Đề án Thị trường Chứng khoán Việt Nam

Để xem xét một cách rõ ràng Quy trình vận hành và kinh doanh trên thị trường chứng khoán chúng ta có thể xem xét Quy trình vận hành và kinh doanh chứng khoán tại Sở Giao dịch Chứng khoán : Gồm trình tự các bước như sau: . Khách hàng đặt lệnh mua hoặc lệnh bán chứng khoán tới các công ty chứng khoán, nơi mà mình mở tài khoản . . Công ty Chứng khoán nhận lệnh và chuyển các lệnh đó đến người đại diện của Công ty mình tại Sở Giao dịch Chứng khoán dưới hình thức một lệnh đặt hàng. . Sở Giao dịch tiến hành tổ chức Đấu giá công khai theo các loại giá nhận được. .Thông báo kết quả giao dịch lên bảng điện tử để cho Công ty chứng khoán thực hiện việc đặt mua hay bán chứng khoán (tiến hành Giao dịch). . Thực hiện việc Giao chứng khoán sau khi đã giao dịch xong. . Thanh toán.

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1491 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thị trường Chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ũng được coi là công trái ngắn hạn và lãi suất của Kỳ phiếu được ấn định ngay từ khi phát hành. 1.2. Thị trường Chứng khoán : 1.2.1. Khái niệm: Thị trường Chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán, trao đổi, chuyển nhượng các loại hàng hoá tài chính (như Cổ phiếu, Trái phiếu, kỳ phiếu, và các khoản vay Ngân hang có kỳ hạn trên một năm ....) nhằm mục đích kiếm lời. 1.2.2. Các loại Thị trường Chứng khoán : Có 02 loại Thị trường Chứng khoán : 1.2.2.1. Thị trường Chứng khoán Sơ cấp: Là Thị trường phát hành các loại Chứng khoán . Nhà phát hành ( đối với Trái phiếu chủ yếu là Chính phủ ) hoặc các Doanh nghiệp muốn huy động vốn phải phát hành Chứng khoán ra Thị trường Chứng khoán Sơ cấp. 1.2.2.2. Thị trường Chứng khoán Thứ cấp : Là Thị trường mà các Chứng khoán được Mua bán lại các Chứng khoán đã được bán ở Thị trường Sơ cấp. Trên Thị trường Thứ cấp, lợi nhuận thu được từ việc bán Chứng khoán thuộc về Nhà đầu tư và những người buôn bán chứ không thuộc về các Nhà phát hành Chứng khoán . Thị trường Chứng khoán Thứ cấp lại bao gồm: * Sở Giao dịch Chứng khoán : là cơ quan đại diện cho Thị trường Giao dịch Chứng khoán tập trung, nơi các công ty môi giới Chứng khoán mua bán và Giao dịch theo phương thức đấu giá. Các Chứng khoán niêm yết và Giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán phải là các Chứng khoán của các công ty lớn có Chất lượng cao. * Thị trường Chứng khoán Phi tập trung ( viết tắt là Thị trường OTC ): là nơi đại diện cho một Thị trường thương lượng, nơi mà một người bán thương lượng với một người mua. Các Chứng khoán giao dịch tại Thị trường OTC thường là các Chứng khoán của các Công ty vừa và nhỏ, không đủ các tiêu chuẩn niêm yết tại các Sở Giao dịch Chứng khoán . 1.3. Thị trường Tài chính và mối quan hệ giữa Thị trường Tài chính với Thị trường Chứng khoán: 1.3.1. Thị trường Tài Chính: Hệ thống Tài chính là sự tập hợp các loại thị trường, các tổ chức, pháp luật và sử dụng các kỹ thuật, qua đó các cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán khác được mua bán giao dịch, xác định lãi suất của thị trường, tạo ra và chuyển giao các dịch vụ tài chính. Hệ thống tài chính quyết định giá cả của các loại tín dụng và quy mô sẵn có của các khoản tín dụng để thanh toán cho hàng ngàn loại hàng hoá và dịch vụ mà chúng ta mua hàng ngày. Nhiệm vụ chính của Thị trường Tài chính là luân chuyển các nguồn vốn từ những người có tiến tiết kiệm tới những người cần sử dụng vốn để đầu tư vào Sản xuất Kinh doanh. Với mục đích tạo ra các nguồn vốn sẵn có để cho vay, hệ thống tài chính cung cấp các phương thức mà nhờ đó nền Kinh tế hiện đại tăng trưởng và phát triển, nâng cao mức sống của nhân dân. Thị trường Tài chính được phân ra thành các loại Thị trườngnhư sau: - Thị trường tiền tệ với Thị trường Vốn. - Thị trường Mở với Thị trường thương lượng. - Thị trường Sơ cấp với Thị trường Thứ cấp.... Trên Thị trường Tài chính, các hình thức tài trợ vốn có thể phân ra thành hai loại: - Tài trợ trực tiếp: là việc người đi vay và người cho vay trực tiếp gặp nhau, trao đổi tiền vốn để lấy các tài sản tài chính. - Tài trợ gián tiếp: là việc tài trợ thông qua người trung gian. Người trung gian nhận tiền gửi của người cho vay và sử dụng nguồn tiền này để cho vay lại tới người có nhu cầu về vốn. 1.3.2. Mối quan hệ giữa Thị trường Tài chính với Thị trường Chứng khoán : Thị trường Chứng khoán nằm trong Thị trường Vốn dài hạn, hoạt động thông qua cơ chế tài trợ trực tiếp. Như vậy, thông qua các cơ chế cụ thể của Thị trường để các nhà đầu tư và người đi vay gặp được nhau rồi thoả thuận về việc vay vốn trên Thị trường. Hàng hoá của Thị trường Chứng khoán chính là các loại cổ phiếu, trái phiếu do các Công ty, chính phủ và các cơ quan của chính phủ, chính quyền địa phương phát hành. Thị trường Vốn là nơi các Doanh nghiệp, cá nhân đi vay thông qua các trung gian tài chính như các Ngân hàng, các tổ chức nhận tiền gửi, thị trường liên ngân hàng.... để có được các nguồn vốn dài hạn, còn Thị trường Chứng khoán là nơi mà người đi vay và người cho vay gặp nhau trên Thị trường thông qua một cơ chế, quy trình điều chỉnh, trực tiếp thương lượng mua bán các loại Chứng khoán trong nền Kinh tế . 1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của Thị trường Chứng khoán : Thị trường Chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai, xuất phát từ một sự cần thiết đơn lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ XV tại những Thành phố Trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các Quán Cà phê để trao đổi việc Mua bán, trao đổi và thương lượng về các loại vật phẩm Hàng hóa, ngoại tệ và giá nông sản, khoáng sản, động sản .... lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, dần dần sau đó tăng lên dần thành một khu chợ riêng. Cuối Thế kỷ XV, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành "Thị trường" với việc họ thống nhất các quy ước được sửa đổi thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung đối vơí các thành viên tham gia Thị trường. Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của Gia đình Vanber ở Bruges (Vương quốc Bỉ) , nơi mà các thương gia từ nhiều nước, trong đó ;phần lớn là người Italya thường gặp gỡ để mua các kỳ phiếu nước ngoài và trao đổi các thông tin về kinh doanh. Tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da bằng Tiếng Pháp là "BOURSE", nghĩa là " Mậu dịch Thị trường ", hay còn gọi là " Sở Giao dịch ", sau đó dần dần phát triển sang các nước như Anh, Pháp, Đức, Hà lan, Tây Âu, Bắc Âu và Bắc Mỹ. "Mậu dịch Thị trường" được chia thành 3 loại: Mậu dịch Thị trường về hàng hoá, mậu dịch Thị trường về ngoại tệ, và mậu dịch Thị trường giá khoáng - động sản. Mậu dịch Thị trường Khoáng - Động sản dần dần tách ra thành Thị trường Chứng khoán và các giao dịch hợp đồng cho tương lai được tách ra thành Thị trường Kỳ hạn. Nhận thức được vai trò của Thị trường Chứng khoán đối với sự phát triển Kinh tế, một số nước đã thiết lập một nơi giao dịch chính thức được gọi là Sở Giao dich Chứng khoán. Sở Giao dịch Chứng khoán Pháp thành lập năm 1724 tại Paris, Sở Giao dịch Chứng khoán Anh thành lập năm 1802, Sở Giao dịch Chứng khoán Mỹ thành lập năm 1878..... Ngày nay, theo sự phát triển của Khoa học, Kỹ thuật, Công nghệ, các phương thức Giao dịch ở các Sở Giao dịch Chứng khoán cũng được cải tiến dần theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại Hiệu quả và Chất lượng cho Giao dịch, các Sở Giao dịch Chứng khoán đã dần dần sử dụng máy Vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyển dần từ Giao dịch thủ công kết hợp với máy Vi tính sang sử dụng hoàn toàn Hệ thống Giao dịch điện tử thay cho thủ công trước kia. Lịch sử phát triển các Thị trường Chứng khoán trên Thế giới đã trải qua một sự phát triển thăng trầm lúc lên lúc xuống, vào những năm 1875 - 1913 : Thị trường Chứng khoán Thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự Tăng trưởng của nền Kinh tế Thế giới lúc đó, nhưng rồi đến "ngày thứ năm đen tối", tức là ngày 29 - 10 - 1929 đã làm cho Thị trường Chứng khoán Tây, Bắc Âu và Nhật bản rơi vào tình trạng khủng hoảng và mất lòng tin. Cho mãi tới khi Chiến tranh Thế giới lần thứ hai kết thúc, các Thị trường Chứng khoán cũng phục hồi dần dần và phát triển mạnh. Rồi cho đến năm 1987 một lần nữa Thị trường Chứng khoán Thế giới lại bị điên đảo với "ngày thứ hai khủng khiếp" do Hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được yêu cầu của Giao dịch , gây nên sự sụt giá Chứng khoán ghê gớm, mất lòng tin của khách hàng rồi phản ứng dây chuyền mà các hậu quả của nó còn nặng hơn cuộc khủng hoảng năm 1929 . Gần đây, Thị trường Chứng khoán Thế giới đã lại có thêm một cuộc khủng hoảng nhẹ vào tháng 11 năm 1997 do cuộc Khủng hoảng Tài chính Tiền tệ Châu á và Hồng Kông làm tăng lãi suất khiến cho Thị trường Chứng khoán ở tất cả các nước đã bị giảm giá trong vòng từ 1 - 2 ngày. Cho đến nay, phần lớn các nước trên Thế giới đã có khoảng trên 160 Sở Giao dịch Chứng khoán phân tán khắp ở tất cả các Châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực Đông Nam á được hình thành và phát triển vào những năm 1960 - 1970, và ở các nước Đông Âu ( Balan, Hungary, Séc, Nga,) và Châu á ( Trung Quốc ) vào những năm 1980 - đầu những năm 1990. Lịch sử hình thành và phát triển của Thị trường Chứng khoán trên Thế giới cho thấy giai đoạn đầu Thị trường phát triển một cách tự phát, với sự tham gia của các nhà đầu cơ. Dần dần về sau mới có sự tham gia của Công chúng đầu tư. Khi phát triển đến một mức độ nhất định, Thị trường lại phát sinh những trục trặc dẫn đến phải thành lập cơ quan Quản lý Nhà nước và hình thành Hệ thống Pháp lý để điều chỉnh hoạt động của Thị trường . Kinh nghiệm cho thấy rằng các Thị trường Chứng khoán sau khi thiết lập muốn có hoạt động Hiệu quả, ổn định và nhanh chóng phát triển vững chắc phải có sự chuẩn bị chu đáo mọi mặt về Hàng hóa, Luật pháp, Con người, Bộ máy Quản lý và nhất là sự giám sát, kiểm tra nghiêm ngặt của Nhà nước . Song cũng có một số Thị trường Chứng khoán có sự trục trặc ngay từ ban đầu như Thị trường Chứng khoán Thái Lan, Inđônêsia, hoạt động trì trệ một thời gian dài (do thiếu Hàng hóa và do không được quan tâm đúng mức), Thị trường Chứng khoán ở Philipin lại kém Hiệu quả do thiếu sự chỉ đạo và Quản lý thống nhất hoạt động của Hai sở Giao dịch Chứng khoán ( tại Makita và Manila ), Thị trường Chứng khoán Balan, Hungary lại gặp trục trặc do việc chỉ đạo giá cả quá cao hoặc quá thấp. Cho tới nay, Thị trường Chứng khoán phát triển ở mực có thể nói là một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống Kinh tế của những nước theo Cơ chế Thị trường và nhất là đối với các nước Đang phát triển do cần thu hút luồng vốn lớn dài hạn cho nền Kinh tế Quôc dân . 1.5. Vai trò và chức năng của Thị trường Chứng khoán trong Nền Kinh tế Quốc dân: Thị trường Chứng khoán là một thể chế tài chính bậc cao, hoạt động của nó thông qua các công cụ là cổ phiếu, trái phiếu, và với nhiều loại hình khác nhau phù hợp với tâm lý muôn vẻ của dân chúng, qua đó cho phép các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính và chính phủ huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư phát triển kinh tế. Bài học kinh nghiệm của các tập đoàn kinh tế mạnh trên thế giới cho thấy : không thể triển khai các dự án tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nếu không tập hợp được những nguồn vốn nhàn rỗi, phân tán trong dân chúng thành một nguồn vốn khổng lồ, mà người tập hợp có toàn quyền sử dụng vào những mục tiêu trung hạn và dài hạn. Có thể nói, cùng với hệ thống huyết mạch của ngành ngân hàng, Thị trường Chứng khoán đóng vai trò là "bà đỡ" thứ hai cho các dự án kinh doanh tiến bộ đi vào cuộc sống, là biện pháp chủ yếu của việc giải phóng mọi năng lực sản xuất. ĐIều này đã được thử nghiệm và được khẳng địnhở hầu hết các doanh nghiệp thành đạt trên thế giới trong nhiều thập kỷ qua. 1.5.1. Các Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán : 1.5.1. Ưu điểm của Thị trường Chứng khoán : 1.5.1.1.Thị trường Chứng khoán là một thể chế tài chính hữu hiệu, nhằm tạo ra các công cụ để khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi đầu tư cho phát triển kinh tế : Bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào cho dù là sở hữu Nhà nước hay sở hữu Tư nhân, khi cần vốn đầu tư cũng cần phải thực hiện thông qua hai giải pháp: 1) Giải pháp Nội lực : tức là bản thân doanh nghiệp tự tích luỹ từ nội bộ thông qua lợi nhuận đạt được do làm ăn có hiệu quả; 2) Giải pháp Ngoại lực : tức là huy động các nguồn vốn từ bên ngoài, thông qua các hình thức tài trợ tín dụng từ phía các ngân hàng (nguồn vốn ngắn hạn) và thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn (vốn dài hạn). Các hình thức huy động Ngoại lực muốn có hiệu quả phải dựa trên cơ sở phát huy nguồn vốn tiết kiệm dồi dào trong dân chúng (đầu tư gián tiếp qua ngân hàng) và việc mua cổ phiếu, trái phiếu của dân chúng (đầu tư trực tiếp). Thị trường Chứng khoán ra đời, đã tạo ra những công cụ mới, tinh tế và đa dạng trong các phương cách đầu tư của đông đảo công chúng có tâm lý và suy nghĩ khác nhau. Với một hệ thống đa dạng các loại chứng khoán, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các hợp đồng lựa chọn, hợp đồng tương lai, chứng quyền, .... có thể đáp ứng yêu cầu lựa chọn của những người đầu tư trực tiếp (cổ phiếu, trái phiếu), hoặc thông qua các tổ chức tài chính trung gian (quỹ đầu tư) để lựa chọn những nơi đầu tư có hiệu quả. 1.5.1.2. Thị trường Chứng khoán là công cụ để Nhà nước phát hành Trái phiếu, Chính phủ huy động vốn phục vụ cho các Chương trình phát triển Kinh tế : Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển Kinh tế . Nền Kinh tế tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và các biện pháp can thiệp của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước càng lớn mạnhthì khả năng thực hiện thành công các chiến lược kinh tế - xã hội càng dễ dàng. Tuy nhiên, nguồn vốn cho chi tiêu ngân sách phụ thuộc phần lớn vào chính sách thuế của mỗi quốc gia và các khoản thu nhập từ khai thác tài nguyên. Trong thực tế, các khoản thu ngân sách thường không đáp ứng đủ và kịp thời các khoản chi, lúc đó ngân sách Nhà nước thường sử dụng các giải pháp vay tạm thời từ dân chúng thông qua việc phát hành các loại trái phiếu ngắn và dài hạn. Ngày nay, ở hầu hết các quốc gia, việc Nhà nước vay của dân thông qua phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường chứng khoán là biện pháp thường xuyên và mang tính kỹ thuật tiên tiến. Việc Thị trường Chứng khoán ra đời, bản thân nó không những tạo ra tính thanh khoản và tính khả mại (tính dễ dàng mua bán) của các chứng khoán, mà còn tạo ra tính linh hoạt trong việc chuyển hướng đầu tư cho các nhà đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Như vậy, chính trái phiếu đã tạo ra thị trường và đến lượt nó thị trường chứng khoán lại tạo ra tính thanh khoản cho các chứng khoán, làm cho việc phát hành các trái phiếu của chính phủ được tiến hành một cách thường xuyên. Vì thế, nó được xem như một công cụ đắc lực trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn . 1.5.1.3. Thị trường Chứng khoán là công cụ để Nhà nước huy động và kiểm soát các nguồn vốn đầu tư nước ngoài: Vốn đầu tư nước ngoài có vị trí và vai trò quan trọng, đặc biệt là đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển. Các khoản vốn đầu tư nước ngoài thường được thu hút dưới hai hình thức, đó là đầu tư trực tiếp thông qua các dự án Sản xuất - Kinh doanh, và đầu tư gián tiếp thông qua các định chế tài chính trung gian. Cả hai loại hình đầu tư này nếu như không có TTCK thì không phá huy được tính hiệu quả của nó. Khi tham gia vào thị trường vốn trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn thông qua tỷ lệ nắm giữ các Chứng khoán đối với các tổ chức phát hành. Vì vậy, việc kiểm soát tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài vào các lĩnh vực đầu tư trong nước qua các giai đoạn phát triển khác nhau là việc hoàn toàn có thể thực hiện được trên thị trường chứng khoán. Khi mua bán, chuyền nhượng chứng khoán, các nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện việc đăng ký, lưu ký chứng khoán thông qua các tổ chức lưu ký. Điều này cho phép Nhà nước có thể kiểm soát được các tổ chức, cá nhân nước ngoài góp vốn và các tỷ lệ nắm giữ trong từng doanh nghiệp, cũng như trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. 1.5.1.4. Thị trường Chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi để di chuyển các nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế: Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được mua đi bán lại trên Thị trường Chứng khoán như một thứ hàng hoá. Người nắm giữ Chứng khoán không sợ vốn của mình bị bất động bởi một lĩnh vực đầu tư mà mình không vừa ý, hoặc khi có nhu cầu chuyển hướng kinh doanh họ có thể bán các chứng khoán đó trên thị trường chứng khoán để mua lại một chứng khoán khác mà họ thích đầu tư (đây là tính linh hoạt của chứng khoán). Với một thị trường chứng khoán hoạt động tốt, các nhà doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực công nghệ mới. Điều này làm cho vốn của các nhà đầu tư luôn được luân chuyển để tài trợ cho các dự án khác nhau (lưu động hoá tư bản). Với sự xuất hiện của thị trường chứng khoán, khoảng cách giữa người tiết kiệm và nhà đầu tư được xoá bỏ.. Khi mua cổ phiếu thì thực chất người tiết kiệm đã trở thành một nhà đầu tư bởi vì khi mua cổ phiếu thì họ đã có những lựa chọn để đầu tư vào lĩnh vực có lợi nhất. Đứng trước hàng loạt các biến đổi thường xuyên của nền kinh tế trong đó một số ngành phát đạt và làm ăn có lãi, trong khi các ngành khác làm ăn thua lỗ. Những nhà đầu tư này phải đưa ra các quyết định về việc họ có nên duy trì đầu tư trong lĩnh vực cũ hay di chuyển sang lĩnh vực mới . Chính vì thế, thị trường chứng khoán giúp các nhà đầu tư di chuyển vốn từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác một cách dễ dàng. 1.5.1.5. Thị trường Chứng khoán tạo điều kiện thúc đẩy quá trình Cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước : Xu hướng quốc tê hiện nay là giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động Kinh tế bằng cách giảm tỷ lệ sở hữu của Nhà nước trong các Doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh mà Nhà nước xét thấy không cần thiết và không ảnh hưởng đến tình hình chính trị cũng như an ninh quốc gia. Việc thực hiện cổ phần hoá các DNNN đã tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán thông qua việc bán cổ phần cho các thành phần kinh tế trên cơ sở chuyển đổi từ một chủ sở hữu sang nhiều chủ sở hữu khác nhau. Chính quá trình này đã tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán, ngược lại thị trường chứng khoán cũng tạo cơ sở luân chuyển chứng khoán giữa các nhà đầu tư, tạo động lực kích thích quá trình cổ phần hoá phát triển. Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán là hai tác nhân có mối quan hệ biện chứng với nhau làm tiền đề cho nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Giá cả cổ phiếu của doanh nghiệp được hình thành một cách khách quan trên cơ sở định giá trị tài sản khi thực hiện cổ phần hoá, phản ánh giá trị hiện tại đích thực của doanh nghiệp. Quá trình phát triển của doanh nghiệp sẽ làm cho thị giá của chứng khoán tăng lên hay giảm xuống theo sự biến động của doanh nghiệp trong quá trình SX-KD và được định giá chính thức theo giá chứng khoán trên thị trường. 1.5.1.6. Thị trường Chứng khoán kích thích các Doanh nghiệp tuân thủ pháp luật và quan tâm tới vấn đề hiệu quả: Các tổ chức phát hành chứng khoán muốn niêm yết, giao dịch chứng khoán của mình tại sở giao dịch phải tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt của tiêu chuẩn niêm yết. Các tiêu chuẩn niêm yết này được xem xét trên hai khía cạnh khác nhau, đó là các tiêu chuẩn về mặt định tính và các tiêu chuẩn về mặt định lượng. Mỗi một Thị trường đều có những tiêu chuẩn định tính và định lượng khác nhau, nhưng nhìn chung lại đều xem xét đến các vấn đề : tổng tài sản hiện có của tổ chức niêm yết; tỷ lệ nợ trên tổng số vốn khả dụng; số năm làm ăn có lãi và tỷ lệ cổ tức trên mệnh giá. Ngoài ra, các tiêu chuẩn về sử dụng vốn, cơ cấu phân bổ vốn, cơ cấu HĐQT, ban giám đốc điều hành, nghĩa vụ công bố thông tin công khai, minh bạch cũng được xem xét trong quá trình chấp thuận cho việc niêm yết giao dịch chứng khoán tại sở giao dịch. Chính điều này đã tạo cho các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu quả và tuân thủ pháp luật, bởi lẽ chỉ có như vậy các chứng khoán của họ mới được thị trường chấp nhận và được các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ tiền ra để mua chứng khoán của họ. Các doanh nghiệp khi tham gia thị trường chứng khoán phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Sở giao dịch, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, ngoài ra còn chịu sự chi phối của các công ty kiểm toán độc lập và các công ty đánh giá xếp hạng. Cơ chế hoạt động của công ty cổ phần cho phép chủ sỡ hữu chứng khoán có quyền tham gia điều hành và quản lý công ty. Thông qua việc nắm giữ chứng khoán, nhà đầu tư có quyền biểu quyết, và có thể sẽ tham gia vào HĐQT hoặc ban giám đốc điều hành công ty, khi đó sẽ chịu trách nhiệm về kết qủa kinh doanh, cũng như các xu hướng phát triển của công ty. Chính điều này đã cho phép cơ cấu điều hành của công ty luôn luôn thay đổi, nhằm tìm ra giải pháp làm ăn có hiệu quả và phát huy tính năng động sáng tạo của công ty đó. 1.5.1.7. Thị trường Chứng khoán là một trong những công cụ để các quốc gia hội nhập với nền Kinh tế Thế giới: Thị trường chứng khoán là con đường quan trọng để thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Một doanh nghiệp cần vốn có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vừa có thể phát hành trên thị trường chứng khoán trong nước hoặc ngoài nước. Một doanh nghiệp tư nhân có vốn dư thừa không chỉ có thể mua cổ phiếu của các doanh nghiệp trong nước mà còn có thể thông qua thị trường chứng khoán quốc tế để mua cổ phiếu, trái phiếu nước ngoài, tham gia đầu tư vào các doanh nghiệp nước ngoài. Như vậy, thị trường chứng khoán cũng hình thành mối quan hệ tiền tệ quốc tế, đẩy nhanh sự vận dụng và chu chuyển tiền vốn giữa các nước, thực hiện việc vạy mượn lâu dài trên thị trường quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế các nước hội nhập vào Nền Kinh tế Thế giới. 1.5.1.8. Thị trường chứng khoán hoạt động công bằng và hiệu quả cũng thúc đầy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp : Thị trường chứng khoán là nơi hội tụ các loại cổ phiếu, trái phiếu của các công ty, trong đó giá cổ phiếu của một công ty có thể lên hoặc xuống tại một thời điểm nào đó. Đồng thời nếu so sánh với giá cổ phiếu, trái phiếu của công ty khác cùng lĩnh vực đầu tư thì có thể giá cổ phiếu và trái phiếu của công ty này cao hơn hoặc thấp hơn so với các công ty khác. Điều này thúc đẩy các công ty có giá cổ phiếu, trái phiếu thấp hơn phải xem xét lại các hoạt động của mình để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường . 1.5.1.9. Thị trường chứng khoán cũng là một Phong Vũ Biểu của nền KTQD: Các chỉ số chứng khoán được tạo ra bằng nhiều cách khác nhau nhằm cung cấp các thông tin về tình trạng tốt hay xấu của nền KTQD. Chỉ số chứng khoán nếu tăng đồng nghĩa với tình trạng của nền kinh tế đang có dấu hiệu khả quan, bởi vì tình trạng sản xuất của các công ty, các hãng, các doanh nghiệp (có cổ phiếu được tính trong chỉ số chứng khoán) đang làm ăn phát đạt thì dẫn tới có nhiều người muốn mua cổ phiếu của tổ chức đó, làm cho giá cả của các loại cổ phiếu trái phiếu được đẩy lên dẫn tới chỉ số chứng khoán tăng lên. Như vậy, có thể xem Chỉ số của thị trường chứng khoán như là một phong vữ biểu phản ánh tương đối tình trạng của nền kinh tế quốc dân . 1.5.2. Nhược điểm của thị trường chứng khoán : Mặc dù thị trường chứng khoán có tác dụng tích cực là công cụ hữu hiệu để huy động vốn dài hạn, mà hầu hếtcác quốc gia có nền kinh tê thị trường đều sử dụng, song bên cạnh đó nó còn có những mặt tiêu cực làm ảnh hưởng đến các hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy, người ta thường ví thị trường chứng khoán như con dao hai lưỡi, nếu không biết cách sử dụng, phát huy hiệu quả, thì ngược lại nó sẽ là công cụ làm rối loạn nền kinh tế và gây ra những tác hại khó có thể lường hết được. 1.5.2.1. Thị trường chứng khoán luôn chức đựng các yếu tố đầu cơ: Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người đầu tư. Họ có thể mua cổ phiếu với hy vọng là giá cổ phiếu sẽ tăng lên trong tương lai, và qua đó sẽ thu được lợi nhuận. Yếu tố đầu cơ dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá giả tạo. Sự kiện này càng dễ xảy ra khi có nhiều người cùng cấu kết với nhau để đồng thời cùng mua vào hay bán ra một loại chứng khoán nào đó, dẫn đến sự khan hiếm hay dư thừa chứng khoán một cách giả tạo trên thị trường, làm cho giá chứng khoán có thể tăng lên hay giảm xuống một cách đột biến, gây tác động xấu đến thị trường. Ngày nay, tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thường xảy ra hiện tượng có nhiều cá nhân hay nhóm người chuyên buôn bán chứng khoán, họ coi việc đầu cơ chứng khoán như là một nghề. 1.5.2.2. Các hiện tượng giao dịch nội gián thường xảy ra trên thị trường chứng khoán: Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm bắt được những thông tin nội bộ của doanh nghiệp, cũng như các thông tin mật mà không hoặc chưa được phép công bố và sử dụng cac thông tin đó cho giao dịch chứng khoán nhằm thu lợi bất chính thì được gọi là giao dịch nội gián. Các giao dịch nội gián được xem là phi đạo đức về mặt thương mại, vì những phần tử có được các thông tin nội gián sẽ có nhiều lợi thế trong việc đầu tư so với các nhà đầu tư khác để thu lợi bất chính cho riêng mình (vi phạm nguyên tắc) . Luật pháp về thị trường chứng khoán mặc dù đã có các điều khoản nghiêm cấm hành vi giao dịch nội gián, nhưng trên thực tế rất khó kiểm soát hành động này, bởi vì trong điều kiện hiện nay, công nghệ thông tin đã phát triển khá mạnh, các hành vị giao dịch cũng như cung cấp các thông tin nội bộ rất tinh vi. Vì vậy, các cơ quan quản lý và giám sát thị trường chỉ căn cứ vào các tình trạng có những thay đổi bất thường (giá lên xuống quá nhanh, hoặc tình trạng đổ xô vào mua-bán một loại chứng khoán nào đó), qua đó phát hiện và kiểm tra các hành vi nói trên, để điều tra ra hành vi giao dịch nội gián. 1.5.2.3. Đưa tin sai sự thật về một loại chứng khoán hoặc sai sự thật về hoạt động của Doanh nghiệp: Việc tung tin sai sự thật về các hoạt động của công ty niêm yết cũng như các chứng khoán được giao dịch trên thị trường, sẽ tạo ra sự hỗn độn của thị trường, gây nên tình trạng bán ồ ạt hàng loạt một loại chứng khoán nào đó với giá quá thấp hoặc mua vào các chứng khoán với giá thấp để nắm giữ và thao túng hoặc thâu tóm công ty. Việc tung tin sai sự thật để gây thất thiệt cho các nhà đầu tư chân chínhthường được gắn liền với các hành vi khác như đầu cơ trục lợi, lũng đoạn thị trường. 1.5.2.4. Dế huy động vốn, đồng thời cũng dễ bị rút vốn ồ ạt gây nên khủng hoảng thị trường: Cơ chế vận hành của thị trường chứng khoán cho phép nhà đầu tư có thể tiến hành đầu tư (invest) một cách nhanh chóng, đồng thời cũng chứa đựng khả năng cho phép giải tư (divest) nhanh gọn để rút vốn. Điều này nhiều lúc gây nên những tác hại không lường đối với thị trường. Khi một lĩnh vực đầu tư có xu thế phát triển, mọi người đổ xô vào mua để nắm giữ loại chứng khoán đó, dẫn đến đẩy giá lên cao làm cho giá cả loại chứng khoán đó sai lệch so với giá trị thực chất của nó. Khi tình hình thị trường có những biến động bất lợi, có ảnh hưởng đến giá chứng khoán, thì mọi người đổ xô bán tống, bán tháo loại chứng khoán đó để rút vốn đầu tư, làm cho thị trường hỗn loạn và nhiều khi gây nên sụp đổ thị trường. Bài học kinh nghiệm quốc tế qua ba lần khủng hoảng kinh tế gắn liền với khủng hoảng thị trường chứng khoán vào các năm 1929, 1987, và 1997 cho thấy, đó là những ngày đen tối của thị trường chứng khoán, giá cả chứng khoán giảm mạnh trong nhiều tháng liên tục và diễn ra trên nhiều thị trường, làm cho không ít thị trường buộc phải đóng cửa trong nhiều ngày. Đặc biệt là trong thời gian vừa qua, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Châu á, dẫn đến sự sụp đổ của nhiều thị trường chứng khoán trong khu vực như Thái Lan, Hồng Kông, Malaysia, Inđônêsia,.... gây tác động dây chuyền tới các thị trường chứng khoán lớn trên thế giới như New york, Tokyo,.... đều có một nguyên nhân là các nước đó dựa vào nguồn vốn nước ngoài quá lớn và duy trì quá lâu một tỷ giá cố định, nên khi có biến động về kinh tế dẫn đến tình trạng rút vốn đầu tư nước ngoài ào ạt, làm cho thị trường bị sụp đổ. 1.5.2.5. Thị trường chứng khoán làm cho mâu thuẫn Xã hội ngày càng gay gắt: Thị trường chứng khoán thúc đẩy tư bản tập trung làm cho một số người khống chế ngày càng nhiều số lượng các loại chứng khoán trở thành cổ đông lớn (nhà tư bản lớn) nhấn chìm các nhà tư bản nhỏ, hình thành các doanh nghiệp lớn, khống chế thị trường, lũng đoạn giá cả, chiếm đoạt nhiều lãi. Trong khi đó, một số người khác mất quyền sở hữu cổ phiếu, bù mất hết cả vốn và trở nên nghèo túng. Một số ngân hàng dựa vào vốn lớn của mình, mua rất nhiều cổ phiếu, nắm quyền chính của doanh nghiệp về kinh tế tài chính, khống chế và chi phối vốn của người khác có vốn lớn hơn vốn của mình nhiều lần. Như vậy, thị trường chứng khoán sẽ tạo điều kiện cho các xung đột, mâu thuẫn trong Xã hội trở nên gay gắt . 1.6. Các nguyên tắc và tổ chức hoạt động của thị trường chứng khoán : 1.6.1. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán : Sự vận hành của bất kỳ một thị trường nào cho dù là đơn giản hay phức tạp đều có các nguyên tắc hoạt động riêng của nó. Các nguyên tắc này đảm bảo sự tồn tại và phát triển của thị trường theo những định hướng nhất định. Đẩi với thị trường chứng khoán, cơ chế vận hành của nó được dựa trên bốn nguyên tắc hoạt động căn bản sau đây: 1.6.1.1. Nguyên tắc Công khai: Nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều phải công bằng, công khai và minh bạch. Các thông tin về chứng khoán được giao dịch, tình hình tài chính và các kết quả kinh doanh của công ty có chứng khoán niêm yết, cũng như số lượng, giá chứng khoán đều phải được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bản thân các công ty có chứng khoán niêm yết phải có nghĩa vụ công bố thông tin theo định kỳ, tức thời và các thông tin theo yêu cầu một cách trung thực và đầy đủ cho các nhà đầu tư. Ngoài ra, các tổ chức phát hành chứng khoán có nghĩa vụ nộp cho Sở giao dịch và Uỷ ban chứng khoán các báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động kinh doanh và các báo cáo khác có xác nhận của cơ quan kiểm toán độc lập. Trong trường hợp có các biến động làm ảnh hưởng đến giá và khối lượng chứng khoán giao dịch, các tổ chức phát hành phải báo cáo tức thời lên Sở giao dịch và Uỷ ban chứng khoán để có biện pháp xử lý kịp thời (tạm ngừng giao dịch, đình chỉ giao dịch đối với loại chứng khoán đó). Đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ thông tin, cũng phải chịu trách nhiệm về các thông tin đã công bố, nếu thông tin sai sự thật, làm thiệt hại đến các nhà đầu tư, thì công ty đó phải chịu trách nhiệm bồi hoàn những thiệt hại do mình gây ra, và phải chịu sự kỷ luật trước Uỷ ban Giám sát thị trường . Các giao dịch trên thị trường đều sử dụng các thông tin được công bố chính thức tại Sở giao dịch hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Việc sử dụng các thông tin nội bộ hoặc các thông tin chưa được phép công bố chính thức vào giao dịch chứng khoán là hành vi giao dịch nội gián và sẽ bị xử lý theo các quy định của pháp luật hiện hành. 1.6.1.2. Nguyên tắc Trung gian: Thị trường chứng khoán hoạt động không phải là do những người muốn mua và muốn bán chứng khoán trực tiếp gặp nhau thực hiện, mà phải thông qua các môi giới, làm nhiệm vụ trung gian trong việc tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thật, và thị trường chứng khoán hoạt động được lành mạnh, hợp pháp, bảo vệ các lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư. Nguyên tắc trung gian trong giao dịch chứng khoán được thể hiện thông qua các nhà môi giới (Broker) và các thương gia chứng khoán (Dealer) hay còn gọi là các nhà kinh doanh chứng khoán. Các trung gian môi giới phải là những người thực sự có đủ các kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán, có khả năng phân tích, đánh giá và nhận định xu hướng phát triển của nền Kinh tế. Muốn vậy, họ phải qua các khoá đào tạo về nghiệp vụ, và được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán. Dù là người môi giới trung gian nhằm hưởng hoa hồng, nhưng các nhân viên môi giới vẫn đóng vai trò chủ động trong thương lượng mua bán chứng khoán. Người môi giới phải thay mặt khách hàng của mình cam kết mua bán với giá cho sắn hay giá do chính họ lựa chọn mà có lợi nhất cho khách hàng. Người môi giới phải biết cố vấn và giải thích đúng đắn mọi đặc điểm, khuynh hướng của mỗi loại chứng khoán cho khách hàng. Trong hoạt động môi giới hưởng hoa hồng, người môi giới hoàn toàn thực hiện theo mệnh lệnh của khách hàng và không chịu trách nhiệm cho các hậu quả về sau. Nhưng khi thay mặt cho khách hàng thì họ vẫn phải hành động như cho chính bản thân họ. Chính vì vậy, đối với mỗi nhân viên môi giới thì vấn đề đạo đức nghề nghiệp là hết sức quan trọng và phải được đặt lên hàng đầu. 1.6.1.3. Nguyên tắc Định giá: Trên cơ sở quan hệ cung cầu về mua bán chứng khoán, các thông tin về chứng khoán cũng như các kết quả phân tích mỗi loại chứng khoán, nhà môi giới có trách nhiệm xác định giá chứng khoán theo nguyên tắc định giá chứng khoán. Giá chứng khoán được hình thành thông qua hệ thống đấu giá hoặc đấu lệnh giữa cácnhà môi giới. Khi giá chứng khoán được xác định thì các nhà đầu tư có nghĩa vụ thực hiện theo mức giá đó. Vì vậy người còn nói thị trường chứng khoán là một thị trường tự do và cởi mở nhất trong các loại thị trường. Giá chứng khoán trên thị trường được thực hiện theo nguyên tắc hoạt động và kỹ thuật vận hành của mỗi loại thị trường, thông thường được tiến hành theo phương thức đấu giá cạnh tranh giữa các nhà tạo lập thị trường hoặc phương thức so khớp lệnh theo thứ tự các tập lệnh được đưa vào Hệ thống. Theo phương thức Đấu giá, một số nhà môi giới sẽ đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường (market maker) đưa ra các mức giá chào mua và mức giá chào bán cho các loại chứng khoán mà họ tiến hành giao dịch. Các nhà đầu tư mua, bán chứng khoán của họ bằng cách lựa chọn ra mức giá tốt nhất với họ và tiến hành giao dịch với các nhà tạo lập thị trường hơn là đặt các lệnh riêng cho mình. Giá chứng khoán được xác định thông qua việc canh tranh giữa các nhà tạo lập thị trường, còn thu nhập của các nhà tạo lập thị trường là khoản chênh lệchgiữa giá chào bán và giá chào mua. Theo phương thức đấu lệnh, các lệnh sẽ được tập trung và được so khớp tại một thời điểm nhất định (hoặc liên tục) để xác định mức giá thoả mãn cho cả bên mua lẫn bên bán. Lệnh của các nhà đầu tư được so khớp mà không cần có các nhà tạo lập thị trường. Giá chứng khoán được xác định thông qua sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư. Các Công ty chứng khoán nhận phí hoa hồng từ khách hàng trả về việc thực hiện trung gian môi giới. Các phương thức định giá nêu trên có thể thực hiện theo phương pháp thủ công hoặc thông qua hệ thống máy tính điện toán. Hiện nay trên thế giới, các thị trường chứng khoán đã chuyển sang hệ thống giao dịch bán tự động (giao dịch thủ công và có sự trợ giúp của máy vi tính) hoặc giao dịch tự động hoàn toàn thông qua hệ thống máy vi tính. 1.6.1.4. Nguyên tắc Tập trung Thị trường: Nguyên tắc này đòi hỏi các hoạt động giao dịch, mua bán và trao đổi chứng khoán phải được tiến hành tại những địa điểm cụ thể đã được đăng ký với các cơ quan có thẩm quyền (kể cả đối với thị trường chính thức hay thị trường OTC). 1.6.2. Tổ chức hoạt động Thị trường chứng khoán : 1.6.2.1. Cơ cấu các chủ thể hoạt động trên TTCK: Để thị trường Chứng khoán đi vào hoạt động đúng mục đích và có hiệu quả, cần thiết phải xác định đúng cơ cấu cụ thể các thành viên tham gia trên thị trường bao gồm các Chủ thể sau: a). Uỷ ban Chứng khoán Quốc gia - Tổ chức điều hành, điều tiết và Quản lý thị trường : là cơ quan Nhà nước cao nhất chịu trách nhiệm điều hành các hoạt động của thị trường chứng khoán trên phạm vi toàn quốc. Uỷ ban chứng khoán quốc gia ở các nước khác nhau thì có cách thức tổ chức và hoạt động khác nhau nhưng về bản chất đều là cơ quan có chức năng đặt ra các quy định của thị trường, là cơ quan điều hành cao nhất có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các hoạt động của thị trường. ở Việt Nam, chức năng này do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đảm nhiệm. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan Quản lý Nhà nước quản lý việc cấp phép. đăNg ký phát hành và kinh doanh chứng khoán, tổ chức công tác thanh tra, giám sát các hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán để đảm bảo thị trường ổn định, công bằng và minh bạch. Trong Uỷ ban này, các thành viên của Chính phủ có thành phần chiếm phần lớn và giữ các chức vụ chủ yếu trong Uỷ ban. b). Các Tổ chức phát hành Chứng khoán: Là những người muốn huy động vốn trên thị trường bằng cách phát hành và bán các chứng khoán, bao gồm các công ty, chính phủ và chính quyền địa phương. Các công ty muốn huy động vốn đầu tư phát triển sản xuất thường phát hành trái phiếu công ty hoặc cổ phiếu. Chính phủ phát hành các loại trái phiếu chính phủ nhằm huy động tiền bù đắp thâm hụt ngân sách hoặc thực hiện những công trình quốc gia lớn. Chính quyền địa phương phát hành trái phiếu địa phương để huy động tiền đầu tư cho các công trình hay các chương trình Kinh tế - Xã hội của Địa phương. c). Các nhà Đầu tư chứng khoán (Khách hàng) : Là những người có tiền nhàn rỗi muốn đầu tư bằng cách mua các chứng khoán trên thị trường. Những người này rất đông, gồm các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức, các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm .... Họ cũng không phải là những người trực tiếp giao dịch trên thị trường, mà mọi nhu cầu mua bán chứng khoán của học thường do một loại người khác có trình độ chuyên môn đảm nhiệm. Đó là các nhà môi giới Chứng khoán. d). Nhà môi giới và kinh doanh chứng khoán : Là những người hoạt động dưới danh nghĩa một công ty chứng khoán. Họ là những người có chuyên môn cao trong việc phân tích va giao dịch chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán, chỉ có các nhân viên của công ty chứng khoán mới được phép trực tiếp giao dịch mua bán chứng khoán trên thị trường tập trung. Chính những người này mới tạo ra không khí sôi động của thị trường. Trong nhóm này có hai loại hoạt động chính, đó là : những người chuyên mua bán chứng khoán cho người khác để hưởng hoa hồng gọi là Môi giới chứng khoán; còn những người mua bán chứng khoán cho chính mình thì gọi là Kinh doanh chứng khoán (mua vào để bán ra nhằm hưởng chênh lệch giá). Ngoài ra những người này còn có thể tham gia hoạt động với vai trò là người tư vấn đầu tư chứng khoán. Họ cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng là những người đầu tư khi tham gia vào các hoạt động mua bán trên thị trường . e). Cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thị trường : ở các nước mà thị trường chứng khoán đã phát triển, Sở Giao dịch Chứng khoán thường là do các công ty chứng khoán thoả thuận lập ra để phục vụ cho các hoạt động giao dịch chứng khoán. Sở Giao dịch Chứng khoán là một công ty cổ phần có nhiệm vụ tạo ra địa điểm giao dịch, và cũng chính nó đóng vai trò là người tổ chức và vận hành thị trường. ở Việt Nam, trong thời gian đầu xây dựng thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước sẽ tổ chức Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. Trung tâm này đóng vai trò là người tổ chức thị trường . f). Các Tổ chức Trung gian Tài chính: Hoạt động của thị trường chứng khoán không thể thiếu vai trò của các nhà trung gian tài chính như: các công ty chứng khoán, các tổ chức ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác.... Vai trò của các tổ chức này là làm chức năng lưu chuyển vốn và chứng khoán từ các nhà đầu tư tới các doanh nghiệp phát hành chứng khoán tại thị trường thứ cấp. Một mặt các trung gian tài chính gom vốn từ công chúng, những nguồn vốn lẻ tẻ, nhỏ bé để tạo ra nguồn vốn lớn, có thời hạn dài và chất lượng cao để mua chứng khoán từ các nhà phát hành là các doanh nghiệp cần vốn. Mặt khác các trung gian tài chính này cũng là những người đứng ra bảo lãnh phát hành cho các doanh nghiệp cần phát hành chứng khoán và chuyển tới cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó các tổ chức trung gian tài chính không chỉ đơn thuần là đưa các nhà đầu tư tiềm năng đến với những nhà phát hành mà họ còn trở thành bạn hàngcủa cả hai bên trong hoạt động chứng khoán Đối với các nhà đầu tư, không phải nhà đầu tư nào cũng có đủ các kiến thức và kinh nghiệm về đầu tư chứng khoán, khi thông qua các trung gian tài chính họ có thể mua được những loại chứng khoán có chất lượng cao, rủi ro thấp. Đẩi với các nhà phát hành, việc gia nhập thị trường chứng khoán thông qua việc huy động các nguồn vốn từ thị trường này đòi hỏi phải có sự tư vấn hỗ trợ từ phía các trung gian tài chính bởi các doanh nghiệp không phải là chuyên gia về chứng khoán và họ không thể nắm bắt được các yêu cầu của từng loại khách hàng mong muốn đầu tư vào doanh nghiệp mình. g). Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán : Với sự tham gia đa dạng của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán, cần thiết phải có một tổ chức đứng ra làm nhiệm vụ định chế, điều hành và giám sát các tổ chức này ngoài các cơ quan điều hành thị trường chứng khoán của Nhà nước. Vì vậy, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự định chế, có tính hiệp hội được thành lập ở hầu hết các nước và nhiệm vụ của nó là đặt ra các quy định nghề nghiệp để buộc các tổ chức trung gian tài chính khi tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán phải tuân theo nhằm đảm bảo cho sự hoạt động của các tổ chức này và cao hơn là việc bảo vệ các nhà đầu tư. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán làm nhiệm vụ tập hợp thị trường, không để tình trạng xé lẻ và kinh doanh lộn xộn trên thị trường mà phải tuân theo các trình tự, địa điểm, phương thức về nghề nghiệp do hiêp hội đặt ra. Ngoài ra, vì hiệp hội là một tổ chức nghề nghiệp nên nó nắm rõ các hoạt động của các thành viêncủa thị trường và làm chức năng giám sát hoạt động của các thành viên này. h). Các Tổ chức hỗ trợ khác của thị trường chứng khoán : Ngoài các tổ chức hoạt động chính thức và dễ dàng biết đến trên thị trường chứng khoán, còn có một số tổ chức mà chúng ta coi là những thành viên hoạt động tại hậu trường, đó là các tổ chức tư vấn đầu tư, các tổ chức tư vấn phát hành, các tổ chức dịch vụ thanh toán, các tổ chức kinh doanh thông tin, các tổ chức đại lý tham chiếu..... Vai trò của các tổ chức này là làm cho thị trường chứng khoán thêm phần phong phú và tăng tính hiệu quả của thị trường. Các tổ chức tư vấn đầu tư cung cấp các thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư khi những người này muốn tham gia vào việc mua bán một loại chứng khoán nào đó. Các tổ chức tư vấn phát hành giúp các đơn vị phát hành bán được chứng khoán của mình và thu được nguồn vốn cần thiết để đầu tư với chi phí là thấp nhất. Các tổ chức dịch vụ thanh toán làm dịch vụ thanh toán tiền và chứng khoán cho các giao dịch trên thị trường, luân chuyển các nguồn tiền và chứng khoán một cách hiệu quả, tránh sự di chuyển vật chất từ người này tới người khác, từ khu vực này sang khu vực khác và mở rộng phạm vi thị trường ra khỏi sự chia cắt về thời gian và không gian. Các tổ chức kinh doanh thông tin là các chuyên gia về thông tin trên thị trường. Với thị trường chứng khoán, tính đầy đủ của thông tin và thông tin trung thực là cốt tử của sự tồn tại, phát triển và thịnh vượng của thị trường. Thông tin trên thị trường phải được phân loại, cập nhật thường xuyên và được phân bổ tới từng góc phố, gia đình và cá nhân thông qua các phương tiện thông tin như sách, báo, tạp chí, ti vi, đài phát thanh, bảng điện tử ..... 1.6.2.2. Tổ chức Hoạt động và quy trình vận hành trên thị trường chứng khoán: 1.6.2.2.1. Các Nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán: a). Phát hành Chứng khoán : là nghiệp vụ của các đơn vị phát hành khi đưa ra thị trường chứng khoán. Đơn vị phát hành loại chứng khoán nào trên thị trường, phương thức phát hành, tiến trình thực hiện ..... đều theo những quy định của thị trường. Để được phát hành một loại chứng khoán, đơn vị phát hành phải có đơn kèm theo hồ sơ xin phát hành gửi Uỷ ban chứng khoán Nhà nước xem xét. Nghiệp vu phát hành liên quan đến việc tính toán nên phát hành loại chứng khoán nào, số lượng thời hạn, giá cả, việc trả lãi hoặc cổ tức.... b). Trợ giúp phát hành : là nghiệp vụ của các công ty chứng khoán và các tổ chức tài chính trung gian. Nghiệp vụ này bao gồm hai nội dung : đại lý phát hành và tư vấn phát hành. Đối với hoạt động đại lý phát hành, các công ty trợ giúp phát hành là người gánh chịu rủi ro trong việc bán chứng khoán nhưng bù lại họ được hưởng phần chênh lệch từ giá mua và giá bán chứng khoán. Đẩi với hoạt động tư vấn phát hành, các công ty trợ giúp phát hành chỉ đơn thuần là tư vấn cho các công ty phát hành về các vấn đề quan trọng trong hoạt động phát hành và được hưởng một khoản phí dịch vụ do công ty phát hành trả. c). Kinh doanh chứng khoán : là nghiệp vụ của công ty chứng khoán tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính tài khoản của mình và tự mình gánh chịu các rủi ro. Chỉ có các công ty chứng khoán mới được phép thực hiện nghĩa vụ này, nhưng phảt có mức vốn theo luật định và phải chịu các quy định hạn chế về hoạt động mua vào và bán ra. Mục đích của nghiệp vụ này, ngoài mục đích quan trọng nhất là thu lợi nhuận cho công ty chứng khoán, còn có mục đích cao hơn đối với thị trường đó là người tạo thị trường. Với nghiệp vụ này, các công ty chứng khoán góp phần vào việc bình ổn các hoạt động của thị trường, là lực lượng sự bị làm đối trọng với các áp lực của thị trường. d). Môi giới chứng khoán : là các hoạt động của các công ty chứng khoán đứng ra làm trung gian giữa người bán và người mua chứng khoán. Công việc môi giới là việc đưa người cần bán một loại chứng khoán nào đó với giá đưa ra đến với ngườicần mua loại chứng khoán đó với giá đó. Thực tế trên thị trường có rất nhiều người cần mua và cần bán các loại chứng khoán nhưng để tìm được người cần mua loại chứng khoán của mình với giá cả và khối lượng cần bán là việc khó có thể cá nhân đó thực hiện được, ngược lại người cần mua cũng có tình trạng như vậy. Để giảm bớt các chi phí này, các nhà môi giới là người nắm được chính xác ai là người cần mua hoặc ai là người cần bán chứng khoán với số lượng và giá cả là bao nhiêu. Từ đó họ làm trung gian để liên hệ giúp những người này gặp được nhau và tất nhiên để bù đắp cho việc giàn xếp này, người môi giới chứng khoán cũng được hưởng một khoản phí hoa hồng trong giao dịch. e). Tư vấn đầu tư : Là nghiệp vụ hoạt động của các công ty chứng khoán, các ngân hàng đầu tư và các tổ chức tài chính khác. Hoạt động tư vấn đầu tư là việc cung cấp các thông tin, cách thức, phương pháp, đối tượng chứng khoán, thời hạn, khu vực .... và các vấn đề có tính chất quy định của pháp luật về hoạt động đầu tư chứng khoán, đưa các nhà đầu tư lại gần với hoạt động của thị trường chứng khoán. f). Tín dụng chứng khoán : là các hoạt động đứng sau các nghiệp vụ môi giới và kinh doanh giúp cho việc môi giới và kinh doanh được thực hiện một cách nhanh chóng và đạt được các kết quả như mong đợi. Nghiệp vụ tín dụng chứng khoán là việc công ty chứng khoán hoặc một tổ chức của các ngân hàng, công ty tài chính được phép, cho các nhà đầu tư vay tiền để mua chứng khoán. g). Tín thác đầu tư chứng khoán : là việc các cá nhân, tổ chức cùng gom vốn và thành lập một công ty hoặc dưới dạng quỹ theo hợp đồng để tiến hành đầu tư chứng khoán hoặc dùng vốn của mình uỷ thác cho người được uỷ thác ( các công ty tín thác đầu tư ) được quyền bầu HĐQT để thay mặt mình quản trị công ty. Việc kinh doanh của nghiệp vụ tín thác đầu tư phải được thực hiện theo những quy trình do luật tín thác đầu tư quy định và đầu tư vào các loại chứng khoán theo các điều khoản trong hợp đồng quản lý công ty hoặc quỹ tín thác giữa người quản lý Quỹ với HĐQT. h). Xác định giá Chứng khoán : Bao gồm việc xác định giá phát hành và giá mua bán trên thị trường. Việc xác định giá chứng khoán phát hành có liên quan tới khả năng hấp dẫn các nhà đầu tư và thu hút được đầy đủ nguồn vốn của Doanh nghiệp (phải tính toán được yếu tố lợi nhuận của chứng khoán tạo ra và các mặt rủi ro của chứng khoán đó trong tương lai). Việc xác định giá chứng khoán trên thị trường phải căn cứ vào các điều kiện hiện tại của giá chứng khoán và dự báo tiến triển trong tương lai của loại chứng khoán đó. i). Nghiệp vụ Phân tích Chỉ số chứng khoán : là việc sử dụng các công thức tính toán để xác định mức độ biến động của giá chứng khoán so với một mốc chuẩn cụ thể; để so sánh các điều kiện của thị trường với các yếu tố của hoạt động giao dịch gần nhất và các yếu tố trong toàn bộ chu kỳ hoạt động của nó. Nghiệp vụ này đòi hỏi phải có đội ngũ các chuyên gia am hiểu về chứng khoán và thị trường chứng khoán, phải có khối lượng thông tin tương đối đầy đủ và chính xác, có các thiết bị kỹ thuật tiên tiến và điều quan trọng nữa là phải có sự nghiên cứu thường xuyên, liên tục, sâu sắc để đưa ra các số liệu một cách chính xác. Việc này làm cơ sở tiền đề cho các nhà đầu tư có được những thông tin trung thực nhất về tình hình thị trường và có các quyết định đầu tư vào loại chứng khoán nào cho đúng đắn nhất. Quan trọng hơn là làm căn cứ cho các cơ quan quản lý chứng khoán Nhà nước xác định được các giới hạn của pháp luật và có sự định hướng đúng đắn các chính sách về chứng khoán phù hợp với các biến động của thị trường. 1.6.2.2.2. Quy trình vận hành và kinh doanh chứng khoán trên TTCK: Để xem xét một cách rõ ràng Quy trình vận hành và kinh doanh trên thị trường chứng khoán chúng ta có thể xem xét Quy trình vận hành và kinh doanh chứng khoán tại Sở Giao dịch Chứng khoán : Gồm trình tự các bước như sau: À. Khách hàng đặt lệnh mua hoặc lệnh bán chứng khoán tới các công ty chứng khoán, nơi mà mình mở tài khoản . Á. Công ty Chứng khoán nhận lệnh và chuyển các lệnh đó đến người đại diện của Công ty mình tại Sở Giao dịch Chứng khoán dưới hình thức một lệnh đặt hàng. Â. Sở Giao dịch tiến hành tổ chức Đấu giá công khai theo các loại giá nhận được. Ã.Thông báo kết quả giao dịch lên bảng điện tử để cho Công ty chứng khoán thực hiện việc đặt mua hay bán chứng khoán (tiến hành Giao dịch). Ä. Thực hiện việc Giao chứng khoán sau khi đã giao dịch xong. Å. Thanh toán. Sơ đồ Quy trình vận hành và kinh doanh chứng khoán tại Sở Giao dịch Chứng khoán Khách Bán Sàn Giao dịch Khách Mua Đấu giá Â Đại diện A Bảng Điện Tử Thông báo các Kết quả Ã Ngân hàng A Ngân hàng B Trung tâm Thanh toán & Bù trừ Trung tâm Bảo quản và Lưu ký Chứng khoán Đại diện B Công ty Chứng khoán A Công ty Chứng khoán B À À Á Á Ä Ä Å Å Å Å Mục lục Trang Mục lục ....................................................................................….…..... 01 Lời Mở đầu ................................................................................…........ 02 Chương I : Tổng quan về Chứng khoán và thị trường Chứng khoán ...................... 03 1.1.Chứng khoán ...........…............................................................. 03 1.2.Thị trường Chứng khoán .....................................…................... 04 1.3. Thị trường Tài chính và mối quan hệ giữa Thị trường Tài chính với Thị trường Chứng khoán ....................................................................... 04 1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của Thị trường Chứng khoán... 05 1.5. Vai trò và chức năng của Thị trường Chứng khoán trong Nền KTQD ....………………………………………………………………... 06 1.6. Các nguyên tắc và tổ chức hoạt động của thị trường chứng khoán ...........………………………………………………………………….... 11

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35275.doc
Tài liệu liên quan