đều đáp ứng đủ tiêu chuẩn chung của thế giới về gạo dài.
Khâu chế biến: Sau khi có giống lúa tốt thì khâu xay xát chế biến đóng vai trò quyết định trong việc tạo ra gạo thành phẩm xuất khẩu chất lượng cao. Việt Nam cần huy động vốn đầu tư từ ngân hàng, kêu gọi đầu tư nước ngoài vào khâu chế biến, tích cực ứng dụng các thành tựu mới của khoa học – công nghệ vào sản xuất để vừa tăng sản lượng lúa gạo cho tiêu dùng và cho xuất khẩu, vừa không ngừng nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, vừa bảo vệ được môi trường sinh thái. Đầu tư và quy hoạch theo chiều sâu mạng lưới xay xát theo hướng CNH-HĐH. Các Doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nên hợp tác và cùng với Nhà nước nhập các công nghệ xay xát chế biến hiện đại của Nhật Bản, Nam Triều Tiên để giảm tỷ lệ tấm, đánh bóng gạo, giảm độ ẩm trong gạo. Điều này đòi hỏi một hệ thống kho đệm để bảo quản bao gói và vận chuyển phải đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật mới có khả năng bảo quản và tăng được chất lượng gạo cho xuất khẩu.
Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn gạo quốc gia phù hợp với tổ chức quốc tế để tăng sức cạnh tranh. Chất lượng gạo chính là kết quả cuối cùng khi có đầu tư thoả đáng, có kế hoạch và theo dõi tốt việc thực hiện. Do đó để có sản phẩm gạo chất lượng cao Nhà nước cần phối hợp với các cơ quan kiểm định, giám sát chặt chẽ chất lượng gạo khi chế biến xong và đặc biệt là chất lượng gạo xuất cảng, không nên để gạo chất lượng thấp xuất ra ngoài vì nó gây thiệt hại về giá, khó cạnh tranh trên thị trường. Có như vậy các doanh nghiệp xuất khẩu mới chú ý vào chất lượng, tạo điều kiện áp lực nâng cao chất lượng gạo. Để thực hiện được điều đó biện pháp quyết định là quản lý kiểm tra chặt đầu vào bao gồm : giống, kỹ thuật canh tác, thu hoạch và phơi sấy, thu mua và chế biến, tồn trữ, tiếp thị và phân phối Bên cạnh đó cần có hình thức tổ chức bình chọn khen thưởng các doanh nghiệp sản xuất gạo chất lượng cao.
3. Nâng cao giá gạo xuất khẩu.
Trong nhiều năm nay khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam khá lớn nhưng kim ngạch thu về lại không tương xứng. Giá gạo Việt Nam trên thị trường thế giới luôn luôn thấp hơn các nước xuất khẩu gạo chính khác nhất là so với Thái Lan. Giá gạo xuất khẩu thì do nhiều yếu tố cấu thành nên, vậy để nâng cao giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế thì ta cần xem xét và đề ra biện pháp cho từng yếu tố:
Giá gạo và chất lượng gạo có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chất lượng gạo xuất khẩu quyết định giá gạo xuất khẩu. Gạo có chất lượng càng cao thì bán được giá càng cao, do đó để tăng giá gạo thì cần quan tâm đến khâu chất lượng gạo. Trước hết cần khẩn trương hoàn thành quy hoạch vùng lúa xuất khẩu cả nước và kế hoạch cụ thể ưu tiên, đầu tư vốn và khoa học kỹ thuật để phát triển lúa trong từng thời kỳ phù hợp với quy hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của cả nước. Bên cạnh đó cần thâm canh tăng năng suất lúa gạo chọn giống lúa xuất khẩu có chất lượng cao cộng với công nghệ chế biến hiện đại, hệ thống kho tàng bến bãi bảo quản gạo xuất khẩu đúng tiêu chuẩn quốc tế. Khi chất lượng gạo xuất khẩu được nâng cao sẽ dẫn đến giá gạo của Việt Nam cũng cao hơn.
Những năm qua thị trường nhập khẩu gạo Việt Nam chủ yếu là nước đang và kém phát triển, do đó gạo phẩm cấp thấp, cụ thể là tỷ lệ gạo gãy 2 – 2,5%, vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng lượng gạo xuất khẩu, tuy nhiên để giá gạo cao hơn Việt Nam cần sản xuất nhiều gạo chất lượng cao phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của các thị trường khó tính. Đặc biệt các loại gạo đặc sản truyền thống cần được phát triển sản xuất trên quy mô lớn hơn nhằm đáp ứng nhu cầu của một số nước như Nhật Bản, Mỹ ưa chuộng gạo thơm của Việt Nam.Thực tế cho thấy giá các loại gạo đặc sản thường cao gấp đôi những loại gạo khác, chẳng hạn như gạo đặc sản Hoa nhài của Thái Lan luôn xuất đi với mức giá từ 740-800 USD/tấn trong khi đó loại gạo 5% tấm chỉ bán được với giá vào khoảng 280-320 USD/tấn.
Giá gạo xuất khẩu còn chịu ảnh hưởng của giá thóc gạo trong nước. Vì vậy muốn ổn định và nâng cao giá gạo xuất khẩu thì cần quan tâm ổn định giá gạo trong nước. Hiện nay Nhà nước đã thực hiện chính sách thu mua tạm trữ và quy định giá sàn. Trước hết nhằm giảm bớt thiệt hại cho nông dân trồng lúa, Chính Phủ đã áp dụng quy định giá sàn đối với hoạt động thu mua thóc, đồng thời năm 2005 và đầu năm 2007 thực hiện mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo với mục tiêu quan trọng là nhằm xuất khẩu gạo đạt được giá cao ở mức có thể đạt được chứ không phải là để xuất khẩu ồ ạt vào thời điểm mất giá nhiều nhất như thực tế đã xảy ra. Nhà Nước còn hỗ trợ chi phí vay vốn và những khoản lỗ phát sinh cho các DN thực hiện mua tạm trữ và xuất khẩu lượng gạo dự trữ. Nhà nước rất quan tâm đến việc bình ổn giá cả và thu mua lúa gạo. Chính sách này nhằm hạn chế tình trạng tranh mua - tranh bán và làm cho người nông dân có lợi ích thoả đáng. Tránh tình trạng như vụ Đông Xuân năm 2006, vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long được mùa, các công ty quốc doanh tổ chức các điểm mua bán lúa tận dân với giá sàn 2000 -2200 đ/kg. Tuy nhiên khi bước vào vụ thu hoạch lại để cho tư thương thao túng thị trường mua ép với giá khoảng 1500đ/kg. Do vậy, Nhà nước cần quan tâm, chỉ đạo thu mua nông sản nói chung và lúa gạo nói riêng một cách thống nhất và đồng bộ nhằm khuyến khích người dân sản xuất cũng như tăng hiệu quả xuất khẩu gạo. Trong chính sách này Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ nông dân khi giá lúa xuống thấp hơn giá sàn, cần phát huy vai trò quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân các tỉnh trong vùng trong vấn đề vốn và tổ chức thu mua, cuối cùng nên có những chính sách điều tiết lợi nhuận cho người trồng lúa.
Phân tích và dự báo thị trường thế giới để có các biện pháp phù hợp nhằm giảm thiểu sự xuống giá của gạo xuất khẩu Việt Nam.
Tỷ giá hối đoái cũng ảnh hưởng tới giá gạo xuất khẩu của Việt Nam. Chính phủ có thể quản lý và điều khiển hoạt động xuất khẩu gạo qua tỷ giá hối đoái, nhằm ổn định giá gạo của Việt Nam so với giá gạo quốc tế. Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả xuất khẩu gạo vì nó biểu hiện mối quan hệ tương đối về giá (giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ USD). Nếu giá trị đồng đôla lên cao hơn so với tiền Việt Nam thì xuất khẩu là có lợi do thu mua bằng tiền Việt Nam và bán bằng đôla, nhưng điều này lại có hại đến các nhà xuất khẩu hàng hoá khác. Vì tỷ giá luôn có sự biến động nên các Doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều bị ảnh hưởng nhất định theo hướng có lợi và bất lợi. Nhưng tỷ giá nào là phù hợp ? Đó là cả quá trình điều chỉnh có tính nghệ thuật xuất phát từ lợi ích của nền kinh tế xã hội. Do vậy cần có sự linh hoạt cần thiết. Đối với Việt Nam trước cạnh tranh ưu thế về chất lượng kỹ thuật, giá thành và trợ giá hàng nông phẩm so với các nước xuất khẩu khác thì nới rộng tỷ giá hối đoái là một trong những biện pháp khắc phục tình thế để tăng khả năng cạnh tranh đối đầu, giữ thị trường cho hàng hoá xuất khẩu của mình. Theo dự đoán tốc độ tăng tỷ giá hối đoái của các nước trong khu vực ở mức 2 - 5%, giá trị đồng đôla vẫn tiếp tục tăng cùng nhịp tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ. Vì vậy để đảm bảo khả năng cạnh tranh trong thanh toán giao dịch của đồng bản tệ cho xuất khẩu gạo so với các nước xung quanh, tỷ giá hối đoái của đồng tiền Việt Nam cần được nới lỏng xung quanh mức bình quân 3 - 4% năm trong thời kỳ tới. Hiện nay chúng ta đang áp dụng chính sách tỷ giá cố định có linh hoạt, xét ở góc độ nào đó nó thể hiện sự ổn định của một nền kinh tế, nhưng chúng ta duy trì quá lâu, lạc hậu so với thị trường tự do nên phần nào ảnh hưởng tới xuất khẩu và hầu hết các Doanh nghiệp xuất khẩu rơi vào tình trạng khó khăn, thiếu vốn và không có lãi. Từ tháng 3 năm 1997 chính phủ đã áp dụng chính sách phá giá đồng tiền. Đến nay thời gian hoạt động chính thức VNĐ/USD đã được hai lần điều chỉnh, tăng lên 19,3%. Những tiến bộ này cho thấy sự phản ứng với các điều kiện của thị trường, tạo lợi thế về giá tương dối cho hàng xuất khẩu nói chung và củng cố khả năng cạnh tranh quốc tế của sản phẩm gạo nói riêng.
Nhà Nước cần thiết phải tham gia vào quá trình kinh doanh xuất khẩu gạo. Chính Phủ cần tăng cường tìm kiếm các hợp đồng xuất khẩu gạo dạng G - G (hợp đồng ký kết giữa 2 chính phủ) để phân bổ lại cho Doanh nghiệp thực hiện. Chính phủ cần có những chuyên gia dự báo thị trường gạo thế giới dày dạn kinh nghiệm để Việt Nam không bị thiệt thòi lớn khi giá gạo thế giới tăng lên.
Kết luận
Ngày 7/11/2006,Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO là một sự kiện vô cùng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế Việt Nam. Chắc chắn nó sẽ tạo ra những động lực giúp Việt Nam khắc phục có hiệu quả tình trạng kém phát triển hiện nay, có kiều kiện thu hẹp dần khoảng cách với các nước trên thế giới về trình độ phát triển. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, được hưởng quy chế tối huệ quốc, đặc biệt sẽ tạo điều kiện cho một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong đó có xuất khẩu gạo dễ dàng thâm nhập vào thị trường thế giới, tham gia vào nhịp sống chung của nền kinh tế toàn cầu. Nhưng với sức cạnh tranh còn yếu, lại chua có được thương hiệu mạnh về gạo nên Việt Nam cũng sẽ gặp phải rất nhiều thách thức trong môi trường cạnh tranh quốc tế khốc liệt. Song lâu dài việc gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam phát triển thuận lợi, mặc dù trước mắt còn nhiều khó khăn.
Thấy được tầm quan trọng của vấn đề hội nhập, tại đại hội Đảng IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định: “Hội nhập quốc tế là xu thế thời đại, là con đường tất yếu để du nhập thị trường quốc tế, để tạo vốn, tiếp thu kỹ thuật mới, nhằm rút ngắn thời gian tiến hành CNH, HĐH”, đồng thời khẳng định Việt Nam cần phải: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm được độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc và an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”. Việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO, một lần nữa khẳng định quyết tâm thực hiện chính sách đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của Chính phủ Việt Nam, một lần nữa khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong việc hoà mình vào “triều sóng phát triển của thế giới”.
Tài liệu tham khảo
Tạp chí ngoại thương số 8/2005
Thời báo kinh tế Việt Nam 2004-2005
Tạp chí ngoại thương 1- 2002
Thời báo kinh tế Việt Nam 2004-2005
Lúa gạo Việt Nam trước thềm thiên niên kỉ mới hướng xuất khẩu - TS. Nguyễn Trung Văn- Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội – 2001
Thời báo Sài Gòn, Trung tâm kinh tế Châu á - Thái Bình Dương, 2001
Công văn số 3774TC/TCDN ngày 18/04/2002
Báo Thương mại: số 17-2001. Số 1,2,3,4,5-2002.
Báo thông tin- kinh tế - xã hội : số 2-2002
Nguyễn Trung Vân: Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỷ mới- Hướng xuất khẩu. NXB Chính Trị Quốc Gia 2001
Số liệu thống kê năm 2006- 2007, NXB Thống Kê.
Tạp chí kinh tế và dự báo : số 4-2001
tạp chí thị trường giá cả số231, 232 tháng 6, 7 năm 2006.
tạp chí thương mại số 45 năm 2006
tạp chí kinh tế và phát triển số 110 tháng 8 năm 2006
tạp chí kinh tế thương mại ngoại thương số 02 tháng1 năm 2007
Đại học Kinh tế quốc dân - Nông nghiệp nông thôn Việt Nam buớc vào thế kỉ XXI - Nhà xuất bản nông nghiệp – 2006
GS.,TS. Bùi Xuân Lưu - Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - NXB Thống kê Hà Nội – 2004
Kim Thái - Cần có kế hoạch xuất khẩu gạo - Thời báo kinh tế Việt Nam số 2006 - Trang 2
Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại ICTC - Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và triển vọng gia nhập của Việt Nam - NXB Chính trị quốc gia-2007
GS. TS. Đặng Đình Đào - GS. TS. Hoàng Đức Thân - Giáo trình kinh tế thương mại - Nhà xuất bản thống kê – 2003
Và các trang web:
http:// www.vneconomy.com.vn
http:// hcmtrade.com.vn
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35852.doc