Đề án Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động thương mại của các doanh nghiệp sản xuất

Doanh nghiệp là nhân vật trung tâm của kinh tế thị trường khi chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang, lại càng là nhân vật trung tâm trong mở cửa hội nhập. Khi Việt Nam gia nhập WTO, trong rất nhiều công việc phải làm, các doanh nghiệp cần tập trung làm bốn việc chủ yếu sau đây. Thứ nhất, doanh nghiệp chủ động tìm hiểu luật của WTO, nghiên cứu kỹ những thỏa thuận về việc gia nhập WTO khi được phổ biến. Luật cơ bản của WTO là cắt giảm thuế quan, xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan (như hạn ngạch, cấp phép xuất - nhập khẩu), xóa bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường, tạo "sân chơi" bình đẳng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, tài sản trí tuệ và bản quyền. Luật đó tạo thuận lợi cho các nước thành viên mở rộng thị trường, thâm nhập thị trường các nước và tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ, kỹ năng quản lý của nước ngoài; tham gia vào quá trình thiết lập các luật mới, xử lý tranh chấp thương mại; thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh; đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Thứ hai, rà soát, sắp xếp lại sản xuất, kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp được quyết định bởi việc giảm thiểu chi phí sản xuất, kinh doanh. Muốn giảm chi phí sản xuất kinh doanh, phải đổi mới kỹ thuật, thiết bị - công nghệ, tiết giảm chi phí nguyên nhiên vật liệu, nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu chi phí quản lý, chi phí ngoài sản xuất, chi phí lưu thông.

doc38 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1557 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động thương mại của các doanh nghiệp sản xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị trường” đối với ta. Chế độ “phi thị trường” chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Và các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng xuất khẩu nước ta dù ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường. Về dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam khi vào WTO (riêng trường hợp ta vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trã đũa nhất định). Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của nước ta. Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may). Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế. Về quyền kinh doanh (quyền xuất nhập khẩu hàng hóa): Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước (như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí) và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi (như gạo và dược phẩm). Cam kết của Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, DN và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí… Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, các thành viên WTO đồng ý cho ta thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên 20 độ cồn hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phấn trăm. Đối với bia, sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm. Đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp thương mại nhà nước, cam kết trong lĩnh vực này là nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt ®ộng DNNN. Tuy nhiên, nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của DN như các cổ đông khác. Ta cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của DNNN không phải là mua sắm Chính phủ. Về tỷ lệ cổ phần thông qua quyết định tại DN: Điều 52 và 104 của Luật DN quy định một số vấn đề quan trọng có liên quan đến hoạt động của công ty TNHH và Công ty cổ phần chỉ được phép thông qua khi có số phiếu đại diện ít nhất là 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Quy định này có thể vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số vốn trong liên doanh. Do vậy, ta đã xử lý theo hướng cho phép các bên tham gia liên doanh được thỏa thuận vấn đề này trong điều lệ công ty Về một số biện pháp hạn chế nhập khẩu, ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một DN nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điều và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ôtô cũ ta cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm. Về cam kết thực hiện minh bạch hóa, ngay từ khi gia nhập Việt Nam sẽ công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày. Việt Nam cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên các tạp chí, trang tin điện tử của bộ, ngành. Một số cam kết liên quan khác: thuế xuất khẩu, Việt Nam chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác.  Về đa phương, Việt Nam còn đàm phán một số vấn dề đa phương khác như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sử dụng phần mềm hợp pháp trong cơ quan Chính phủ. Định giá tính thuế xuất nhập khẩu, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các biện pháp hàng rào kỹ thuật trong thương mại… Với nội dung này, ta cam kết tuân thủ các quy định của WTO kể từ khi gia nhập. Cam kết về thuế nhập khẩu Mức cam kết chung của Việt Nam là đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình 5 - 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong khoảng 5 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5 - 7 năm. Mức cam kết cụ thể: sẽ có khoảng hơn 1/3 dòng số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy… vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Bên cạnh đó, Việt Nam đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải. Cam kết của Việt Nam sẽ cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO (giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp). Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 - 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng. Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. Cam kết về mở của thị trường dịch vụ Về diện cam kết, trong Hiệp định thương mại song phương (BTA) với Hoa Kỳ ta đã cam kết 8 ngành dịch vụ (khoảng 65 phân ngành). Trong thỏa thuận WTO, ta cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng 110 ngành. Về mức độ cam kết, với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch… ta giữ được mức độ cam kết gần như trong BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, để sớm kết thúc đàm phán, ta đã có một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này. Cam kết chung cho các ngành dịch vụ về cơ bản như BTA. Trước hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể. Ngoài ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Cuối cùng, ta cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị trường ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài mua tối đa 30% cổ phần. Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí: Đồng ý cho phép các DN nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. Tuy nhiên, Việt Nam còn giữ nguyên quyền quản lý các hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các ty thăm dò, khai thác tài nguyên. Bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các DN Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật phẩm cho dàn khoan xa bờ… Tất cả các công ty vào Việt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Dịch vụ viễn thông, Việt Nam có thêm một số nhận nhượng so với BTA nhưng ở mức độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của ta. Cụ thể là cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng (phải thuê mạng do DN Việt Nam nắm quyền kiểm soát) và nới lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng (chỉ các các doanh nghiệp nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp phép). Dịch vụ phân phối, về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt so với các nước mới gia nhập. Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập DN 100% vốn nước ngoài là như BTA (1/1/2009). Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng, phân bón… ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. DN có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể. Dịch vụ bảo hiểm, về tổng thể, mức độ cam kết ngang BTA, tuy nhiên, ta đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày gia nhập. Dịch vụ ngân hàng, ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phi chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam (không quá 30%).  Dịch vụ chứng khoán, ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO Các cam kết khác, với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế toán, xây dựng, vận tải… mức độ cam kết về cơ bản không khác nhiều so với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn - xuất bản. III. T¸c ®éng cña viÖc ViÖt Nam gia nhËp WTO ®Õn ho¹t ®éng th­¬ng m¹i cña doanh nghiÖp s¶n xuÊt 1.C¬ héi khi gia nhËp WTO 1.1. Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu Khi gia nhập WTO, theo nguyªn t¾c tèi huệ quèc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hãa này mà kh«ng phải đàm ph¸n hiệp định thương mại song phương với từng nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế. Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này nếu có mối quan hệ thương mại "như thế nào đó" đối với các nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như Việt Nam. Từ thập kỷ 90 cho đến nay, xuất khẩu của Việt Nam đã có bước phát triển ngoạn mục. Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 2000 đạt 16,5 tỷ USD (xuất khẩu hàng hoá đạt 14,3 tỷ USD và xuất khẩu dịch vụ đạt 2,2 tỷ USD), tăng gấp 6,87 lần so với 1990 (đạt 2,4 tỷ USD). Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình hàng năm của thời kỳ 1991 – 2000 là 21,5%. Năm 2001 xuất khẩu hàng hoá đạt 15,2 tỷ USD, tăng 6,3% so với năm 2000. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu đạt 16,706 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2001 và năm 2003, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 19870 triệu USD, tăng 7,4% so với kế hoạch phấn đấu cả năm (18,5 tỷ USD) và tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 2002. Sau thời kỳ bị chững lại năm 1998 và những tháng đầu năm 1999, xuất khẩu của Việt Nam đã trở lại nhịp độ tăng trưởng cao. Năm 1999 tăng 23,3% và năm 2000 tăng 24%. Cho tới năm 2003 đã tăng 18,9% so với năm 2002, đưa xuất khẩu bình quân theo đầu người của Việt Nam vượt xa ngưỡng 170 USD (chỉ sự chậm phát triển về ngoại thương). Bên cạnh đó là sự cải thiện quan trọng cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo hướng tích cực tăng dần tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (tỷ trọng phát triển từ 38,3% năm 2002 lên 43% năm 2003) và giảm dần tỷ trọng nhóm hàng nguyờn li?u, khoáng sản (từ 31,2% năm 2002 và còn 27,6% năm 2003) và giảm nhẹ tỷ trọng nhóm hàng nông lâm thuỷ sản (từ 30,5% năm 2002 giảm còn 29,4% năm 2003). Ngoài ra, Việt Nam còn chú trọng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ lệ sản phẩm chế biến, giảm xuất khẩu thô, hàng nông lâm – thuỷ sản đầu thập kỷ 90 từng chiếm tỷ trọng trên dưới 50% trong tổng xuất khẩu của Việt Nam (năm 1990 chiếm tỷ trọng 48%, năm 1991 chiếm 52%, 1992 chiếm 49,5% tổng kim ngạch xuất khẩu) đã từng bước giảm đáng kể. Thị trường xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam cũng không ngừng được mở rộng và đa dạng hoá. Từ chỗ chỉ xuất khẩu sang các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu, ngày nay sản phẩm của Việt Nam đã có mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới. Hàng Việt Nam đã chiếm được thị phần nhất định ở những thị trường lớn thế giới như EU, Mỹ, Nhật Bản... Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra chiến lược phát triển xuất khẩu lâu dài thời kỳ 2001 – 2010 cho các đơn vị kinh tế và định hướng xuất khẩu năm 2004. Năm 2004, dự kiến xuất khẩu hàng hoá đạt 22,45 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2003, trong đó các doanh nghiệp 100% vốn trong nước dự kiến 10,85 tỷ USD, tăng 9,5% các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dự kiến 11,6 tỷ USD, tăng 16,4%. Tăng cường xuất khẩu vào các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhât Bản, Ôxtrâylia, các nước ASEAN, các tiểu vương quốc ả rập thống nhất, Nam Phi, Mêxico, Canada, Hàn Quốc, Nga Định hướng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010 Nhóm hàng hoá Kim ngạch 2010 (triệu USD) Tỷ trọng 2000 2010 1. Nguyên, nhiên liệu 1.750 20,1 3 – 3,5 2. Nông sản, thuỷ sản 8.000 – 8.600 23,3 16 – 17 3. Chế biến chế tạo 20.000 – 21.000 31,4 40 – 45 4. Công nghệ cao 7.000 5,4 12 – 14 5. Hàng hoá khác 12.500 19,4 23 – 25 Tổng xuất khẩu hàng hoá 48.000 – 50.000 100 100 Định hướng thị trường xuất khẩu của Việt Nam tới 2010 (Đơn vị: %) Thị trường Tỷ trọng 2005 Tỷ trọng 2010 Châu á 57-60 46-50 Nhật Bản 15-16 17-18 ASEAN 23-25 15-16 Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông 16-18 14-16 Châu Âu 26-27 27-30 EU 21-22 25-27 SNG và Đông Âu 1,5-2 3-5 Bắc Mỹ (chủ yếu là Mỹ) 5-6 15-20 Ôxtrâylia và New Zealand 3-5 5-7 Các khu vực khác 2 2-3 1.2. Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế. 1.3. Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đã trở nên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá… Tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phần thua thiệt thường rơi về phía nước ta, bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này. 2. Thách thức của việc gia nhập WTO Bên cạnh cơ hội, việc gia nhập WTO cùng tạo ra một số thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Đó là: 2.1. Sức ép cạnh tranh Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch vụ… sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với sù b¶o trî của Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ không có cách nào khác là chủ động và sẵn sàng đối diện với thách thức này bởi đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển, là chặng đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua trên con đường hướng tới hiệu quả và phồn vinh. Dù không gia nhập WTO thì thách thức này sớm hay muộn cũng sẽ đến. 2.2 Thách thức về nguồn nhân lực Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức này, chúng ta cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ thông thạo qui định và luật lệ của WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế. Thông qua đàm phán gia nhập, ta đã từng bước xây dựng được đội ngũ này, nhưng vẫn còn thiếu. Nhằm nâng cao năng lực đối phó với thách thức, nước ta đang tập trung xây dựng cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, củng cố vị thế trên thị trường nội địa. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để đối phó với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Kiện toàn, củng cố hệ thống tiêu chuẩn về kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch cũng như hỗ trợ doanh nghiệp các thông tin và kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế… Thực tế hầu hết các nước gia nhập WTO đều có nền kinh tế phát triển nhanh. Sớm gia nhập WTO, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang quyết tâm phấn đấu, chủ động tạo bước chuyển biến mới về phát triển kinh tế. Nắm bắt thời cơ, vượt qua những thách thức rất lớn, phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, nhất định đất Việt Nam sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển vào năm 2010 và trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 3.Sù t¸c ®éng ®Õn th­¬ng m¹i ®Çu vµo a.ThuËn lîi Nghiên cứu về tác động của gia nhập WTO đã chỉ ra rằng, việc là thành viên của GATT/WTO có quan hệ chặt chẽ với sự tăng lên đáng kể của nhập khẩu từ các nước công nghiệp, tuy nhiên nghiên cứu cũng không chắc chắn trong trường hợp thành viên là các nước đang phát triển. Trên cơ sở phân tích thực tiễn hoạt động XNK Việt Nam thời gian qua, có thể khẳng định với tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội nhập hàng hoá có chất lượng  và giá cả cạnh tranh, đáng chú ý là khối lượng hàng hoá NK có thể tăng nhưng giá trị kim ngạch NK có thể tăng hoặc tăng không đáng kể.Và người Việt Nam sẽ có lợi trong việc tiêu dùng của mình. Việc nhập khẩu hàng hoá diễn ra dễ dàng sẽ làm cho hoạt động sản xuất-kinh doanh thuận lợi hơn đối với các doanh nghiệp phải NK công nghệ và nguyên liệu ®Çu vµo. Giá thành các yếu tố đầu vào trở nên rẻ hơn,gia nhập WTO các doanh nghiệp sẽ không còn phải lo lắng nhiều về giá cả cũng như chất lượng các yếu tố đầu vào cho sản xuất như nguyên, nhiên vật liệu cho các quá trình sản xuất ra sản phẩm. Càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội tiếp cận được với các nguồn nguyên nhiên vật liệu, các dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị phục vụ cho đầu vào sản xuất. Sự xuất hiện thêm nhiều nhà cung ứng các yếu tố đầu vào từ các quốc gia trong khối wto và hơn nữa nước ta là một địa chỉ đầu tư vốn có lực lượng lao động trẻ, dồi dào, giá nhân công rẻ sẽ làm cho các yếu tố này trở nên rẻ và nhiều hơn và hơn nữa sức ép cạnh tranh cũng là một trong những nhân tố quan trọng giúp giá cả hạ. Các mối quan hệ kinh tế hợp tác không chỉ đơn thuần mang tính chất ngắn hạn (mua đứt-bán đoạn) mà dần sẽ trở thành quan hệ hợp tác truyền thống đôi bên cùng có lợi của nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp được tự do trong lựa chọn bạn hàng và nhà cung cấp các yếu tố đầu vào cho mình do vậy họ sẽ quan tâm rất nhiều đến giá cả và chất lượng từ phía các nhà cung cấp. Điều này cũng dẫn tới các nhà cung cấp sẽ chủ động tìm đến các doanh nghiệp sản xuất và trở nên linh hoạt hơn trong chiến lược bán và cung cấp các sản phẩm của mình. Các nhà cung cấp sẽ chủ động tiếp cận và nắm bắt nhu cầu của các doanh nghiệp ma mình nhắm tới. Điều này giúp doanh nghiệp sản xuất tiết kiệm thời gian mua sắm các yếu tố đầu vào cũng như những khoản chi phí không đáng có. b.Khó khăn: Công nghiệp phụ trợ phát triển chậm làm gia tăng sự phụ thuộc vào thị trường thế giới dẫn tới đẩy chi phí trung gian lên cao nhất là khi giá nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng mạnh. Việc loại bỏ, cắt giảm hàng rào thuế quan theo các cam kết đối với hàng hoá NK theo hạn định của WTO cũng đồng thời làm gia tăng sức cạnh tranh đối với hàng hoá sản xuất trong nước. Đây là một thách thức đối với các doanh nghiệp trong nước khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung còn hạn chế 4.Sự tác động đến thương mại đầu ra a.Thuận lợi: Các doanh nghiệp có cơ hội được tiếp cận và xâm nhập vào các thị trường tiêu thụ rộng lớn của khối wto mà mức độ khai thác tùy thuộc vào tiềm lực và chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như khả năng bắt kịp với những thay đổi của môi trường kinh doanh quốc tế. Sự thành công chỉ thuộc về những doanh nghiệp có tầm nhìn, hướng đi và mức độ chuyên môn hóa đạt đẳng cấp quốc tế. Việc giảm giá thành các yếu tố đầu vào dẫn đến giảm giá thành sản phẩm làm cho sản phẩm của doanh nghiệp sẽ chiếm ưu thế trong cạnh tranh về giá so với các sản phẩm cùng loại. Đây cũng là thuận lợi cho các doanh nghiệp vốn có chất lượng và giá cả ổn định. b. Khó khăn: b.1.Sức ép cạnh tranh lớn: Diễn ra sự phá sản và giải thể của hàng loạt doanh nghiệp quen làm ăn và hoạt động theo tư duy cũ, không nhạy bén cũng như không bắt kịp với những thay đổi của thời cuộc. Hoạt động tiêu thụ về một mặt nào đó sẽ thuận lợi hơn bởi có được một thị trường rộng lớn hơn trước song sự xuất hiện của rất nhiều các đối thủ cạnh tranh đến từ các quốc gia và miền lãnh thổ với tiềm lực tài chính và kinh nghiệm thương trường cùng với đội ngũ nhân lực đạt trình độ quốc tế chắc chắn sẽ gây khó khăn cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước. Viêc bị mất thị phần sản phẩm vào tay các đối thủ cạnh tranh cũng như việc phân chia lại thị phần của một sản phẩm hoặc một ngành hàng nào đó sẽ diễn ra. Kinh tế thị trường với những qui luật vốn có của nó sẽ đưa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau gay gắt, để đứng vững và tồn tại được trên thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải nỗ lực với các kế hoạch, chiến lược, tầm nhìn mang tính lâu dài, bền vững và phù hợp quốc tế và hội nhập toàn cầu. Hoạt động thương mại đầu ra xét về một phương diện nào đó chỉ là hoạt động tiêu thụ sản phẩm (hay là khâu bán hàng) nhưng nó có tính chất quyết định đến sự tồn tại đến sự phát triển của doanh nghiệp sản xuất. Trong điều kiện cạnh tranh sẽ diễn ra xu hướng sáp nhập, hợp nhất các công ty và các doanh nghiệp nhỏ thành các công ty và tập đoàn kinh tế lớn mạnh hơn. Việc để rơi thị phần vào tay các tập đoàn kinh tế và các đối thủ cạnh tranh đến từ các quốc gia khác trong thời gian đầu của thời kỳ hội nhập là điều không thể tránh khỏi. Các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị những điều kiện cần thiết, khắc phục những yếu kém thiếu sót, tổ chức và tổ chức lại các chiến lược tiêu thụ, quảng cáo, bán hàng, makerting… Ngoài ra sẽ xảy ra sự cạnh tranh về nguồn nhân lực trong hoạt động thương mại của các doanh nghiệp sản xuất. Đây cũng sẽ là một khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp trong nước bởi vấn đề nhân sự của các doanh nghiệp trong nước vẫn làm chưa tốt. Tóm lại sự cạnh tranh sẽ diễn ra trên toàn diện các mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cạnh tranh là điều tất yếu. b.2.Sẽ hoàn toàn không có sự bảo hộ của nhà nước Trong điều kiện hội nhập wto, các doanh nghiệp nhận được rất ít và có khi gần như hoàn toàn không có sự bảo hộ hay các chính sách trợ giá cho các sản phẩm hoặc ngành hàng từ phía chính phủ. Các doanh nghiệp phải chủ động tìm thị trường cho sản phẩm, hoàn toàn độc lập và tự chịu trách nhiệm trong mọi quyết định sản xuất kinh doanh của mình CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT SAU KHI GIA NHẬP WTO 1.Những thành tựu đạt được Do phải thực hiện cam kết, chúng ta tạo ra được môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, không phân biệt đối xử. Đây là những yếu tố khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hơn nữa, với việc gia nhập WTO, các nhà đầu tư có được thị trường tiêu thụ rộng lớn cho sản phẩm của mình mà không bị phân biệt đối xử. Đây cũng là yếu tố làm tăng khả năng thu hút các nhà đầu tư. Thực tế đã xuất hiện làn sóng đầu tư đổ vào nước ta từ cuối năm 2006, trong đó có các tập đoàn và công ty lớn khi các nhà đầu tư đã thấy rõ khả năng Việt Nam có thể gia nhập WTO trong năm đó. Làn sóng này tiếp tục mạnh hơn trong năm 2007. Chỉ tính 11 tháng đầu năm 2007 cả nước đã tiếp nhận trên 15 tỉ USD vốn FDI, tăng gần 40% so với cùng kỳ năm trước vượt mục tiêu đề ra cho cả năm 2007 (13 tỉ). Đầu tư từ khu vực dân doanh trong nước cũng tăng nhanh và tăng khoảng 20% so với năm 2006, đưa tổng vốn đầu tư toàn xã hội lên trên 40% GDP. Đây là cơ sở quyết định để thúc đẩy dịch chuyển cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và bảo đảm tăng trưởng. Gia nhập WTO chúng ta có thị trường xuất khẩu rộng lớn bao gồm 150 thành viên với mức cam kết về thuế nhập khẩu đã và sẽ được cắt giảm cùng các biện pháp phi quan thuế cũng sẽ được loại bỏ theo nghị định thư gia nhập của các thành viên này mà không bị phân biệt đối xử. Điều đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu. Thực tế, xuất khẩu 11 tháng ước đạt 43 tỉ 640 triệu USD, tăng 20% so với cùng kỳ 2006. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu cả năm 2007 đạt khoảng 48 tỉ USD. Nếu không có sự sụt giảm về sản lượng khai thác và xuất khẩu dầu thô thì tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu còn cao hơn so với mức tăng của năm 2006. Điều đáng chú ý là: lần đầu tiên trong nhiều năm, tốc độ tăng xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước cao hơn khu vực có vốn nước ngoài (22,1% so với 18,6%) chứng tỏ các doanh nghiệp trong nước đã năng động khai thác thị trường - cơ hội do việc gia nhập WTO mang lại; do không bị khống chế về hạn ngạch khi trở thành thành viên của WTO, 11 tháng kim ngạch xuất khẩu dệt may n¨m 2007 đã đạt trên 7 tỉ USD, tăng 32% so với cùng kỳ chiếm trên 16% tổng kim ngạch xuất khẩu; xuất khẩu các mặt hàng thuộc nhóm các hàng hóa khác mà chúng ta không thống kê được các sản phẩm cụ thể tăng mạnh, tỉ lệ tăng 38,9% với kim ngạch 8 tỉ 700 triệu USD chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu (nếu thống kê rõ được chi tiết các sản phẩm, chúng ta sẽ có những giải pháp thúc đẩy tăng trưởng cao hơn). Tổng kim ngạch xuất khẩu 11 tháng 2007 ước đạt 43,68 tỷ USD và bình quân 1 tháng đạt xấp xỉ 4 tỷ USD, thì tháng 12 ước đạt 4,7 tỷ USD, cao hơn mức bình quân tháng trong 11 tháng trước đó, cao nhất từ đầu năm đến nay. Kết quả trong tháng 12 đưa kim ngạch xuất khẩu cả năm 2007 lên 48,38 tỷ USD. Theo ước tính, nếu tính bằng USD tổng kim ngạch xuất khẩu so với GDP đạt 67,9%, thuộc loại cao ở châu Á và thế giới. Tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt khoảng 568 USD, cao nhất từ trước tới nay. So với năm trước, xuất khẩu tăng 21,5% Năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước cao hơn tốc độ tăng chung, chứng tỏ khu vực này đã tận dụng được cơ hội do vị thế mới của thành viên WTO. Nếu không kể dầu thô bị sút giảm thì kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng khác của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) còn tăng cao hơn khu vực kinh tế trong nước Điều đó cho thấy, khu vực FDI đã tận dụng tốt hơn cơ hội WTO. Xuất khẩu tăng ở hầu hết các mặt hàng, trong đó có những mặt hàng có kim ngạch tăng khá cao: dệt may, điện tử máy tính, hàng thủ công mỹ nghệ, dây điện và cáp điện, sản phẩm nhựa, gỗ, cà phê, hạt tiêu, hạt điều. Đã có 9 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là dầu thô, dệt may, giày dép, thuỷ sản, sản phẩm gỗ, điện tử máy tính, cà phê, gạo và cao su với kim ngạch đạt 33 tỷ USD, chiếm 68,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 60,83 tỷ USD, cũng là mức kỷ lục từ trước tới nay, tăng tới 35,5% so với năm trước. Đã có 13 mặt hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên. Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt trên 10 tỷ USD, xăng dầu đạt trên 7 tỷ USD, sắt thép đạt gần 5 tỷ USD, vải 4 tỷ USD, điện tử máy tính và linh kiện đạt gần 3 tỷ USD. Do tốc độ tăng nhập khẩu cao gấp rưỡi tốc độ tăng xuất khẩu, nên nhập siêu đã gia tăng so với cùng kỳ năm trước cả về kim ngạch tuyệt đối (12,45 tỷ USD so với gần 5,1 tỷ USD) và cả về tỷ lệ so với xuất khẩu (25,6% so với 12,7%). Mặc dù nhập siêu tăng chủ yếu so nhập thiết bị máy móc, nguyên nhiên vật liệu tăng cao, một phần do giá nhập tăng: xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo, giấy sợi, dệt, bông, nhưng có ba vấn đề đáng lưu ý Một, mức nhập siêu như thế là rất cao, vượt xa so với năm trước và cao gấp hơn hai lần so với kế hoạch, có những lĩnh vực không thể coi là hợp lý hay cần thiết, bởi có nhiều loại mà trong nước có thể sản xuất được. Hai, do hiệu quả và sức cạnh tranh của sản xuất trong nước, nên nhiều mặt hàng đã thua ngay trên sân nhà Ba, trong khi xuất siêu với Mỹ, EU... nhưng lại nhập siêu lớn đối với các nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan... Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB) kinh tế thế giới sẽ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 4,4%/năm giai đoạn 2003-2006 và đạt 4,3%/năm giai đoạn 2007-2010. Các nước phát triển được dự báo sẽ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế tương ứng 2,6%/năm và 2,9%/năm. Các nước đang phát triển đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 6,6%/năm và 5,8%/năm trong giai đoạn tương ứng. Cũng theo dự báo của WB, nhập khẩu hàng hoá của toàn thế giới giai đoạn 2007-2010 là 6,7%/năm. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là EU, Nhật Bản, Trung Quốc, các nước đang phát triển châu Á. Đây là yếu tố thuận lợi để Việt Nam đẩy mạnh công tác xuất khẩu của mình, phấn đấu không chỉ dừng lại ở mức đạt các mục tiêu trong chiến lược 10 năm mà còn tạo ra bước phát triển mạnh mẽ để góp phần vào sự tăng trưởng chung của kinh tế đất nước. Dự báo, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân của Việt Nam giai đoạn 2006-2010 là 17,5%/năm. Mục tiêu quan trọng trong chiến lược xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2007-2010 là, “chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị tăng cao; tăng sản phẩm chế biến chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Theo đó, tỷ trọng của các nhóm hàng nông-lâm-thuỷ sản và nhiên liệu và thủ công mỹ nghệ. Theo đó, nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản với hai mặt hàng chủ yếu là dầu thô và than đá giảm mạnh từ 21,0% năm 2006 xuống còn 9,6% năm 2010. Dự kiến lượng dầu thô xuất khẩu năm 2007 là 19 triệu tấn và bắt đầu giảm xuống còn 15,6 triệu tấn vào năm 2010. 2. Những vấn đề đặt ra Điểm mạnh của Việt Nam vẫn chỉ là giá cả và số lượng lớn chứ chưa thực sự chú trọng vào vấn đề chất lượng, nguyên vật liệu xuất khẩu ở dạng thô chưa qua tinh chế là chủ yếu. Vẫn thiếu đi một sự đầu tư qui mô, đồng bộ nên dẫn đến hoạt động thương mại đầu vào cũng như đầu ra chưa thực sự đivào chuyên môn hóa trong khi đó người tiêu dùng trong nước yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ với chất lượng ngày càng cao. Các hình thức giao dịch và mua bán hàng hóa trực tiếp qua mạng và truyền hình ngày càng phổ biến. Bản thân các doanh nghiệp phải tìm các phương thức mới két hợp với các phương thức tiêu thụ truyền thống để nâng cao sức cạnh tranh cũng như tăng lượng bán cho sản phẩm của doanh nghiệp. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CỦA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO I. Đối với doanh nghiệp 1.Giải pháp để vượt qua thách thức Doanh nghiệp là nhân vật trung tâm của kinh tế thị trường khi chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang, lại càng là nhân vật trung tâm trong mở cửa hội nhập. Khi Việt Nam gia nhập WTO, trong rất nhiều công việc phải làm, các doanh nghiệp cần tập trung làm bốn việc chủ yếu sau đây. Thứ nhất, doanh nghiệp chủ động tìm hiểu luật chơi của WTO, nghiên cứu kỹ những thỏa thuận về việc gia nhập WTO khi được phổ biến. Luật chơi cơ bản của WTO là cắt giảm thuế quan, xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan (như hạn ngạch, cấp phép xuất - nhập khẩu), xóa bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường, tạo "sân chơi" bình đẳng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, tài sản trí tuệ và bản quyền. Luật chơi đó tạo thuận lợi cho các nước thành viên mở rộng thị trường, thâm nhập thị trường các nước và tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ, kỹ năng quản lý của nước ngoài; tham gia vào quá trình thiết lập các luật chơi mới, xử lý tranh chấp thương mại; thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh; đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Những thỏa thuận về việc gia nhập WTO trong cuộc đàm phán song phương với Mỹ và đàm phán đa phương tới đây sẽ được phổ biến rộng rãi, cần được các doanh nghiệp nghiên cứu kỹ để hiểu rõ những thuận lợi và khó khăn hậu WTO. Ngoài những điểm cơ bản như trên còn có những thỏa thuận cụ thể về ngành, lĩnh vực, sản phẩm; về tỷ lệ nắm giữ cổ phần; về lộ trình với những thời hạn cụ thể... Thứ hai, rà soát, sắp xếp lại sản xuất, kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp được quyết định bởi việc giảm thiểu chi phí sản xuất, kinh doanh. Muốn giảm chi phí sản xuất kinh doanh, phải đổi mới kỹ thuật, thiết bị - công nghệ, tiết giảm chi phí nguyên nhiên vật liệu, nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu chi phí quản lý, chi phí ngoài sản xuất, chi phí lưu thông... Thứ ba, coi trọng việc nắm bắt, cập nhật thông tin, đặc biệt là thông tin liên quan đến tiêu thụ, nhất là sự biến động của thị trường thế giới, coi thông tin là lực lượng sản xuất trực tiếp. Khắc phục tình trạng chỉ chú tâm đẩy mạnh sản xuất đôi khi những sản phẩm mà thị trường không cần hoặc cần nhưng với số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả, thị hiếu phù hợp hơn. Thứ tư, đào tạo và nâng cao trình độ nguồn nhân lực, yếu tố nội lực có tầm quan trọng hàng đầu để hội nhập. Việt Nam có lợi thế về số lượng lao động dồi dào, giá cả rẻ, nhưng lợi thế rẻ đang giảm dần, trong khi tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn rất thấp (mới được một phần tư, còn ba phần tư chưa qua đào tạo); cơ cấu đào tạo chưa hợp lý; chất lượng đào tạo còn nhiều bất cập. Doanh nghiệp cần phối hợp với các cơ sở đào tạo để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho phù hợp. 2.Doanh nghiệp cần thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh Doanh nghiệp là một nhân tố hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Vì vậy các doanh nghiệp cần chủ động tiến hành khảo sát, đánh giá thị trường, năng lực tài chính, năng lực sản xuất của mình; chú ý tận dụng hiệu quả chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với những sản phẩm, ngành hàng nằm trong định hướng phát triển của cả nước trong giai đoạn tới để xác định cho mình chiến lược phát triển mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, chiến lược phát triển mặt hàng xuất khẩu mới và chương trình cụ thể tiếp cận các thị trường xuất khẩu trọng điểm, tiềm năng. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần xây dựng cho mình chiến lược mở rộng liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau nhằm hợp lý hoá, chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xấut trên cơ sở thế mạnh của mỗi doanh nghiệp, nhằm mở rộng sức sản xuất, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực theo hướng chuyên nghiệp hoá và công nghiệp hoá nhằm nâng cao năng suất lao động, qua đó gián tiếp giảm chi phí hoạt động, có chính sách cụ thể về đào tạo, tuyển dụng, sử dụng và thường xuyên đào tạo lại nguồn nhân lực; nhanh chóng tiếp cận và tiếp thu, áp dụng những kỹ năng quản lý và sử dụng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp ở các nước phát triển. Tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp, hợp lý hoá quy trình sản xuất kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động. Tăng cường triển khai các hệ thống quản lý sản xuất kinh doanh nhằm giảm rủi ro, giảm tỷ lệ sản phẩm kém chất lượng, tiết kiệm chi phí; khi thác hiệu quả những tiện ích của công nghệ thông tin và đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử, nâng cao hiệu quả SXKD. Doanh nghiệp cần đẩy mạnh mối liên kết giữa người sản xuất-cung cấp nguyên, vật liệu đầu vào với doanh nghiệp và các cơ quan nghiên cứu khoa học, nhằm tổ chức hiệu quả chuỗi cung ứng từ khâu sản xuất nguyên, vật liệu đầu vào đến khâu tổ chức sản xuất hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. II. Đối với chính phủ và các cơ quan chức năng có liên quan Các giải pháp cho chiến lược phát triển xuất khẩu Để thực hiện thắng lợi Chiến lược xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 2007-2010, Nhà nước cần có chính sách cởi mở hơn với các nhà đầu tư nước ngoài để tăng cường thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào những lõnh vực mà doanh nghiệp trong nước hạn chế về năng lực thực hiện; phải đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng liên quan đến xuất khẩu theo hướng tạo điều kiện cấp tín dụng cho đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, hướng tới các dịch vụ tín dụng phục vụ người mua, thay vì chỉ phục vụ nhà xuất khẩu trong nước; khuyến khích sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, chuyển từ hình thức cho vay thương mại sang góp vốn tài trợ, hoặc nhiều ngân hàng đồng thời tài trợ cho dự án sản xấut vì mục đích xuất khẩu. Theo đó, ngân hàng sẽ chuyển vị thế từ người cho vay sang vị thế đối tác hoặc đồng sở hữu doanh nghiệp; nghiên cứu xây dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp của người Việt Nam ở nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào nước sở tại; đồng thời có các chính sách phù hợp để khuyến khích các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam tiêu thụ sản phẩm qua mạng lưới thị trường sẵn có của các công ty này; chủ động nghiên cứu các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế trong khuôn khổ ASEAN, WTO để có thể vận dụng hiệu quả ngay khi xảy ra tranh chấp liên quan đến quyền lợi của quốc gia, các doanh nghiệp Việt Nam; thực hiện khẩn trương và đồng bộ các chính sách và biện pháp, nhằm đa dạng hoá các hình thức đào tạo nghề theo chủ trương xã hội hoá giáo dục đào tạo. Đơn giản hoá những quy định về thủ tục và điều kiện tham gia kinh doanh dịch vụ giáo dục, đào tạo để đẩy nhanh một bước chất lượng của công tác đào tạo nghề và kiến thức kinh doanh vốn đang còn nhiều hạn chế trong các doanh nghiệp Việt Nam; đẩy nhanh quá trình ra quyết định chính sách, thông qua cơ chế tăng cường mối liên hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp, cũng như giữa các bộ, ngành với nhau. Nhà nước và các bộ, ngành liên quan sớm thay đổi cơ bản các chương trình xúc tiến xuất khẩu theo hướng thiết kế các chương trình xúc tiến chuyên ngành đối với từng mặt hàng mới (hoặc mặt hàng cần hỗ trợ), tập trung vào một số thị trường mới (hoặc thị trường cụ thể cần ưu tiên phát triển); triển khai thực hiện một số chiến dịch lớn để quảng bá hình ảnh quốc gia, sản phẩm của Việt Nam trên các phương tiện thông tin, truyền thông ở nước ngoài, đặc biệt trên các kênh truyền hình, tạp chí quốc tế nổi tiếng (CNN, BBC, Economics…); nâng cao vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao và đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài, để làm cầu nối giúp doanh nghiệp trong nước tìm hiểu thông tin, thâm nhập thị trường. Nhà nước cần ưu tiên và dành nguồn vốn để tập trung đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng thương mại, đặc biệt tại các cửa khẩu cũng như đường bộ, đường sắt dẫn tới biên giới, cảng biển, cảng sông và các phương tiện liên quan. Trong đó, cần chú ý tới một số cửa khẩu lớn giáp với Trung Quốc, Lào, Campuchia, từ đó nối với Thái Lan, Myanma…, để khai thác tốt hơn những thoả thuận về thương mại trong khu vực Tiểu vùng sông MêKông. Các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường áp dụng quy trình quản lý chất lượng công việc và chất lượng cung cấp dịch vụ công, nhằm thường xuyên giám sát, quản lý hiệu quả chất lượng các thủ tục hành chính cũng như dịch vụ công (ISO 9002, quy chế cơ quan…). Bên cạnh đó, các hiệp hội ngành hàng cần nhanh chóng kiện toàn bộ máy tổ chức, mô hình hoạt động theo hướng chuyên nghiệp hoá, thực hiện tốt vai trò là người hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, nguồn nguyên liệu, giúp liên kết các doanh nghiệp với nhau nhằm mở rộng năng lực sản xuất; là đại diện sở hữu để phản ánh nhu cầu, yêu cầu của doanh nghiệp tới Chính phủ; cần tổ chức thu thập, phân tích xử lý thông tin về thị trường, về yêu cầu của nhà nhập khẩu, về chính sách nhập khẩu, về đối thủ cạnh tranh để tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp trong khâu tiếp cận thị trường, tổ chức sản xuất và xuất khẩu. 2. Nhãm gi¶i ph¸p t¨ng xuÊt khÈu vµ gi¶m nhËp khÈu Bộ Công Thương chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành và Hiệp hội ngành nghề đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp cụ thể với từng mặt hàng để hạn chế nhập khẩu năm 2008. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng đưa ra 7 nhóm giải pháp trung và dài hạn để hạn chế nhập siêu, cụ thể: Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu như đồ gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ, xe đạp, phụ tùng, túi xách,... Phát triển sản xuất các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, ngành công nghiệp phụ trợ Đẩy mạnh sản xuất trong nước, cung cấp các loại nguyên liệu, linh phụ kiện, phụ tùng, chi tiết cho sản xuất xuất khẩu và tiêu dùng. Nghiên cứu xây dựng các biện pháp và tiêu chuẩn kỹ thuật đối với sản xuất công nghiệp và thương mại phù hợp với các quy định của WTO và các Hiệp định quốc tế mà Việt Nam ký kết. Hoàn thiện và ban hành mới các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với những mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, tiêu dùng, sức khỏe cộng đồng và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh hoạt động hội nhập, hợp tác quốc tế, trong đó quan tâm việc chủ động đàm phán, ký kết các hiệp định song phương, đa phương thiết lập các khu mậu dịch tự do theo hướng tạo thuận lợi cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Phối hợp với các đối tác thương mại mà Việt Nam nhập siêu để tìm giải pháp giảm nhập siêu vào Việt Nam và tăng xuất khẩu từ Việt Nam. Điều tiết tỷ giá hối đoái sao cho vừa thu hút được vốn nước ngoài, vừa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý là cần thiết. Chống lãng phí trong sản xuất và đầu tư xây dựng cơ bản, trong tiêu dùng và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên trong nước. Phát triển các vùng nguyên liệu như vùng trồng cây lương thực, cây có dầu, cây nguyên liệu giấy, chăn nuôi bò sữa, nuôi trồng thủy sản,... bảo đảm cung cấp ngày càng nhiều nguyên liệu trong nước cho phát triển công nghiệp, góp phần tự chủ, giảm nhập siêu. 3.Các doanh nghiệp thương mại, công nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động Bộ Công Thương yêu cầu Chủ tịch các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước có trách nhiệm quản lý giá thành, giá cả các hàng hóa do đơn vị sản xuất; đồng thời có kế hoạch kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các đại lý chống găm hàng, đầu cơ, tăng giá bán. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất; không tăng giá điện từ nay đến hết tháng 6/2008 theo chỉ đạo của Chính phủ. Tập đoàn Dầu khí và Tổng công ty Hóa chất đẩy mạnh hoạt động sản xuất phân bón, nhất là phân đạm Ure bảo đảm đạt sản lượng 915 ngàn tấn, xem xét hỗ trợ nông dân dưới hình thức cung ứng phân bón trước và thu tiền cuối vụ. Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam ưu tiên cung ứng đủ than cho các hộ sử dụng trong nước gồm điện, xi măng, phân bón, giấy,....; từ nay đến hết tháng 6/2008 không tăng giá bán than. Tổng Công ty Thép Việt Nam và Hiệp hội Thép Việt Nam chỉ đạo các doanh nghiệp sản xuất không bán tập trung số lượng thép lớn cho các đại lý để tránh hiện tượng găm hàng, nâng giá bán, triển khai việc cung ứng thép trực tiếp cho các dự án đầu tư lớn, mở rộng kênh phân phối tới tận tay người tiêu dùng. Tổng công ty Xăng dầu cần theo dõi sát diễn biến thị trường xăng dầu thế giới, chủ động cân đối cung - cầu, nhập khẩu xăng, dầu ở thời điểm và mức giá hợp lý. Đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát các cửa hàng bán lẻ trong việc chấp hành quy định về giá bán xăng dầu, trang thiết bị đong đếm,... Tập đoàn Dệt may, Hiệp hội Dệt may, Hiệp hội Da giày chỉ đạo các đơn vị rà soát tiết giảm các chi phí sản xuất như xăng dầu, điện,... chủ động nguồn nguyên liệu, tăng cường các hoạt động thương mại, mở rộng thị trường mới có sử dụng ngoại tệ chuyển đổi khác ngoài USD. Các doanh nghiệp thuộc ngành cơ khí, Tổng công ty Tàu thủy, Tổng công ty Máy động lực và máy nông nghiệp, Tổng công ty Máy và thiết bị công nghiệp, Tổng công ty Thiết bị kỹ thuật điện,... đẩy mạnh sản xuất linh phụ kiện, phụ tùng cho các hoạt động lắp ráp như lắp ráp ô tô, xe máy, sản xuất thiết bị đồng bộ cho công nghiệp chế biến, hỗ trợ bà con nông dân mua máy móc trả chậm,.. KÕt luËn Doanh nghiệp là nhân vật trung tâm của kinh tế thị trường khi chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang, lại càng là nhân vật trung tâm trong mở cửa hội nhập. Khi Việt Nam gia nhập WTO, trong rất nhiều công việc phải làm, các doanh nghiệp cần tập trung làm bốn việc chủ yếu sau đây. Thứ nhất, doanh nghiệp chủ động tìm hiểu luật của WTO, nghiên cứu kỹ những thỏa thuận về việc gia nhập WTO khi được phổ biến. Luật cơ bản của WTO là cắt giảm thuế quan, xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan (như hạn ngạch, cấp phép xuất - nhập khẩu), xóa bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường, tạo "sân chơi" bình đẳng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, tài sản trí tuệ và bản quyền. Luật đó tạo thuận lợi cho các nước thành viên mở rộng thị trường, thâm nhập thị trường các nước và tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ, kỹ năng quản lý của nước ngoài; tham gia vào quá trình thiết lập các luật mới, xử lý tranh chấp thương mại; thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh; đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Thứ hai, rà soát, sắp xếp lại sản xuất, kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp được quyết định bởi việc giảm thiểu chi phí sản xuất, kinh doanh. Muốn giảm chi phí sản xuất kinh doanh, phải đổi mới kỹ thuật, thiết bị - công nghệ, tiết giảm chi phí nguyên nhiên vật liệu, nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu chi phí quản lý, chi phí ngoài sản xuất, chi phí lưu thông... Thứ ba, coi trọng việc nắm bắt, cập nhật thông tin, đặc biệt là thông tin liên quan đến tiêu thụ, nhất là sự biến động của thị trường thế giới, coi thông tin là lực lượng sản xuất trực tiếp. Khắc phục tình trạng chỉ chú tâm đẩy mạnh sản xuất đôi khi những sản phẩm mà thị trường không cần hoặc cần nhưng với số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả, thị hiếu phù hợp hơn. Thứ tư, đào tạo và nâng cao trình độ nguồn nhân lực, yếu tố nội lực có tầm quan trọng hàng đầu để hội nhập. Việt Nam có lợi thế về số lượng lao động dồi dào, giá cả rẻ, nhưng lợi thế rẻ đang giảm dần, trong khi tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn rất thấp (mới được một phần tư, còn ba phần tư chưa qua đào tạo); cơ cấu đào tạo chưa hợp lý; chất lượng đào tạo còn nhiều bất cập. Doanh nghiệp cần phối hợp với các cơ sở đào tạo để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho phù hợp. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế thương mại – Chủ biên GS.TS Đặng Đình Đào – GS.TS Hoàng Đức Thân – Năm 2007 Giáo trình Thương mại quốc tế Giáo trình Hậu cần doanh nghiệp - Chủ biên GS.TS Đặng Đình Đào 4. Đề cương bài giảng kinh tế thương mại-Bộ môn kinh tế thương mại-ĐHTM. 5. Bài giảng chiến lược và chính sách thương mại-Bộ môn Marketing- ĐHTM. 6. Tổng quan quy hoạch phát triển kinh tế xã hội-NXB chính trị quốc gia. 7. Giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế-ĐHKTQD-NXB giáo dục. 8. Kinh tế doanh nghiệp thương mại – TS. Phạm Công Đoàn-NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội. 9. Các báo, tạp chí chuyên ngành Tài chính. 10. Giáo trình Marketing thương mại – NXB Kinh tế quốc dân 2007 11. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại – NXB Kinh tế quốc dân 2007. 12. Hướng dẫn thực hành kinh tế thương mại - Chủ biên GS.TS Đặng Đình Đào – Năm 2006 13. Luật thương mại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10786.doc
Tài liệu liên quan