Trước thực trạng kinh tế như vậy, Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới cơ chế kinh tế, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tuy nhiên cơ chế thị trường ngoài những ưu điểm của nó ra thì nó cũng đã bộc lộ những khuyết điểm hạn chế. Mặc khác, nền kinh tế nước ta còn phân tán mạnh cán bộ quản lý còn chưa có kinh nghiệm, do đó vai trò quản lý của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước đóng vai trò kim chỉ nam cho thị trường phát triển đúng hướng, phát triển theo đúng quỹ đạo đã vạch ra. Sự can thiệp đó phải được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền tự do dân chủ, công bằng xã hội trong phân phối kinh tế và mở rộng phúc lợi xã hội cho toàn dân bằng hệ thống hàng hoá công cộng. Ngay từ đầu Nhà nước phải xác định đúng mục tiêu quản lý của mình, có như vậy mới có được sự thành công trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế thị trường phải được thực hiện từng bước, không được nóng vội, đốt cháy giai đoạn, nếu không sẽ đưa đến hậu quả khó lường. Nhà nước cần phải nhìn nhận được những lợi thế so sánh của mình về các nguồn lực để nâng cao dần vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Do đó, vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước phải được đổi mới, phát triển theo thời gian và ngày càng được củng cố hoàn thiện để đáp ứng và khắc phục tốt hậu quả của cơ chế thị trường.
47 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1555 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tăng cường vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ay.
1. Đánh giá tình hình kinh tế xã hội năm 2004.
Năm 2004, khó khăn và thuận lợi đan xen nhau, vì vậy cần đánh giá, dự báo đúng những nhân tố thuận lợi để triệt để phát huy và những khó khăn để chủ động đối phó, hạn chế những ảnh hưởng xấu.
1.1. Về thuận lợi:
Dự báo tình hình trong nước và quốc tế năm 2004 sẽ có khả năng thuận lợi hơn so với các năm đầu kế hoạch 5 năm 2001-2005. Thế và lực nước ta khi thực hiện kế hoạch 2004 đã tăng lên đáng kể so với những năm trước đây.
Trước hết là tình hình chính trị và xã hội tiếp tục ổn định là cơ sở vững chắc để khai thác các tiềm năng nguồn lực của đất nước và thu hút nguồn vốn bên ngoài đưa vào phát triển đất nước.
Những cơ chế chính sách đã ban hành trong những năm qua đang thực sự đi vào cuộc sống; sẽ tiếp tục phát huy tính tích cực trong thời gian tới, thu hút ngày càng tốt hơn các nguồn lực, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho sự phát triển.
Kết cấu hạ tầng, năng lực và trình độ sản xuất của nhiều ngành kinh tế đến nay đã tăng lên đáng kể; cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực, cho phép phát huy được thế mạnh của nhiều ngành, nhiều vùng, nhiều thành phần kinh tế; chất lượng tăng trưởng đã bước đầu có những cải thiện; nền kinh tế nước ta đang từng bước thích nghi với môi trường kinh tế quốc tế đầy biến động.
Tư duy kinh tế đã có những đổi mới theo hướng năng động và hiệu quả hơn, đặc biệt người lao động, nhất là giới kinh doanh, dù môi trường đầu tư sản xuất còn khó khăn, nhưng họ vẫn tìm mọi biện pháp, đổi mới các khâu quản lý để phát triển sản xuất và tăng thu nhập, nhờ đó tỷ lệ tăng trưởng kinh tế liên tục tăng lên.
Mối quan hệ kinh tế quốc tế được củng cố và phát triển, thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam đã đứng vững trên nhiều thị trường và có triển vọng được mở rộng. Thu hút đầu tư nước ngoài đang có dấu hiệu phục hồi mạnh. Tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, việc thực hiện các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đang được tiến hành từng bước có hiệu quả.
Chính phủ và các ngành, các cấp đã ngày càng chủ động hơn trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, trước hết là tháo gỡ các khó khăn và tạo môi trường phát triển bình đẳng, thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế.
1.2. Khó khăn:
Khó khăn và thách thức trong năm 2004 được dự báo cũng rất lớn; nhiều mặt có thể gay gắt hơn những năm qua:
Cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng lĩnh vực chưa chuyển dịch kịp theo sự biến động nhanh của nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Khả năng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của các doanh nghiệp Việt Nam tuy đã tăng lên, nhưng vẫn còn thấp so với các doanh nghiệp của nhiều nước trong khu vực trong khi sức ép cạnh tranh trên thế giới và khu vực tiếp tục gia tăng. Chi phí sản xuất một số lĩnh vực còn cao, nhất là điện, vận tải, bưu điện,...
Việc huy động nội lực cho đầu tư phát triển ngày càng khó hơn do phải dành một phần ngân sách để cải cách tiền lương, khả năng huy động của các ngân hàng thương mại ngày càng khó do gặp phải sức ép về lãi suất, khả năng sinh lời của doanh nghiệp, gia tăng sự rủi ro của hệ thống ngân hàng.
Việc tiếp tục thực hiện các cam kết quốc tế về giảm thuế sẽ tác động đến sản xuất, nhất là đối với các doanh nghiệp khả năng cạnh tranh thấp.
Cạnh tranh kinh tế quốc tế ngày càng gay gắt; sẽ có những tác động tiêu cực trên một số mặt hoạt động kinh tế xã hội của nước ta, nhất là trao đổi thương mại, vốn, công nghệ... Nhiều hàng rào bảo hộ mậu dịch được dỡ bỏ, nguy cơ thâm hụt ngoại thương tăng nhanh nếu như các doanh nghiệp trong nước không chuẩn bị tốt để đứng vững trong cạnh tranh trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
Các nước trong khu vực và trên thế giới đang chuyển mạnh sang ký các Hiệp định song phương về hợp tác thương mại sẽ tăng thêm sức ép về cạnh tranh đối với nước ta. Việc chậm trễ trong việc đàm phán tham gia WTO sẽ tiếp tục gây sức ép lên khả năng mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu.
Tiến trình cải cách hành chính thời gian qua, nhất là cải cách thể chế kinh tế, đổi mới bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ... dù đã được đẩy nhanh hơn, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế, xã hội. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước chưa đồng bộ; hệ thống pháp luật còn rất yếu kém và chưa thực sự minh bạch. Thói quen dựa dẫm của các doanh nghiệp nhà nước vào bảo hộ và các ưu đãi khác của Nhà nước còn lớn.
Nguy cơ khủng bố quốc tế và dịch bệnh SARS... gây mất ổn định trong khu vực, nhất là các nước ASEAN sẽ tác động xấu đến nền kinh tế nước ta, nhất là thu hút đầu tư và du lịch...
Mặt khác, thời tiết khí hậu thay đổi thất thường, những tác động xấu có thể xảy ra. Lĩnh vực xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc. Đời sống nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn nhiều khó khăn; tệ nạn xã hội còn nghiêm trọng; trật tự, an ninh ở một số vùng chưa tốt.
2. Thực trạng quản lí của Nhà nước ta hiện nay.
2.1. Mặt tích cực.
Cho tới nay nền kinh tế nước ta được đánh giá là đang mạnh lên so với các năm trước cả về thế và lực. Từ thực tiễn này, người nước ngoài cũng phải thừa nhận rằng Việt Nam là nước thành công nhất trong số các nước chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường. Sự tăng lên về thế lực của nền kinh tế có được là nhờ một phần quan trọng ở sự tác động của cơ chế quản lý kinh tế mới, sản phẩm của bộ máy Nhà nước. Để sản sinh ra cơ chế đó, bộ máy Nhà nước đã trải qua nhiều cải tiến rất quan trọng.
Trước hết đó là sự cải tiến về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Trước kia, tổ chức Đảng, cán bộ Đảng làm thay quá nhiều công việc của tổ chức Nhà nước, cán bộ Nhà nước. ở thời kỳ đó, luật kinh tế có ít. Thay vào đó là các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Những năm gần đây bên cạnh những chỉ thị, nghị quyết đó, Nhà nước đã ban hành các đạo luật kinh tế. Nó mở đường cho hoạt động đầu tư nước ngoài, và các hoạt động kinh tế trong nước bởi không có luật kinh tế cũng như sự tác động của Nhà nước chẳng khác nào tham gia một cuộc chơi không có luật và trọng tài. Có thể nói rằng bộ máy Nhà nước đã có những biến chuyển trong việc chuyển sang bộ máy làm luật nói chung và luật kinh tế đã có những biến chuyển trong việc chuyển sang bộ máy làm luật nói chung và luật kinh tế nói riêng.
Thứ hai, đó là sự cải tiến về mối quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp. Trước đây, Nhà nước điều hành doanh nghiệp từ A đến Z. ở thời kỳ đó, bộ máy Nhà nước về kinh tế được thiết kế là bộ máy “trực quản“ đối với doanh nghiệp. Mấy năm vừa qua, sự phân định giữa Nhà nước với doanh nghiệp đã tõ rõ, dứt khoát hơn, trong đó khẳng định các cơ quan Nhà nước có quyền tự chủ trong kinh doanh, các cơ quan Nhà nước chỉ làm quản lý Nhà nước trong đó quản lý Nhà nước về kinh tế. Trên thực tiễn, sự biến chuyển theo phân định trên đây tuy diễn ra chậm chạp và không ít lệch lạc nhưng đã làm cho bộ máy Nhà nước bớt đi vào “sản xuất kinh doanh” để đi vào “Sản xuất cơ chế kinh tế”, làm cho quản lý vĩ mô của Nhà nước có bước chuyển quan trọng.
Thứ ba, đó là sự cải tiến mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong hệ thống bộ máy Nhà nước. Bắt đầu nhấn mạnh tính độc lập tương đối, sự phân định rõ về chức năng nhiệm vụ và quyền hạn và trách nhiệm của 3 loại cơ quan đó. Sự chuyển biến này đã tạo điều kiện để cơ chế quản lý kinh tế mới không chỉ phong phú, đa dạng dưới hình thức văn bản pháp lý, mà còn cả trong việc sử dụng các công cụ kinh tế (tài chính, tiền tệ... ), các công cụ kiểm tra, giám sát, xét xử... trong kinh tế.
Thứ tư, đó là sự cải tiến mối quan hệ giữa các Bộ của Chính phủ quản lý. Sự cải tiến này không chỉ làm giảm bớt các Bộ trong thành phần Chính phủ, không chỉ chuyển các Uỷ ban Nhà nước từ “siêu bộ” thành “ngang bộ” mà quan trọng là ở sự cải tiến về mặt chức năng của mỗi Bộ. Sự cải tiến này tuy diễn ra chậm chạp nhưng nó phát huy tác dụng dễ thấy trong cuộc sống của nền kinh tế như Ngân hàng Nhà nước thôi chức năng kho bạc Nhà nước, Uỷ ban vật giá Nhà nước đã thu hẹp thành ban vật giá của Chính phủ...
Thứ năm, đó là sự cải tiến mối quan hệ giữa Trung ương với địa phương. Về sự cải tiến này, trong nhận thức đang có chuyển biến, còn trên thực tế chưa thực hiện được bao nhiêu. Sự chậm chễ này ảnh hưởng trực tiếp tới việc hình thành một cơ chế đủ sức giải toả mối quan hệ Thung ương và địa phương về quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế trong từng vùng lãnh thổ.
2.2. Mặt tiêu cực.
Trong những năm năm qua, mặc dù nền kinh tế Việt Nam đang lên, song sự thật chúng ta vẫn là một trong những nước thuộc nhóm quốc gia nghèo trên thế giới. Cơ chế quản lý mới tuy đã tác động góp phần làm chuyển biến tình hình nhưng tõ ràng là cơ chế chưa đủ sức đề làm cho nền kinh tế vận động thoát khỏi quỹ đạo trì trệ, kém hiệu quả lâu nay của nó. Những khuyết điểm của cơ chế quản lý mới xuất phát từ bộ máy Nhà nước chưa được cải cách thể hiện tập trung ở một số mặt dưới đây:
Một là, phương thức lãnh đạo của Đảng tuy đã có những cải tiến nhưng đổi mới chậm hơn so với những đổi mới trong quản lý của Nhà nước, sự chậm hơn này đã đặt ra những giới hạn không thể vượt qua được của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Hai là, khả năng làm luật (đặc biệt là luật kinh tế) của bộ máy Nhà nước hiện nay còn quá thấp so với yêu cầu của việc quản lý nền kinh tế đang chuyển đổi. Kế hoạch xây dựng dự án luật từ nhiều năm nay luôn luôn đạt thấp, nhiều dự án kéo dài hết năm này qua năm khác vẫn chưa xong. Cơ quan làm luật là Quốc Hội, khả năng trong việc xem xét và quyết định cũng đang còn phải tìm cách để tăng cường. Nền kinh tế từ chỗ quá thiếu luật để hoạt động nay đang trong tình trạng nếu thiếu luật sẽ hoạt động rời rạc. Do vậy, đòi hỏi phải có hệ thống luật mới đầy đủ. Với khả năng hiện nay của Quốc hội, phải một thời gian nữa mới ban hành được những bộ luật mới cho nền kinh tế. Và như vậy, từ nay đến đó, hoạt động kinh tế trong xã hội, về cơ bản là hoạt động trong tình trạng thiếu luật. Nói cách khác, phần cơ chế quản lý kinh tế dưới hình thức luật kinh tế sẽ luôn luôn thiếu. Tính pháp lý của cơ chế quản lý kinh tế mới không thể cao được.
Ba là, trong cơ chế quản lý kinh tế, hệ thống đòn bẩy kinh tế có vai trò và vị trí hết sức quan trọng. Những đòn bẩy kinh tế luôn luôn là cái không có sẵn, mỗi quốc gia phải tự chế tạo lấy các đòn bẩy thích hợp cho nước mình bởi đôi khi những đòn bẩy của nước này lại là “đòn cản” của nước khác. Việc “chế tạo” các đòn bẩy kinh tế là một công việc hết sức khó khăn, đầy trọng trách, đòi hỏi Nhà nước phải có một bộ máy làm việc điêu luyện. Đây là một trong những điểm yếu của Nhà nước ta.
II. Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Trong những năm đổi mới vừa qua, về cơ bản chúng ta đã chuyển đổi được cơ chế cũ sang cơ chế thị trường, Nhà nước đã rút khỏi việc quản lý trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh sang quản lý vĩ mô thông qua các công cụ, chính sách. Nhà nước đã duy trì được sự ổn định chính trị xã hội trong những năm qua và duy trì nước ta ở mức phát triển kinh tế khá cao và ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, nâng cao được năng lực quản lý của bộ máy Nhà nước ta.
Tuy nhiên, trước mắt chúng ta còn nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết, đó là hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được đòi hỏi, cơ sở hạ tầng nước ta còn yếu kém, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng, tình trạng ô nhiễm môi trường và nhiều vấn đề xã hội như tệ nạ tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả... Hệ thống đòn bẩy kinh tế kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước hoạt động chưa có hiệu quả. Chính vì những lý do trên đòi hỏi phải đổi mới và nâng cao năng lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Để có thể xây dựng nên được một nền kinh tế vững mạnh, một xã hội công bằng văn minh. Để tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay thì trước hết cần xác định rõ nguyên tắc đổi mới ở nước ta hiện nay.
- Nguyên tắc phân định rành mạch và kết hợp tốt chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh của các tổ chức kinh tế.
- Nguyên tắc kết hợp hài hoà vai trò quản lý của Nhà nước với vai trò điều tiết tự phát của thị trường.
- Nguyên tắc bảo đảm định hướng XHCN cho sự phát triển của nền kinh tế.
1. Những giải pháp đổi mới hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế.
Pháp luật xét về nguồn gốc đến bản chất không chỉ là hình thức pháp lý phản ánh các quan hệ giai cấp mà còn là hình thức pháp lý của các quan hệ kinh tế. Ngay từ thủa vừa mới xuất hiện, pháp luật đã gắn liền với kinh tế và luôn bị quy định bởi kinh tế. Mỗi mô hình kinh tế (hay nói cách khác mỗi cơ chế kinh tế ) luôn tạo ra mô hình điều chỉnh pháp luật tương ứng và sự phát triển biến đổi của cơ chế kinh tế bao giờ cũng kéo theo sự biến đổi của hệ thống pháp luật và sự điều chỉnh pháp luật. Tuy nhiên sự phụ thuộc của pháp luật đối với kinh tế không có nghĩa là pháp luật giữ vai trò thụ đồng trước đời sống kinh tế. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ pháp luật với tính cách là một yếu tố của thượng từng tác động tích cực đến đời sống kinh tế, chi phối mạnh mẽ các quan hệ kinh tế. Thực tiễn quá trình phát triển lịch sử đã ghi nhận không ít trường hợp pháp luật đóng vai trò người dẫn đường cho các quá trình kinh tế, khai phá những lộ trình mới cho kinh tế phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Nhưng lịch sử cũng ghi nhận không ít trường hợp pháp luật trở thành những lực cản kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Thực ra vai trò mở đường hay cản đường của pháp luật đối với sự phát triển của đời sống kinh tế không lệ thuộc vào bản thân pháp luật. Vai trò ấy lệ thuộc vào khả năng của Nhà nước trong việc xây dựng các văn bản pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật ở từng mô hình kinh tế xã hội cụ thể.
Ngày nay với cơ chế thị trường nhiều thành phần ở nước ta, pháp luật trở thành công cụ đặc biệt quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ kinh tế nói riêng. Vai trò quan trọng của pháp luật không chỉ được xác lập, thừa nhận mà việc củng cố, tăng cường vai t rò điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ kinh tế hiện nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Nhà nước ta cần tiếp tục đổi mới và bổ sung hệ thống pháp luật, nhất là luật kinh tế và bảo vệ môi trường, tăng cường kỹ thuật trong việc chấp hành chính sách chế độ của Nhà nước, bảo đảm tính hệ thống của luật và các văn bản dưới luật, chú ý đến luật pháp và thông lệ quốc tế, phát triển các hình thức dịch vụ pháp lý để phục vụ cho toàn dân, kiện toàn bộ máy kiểm tra việc thi hành luật pháp, nghiên cứu,thành lập và nâng cao vai trò toà án kinh tế.
Nhà nước phải xây dựng mới, sửa chữa bổ sung luật pháp kinh tế với việc dân chủ hoá nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Nếu không có pháp luật kiểm soát thì cạnh tranh và tự do hành nghề của kinh tế thị trường sẽ tác động tiêu cực tới xã hội, vì thế mà kinh tế thị trường phải gắn liền với Nhà nước pháp quyền, hệ thống pháp luật phải chống độc quyền hành chính, thực hiện được sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, đảm bảo cho mọi công dân, mọi doanh nghiệp "được phép làm những gì mà pháp luật không cấm".
2. Những giải pháp đổi mới công tác kế hoạch hoá theo xu hướng kế hoạch hoá định hướng.
Ngày nay kế hoạch hoá đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thế giới hiện đại . Xét trên phạm vi xã hội, nói cách khác xét ở tầm vĩ mô, nền kinh tế nhiều thành phần cần phải được kế hoạch hoá nhưng không thể là kế hoạch hoá trực tiếp - pháp lệnh không thể xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh vĩ mô cho cả nền kinh tế. Chỉ có thực hiện kế hoạch hoá gián tiếp, đổi mới với nó mà thôi.
Quản lý có kế hoạch hay là sự điều tiết vĩ mô có ý thức, có hướng đích nền kinh tế hàng hoá khác, về nguyên tắc so với sự quản lý, điều tiết nền kinh tế tự nhiên hiện vật. Các khái niệm, phạm trù và do đó cả công nghệ quản lý, công nghệ điều tiết ở đó, không phải là sự "phát triển thêm" các khái niệm, phạm trù và công nghệ quản lý nền kinh tế tự nhiên, hiện vật, mà được hình thành theo những nguyên lý riêng với hai yếu tố cốt lõi hợp thành logíc ngang giá và logíc tự điều chỉnh.
Hoạt động quản lý có kế hoạch ngày nay là đòi hỏi tự nhiên của mọi hoạt động kinh tế dù ở tầm doanh nghiệp hay tầm quốc gia, tầm khu vực hay quốc tế.
Kế hoạch là công cụ quản lý liên ngành của Nhà nước bao gồm nhiều loại công việc, nhiều loại hình với nội dung và hình thức phong phú đa dạng. Mỗi loại hình, mỗi hình thức biểu hiện có vai trò, nhiệm vụ khác nhau. Nhưng đều hướng tới mục tiêu chung là truyền dẫn ý đồ mục tiêu của kế hoạch vĩ mô vào cuộc sống.
Kế hoạch hoá là công cụ thể hiện các mục tiêu lý tưởng của một nền kinh tế, nhờ có kế hoạch hoá mà Chính phủ có thể phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp, của các bộ, các ngành, các địa phương. Kế hoạch hoá vừa là công cụ, vừa là phương pháp quản lý điều khiển nền kinh tế.
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay các doanh nghiệp được quyền tự do lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, Nhà nước không can thiệp vào quyết định của họ về sản xuất cái gì? Bằng cách nào? tiêu thụ ở đâu? trong khi lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh doanh nghiệp lấy lợi nhuận của mình làm thước đo hiệu quả, đồng thời làm mục tiêu, định hướng cho hành vi của họ. Trong nền kinh tế của ta hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và cạnh tranh có thể dẫn đến sự triệt tiêu các nguồn lực kinh tế làm cho môi trường kinh doanh bị phá huỷ và nền kinh tế không thể nào phát triển.
Thực chất của việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế là thống nhất các lợi ích khác nhau, quy tụ các lợi ích khác nhau về một lợi ích sao cho trong khi mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân của mình cũng đồng thời góp phần của mình vào việc theo đuổi lợi ích dân tộc. Chính vì vậy để có thể hoàn thành chức năng định hướng nền kinh tế Nhà nước phải tạo ra được công cụ định hướng để quy tụ hành động của các doanh nghiệp và người tiêu dùng cá biệt thành véc tơ vận động của nền kinh tế để định hướng nền kinh tế phát triển bền vững. Nhà nước cần phải có:
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn. Vai trò định hướng nền kinh tế của Nhà nước thể hiện ở chỗ chính Nhà nước là người hoạch định các chương trình phát triển kinh tế - xã hội mà mỗi chương trình là mỗi cơ hội đầu tư mở rộng phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp. Như vậy bằng việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế Nhà nước dẫn dắt các doanh nghiệp, chỉ cho họ thấy chỗ nào là có thể và cần phải đầu tư vào nơi nào là lợi cho mình, đồng thời cho dân tộc. Bằng việc hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Nhà nước có thể thực hiện được ý đồ dịch chuyển cơ cấu theo ngành, theo vùng lãnh thổ để khai thác sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đưa thị trường trong nước hoà nhập vào thị trường thế giới làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng ổn định vững chắc, công bằng và có hiệu quả.
- Kế hoạch hoá định hướng. Kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội do Nhà nước đề ra. Tuy nhiên, nội dung và phương thức kế hoạch hoá của Nhà nước ta trong mô hình kinh tế hiện nay phải đổi mới theo phương thức sau:
+ kế hoạch mang tính định hướng
+ kế hoạch hoá không phải chỉ là giao chỉ tiêu thực hiện mà còn là điều phối thực hiện theo dự án
3. Hoàn thiện và đổi mới quản lý Nhà nước về tiền tệ - tín dụng và ngân hàng.
a. Chính sách tiền tệ:
Trong năm nay và những năm tới vẫn được xem là một lĩnh vực hàng đầu của chính sách kinh tế vĩ mô, một đòn bẩy hàng đầu để điều tiết vận hành theo cơ chế thị trường.
Chính sách tiền tệ trong cơ chế thị trường là chính sách không chỉ điều chỉnh khối tiền tệ cung ứng thêm trong một thời kỳ nhất định cho việc cấp tín dụng nền kinh tế mua ngoại tệ, tạm ứng cho ngân sách, và còn điều chỉnh khối tiền tệ đã sẵn có trong lưu thông cho phù hợp với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân, phù hợp giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu lưu thông.
Tuỳ thực trạng kinh tế và tiền tệ cụ thể của mỗi nước mà chính sách tiền tệ được xác định theo hướng thắt chặt hay mở rộng. Chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường có những nội dung lớn đó là điều hoà khối tiền tệ, chính sách tín dụng, chính sách ngoại hối....
- Về điều hoà khối tiền tệ: NHTW phải có các giải pháp để duy trì được tương quan giữa tổng cung và tổng cầu, giữa tiền và hàng, tức là phải khống chế sao cho khối lượng cung ứng tiền tệ trong một thời kỳ nhất định cân đối vơí mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa (mức tăng thực tế cộng với tỷ lệ trượt giá) và vòng quay tiền tệ trong cùng thời kỳ.
Khối tiền tệ cung ứng thậm chí chỉ là chỉ tiêu định hướng. Điều quan trọng là NHTW phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, biến động về giá cả và tỷ giá hối đoái để điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối tiền tệ tăng hay giảm đi không làm tăng giá hoặc tắc nghẽn lưu thông.
Từ tổng lượng tiền cung ứng được xác định , NHTW chủ động dự kiến trước nhu cầu tiền mặt. Nhất thiết không được đưa thêm tiền mặt ra lưu thông nếu làm tăng tổng lượng cung ứng tiền đã xác định
- Về chính sách tín dụng cho nền kinh tế. Từ khối lượng tiền tệ được cung ứng thêm đã xác định, MHTW sẽ giành chủ yếu cho hoạt động tín dụng phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế, có tính đến mức lạm phát (nếu có) đã được khống chế trong một thời kỳ nhất định.
Khi các ngân hàng trung gian thiếu phương tiện thanh toán thì họ mới đến NHTW xin tái cấp vốn tiền trung ương. ở đây, NHTW luôn là người cho vay cuối cùng, đóng vai trò chủ nợ, nhằm kiểm soát được chất lượng và số lượng tín dụng, các nguồn tiền gửi của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Qua hoạt động này, NHTW vừa đảm bảo thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ vừa tăng cường vai trò quản lý Nhà nước của mình đối với các tổ chức tín dụng.
- Về chính sách ngoại hối. Nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia, NHTW ở các nước thường đảm nhiệm thực hiện các nhiệm vụ giao dịch về tài chính và tiền tệ đối ngoại. Có thể kể ra những nội dung chính như vậy dùng các qui định về quản lý ngoại hối, thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước, lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế; xây dựng và thống nhất quản lý quĩ dự trữ ngoại hối của đất nước; tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế, quan hệ với các NHTW khác, với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ (vay nợ) nước ngoài và thu hút kiều hối; phấn đấu ổn định tỷ gia hối đoái để kìm chế làm phát, ổn định giá cả trong nước..
Thực hiện quản lý Nhà nước các vấn đề trên không nhằm mục đích nào khác là nhằm ổn định giá trị đối ngoại của tiền tệ, góp phần thực thi mục tiêu của chính sách tiền tệ (vì đây là những yếu tố tác động mạnh tới khối tiền tẹ và giá trị đồng tiền trong nước).
Khi nguồn vốn nước ngoài được đổ vào Việt Nam nhiều hơn thì đồng tiền Việt Nam sẽ có xu hướng mạnh lệ tức là cần ít đồng Việt Nam để đổi lấy một USD, kinh nghiệm trong những năm qua cho ta thấy rằng, khi lạm phát hàng tháng vẫn như vậy sẽ có tác động xấu đối với các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp xuất khẩu, cũng như trong các ngành sản xuất cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Hậu quả cuối cùng là sẽ gây áp lực dẫn đến việc phá giá mạnh đồng tiền nội địa, nếu không cán cân thương mại sẽ ngày một mất cân đối còn nguồn vốn bên ngoài sẽ đổ vào chậm hơn. Một trong những giải pháp giải quyết hiện tượng này là tiến hành phá giá đồng tiền nội địa làm cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp có thể trụ được. Đúng là việc phá giá đồng tiền mạnh và đột ngột như vậy có thể gây hoang mang về sự ổn định của đồng tiền Việt Nam và nói chung là không nên làm nhưng cũng phải có chính sách lựa chọn một tỷ giá hối đoái thực tế hợp lý hơn là giữ một tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định. Điều này có nghĩa là phải từng bước phá giá đồng tiền Việt Nam ở mức bằngvới tỷ lệ lạm phát. Tỷ giá hối đoái là loại giá cả tỷ lệ quan trọng nhất trong nền kinh tế. Giữ nó ở mức bất lợi sẽ làm phương hại đến các triển vọng tăng trưởng nhanh.
b. Quản lý Nhà nước về hoạt động của các ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính.
Tiếp tục lành mạnh hoá các ngân hàng thương mại nhà nước, nghiên cứu cho phép ngân hàng phát hành cổ phiếu để thu hút vốn trong dân.
Có biện pháp thích hợp để giảm lãi suất tín dụng, điều chỉnh lại mức lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đang quá cao hiện nay và hệ thống lãi suất quá phức tạp với nhiều mức khác nhau (18 mức) của các ngân hàng chính sách và các quỹ hỗ trợ đầu tư.
Tiếp tục đổi mới hệ thống ngân hàng trên cơ sở các đề án cơ cấu lại hệ thống ngân hàng; lành mạnh hoá tình hình tài chính của các ngân hàng trên cơ sở có phương án cụ thể xử lý vấn đề nợ xấu đối với từng khoản nợ và từng ngân hàng thương mại quốc doanh.
Soát xét lại chức năng, nhiệm vụ, tình hình hoạt động của các quỹ tín dụng đầu tư, quỹ hỗ trợ đầu tư để có những chấn chỉnh kịp thời. Tạm thời chưa lập mới các quỹ loại này.
Tiếp tục cải cách hệ thống thuế; đổi mới, hoàn thiện chính sách thuế phù hợp thực tế Việt Nam, thực hiện các cam kết quốc tế và phục vụ đàm phán gia nhập WTO.
c. Điều kiện để thực hiện quản lý Nhà nước về tiền tệ - tín dụng và ngân hàng.
Để quản lý Nhà nước dù ở lĩnh vực nào cũng đều phải có luật hoặc những văn bản pháp quy dưới luật do Nhà nước ban hành. Bên cạnh đó phải có tổ chức hoặc bộ máy đủ mạnh với những chức năng nhiệm vụ được giao để thực hiện.
Hầu như tất cả các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều có các luật về ngân hàng: luật về ngân hàng trung ương và luật chung về hoạt động ngân hàng. Các nước đó đều hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp tách bạch rõ ràng và dứt khoát chức năng hoạt động giữa ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Bằng luật pháp quy định ngân hàng trung ưng được tổ chức đủ mạnh để xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ và để thực hiện vai trò ngân hàng đối với các tổ chức tín dụng.
Ngoài các luật hoặc văn bản dưới luật về ngân hàng, tổ chức hệ thống ngân hàng hai cấp: trong đó ngân hàng trung ương được xác định chức năng là người quản lý Nhà nước về tiền tệ - tín dụng và ngân hàng, việc ban hành đồng bộ của luật lệ khác như luật phá sản, luật thế chấp và luật thương mại cùng là những điều kiện không thể thiếu được để quản lý Nhà nước về tiền tệ - tín dụng và ngân hàng mà nhiều quốc gia đã thực hiện.
Hệ thống ngân hàng ở nước ta trước đây là hệ thống ngân hàng một cấp, vừa làm nhiệm vụ của ngân hàng trung ương, vừa làm chức năng của các ngân hàng kinh doanh tiền tệ. Từ tháng 5/1990 thực hiện hai pháp lệnh ngân hàng, hệ thống ngân hàng cũ đã được tổ chức thành hai hệ thống ngân hàng hai cấp:
- Ngân hàng Nhà nước làm công việc của ngân hàng trung ương với chức năng hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ và là ngân hàng của các ngân hàng.
- Ngân hàng là các tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh vì doanh lợi, thông qua huy động tiền tệ vốn để mở rộng tín dụng đó là các ngân hàng thương mại quốc doanh và cổ phần, ngân hàng đầu tư và phát triển các Công ty tài chính và hợp tác xã tín dụng.
Cuộc chiến đấu chống lạm phát vẫn đang tiếp diễn và chưa thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên trong khi vẫn chú ý tới vấn đề then chốt này, ngân hàng trung ương cũng nên quan tâm tới vấn đề khác như tính hiệu quả và sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng thương mại. Điều này có nghĩa là phải làm sao luôn có tiền mặt để người gửi tiền ngân hàng có thể rút bất cứ lúc nào và rút ngắn thời gian thanh toán séc. Ngoài ra ngân trung ương phải cho phép nới rộng khoảng cách giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi để những ngân hàng hoạt động tốt có thể có lãi. Cũng trong tinh thần này nên cổ vũ các ngân hàng thương mại cung cấp vốn cho những đối tượng xứng đáng chứ không phải chỉ cho các Công ty Nhà nước được một số tỉnh hay Bộ ưu đãi mà thôi. Giúp các ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả là một quá trình lâu dài, nhưng nếu không có cạnh tranh và tiến bộ thì không thể huy động được tiền tiết kiệm đầu tư thoả đáng. Mặt khác nếu hệ thống ngân hàng không hoạt động tốt hơn thì những thành quả hiện nay về chống lạm phát cũng sẽ không duy trì được.
4. Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng - hiệu quả tạo ra động lực của sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường càng mở rộng, sự hoạt động của quy luật càng dẫn đến sự phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chia lẻ dân cư thành các tầng lớp khác nhau trong quan hệ của họ đối với quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Tình trạng bất bình đẳng khi vượt quá khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đến sự phản ứng của dân cư trong lĩnh vự chính trị xã hội, mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các giai cấp cớ thể dẫn tới sự đe doạ ổn định về mặt chính trị.
Do sản xuất và giá cả nông sản năm 2003 tăng so với năm 2002, nên thu nhập và đời sống của nông dân nhiều vùng được cải thiện. Theo số liệu điều tra mức sống hộ gia đình, mức thu nhập ở khu vực nông thôn tăng nhanh hơn khu vực thành thị, năm 2001-2002 đạt bình quân 276 nghìn đồng/người/tháng, tăng 22,5% so với năm 1999. Năm 2001-2002, thu nhập bình quân ở khu vực thành thị đạt 626 nghìn đồng/người/tháng, tăng 21,1% so với năm 1999.
Để giải quyết tình trạng bất bình đẳng trong thu nhập cần thiết phải xây dựng lại hệ thống thuế để điều tiết một phần thu nhập của lớp người giàu có. Đồng thời cần giúp đỡ những người nghèo có cơ hội trở thành giàu có. Nhà nước cần phải giúp đỡ họ tạo công ăn việc làm ,bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghiệp vụ, cho vay vốn, bán đất với chế độ ưu đãi thích đáng ...
5. Đổi mới cách thức sử dụng các chính sách kinh tế theo yêu cầu của kinh tế thị trường, tạo ra cơ chế phù hợp với các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá khi tác động vào nền kinh tế các Chính phủ thường sử dụng một hệ thống các đòn bẩy kinh tế tác động vào cơ chế giá - lương - tiền khi chuyển sang kinh tế thị trường giá và lương (giá cả sức lao động) không chỉ là công cụ mà còn là một trong những mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô chính vì vậy cùng với việc đổi mới cơ chế kinh tế phải đổi mới các chính sách kinh tế là lẽ đương nhiên. Trên bình diện tổng thể chúng ta thấy rằng:
a. Nhà nước cần phân loại hệ thống hoá các chính sách kinh tế thành các nhóm để xử lý theo tình huống. ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thường phân loại theo hai nhóm cơ bản:
- Các chính sách tác động vào phía cầu.
- Các chính sách tác động vào phía cung.
b. Sau khi đã phân loại các chính sách theo nhóm để xử lý theo tình huống Chính phủ cần tạo ra cơ chế để phối hợp các chính sách ổn định về kinh tế vĩ mô. Theo cơ chế này môĩ chính sách không có mục tiêu nào riêng ngoài mục tiêu định hướng. Tác động của tất cả các chính sách cần phải được hội tụ ở việc giải quyết các mục tiêu định hướng của nền kinh tế. Chính phủ đề ra cho mỗi thời kỳ như tăng trưởng sản lượng, lạm phát, thất nghiệp...
6. Tăng cường phối hợp các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
Sức cạnh tranh của quản lý Nhà nước chính là nhờ phương hướng hoạt động đúng đắn và nghệ thuật phối hợp các hoạt động toàn xã hội theo trật tự và phương hướng đã đề ra. Quản lý theo mệnh lệnh tác động trực tiếp đến đối tượng thực hiện. Còn quản lý vĩ mô tác động gián tiếp đến các đối tượng, gây nên phản ứng dây chuyền và từ đó có thể gặt hái những thành tựu to lớn. Nếu sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô một cách riêng lẻ như quản lý theo mệnh lệnh, chẳng những kém hiệu quả mà có thể gây nên những thiệt hại nặng nề do tác động triệt tiêu lẫn nhau trong cả hệ thống dây chuyền. Vì vậy cần sớm:
- Tổ chức một bộ phận cán bộ chuyên trách đủ mạnh để:
a. Giúp Chính phủ nghiên cứu một cách đồng bộ hệ thống mô hình cần tạo lập và lộ trình thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta.
b. Hình thành chương trình đổi mới toàn diện và những giải pháp thực hiện từng bước một cách nhất quán.
c. Giám sát hoạt động của các cơ quan chức năng của Chính phủ trong việc phối hợp các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô: kế hoạch, ngân sách, tiền tệ, lao động tiền lương... hạn chế những mâu thuẫn trong sử dụng các công cụ quản lý kinh tế - xã hội.
- Cần phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước. Với chức năng quản lý kinh doanh, giảm dần các bộ chuyên ngành, thu gọn các đầu mối tổ chức quản lý cấp trên trực thuộc. Tạo điều kiện cho các cơ quan Nhà nước thực sự chăm lo quy chế luật pháp, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế cạnh tranh phát triển theo pháp luật.
- Cần hệ thống hoá việc sử dụng các công cụ quản lý vì tác động vĩ mô là tác động gián tiếp, gây phản ứng dây chuyền để đạt được hiệu quả tổng thể. Không thể tách rời việc nghiên cứu cơ cấu với cơ chế, tách rời việc nghiên cứu tổ chức bộ máy quản lý với nghiên cứu cơ chế quản lý. Chỉ đạo phối hợp chặt chẽ việc sử dụng cơ cấu ngân sách gắn với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, thực hiện quy trình hợp lý trong việc chuẩn bị ban hành các chính sách một cách có hệ thống.
- Cần mở rộng thêm phạm vi tác động của cơ chế thị trường. Tổ chức thị trường tài chính và thị trường sức lao động ở một số trung tâm kinh tế lớn trong cả nước như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
- Tăng cường hoàn thiện hệ thống ngân hàng các cấp đủ sức thực hiện chức năng trung tâm tiền tệ, thanh toán và tín dụng trong điều kiện thừa nhận cơ chế thị trường.
Việc sử dụng công cụ quản lý vĩ mô có thành công hay không một phần lớn phụ thuộc vào công tác cán bộ. Một yêu cầu rất cấp bách là phải đào tạo lại cán bộ và bố trí cán bộ đúng với năng lực chuyên môn của từng người. Khoa học quản lý khác với khoa học cơ bản ở chỗ vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật và gắn liền với các yếu tố chính trị - kinh tế - xã hội và tư duy.
7. Đổi mới ở một số lĩnh vực khác:
7.1. Đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý kinh tế.
Cơ chế quản lý kinh tế và chính sách của Nhà nước phải được thể chế hoá một cách đồng bộ và nhất quán tạo điều kiện và môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đưa cạnh tranh vào quĩ đạo đúng đắn. Nhà nước cần xác lập một hệ thống chính sách và công cụ quản lý kinh tế để làm sao cho vừa chấp nhận sự tự điều chỉnh cuả thị trường lại vừa chủ động điều tiết nền kinh tế, vừa ổn định được kinh tế vĩ mô lại vừa tác động đến cung cầu trên thị trường, cơ chế thị trường không thể tách rời việc phát triển môi trường bền vững, công nghệ tiên tiến và xã hội văn minh ở nước ta. Vì vậy vấn đề xuyên suốt toàn bộ cơ chế quản lý kinh tế là sự phối hợp đồng bộ hệ thống pháp luật, chính sách và công cụ kinh tế của Nhà nước gắn với việc lựa chọn sử dụng tối ưu các vấn đề môi trường, công nghệ và xã hội.
Chúng ta cần tăng cường nâng cao vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước để nó thực sự làm chủ được các lĩnh vực then chốt từ đó điều chỉnh nền kinh tế của hệ thống này thông qua tổng cung và tổng cầu.
Nhà nước cần xác định các quyền đại diện sở hữu hợp pháp và địa vị pháp lý của doanh nghiệp Nhà nước, làm rõ các quan hệ giữa doanh nghiệp và Nhà nước, Nhà nước thực hiện trao quyền tự chủ rộng rãi cho các doanh nghiệp Nhà nước đồng thời hạn chế tối đa tình trạng độc quyền.
7.2. Nhà nước can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết.
Định hướng, tạo môi trường, phân phối thu nhập là công việc cần thiết thể hiện vai trò của Nhà nước trong một chiến lược lâu dài. Trong quá trình thực hiện chiến lược đó, dưới ảnh hưởng của cơ chế cung cầu giá cả trong thị trường nội địa, đồng thời dưới ảnh hưởng của quan hệ kinh tế quốc tế, chính vì vậy trong quá trình thực hiện mục tiêu định hướng của các chương trình dài hạn những "cú sốc" làm chệch mục tiêu là không thể tránh khỏi. Trong trường hợp đó Nhà nước cần sử dụng những công cụ như lãi suất, thuế, khối lượng tiền tệ và chi tiêu ngân sách để làm giảm những chấn động do cú sốc gây ra.
7.3. Tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần phát triển.
Mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều kiện kinh tế - xã hội cầu vừa đủ. Thực tiễn cho thấy rằng: con đường lịch sử tự nhiên của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển lâu dài. Ngày nay, khi kinh nghiệm lịch sử của các nước đã trở thành lý luận, các nước đi sau có thể rút ngắn chặng đường phát triển của mình chỉ bằng cách: Nhà nước chủ động sử dụng kiến trúc thượng tầng - quyền lực Nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rộng phát triển sản xuất. Để hoàn thành vai trò đó Nhà nước ta cần phải:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế
- Qui định và đảm bảo các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường.
- ổn định về chính trị và xã hội.
7.4. Quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý.
Trong nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta, Nhà nước cùng một lúc phải hoàn thành hai nhiệm vụ lớn trong lĩnh vực kinh tế.
- Điều khiển sự vận động của nền kinh tế bằng cách hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn và ngắn hạn, quyết định các phương án phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân sao cho công bằng, hiệu quả tạo môi trường thuận lợi hướng dẫn các doanh nghiệp làm ăn.
- Cùng với chức năng điều khiển nền kinh tế, Nhà nước còn phải đóng vai trò người quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực của sản xuất một cách hợp lý.
Nhà nước là người thay mặt nhân dân quản lý các đặc quyền đặc lợi về kinh tế trong cương vực quốc gia. Về mặt đối ngoại có trách nhiệm bảo vệ các nguồn lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến các vùng đặc quyền đặc lợi trong lòng đất, vùng trời, vùng biển. Về mặt đối nội Nhà nước là người chủ sở hữu các nguồn lực này, phân bố sử dụng giữa các thành phần kinh tế sao cho hợp lý.
Đồng thời Nhà nước còn là chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước quản lý trực tiếp và đóng vai trò độc quyền ở các thị trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của thể chế với tư cách là người chủ quản lý đất nước, Nhà nước là người trọng tài, là chủ thể của quá trình phân công lại vai trò giữa các thành phần kinh tế không làm triệt tiêu lợi ích chung của toàn xã hội.
7.5. Tiếp tục kiềm chế lạm phát vẫn là nhiệm vụ trọng tâm trong những năm trước mắt mặc dù đến thời điểm này nước ta đã đạt được những kết quả nhất định.
Lạm phát "phi mã" ở Việt Nam chỉ được chặn đứng sau khi thực sự hiểu rằng nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp làm cho lạm phát gia tăng là có quá nhiều tiền trong lưu thông (chứ không phải cứ nghèo và kinh tế kém phát triển thì tất yếu có lạm phát cao) hàng chục năm chống lạm phát không thành công bằng cơ chế và công cụ cũ. Chỉ sau khi kiên quyết sử dụng biện pháp của kinh tế thị trường đặc biệt là chính sách lãi suất hạn chế phát hành để bù đắp thiếu hụt ngân sách... thì mới kiềm chế được lạm phát. Hiện nay tốc độ lạm phát hàng năm đã giảm xuống nhưng vẫn chưa thực vững chắc và còn ở mức cao. Năm 2003, giá hàng tiêu dùng tăng khoảng 3% so với kế hoạch đề ra là dưới 5%.
Để thành công bước ngoặt sang kinh tế thị trường, khâu cấp bách nhất là giải pháp chống lạm phát, chống lạm phát ở nước ta hiện nay thực chất là đổi mới căn bản, cũng tức là xây dựng lại cơ chế, định chế tiền tệ tín dụng tài chính vĩ mô theo nguyên tắc thông lệ của kinh tế thị trường. Như vậy nhằm tạo ra đồng tiền ngân hàng Nhà nước tương đối vững giá, từ đó mới có thể hình thành hệ thống giá cả, lãi suất và tỷ giá thị trường, tăng khả năng động viên tích tụ và tích tụ các nguồn vốn trong nước và ngoài nước nhằm đảm bảo cân đối chiến lược về vốn - nhân tố trực tiếp quyết định giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất xã hội, đồng thời từng bước làm lành mạnh nền tài chính quốc gia, tạo ra và tăng cường tiềm lực và công cụ kinh tế của sự điều tiết vĩ mô. Cũng từ đó thúc đẩy phát triển hệ thống thị trường ngày càng đầy đủ và tương đối ổn định làm môi trường và mọi thành phần kinh tế hợp tác và đua tranh phát triển kinh tế quốc doanh thực sự đi vào kinh doanh. Giải pháp chống lạm phát như vậy là cái ngưỡng mà chỉ khi vượt qua ta mới có thể thực hiện bước ngoặt đầu tiên song quỹ đạo của nền kinh tế thị trường có điều tiết vĩ mô với định hướng XHCN.
7.6. Một số biện pháp nhằm hợp lý hoá chính sách xuất nhập khẩu.
Thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, thương mại quốc tế thúc đẩy phân công lao động và hợp tác hai bên cùng có lợi. Thương mại tự do mở cửa tạo điều kiện cho mỗi nước mở rộng khả năng sản xuất và tiêu thụ của mình, nâng cao sản lượng và mức sống của toàn thế giới.
Đến nay Việt Nam đã có mối quan hệ thương mại với trên 100 quốc gia và khu vực, trở thành thành viên của ASEAN năm 1995 và APEC năm 1998. Việt Nam cũng tham gia tích cực vào các hoạt động trong khuôn khổ hợp tác á-Âu và đang trong quá trình chuẩn bị những bước cơ bản để gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Hoạt động ngoại thương Việt Nam trong hơn một thập kỷ qua đã có những tiến bộ vượt bậc cả về số lượng lẫn về chất lượng. Từ chỗ chủ yếu chỉ trao đổi hàng hoá với các nước thuộc Liên Xô (cũ) và một số nước Đông Âu trên cơ sở các hiệp định do Chính phủ ký kết và giao cho một số Công ty ngoại thương Nhà nước độc quyền thực hiện, đến nay Việt Nam đã trở thành một trong những nước có mức độ mở cửa với thương mại thế giới cao.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 1996-2000 đạt trên 51,6 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm trên 21%, gấp 3 lần mức tăng GDP. Khối lượng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng khá. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự thay đổi một bước. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông lâm thủy sản tuy vẫn chiếm vị trí quan trọng nhưng có xu hướng giảm dần từ 42,3% năm 1996 xuống còn 30% năm 2000, tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp tăng tương ứng từ 29% lên 34,3%; nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản từ 28,7% lên 35,7%. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu dạt trên 184 USD/người, tuy còn ở mức thấp nhưng đã thuộc loại các nước có nền ngoại thương phát triển. Thị trường xuất nhập khẩu được củng cố và mở rộng thêm. Thị trường châu á chiếm gần 58% tổng kim ngạch xuất khẩu và trên 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam; riêng thị trường các nước ASEAN tương ứng trên 18% và 29%. Trên một số thị trường khác như EU, châu Mỹ, Trung Đông hàng xuất khẩu của ta đã có mặt và đang tăng đần. Tổng kim ngạch nhập khẩu 5 năm 1996 - 2000 khoảng 61 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm khoảng 13,3%; tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể, từ 13% năm 1996 còn 5,2% năm 2000. Mức chênh lệch xuất nhập khẩu so với kim ngạch xuất khẩu đã từ 49,6% năm 1995 giảm xuống còn 6,3% vào năm 2000. Kim ngạch xuất khẩu năm 2003 đạt 19,5 tỷ USD, tăng 16,7% so với kế hoạch là 8-8,5%, vượt mức kế hoạch đề ra.
Trong chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2005 là tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. Năm 2004 phấn đấu kim ngạch xuất khẩu đạt 21,7 tỷ USD, tăng 11,3% so với năm 2003. Kim ngạch nhập khẩu năm 2004 đạt 26 tỷ USD, tăng 8,3% so với năm 2003.
Song song với việc không ngừng mở rộng thị trường và thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu, Việt Nam cần có những chính sách và cơ chế thương mại phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
Nghiên cứu các thị trường khác như EU, Nga, Trung Quốc... chúng ta rút ra nhận định chung: tính cạnh tranh của hàng Việt Nam còn yếu. Muốn mở rộng thị trường, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu cần thực hiện các biện pháp sau.
- Cho phép các doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần kinh tế đều được tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trong phạm vi đăng ký kinh doanh của họ, đồng thời bãi bỏ các giấy phép xuất nhập khẩu cùng với những yêu cầu về vốn tối thiểu và những điều kiện khác.
- Tiếp tục cải cách các chính sách và các quy định liên quan đến thương mại quốc tế nhất là về thuế, thuế quan và hàng rào phi thuế quan... cùng với những thủ tục hành chính rườm rà trong nhiều khâu, đặc biệt là hải quan... theo hướng đơn giản, thuận lợi cho các hoạt động thương mại quốc tế.
- Bộ máy hành chính và quản lý kinh tế thương mại phải được cơ cấu lại cho gọn nhẹ và có hiệu năng, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu mới về kỹ năng công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Những ưu tiên hàng đầu có tầm quan trọng đặc biệt là phải nhành chóng xây dựng chiến lược, điều chỉnh cơ cấu và nâng cao năng lực cạnh tranh. Những chính sách cụ thể phải tập trung giải quyết từng bước vững chắc sớm là: các biện pháp để thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia tối huệ quốc, lịch trình cắt giảm thuế quan một cách hợp lý và loại bỏ các rào cản phi thuế quan, các hạn chế về số lượng lựa chọn những biện pháp bảo hộ có điều kiện... và cuối cùng là thực hiện các nguyên tắc minh bạch và công khai.
- Nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu: Để mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu thì đây là biện pháp quan trọng hàng đầu. Các doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư chiều sâu tiếp nhận công nghệ tiên tiến, củng cố khâu quản lý, tăng năng suất lao động thực hành tiết kiệm vật tư, giữ chữ tín với khách hàng. Đặc biệt cần sớm áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng, năng suất theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Cung cấp đầy đủ thông tin cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Một trong những khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp là đói thông tin về thị trường nước ngoài. Đề giải quyết vấn đề này Nhà nước cần cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường nước ngoài, trước mắt là 68 thị trường có quan hệ ưu đãi thương mại với Việt Nam bằng nhiều cách: thông tin đại chúng, tập san, nói chuyện chuyên đề.
- Đào tạo đội ngũ doanh nhân Việt Nam giỏi nghiệp vụ, ngoại ngữ, có bản lĩnh, giàu nghị lực, dám đương đầu với khó khăn, dám cạnh tranh và giành chiến thắng.
- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại. Cần thành lập cơ quan xúc tiến thương mại quốc gia có chi nhánh ở các trung tâm thương mại lớn của đất nước, để quản lý và định hướng cho hoạt động quan trọng này.
Thách thức và khó khăn rõ ràng là rất lớn, song Việt Nam đã và đang nổ lực để thực hiện đầy đủ những cam kết song phương và đa phương, đưa thương mại Việt Nam sang một trình độ và giai đoạn phát triển mới.
Kết luận
ở nước ta kể từ sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng năm 1954 và cho đến trước năm 1986 chúng ta đã áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Trong giai đoạn này Nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế làm cho các quy luật kinh tế khách quan hoạt động sai lệch, chẳng hạn như việc ổn định giá cả làm cho quan hệ trao đổi ngang bằng bị méo mó, phân phối vật tư thiết bị định hướng thực chất cũng làm giảm yếu tố đầu vào thì làm sao có sản phẩm đầu ra tăng lên. Để ổn định kinh tế, Nhà nước chủ trương giải quyết việc làm cho tất cả bằng cách áp dụng biên chế theo kiểu biên chế suốt đời không có sự cạnh tranh nào, do đó dẫn đến làm giảm lao động xã hội và không còn động lực cho sự phát triển vì lợi ích bị xoá bỏ... sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào nền kinh tế đã dẫn đến sự thất bại của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bằng những biểu hiện như khủng hoảng, lạm phát... ở nước ta những năm 1980.
Trước thực trạng kinh tế như vậy, Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới cơ chế kinh tế, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tuy nhiên cơ chế thị trường ngoài những ưu điểm của nó ra thì nó cũng đã bộc lộ những khuyết điểm hạn chế. Mặc khác, nền kinh tế nước ta còn phân tán mạnh cán bộ quản lý còn chưa có kinh nghiệm, do đó vai trò quản lý của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước đóng vai trò kim chỉ nam cho thị trường phát triển đúng hướng, phát triển theo đúng quỹ đạo đã vạch ra. Sự can thiệp đó phải được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền tự do dân chủ, công bằng xã hội trong phân phối kinh tế và mở rộng phúc lợi xã hội cho toàn dân bằng hệ thống hàng hoá công cộng. Ngay từ đầu Nhà nước phải xác định đúng mục tiêu quản lý của mình, có như vậy mới có được sự thành công trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế thị trường phải được thực hiện từng bước, không được nóng vội, đốt cháy giai đoạn, nếu không sẽ đưa đến hậu quả khó lường. Nhà nước cần phải nhìn nhận được những lợi thế so sánh của mình về các nguồn lực để nâng cao dần vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Do đó, vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước phải được đổi mới, phát triển theo thời gian và ngày càng được củng cố hoàn thiện để đáp ứng và khắc phục tốt hậu quả của cơ chế thị trường.
Qua tham khảo các tài liệu cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo em đã hoàn thành đề án này một cách tốt đẹp.
Tuy nhiên, do vấn đề: "Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay" là một vấn đề lớn cần có sự nghiên cứu sâu và kiểm nghiệm trên thực tế, do đó với phạm vi và nội dung của bài viết chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy em rất mong thầy giáo sửa chữa và bổ sung những thiếu sót này để đề án cũng như nhận thức của em về vấn đề này được hoàn thiện hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX.
Kinh tế học – Paul Samuelson.
Cơ chế thị trường và vai trò Nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam- GS.TS Lương Xuân Quỳ – Nhà xuất bản thống kê.
Giáo trình kinh tế chính trị, tập II.
Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế.
Vũ Ngọc Nhung- Bàn thêm về kinh tế thị trường định hướng XHCN-Tạp chí kinh tế phát triển.
Dương Thị Liễu – Vai trò Nhà nước trong việc định hướng XHCN kinh tế thị trường của nước ta. ( Kinh tế phát triển , số 13/1996).
Nguyễn Thị Việt Hưng – Nâng cao vai trò của Nhà nước XHCN trong nền kinh tế thị trường ( Thông tin-lí luận, số 27/1998).
Phạm Văn Hùng – Xung quanh vấn đề vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước Thông tin-lí luận, số 5/1998).
Đào Duy Tùng – Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ 1955 đến năm 1993.
Võ Kim Sơn – Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hội nhập và toàn cầu hoá ( Tạp chí Quản lí nhà nước, số 4/1998).
Đặng Biên – Nền kinh tế rhị trường theo định hướng XHCN ở nước ta ( Thông tin- lí luận, số 1/1995).
Nguyễn Hữu Vượng – Từ phương diện triết học suy nghĩ về đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. ( Tạp chí Triết học, số 1/1998).
Dương Bá Phượng, Nguyễn Minh Khải – Kinh tế thị trường và định hướng XHCN (Tạp chí cộng sản, số 18/1998).
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1996-2000, 2001-2005, và năm 2004 của bộ kế hoạch và đầu tư - www.mpi.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33785.doc