- Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương.
- Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này. Đồng thời, thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010 để đảm bảo kinh phí cho vận động thu hút vốn ĐTNN nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư-thương mại-du lịch.
- Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp trang thông tin điện tử về ĐTNN cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga)
- Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam.
47 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1862 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tăng cường thu hút FDI vào các khu công nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h lập, thị trường lớn, chi phí sản xuất thấp, có tài nguyên thiên nhiên, có cơ sở hạ tầng thuận lợi…
- Về lợi ích đầu tư, khi kết hợp lợi thế của mình cà lợi thế tại nước tiếp nhận đầu tư, doanh nghiệp FDI sẽ có lợi ích đầu tư lớn hơn so với doanh nghiệp nước tiếp nhận đầu tư.
Trong ba nhóm nhân tố nêu trên thì nhóm nhân tố một và ba hoàn toàn phụ thuộc vào doanh nghiệp FDI, còn nhóm nhân tố thứ hai thì phụ thuộc vào môi trường đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư.
Môi trường đầu tư là tổng thể các yếu tố, điều kiện và chính sách của nước tiếp nhận đầu tư chi phối đến hoạt động đầu tư nước ngoài. Môi trường đầu tư có thể thay đổi và chịu sự chi phối của chính phủ nước tiếp nhận đầu tư. Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu được xác định theo hai cách tiếp cận sau:
* Thứ nhất, dựa vào các nhóm nhân tố chính tác động đối với hoạt động đầu tư, môi trường đầu tư. Theo cách tiếp cận này bao gồm các nhóm yếu tố chính sau: khung chính sách đối với hoạt động FDI; nhóm nhân tố kinh tế; nhóm nhân tố hỗ trợ kinh doanh( Bảng 1).
* Thứ hai, dựa vào giai đoạn hình thành và hoạt động đầu tư, môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm các nhân tố của giai đoạn: thành lập; hoạt động và giải thể hay phá sản doanh nghiệp FDI. Theo quan điểm này, môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là: “Tổng thể các yếu tố, chính sách của nước tiếp nhận đầu tư có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến đến quá trình thành lập, hoạt động và giải thể hay phá sản doanh nghiệp nước đi đầu tư”. Các yếu tố này bao gồm chính sách của một quốc gia đối với FDI, cơ sở vật chất, trình độ lao động và tình hình an ninh chính trị… ở nước tiếp nhận đầu tư. Bao gồm các nhóm nhân tố: nhóm yếu tố tiếp cận thị trường đầu tư; nhóm yếu tố liên quan đến quá trình hoạt động và nhóm yếu tố liên quan đến quá trình kết thúc hoạt động đầu tư (Bảng 2)
Bảng 1. Môi trường đầu tư theo cách tiếp cận thứ nhất
MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ
Nhóm nhân tố kinh tế chủ yếu
Khung chính sách FDI
Tình hình kinh tế, chính trị và xã hội ổn định
Quy định liên quan đến thành lập và hoạt động
Chính sách đối với chức năng và cấu trúc thị trường (chính sách cạnh tranh và sáp nhập doanh nghiệp)
Gia nhập các điều ước quốc tế về FDI
Chính sách tư nhân hoá
Chính sách thương mại (thuế quan và phi thuế quan)
Chính sách thuế
Nhóm nhân tố kinh tế
Nhóm nhân tố hỗ trợ kinh doanh
Xúc tiến đầu tư (bao gồm xây dựng hình ảnh, các hoạt động quảng bá đầu tư và cung cấp dịch vụ hỗ trợ đầu tư)
Biện pháp khuyến khích đầu tư
Chống tham nhũng và nâng cao hiệu quả quản lý hành chính
Có dịch vụ giải trí cho người nước ngoài
Dịch vụ sau đầu tư
A. Thị trường
Dung lượng thị trường và thu nhập bình quân đầu người
Tăng trưởng thị trường
Khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới
Sở thích của người tiêu dùng
Cấu trúc thị trường
B. Tài nguyên / tài sản
Nguyên nhiên vật liệu sản xuất
Chi phí nhân công thấp
Trình độ lao động cao
Thừa nhận và bảo hộ tài sản công nghệ, thương hiệu
Cơ sở hạ tầng (cảng, đường điện, viễn thông)
C. Hiệu quả
Chi phí đầu vào (vận chuyển, viễn thông) và chi phí của hàng hoá trung gian
Gia nhập các Hiệp định khu vực và thế giới để thiết lập mạng lưới hợp tác
Bảng 2: Môi trường đầu tư theo cách tiếp cận
-Vốn FDI
- Nhà đầu tư nước ngoài
Tiếp cận thị trường
Hoạt động kinh doanh
Kết thúc hoạt động kinh doanh
An ninh chính trị - xã hội
Thủ tục thành lập doanh nghiệp
Xuất nhập cảnh
Minh bạch, công khai chính sách đầu tư…
Thuế
Xuất nhập khẩu
Tuyển dụng lao động.
Đất đai
Yếu tố chi phí sản xuất của DN
Ngoại hối
Khiếu kiện
Chuyển tiền
Bảo hộ tài sản của nhà đầu tư
Lĩnh vực được phép kinh doanh
Giải quyết tranh chấp
Minh bạch, công khai
Cơ sở hạ tầng…
Giải thể
Phá sản
Khiếu kiện và giải quyết tranh chấp…
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO CÁC KCN VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu chung về KCN ở Việt Nam
Chủ trương đổi mới và mở cửa của Đảng ta từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 là tiền đề cho các mô hình KCN xuất hiện ở Việt nam. Nghị quyết hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII năm 1994 đã nêu “ Quy hoạch các vùng, trước hết là các địa bàn trọng điểm, các khu chế xuất, khu kinh tế đặc biệt, khu công nghiệp tập trung”. Tiếp theo, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII năm 1996 cũng đã xác định rõ “ hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm khu chế xuất, khu công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị. Ở các thành phố, thị xã, nâng cấp cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xữ lý ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư”. Đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng đã vạch ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010. Trong đinh hướng phát triển công nghiệp, Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh “phát triển có hiệu quả các KCN, KCX, xây dựng một số KCNC, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở”. Thực hiện chủ trương của Đảng, các KCN nước ta được phát triển từ năm 1991 và đến nay đã thu nhiều kết quả đáng kể và trở thành lực lượng công nghiệp mạnh của đất nước.
Tính đến tháng 12 năm 2005, cả nước có 130 KCN, KCX với tổng diện tích đất tự nhiên 26.517 ha, diện tích đất công nghiệp là 17.727 ha, trong đó có 75 khu đã đi vào hoạt động có tổng diện tích đất tự nhiên là 16.381 ha và 55 khu có tổng diện tích đất tự nhiên là 10.346 ha đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng KCN. Trong số các KCN đã được thành lập, có 16 khu do các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài và 2 khu do doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài xây dựng và kinh doanh hạ tầng. Như vậy, đến nay có 45 tỉnh, thành phố trong cả nước đã phát triển KCN, trong đó địa phương có nhiều KCN nhất là tỉnh Đồng Nai có 17 KCN với tổng diện tích đất là 4.264 ha (chiếm 16,1 % tổng diện tích đất KCN của cả nước). Các KCN được thành lập nhiều nhất vào những năm 1996-1998; riêng năm 2005, Thủ tướng chính phủ đã cho phép thành lập mới và mở rộng 20 KCN tại 16 tỉnh với tổng diện tích tự nhiên là 3.387 ha, tăng 98,6% so với năm 2004, trong đó có 16 KCN được thành lập mới với diện tích 3.001 ha, 4 KCN được mở rộng với diện tích là 398 ha.
Các KCN, KCX được thành lập trong những năm qua tập trung chủ yếu vào các vùng sau:
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (bao gồm các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên và Quảng Ninh) có 16 KCN với diện tích 2.190 ha, chiếm 8,2% tổng diện tích các KCN.
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ (bao gồm các tỉnh, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu) có 54 KCN với tổng diện tích 14.239 ha, chiếm 53,33% tổng diện tích các KCN.
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ (bao gồm các tỉnh, thành phố Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi) có 8 KCN với tổng diện tích 1.949 ha chiếm 7,3% tổng diện tích các KCN.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long (bao gồm 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau) có 17 KCN với tổng diện tích 2.797 ha chiếm 10,48% tổng diện tích các KCN.
Nhìn chung phát triển KCN, KCX tuân thủ theo quy hoạch và KCN, KCX đã phát huy những tác dụng tích cực trong việc thu hút đầu tư, tạo năng lực sản xuất, thu hút việc làm… Các KCN, KCX đã được thành lập phân bổ không đều theo lãnh thổ; tập trung chủ yếu ở 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long không chỉ về số lượng và về cả diện tích (chiếm 95/130 khu). Trong khi đó, vùng Tây Nguyên chỉ có 4 KCN, đồng thời khả năng thu hút FDI vào các khu công nghiệp này cũng rất khó khăn.
2.2. Nội dung hoạt động thu hút FDI vào các KCN Việt Nam
2.2.1 Xác định mục tiêu thu hút FDI vào các KCN
Hiện nay, việc xác định mục tiêu thu hút FDI vào các KCN chưa được quan tâm đúng mức. Mục tiêu thu hút mới chỉ dừng lại ở công tác: Vận động thu hút đầu tư nhằm để lấp đầy các KCN đã thành lập. Chính vì vậy, hoạt động thu hút FDI vào các KCN Việt Nam còn chạy theo số lượng, chưa quan tâm đến chất lượng của dự án thu hút. Các địa phương chưa xây dựng được các KCN chuyên ngành phù hợp với nguồn lực của địa phương mình, còn xảy ra tình trạng ganh đua, cạnh tranh trong thu hút FDI giữa các địa phương gây lãng phí, thất thoát nguồn lực của đất nước. Đồng thời, do mục tiêu thu hút thiếu định hướng cụ thể từ Trung ương nên hoạt động thu hút FDI vào các KCN ở các địa phương diễn ra tình trạng tự phát, mạnh ai nấy làm, ảnh hưởng lớn đến kết quả thu hút.
2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư trong KCN
Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của KCN, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi riêng đối với KCN nhằm khuyến khích và đảm bảo yếu tố cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài vào KCN.
Hiện nay, chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào KCN thể hiện cụ thể trong các văn bản pháp quy về công tác quản lý KCN. Trong đó có những chính sách ưu đãi áp dụng chung cho các đối tượng không phân biệt đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, không phân biệt địa bàn đầu tư, ngành nghề đầu tư như ưu đãi về mức thuế nhập khẩu đối với việc hình thành tài sản cố định. Bên cạnh đó có những chính sách ưu đãi có sự phân biệt đối tượng áp dụng, ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn đầu tư như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng. Các ưu đãi đầu tư vào KCN trước đây cũng như hiện nay đều chủ yếu tập trung vào ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Đây thực sự là vấn đề nhà đầu tư quan tâm vì thuế thu nhập doanh nghiệp là yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Luật thuế TNDN được thực hiện từ ngày 01/01/2004 có một số quy định được sửa đổi thông thoáng, khuyến khích hơn như: Bỏ quy định thu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đối với các doanh nghiệp có đầu tư từ nước ngoài; quy định thêm một số khoảng chi phí hợp lý khi tính thuế TNDN… Tuy nhiên nội dung của các chinh sách ưu đãi trong các văn bản pháp quy đã ban hành còn chứa đựng nhiều điểm không đồng nhất, tạo tâm lý không ổn định và thiếu tin tưởng cho các nhà đầu tư khi tiến hành hoạt động đầu tư vào KCN.
Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo "một sân chơi" bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư, năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Sự thay đổi này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với thành phần kinh tế có vốn ĐTNN, một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Mặt khác, đó cũng là yêu cầu phù hợp với quy luật chung, nhằm đáp ứng kịp thời sự biến đổi khách quan của tình hình phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc tế trong từng thời kỳ, để tiến tới một đạo luật ngày càng hoàn chỉnh phù hợp với xu thế hội nhập, nâng cao khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN. Thực tế đã chứng minh việc ban hành Luật Đầu tư đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra những chuyển biến tích cực của tình hình ĐTNN vào Việt Nam kể từ năm 2006 tới nay.
Từ thực tiễn thu hút ĐTNN 20 năm qua cho thấy việc tạo dựng môi trường pháp lý cho ĐTNN trong thời gian qua là rất cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt thu hút vốn ĐTNN ở khu vực và trên thế giới, Luật Đầu tư nước ngoài đã thực sự trở thành “đòn bẩy” quan trọng trong việc thu hút ĐTNN vào Việt Nam trong 20 năm qua, đảm bảo cho việc thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN của Đảng và Nhà nước để phát triển kinh tế-xã hội đất nước ta vừa qua.
Luật Đầu tư năm 2005 xác định việc phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý Khu Công nghiệp, Khu chế xuất, Khu Công nghệ cao và Khu kinh tế (sau đây gọi là Ban quản lý) cấp Giấy Chứng nhận đầu tư (GCNĐT) cũng như quản lý hoạt động đầu tư và giảm bớt những dự án phải trình Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chỉ chấp thuận về nguyên tắc đối với một số dự án quan trọng chưa có trong quy hoạch, hoặc chưa có quy hoạch. Những dự án đã có trong quy hoạch được duyệt và đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế cũng như các dự án còn lại sẽ do UBND cấp tỉnh và Ban quản lý tự quyết định và cấp GCNĐT.
2.2.3. Xác định đối tác đầu tư chiến lược cho các lĩnh vực, sản phẩm
Chiến lược thu hút FDI vào các KCN được thực hiện theo hướng: Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút FDI vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn, các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông và các ngành Việt nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tiếp tục thu hút FDI vào những KCN ở địa bàn có nhiều lợi thế phát huy vai trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các KCN khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Dành ưu đãi tối đa cho FDI vào những KCN ở địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các địa bàn này bằng các nguồn vốn khác để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của KCN.
Khuyến khích các nhà đầu tư FDI từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào KCN, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng lớn về tài chính và nắm công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển, tiếp tục thu hút FDI ở khu vực, có kế hoạch vận động các tập đoàn, các công ty lớn đầu tư vào KCN, đông thời chú ý đến các công ty vừa và nhỏ. Từng bước chọn lọc và khuyến khích thu hút các dự án có điều kiện phát huy thế mạnh của từng địa phương cũng như các dự án có vốn lớn, công nghệ cao, nguy cơ ô nhiễm môi trường thấp. Đồng thời, tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển hệ thống KCN, tập trung vận động thu hút đầu tư để lấp đầy các KCN đã được thành lập.
2.2.4. Tiến hành xúc tiến đầu tư vào KCN
Trong thời gian qua cùng với việc xây dựng danh mục dự án gọi vốn đầu tư làm cơ sở để tổ chức vận động, xúc tiến đầu tư trên địa bàn lãnh thổ, các Ban quản lý các KCN địa phương đã xây dựng mô hình xúc tiến đầu tư có hiệu quả thông qua việc thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư với chức năng như một cơ quan một cửa, một đầu mối nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài toàn bộ các khâu từ hình thành đến triển khai dự án, đồng thời chủ động tổ chức các chương trình vận động thu hút FDI ở trong và ngoài nước.
2.2.5. Ban quản lý các KCN xem xét khẩn trương hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư vào các KCN của các dự án FDI
Cũng giống như đối với các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt nam, các dự án FDI đầu tư các KCN được chấp nhận dưới hình thức Giấy phép đầu tư. Giấy phép đầu tư được ban hành theo mẫu thống nhất của Bộ kế hoạch và đầu tư. Việc cấp Giấy phép đầu tư thực hiện theo một trong hai quy trình sau:
- Đăng ký cấp giấy phép đầu tư
- Thẩm định cấp giấy phép đầu tư
a. Điều kiện đối với các dự án trong các KCN thuộc diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư: Các dự án đầu tư vào KCN đáp ứng các yêu cầu về tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm theo quy định của Bộ kế hoạch và Đầu tư trong thời kỳ sẽ thuộc diện đăng ký cấp Giấy phép đầu tư khi đáp ứng thêm các điều kiện sau đây:
- Không thuộc nhóm A theo quy định tại điều 114 của Nghị định 27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2003 của Chính phủ.
- Phù hợp với quy hoạch của KCN.
- Không thuộc danh mục dự án phải lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Các Ban quản lý KCN cấp tỉnh không được phép từ chối cấp giấy phép đầu tư cho các dự án đáp ứng đủ điều kiện đăng ký cấp giấy phép đầu tư.
b. Thẩm định cấp Giấy phép đầu tư
Các dự án còn lại không thuộc mục a thuộc diện thẩm định cấp Giấy phép đầu tư.
2.3. Thực trạng thu hút FDI vào các khu công nghiệp ở Việt nam
2.3.1 Tình hình thu hút FDI vào các KCN Việt nam thời gian qua
Cả nước hiện có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần 33.000 ha, phân bổ trên 55 địa phương, 10 Khu kinh tế (KKT) được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên xấp xỉ 550.000 ha và 2 KCNC (Hoà Lạc và tp Hồ Chí Minh). Trong hơn 16 năm xây dựng và phát triển KCN, KCX và hơn 3 năm thành lập KKT cho thấy khu vực này có đóng góp ngày càng quan trọng trong việc thu hút vốn ĐTNN, đến cuối năm 2007 đã thu hút gần 2.700 dự án ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký khoảng 31 tỷ USD, chiếm 34% về số dự án và 37% tổng vốn đăng ký của cả nước. Các dự án đầu tư công nghiệp đang có xu hướng tăng nhanh tại các KCN-KCX. Các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài trong KCN, KCX đa dạng về hình thức đầu tư.
a. Về quy mô và tốc độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tính từ năm 1998 đến hết năm 2005, các KCN Việt nam thu hút được 1.747 dự án FDI (chiếm 28,2% số dự án FDI trong cả nước), với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 7.232 tỷ USD (chiếm gần 34% tổng vốn đầu tư của cả nước). Quy mô vốn bình quân mỗi dự án FDI trong các KCN đang có xu hướng tăng từ năm 2002 đến nay. Năm 2005, quy mô vốn bình quân mỗi dự án FDI đạt 6,15 triệu USD/dự án, so với năm 2004 (4,13 triệu USD/ dự án) tăng 49%. Tuy nhiên, ngoài một số dự án có vốn đầu tư trên 20 triệu USD, hầu hết các dự án FDI đầu tư vào các KCN Việt nam có quy mô vừa và nhỏ, số dự án có quy mô lớn ít.
Hình 1: Quy mô vốn bình quân của các dự án FDI của cả nước và trong các KCN Việt nam (giai đoạn 1998-2005)
Nguồn: Vụ quản lý KCN và KCX, Bộ KH & ĐT
Bảng 1: Các dự án FDI trong các KCN Việt nam được cấp phép (giai đoạn 1998-2005)
(tính tới ngày 31/12/2005 - chỉ tính các dự án có hiệu lực)
STT
Năm
Số dự án
Tốc độ tăng trưởng
VĐT (USD)
Tốc độ tăng trưởng
1
1998
67
394558106
2
1999
105
1.57
488998786
1.24
3
2000
174
1.66
500015479
1.02
4
2001
211
1.21
883605813
1.77
5
2002
302
1.43
800907691
0.91
6
2003
259
0.86
872956293
1.09
7
2004
286
1.10
1181350462
1.35
8
2005
343
1.19
2110305461
1.79
Nguồn: Vụ quản lý KCN và KCX, Bộ KH & ĐT
Về tốc độ thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, từ bảng 1 có thể nhận thấy: Từ năm 1998 đến hết năm 2005 số dự án FDI và tổng vốn đầu tư thu hút vào các KCN tăng đều qua các năm.
Về tỷ trọng vốn FDI thu hút vào các KCN so với FDI của cả nước cũng có xu hướng tăng lên. Điều này cũng khẳng định rằng vai trò của hoạt động FDI vào KCN trong hoạt động thu hút FDI chung của cả nước ngày càng quan trọng. KCN với những ưu đãi và lợi thế riêng có của mình đã tạo dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
b. Cơ cấu FDI theo ngành kinh tế
Trong giai đoạn 1998 -2005, vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN Việt nam tập trung vào ngành công nghiệp và xây dựng với 1646 dự án ( chiếm 94.22% dự án), vốn đầu tư đạt 6.96 tỷ USD (chiếm 96.28% tổng vốn đầu tư).
Bảng 2: Cơ cấu đầu tư nước ngoài theo ngành kinh tế trong các KCN Việt nam giai đoạn 1998-2005
STT
Chuyên ngành
Số dự án
Tỷ trọng (%)
VĐT (USD)
Tỷ trọng (%)
I
Công nghiệp
1646
94.22
6963745706
96.28
1
Công nghiệp chế biến
1621
92.79
6752078031
93.35
2
Công nghiệp khai thác mỏ
2
0.11
450000
0.0062
3
Sản xuất điện, khí đốt, nước
4
0.23
74885000
1.03
4
Xây dựng
19
1.09
136332675
1.88
II
Nông lâm nghiệp
53
3.03
116270200
1.60
1
Nông lâm nghiệp
41
2.35
82381200
1.13
2
Thuỷ sản
12
0.69
33889000
0.46
III
Dịch vụ
48
2.75
152682185
2.11
1
Văn hoá thể thao
2
0.11
1600000
0.022
2
Vận tải, kho bãi, thông tin
5
0.29
7808000
0.10
3
Y tế
2
0.11
2200000
0.03
4
Thương nghiệp, sữa chữa
5
0.29
2150000
0.029
5
Phục vụ cá nhân, cộng đồng
2
0.11
3000000
0.041
6
Kinh doanh tài sản, dv tư vấn
30
1.72
135824185
1.87
7
Khách sạn và nhà hàng
2
0.11
100000
0.0014
Tổng
1747
100
7232698091
100
Nguồn: Vụ quản lý KCN và KCX, Bộ KH & ĐT
c. Cơ cấu FDI theo địa bàn đầu tư
Theo địa bàn đầu tư thì vốn đầu từ tập trung nhiều vào các tỉnh, thành phố lớn như: Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Bảng 3: Danh sách 15 địa phương thu hút FDI hàng đầu trong các KCN Việt nam (2005)
stt
Địa phương
Số dự án
Tỷ trọng (%)
VĐT (USD)
Tỷ trọng (%)
1
Đồng nai
425
25.30
1854548401
26.59
2
Bình Dương
478
28.45
1615523672
23.16
3
Bà rịa- vũng tàu
41
2.44
995604900
14.27
4
TP HCM
322
19.17
671533910
9.63
5
Hà nội
90
5.36
559670388
8.02
6
Hải phòng
58
3.45
319129763
4.58
7
Đà nẵng
36
2.14
224557050
3.22
8
Long An
44
2.62
223516887
3.20
9
Tây ninh
83
4.94
120937008
1.73
10
Hải dương
15
0.89
107043048
1.53
11
Bắc ninh
28
1.67
83952694
1.20
12
Khánh hoà
21
1.25
54800000
0.79
13
Cần thơ
17
1.01
54310068
0.78
14
Phú yên
17
1.01
53345000
0.76
15
Tiền giang
5
0.30
36300000
0.52
Tổng số
1680
100
6974772789
100
Nguồn: Vụ quản lý KCN và KCX, Bộ KH & ĐT
Từ bảng trên thấy rằng, Đồng Nai dẫn đầu cả nước trong hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN Việt nam với 425 dự án (chiếm 25.3% tổng số dự án) có vốn đầu tư đạt 1854 triệu USD (chiếm 26.59% tổng số vốn đầu tư).
d. Cơ cấu FDI theo đối tác
Từ năm 1998 – 2005, các KCN Việt nam đã thu hút đươc các nhà ĐTNN đến từ hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. Từ bảng 3 có thể thấy, đứng đầu danh sách là Đài Loan. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các nhà đầu tư Đài Loan vào các KCN Việt nam là: cơ khí, điện, điện tử…
Bảng 3: Danh sách 15 nước đầu tư hàng đầu vào các KCN VN (2005)
STT
Nước
Số dự án
Tỷ trọng (%)
VĐT (USD)
Tỷ trọng (%)
1
Đài Loan
546
31.25
1511034411
20.89
2
Nhật Bản
198
11.33
1153330598
15.95
3
Hàn Quốc
294
16.83
745795387
10.31
4
British VirginIslands
94
5.38
416551052
5.76
5
Hoa Kỳ
81
4.64
373923117
5.17
6
Hồng Kông
76
4.35
355237903
4.91
7
Malaysia
70
4.01
277616028
3.84
8
Cayman Islands
5
0.29
184950597
2.56
9
Trung Quốc
62
3.55
136442418
1.89
10
British West Indies
3
0.17
113000000
1.56
11
Hà Lan
8
0.46
93580000
1.29
12
Thái Lan
35
2.00
85433761
1.18
13
Philippines
7
0.40
54300086
0.75
14
Nga
7
0.40
36450270
0.50
15
Pháp
17
0.97
25450270
0.35
Tổng số
1503
86
5563195878
77
2.3.2. Đánh giá tình hình thu hút FDI vào các KCN Việt Nam
2.3.2.1 Những thành tựu đạt được
Trong thời gian qua, hoạt động hỗ trợ xúc tiến đầu tư vào các KCN của các bộ, ngành chức năng và các ban quản lý KCN cấp tỉnh đang ngày càng hoàn thiện, bước đầu đáp ứng được nhu cầu thu hút FDI vào các KCN.
- Nhìn chung hoạt động thu hút FDI vào các khu công nghiệp đạt kết quả tốt hơn so với các dự án FDI ở ngoài KCN về tốc độ thu hút và quy mô vốn bình quân một dự án FDI.
- Với hệ thống cơ sở hạ tầng sẵn có và những chính sách ưu đãi nổi trội, cùng cơ chế quản lý đặc biệt, thủ tục đầu tư đơn giản, thuận tiện so với bên ngoài, sức thu hút đầu tư nước ngoài của các KCN Việt nam hiện nay là khá lớn.
- Cơ cấu thu hút FDI vào các KCN ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Các doanh nghiệp FDI đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, khoảng 24% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí); thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm việc trong các ngàng xây dựng, thương mại, dịch vụ liên quan; góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp Việt nam.
- Các dự án FDI thu hút vào các KCN phần lớn là trong ngành công nghiệp nhẹ, lắp ráp điện tử, công nghệ thực phẩm và được đánh giá là có trang thiết bị và trình độ công nghệ ở mức tiên tiến so với trình độ chung của cả nước, góp phần nâng các ngành này về dây chuyền công nghệ, chất lượng sản phẩm.
2.3.2.2 Hạn chế
- Tuy quy mô bình quân một dự án FDI có xu hướng tăng nhưng quy mô thực của một dự án rất nhỏ.
- Tuy số dự án FDI và lượng vốn FDI thu hút được có xu hướng tăng nhưng tốc độ tăng lại không ổn định. Mặc dù năm 2005 FDI đạt mức tăng trưởng cao, nhưng kêt quả thu hút FDI trong những năm qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Hoạt động thu hút đạt chưa cao khi tỷ lệ lấp đầy các KCN cả nước mới dừng ở con số 51% trong khi tỷ lệ này ở các quốc gia lân cận như Thái Lan, Trung Quốc là hơn 70%.
- Sức ép cạnh tranh quốc tế gia tăng cùng với tiến trình hội nhập trong điều kiện tiềm lực kinh tế của Việt Nam con yếu, khả năng cạnh tranh còn thấp, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chất lượng tăng trưởng kinh tế và hiệu quả đầu tư chưa cao… làm kém đi tính hấp dẫn đối với FDI với tư cách là một đối tác đầu tư trực tiếp. Cơ cấu FDI theo ngành, địa bàn và đối tác đầu tư vào các KCN Việt nam còn nhiều bất cập.
2.3.3 Nguyên nhân
Nguyên nhân của những thành tựu:
- Trước hết đó là đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cùng những cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước đã phát huy được nhân tố có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành.
- Nước ta duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo, được đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Nền kinh tế tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu dân.
- Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn (đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho việc triển khai dự án).
- Công tác vận động xúc tiến đầu tư ngày càng được cải tiến, tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài dưới hình thức đa dạng, kết hợp với các chuyến thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gắn với việc quảng bá rộng rãi hình ảnh Việt Nam và vận động đầu tư - xúc tiến thương mại và du lịch. Chính vì vậy, mà hiệu quả đã được nâng dần với kết quả minh chứng là nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã vào tìm kiếm cơ hội đầu tư và ký kết số lượng lớn dự án quy mô lớn, mở đầu cho làn sóng đầu tư mới lần 2 vào Việt Nam, kể từ năm 1987 đến nay.
Về nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.
- Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo nguyên tắc thị trường. Nhận thức về chung về ĐTNN đều thống nhất như các chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước là coi ĐTNN là một bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và ĐTNN, chưa thực sự coi ĐTNN là thành phần kinh tế của Việt Nam. Điều đó thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép ĐTNN tham gia. Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam. Trong những thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn ĐTNN nhưng khi điều kiện thuận lợi lại có xu hướng không khuyến khích ĐTNN mà để trong nước tự làm; những biểu hiện này có tác động làm nản lòng nhà ĐTNN.
- Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ.
- Môi trường đầu tư-kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt.
- Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam.
- Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sả n xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế.
-Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế.
- Sự phối hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình ĐTNN vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp.
- Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến môI trường đầu tư-kinh doanh.
CHƯƠNG III:MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO CÁC KCN
3.1. Quan điểm và định hướng thu hút FDI vào các KCN Việt nam
3.1.1 Quan điểm thu hút
* Thu hút FDI vào phát triển các KCN phải đảm bảo tính chất bền vững, đối với bản thân các KCN và đối với toàn bộ nền kinh tế.
- Thu hút FDI phải đảm bảo tính đồng bộ với tính chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của mỗi vùng, miền, không dừng lại ở việc tăng số lượng các dự án FDI.
- Thu hút FDI vào các KCN phải đảm bảo không làm tổn hại đến môi trường tự nhiên và sinh thái tại địa bàn có KCN
* Thu hút FDI vào các KCN phải đảm bảo sự phân bổ các ngành hợp lý theo hướng ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp nặng, những ngành có hàm lượng công nghệ cao, có quy mô lớn.
* Thu hút FDI vào các KCN theo hướng ưu tiên các ngành có khả năng phát triển đối với mỗi địa phương. Quá trình thu hút cần chú ý xây dựng chiến lược thu hút các ngành nghề sao cho phát huy được hết những thế mạnh sẵn có của mỗi địa phương theo hướng chuyên môn hoá
* Thu hút FDI vào các KCN phải phù hợp với xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, khi mà toàn cầu hoá đã trở thành xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới thì các hoạt động kinh tế của mỗi quốc gia đều không thể đi ngược lại xu thế. Vì vậy hoạt động thu hút FDI cũng phải phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu.
3.1.2 Định hướng thu hút FDI vào các KCN (2006-2010)
Tiếp tục thu hút FDI vào những KCN ở địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy lợi thế của vùng, tạo điều kiện liên kết phát triển các KCN khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Đặc biệt cần ưu đãi tối đa cho FDI vào những KCN ở địa bàn có điều kiện khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các địa bàn này để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động KCN.
Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút FDI vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn, các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, viễn thông và các ngành mà Việt nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Có kế hoạch khuyến khích và vận động các tập đoàn, các công ty lớn, các nhà đầu tư từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào KCN. Đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng lớn về tài chính và nắm công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển.
3.2. Bài học kinh nghiệm thu hút FDI
3.2.1 Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực
Nghiên cứu về sự phát triển của một số nước trong khu vực chúng ta thấy rằng mọi quốc gia đều coi trọng và đánh giá cao vốn đầu tư nước ngoài, coi nó là một yếu tố quan trọng để đẩy mạnh xuất khẩu và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
Với tình hình nguồn vốn có hạn, trong khi nhu cầu của các quốc gia (cả quốc gia phát triển, đang phát triển và kém phát triển) lại rất lớn, nhu cầu ngày càng tăng. Hơn nữa, do xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, nhiều nước đang tiến hành cải cách, cơ cấu lại nền kinh tế dẫn đến mỗi nước đều tìm cách cải thiện môi trường đầu tư, thu hút FDI ngày càng nhiều hơn vào nước mình, đã tạo ra một thị trường cạnh tranh sôi động và quyết liệt.
- Trung Quốc:
Từ năm 1979, Trung Quốc bắt đầu thực hiện thu hút FDI.
Chính sách cơ bản để thu hút FDI của Trung Quốc là chính sách thuế. Trung Quốc đã ban hành nhiều loại thuế riêng cho hình thức đầu tư hợp tác kinh doanh, liên doanh 100% vốn nước ngoài và cho 14 thành phố ven biển, tại 14 thành phố ven biển các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được giảm thuế lợi tức 15% so với khu vực khác. Các liên doanh đầu tư từ 10 năm trở lên được miễn thuế lợi tức 2 năm kể từ khi có lãi và giảm 50% cho 3 năm tiếp theo. Nếu liên doanh đầu tư vào vùng khó khăn sẽ được giảm tiếp từ 15-30% trong vòng 10 năm. Nếu liên doanh áp dụng công nghệ tiên tiến được giảm 50% thuế so với doanh nghiệp cùng loại nhưng không có công nghiệp.
Về thủ tục hành chính, Trung Quốc phân cấp mạnh cho các địa phương về thẩm định dự án và cấp giấy phép đầu tư tạo điều kiện thủ tục thông thoáng.
Các khu như Thẩm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn và Hải nam có chế độ thuế đặc biệt cho các hoạt động. Các đặc khu và Đại biểu nhân dân tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam được phép có quy định riêng về tất cả các vấn đề kinh tế của các đặc khu để trình Chính phủ Trung Quốc phê duyệt.
Các đặc khu được tự quyết định mức đầu tư cao nhất vào các công trình sản xuất là 30 tr.USD. Các đặc khu khác nhau có các ưu đãi khác nhau trong việc trả tiền sử dụng đất, thời hạn thuê đất… Vì vậy trong thời gian ngắn nền kinh tế Trung Quốc đã phát triển năng động.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đứng đầu trong khu vực và đứng thứ 2 thế giới ( sau Mỹ) về khối lượng FDI thu hút. Để phục vụ cho KH phát triển kinh tế xã hội của TQ đến năm 2010, TQ dự định thu hút đầu tư kinh doanh ở mức không dưới 3o tỉ USD/ năm.
- Singapore:
Là một quốc gia nhỏ, dân số 3 triệu người, diện tích 636 km2. Để thu hút FDI, chính phủ Singapore đã có nhiều chính sách, biện pháp mạnh mẽ, kịp thời.
Nói chung về pháp luật, đầu tư nước ngoài được hưởng các quy chế chung như nhà đầu tư trong nước. Việc đối xữ bình đẳng giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước là một nét đặc thù trong chính sách thu hút vốn đầu tư của Singapore và mang lại kết quả tốt.
Singapore có một số kế hoạch định hướng để lái các luồng đầu tư theo hướng phục vụ công cuộc phát triển công nghiệp.
+ Tạo môi trường kinh tế xã hội tài chính ổn định để tạo tâm lý cho các nhà đầu tư yên tâm làm ăn kinh doanh.
+Hạ tầng cơ sở phát triển tốt như bến cảng, đường sá, kho ngoại quan.
Nhờ có vị trí địa lý thuận lợi, với việc xây dựng hệ thống cảng biển, kho ngoại quan hiện đại, chính sách thông thoáng Singapore đã trở thành trung tâm vận chuyển thương mại của khu vực và thế giới. Với sự ổn định của tình hình chính trị xã hội, sự thuận lợi và hiện đại của cơ sở hạ tầng, Singapore đã thu hút được nhiều dự án nước ngoài. Đến nay, Singapore trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập bình quân đầu người cao: 23-28000 USD.
- Các nước NICs
Các chính sách và giải pháp lớn nhằm thu hút FDI của các nước NICs như sau:
+ Chuyển chiến lược phát triển kinh tế từ hướng nội sang hướng ngoại, nguồn vốn FDI được xác định đóng vai trò quan trọng, do đó các quôc gia này có quan điểm cởi mở.
Chính phủ đảm bảo cho các nhà đầu tư không bị trưng thu sở hữu của họ và được đền bù trong trường hợp quốc hữu hoá.
Tạo quyền tự chủ về sản xuất kinh doanh cho các xí nghiệp có vốn FDI cũng như các quy định thuận lợi về di chuyển vốn và lợi nhuận.
Xoá bỏ thủ tục phiền hà, giảm thiểu hàng rào bảo hộ mậu dịch và khơi thông mạnh nguồn đầu tư bán hàng hoá.
Có chính sách thuế khuyến khích để nhà đầu tư thu lợi nhuận hợp lý, đồng thời khuyến khích các nhà đầu tư xây dựng dự án ở những vùng cần phát triển , đẩy mạnh hàng xuất khẩu, sử dụng nguyên liệu địa phương, ứng dụng công nghệ tiên tiến, bảo vệ môi trường…
3.2.2 Bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn 20 năm hoạt động ĐTNN tại Việt Nam cũng như kinh nghiệm của một số nước trong khu vực có thể rút ra một số bài học sau:
Một là, cần thống nhất nhận thức và có cách nhìn nhạy bén về kinh tế, chính trị, nắm bắt thời cơ, thuận lợi, thấy rõ được những khó khăn, thách thức từ bên trong cũng như bên ngoài để kịp thời đề ra được chủ trương, đường lối đúng đắn, tập trung lực lượng, giải quyết dứt điểm các vấn đề nảy sinh. Chủ trương, đường lối khi đã đề ra phải được quán triệt thông suốt, đầy đủ từ trung ương đến địa phương và phải được cụ thể hóa kịp thời, tạo ra sự thống nhất và quyết tâm cao trong việc tổ chức thực hiện để đảm bảo thành công.
Hai là, các chủ trương, phương hướng lớn phải được nhanh chóng thể chế hóa thành pháp luật, cơ chế, chính sách một cách đồng bộ, tạo đủ hành lang pháp lý cho việc thực hiện. Pháp luật và văn bản liên quan về ĐTNN phải minh bạch, rõ ràng và phù hợp với thông lệ quốc tế có chú ý tới điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Cơ chế, chính sách phải đồng bộ thể hiện tính khuyến khích và canh tranh cao so với các nước trong khu vực, có tính tới quy luật cạnh tranh và xu hướng tự do hóa trong thu hút đầu tư phù hợp với tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đồng thời tạo điều kiện, khuyến khích sự chủ động, sáng tạo của người thực hiện.
Ba là, công tác chỉ đạo, điều hành phải thông suốt, thống nhất, có nền nếp, kỷ cương trong bộ máy công quyền, tạo niềm tin và độ tin cậy đối với nhà đầu tư, đặc biệt đối với người đứng đầu. Phải luôn luôn hướng về nhà đầu tư và doanh nghiệp để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Mọi thủ tục hành chính phục vụ cho hoạt động đầu tư phải đơn giản, gọn nhẹ, không làm tăng chi phí, không gây phiều hà, sách nhiễu cho nhà đầu tư.
Bốn là, công tác cán bộ cần luôn được xem trọng để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, liên tục nhằm xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại không những tinh thông nghiệp vụ, am hiểu về kinh tế đối ngoại, mà còn trong sạch về phẩm chất, đạo đức, vì đây là cầu nối giữa nhà đầu tư với nước chủ nhà, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân thành công hay thất bại.
Năm là, tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các cơ quan quản lý đầu tư các cấp chủ động vận dụng, tổ chức triển khai, giám sát và đánh giá việc thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách, pháp luật nhà nước về đầu tư sao cho hiệu quả, đảm bảo hài hòa mối quan hệ giữa nhà đầu tư, nhà quản lý, giữa lợi ích của nhà nước với lợi ích của nhà đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội bền vững trên địa bàn và trên cả nước.
3.3. Một số giải pháp thu hút FDI và KCN
3.3.1 Giải pháp về phía chính phủ
Để triển khai thực hiện việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN trong giai đoạn 2006- 2010 và một số năm về sau, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau :
Nhóm giải pháp về quy hoạch:
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án.
Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế.
Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.
Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách:
Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan.
Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh.
Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành.
Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ.
Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư:
- Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương.
- Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này. Đồng thời, thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010 để đảm bảo kinh phí cho vận động thu hút vốn ĐTNN nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư-thương mại-du lịch.
- Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp trang thông tin điện tử về ĐTNN cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga)
- Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam.
Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng:
- Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng.
- Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.v.v.
Trước mắt tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời.
- Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập.
- Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v.
- Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng.
- Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu.
Nhóm giải pháp về lao động, tiền lương:
- Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau.
- Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm:
- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động.
- Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
Nhóm giải pháp về cải cách hành chính:
- Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư.
- Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài.
- Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể.
- Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư .
- Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan.
Một số giải pháp khác: - Trong các giải pháp nêu trên cần phải tính đến yếu tố vùng, miền cho các định hướng ưu tiên, đặc thù.. phù hợp thực tế để dần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền trong thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung.
- Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước.
3.3.2 Giải pháp đối với địa phương có KCN
- Xây dựng chiến lược thu hút FDI vào các KCN ở địa phương. Hiện nay, các địa phương hầu như chưa xây dựng chiến lược thu hút FDI vào các KCN, kể cả những địa phương khá thành công trong hoạt động thu hút FDI vào KCN như Đồng Nai, Bình Dương…Trên cơ sở chiến lược thu hút FDI vào các KCN do Bộ, ngành Trung ương xây dựng, kết hợp với khả năng thực tế của mổi KCN, các KCN có thể xây dựng chiến lược cho mình.
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính .
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư của các KCN. Hiện nay, hoạt động xúc tiến đầu tư của các KCN gần như diễn ra một cách tự phát, công việc diễn ra theo kiểu mạnh ai nấy làm, không có kế hoạch và ngân sách đầu tư. Vì vậy, trong thời gian tới cần đổi mới tư duy, thúc đẩy hoạt động xúc tiến đầu tư.
- Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, có tay nghề cao cho các KCN. Để đáp ứng nguồn nhân lực cho nhu cầu của các KCN ( hiện đang rất thiếu về số lượng và yếu về chất lượng) thì không chỉ trông chờ vào chính sách của nhà nước mà trước hết địa phương có KCN phải chủ động cung ứng cho nhà đầu tư nước ngoài.
- Tăng cường phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, cung cấp hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho KCN. Phát triển các loại hình sản xuất sản phẩm và dịch vụ, các ngành công nghiệp phụ trợ cung cấp cho khu công nghiệp phải được tính đến ngay từ khi phê duyệt cấp phép cho KCN. Đi đôi với thành lập KCN, chính quyền địa phương phải cần xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự phát triển các hoạt động vệ tinh cho KCN; đồng thời khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho sự ra đời của các cơ sở sản xuất linh kiện, dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng… và các hoạt động phụ trợ chung như cơ sở nghiên cứu, triển khai công tác thị trường, phát triển công nghệ, công tác tư vấn… Ngoài ra, cần tăng cường sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp ở trong KCN và các doanh nghiệp vệ tinh thực hiện gia công ở bên ngoài KCN.
KẾT LUẬN
Thực tế đã chứng minh, khu công nghiệp có một vị trí rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ hay một quốc gia. Để thực hiện CNH-HĐH, thành lập các KCN là phương thức hữu hiệu nhất, phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Vì vậy, vấn đề cấp thiết hiện nay là cần tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư vào các khu công nghiệp.
Tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài là một phương hướng chiến lược trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Chính phủ, các Bộ, ngành trung ưng và địa phương có KCN cần có những quan điểm, định hướng và giải pháp đúng đắn, phù hợp để thu hút và khai thác nguồn vốn này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21924.doc