Nghiên cứu vấn đề về cơ hội và thách thức ở trên đã phần nào giúp chúng ta có cái nhìn khá tổng quan đối với TTCK Việt Nam. Trong thời gian hình thành và phát triển vừa qua, có thể nhận định: Thị trường chứng khoán là thị trường của niềm tin. Tuy nhiên niềm tin của giới đầu tư đang ngày càng bị xói mòn bởi rất nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản là sự thiếu mạnh mẽ trong cách điều hành TTCK của cơ quan quản lý. Các bộ ngành hữu quan cũng chưa thể hiện sự quan tâm đây đủ tới việc phát triển TTCK.
Chúng ta dám thẳng thắn nhìn vào những hạn chế của một thị trường hoàn toàn mới mẻ và non trẻ, để từ đó có thể tìm ra hướng khắc phục những khó khăn còn đang tồn tại góp phần làm cho TTCK Việt Nam phát triển ổn định, hiệu quả theo đúng nghĩa của nó. Xong cũng không thể phủ nhận tầm quan trọng của thị trường chứng khoán đối với sự phát triển của nền kinh tế Quốc dân. Thông qua những cơ hội và thách thức đã trình bày ở trên nhà nước sẽ chỉ đạo UBCKNN đưa ra những giải pháp cụ thể, hiệu quả hơn nữa nhằm ổn định và lành mạnh hoá thiết chế tài chính này.
46 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thị trường chứng khoán Việt Nam cơ hội và những thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh nghiệm nhất định sau hơn 1năm hoạt dộng của thị trường, họ đã có những phân tích đánh giá và bước đầu hình thành chiến lược đầu tư cho mình. Việc tổ chức điều hành thị trường của cơ quan quản lý đã giúp thị trường hoạt động ổn định, đi đúng định hướng đề ra. Thời gian tới UBCKNN sẽ phối hợp với các bộ ngành, địa phương liên quan để đưa ra các cơ chế, chính sách khuyến khích hơn nữa tạo ra một thị trường chứng khoán phát triển, minh bạch và công bằng.
3. Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2002
Kết thúc năm 2002, sau hơn 2 năm đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam, thời gian còn quá ngắn để đánh giá sức sống của mọt thể chế tài chính mới như TTCK, song điều ghi nhận được đầu tiên là, mặc dù với quá nhiều khó khăn trong một môi trường kinh tế vĩ mô chưa hoàn toàn thuận lợi, trước những thử thách của một thể chế tài chính mới lần đầu tiên xây dựng ở nước ta, nhưng với quyết tâm cao của Đảng và Chính phủ trong chỉ đạo xây dựng và phát triển thị trường, sự phối hợp của các bộ ngành và các địa phương, sự nỗ lực của cơ quan quản lý và vận hành thị trường chứng khoán , cùng các tổ chức trung gian và phụ trợ , các tổ chức niêm yết và công chúng đầu tư…, TTCK Việt Nam đã được giữ vững, ổn định và từng bước phát triển. Một điều căn bản là, xã hội Viẹt Nam đã phàn nào làm quen được với sự tồn tại và hoạt động của TTCK.
Mỗi năm qua đi là một năm nhận thức rõ hơn về tổ chức và quản lý, điều hành hoạt động thị trường . Đây là dịp để chúng ta nhìn lại những nét căn bản nhất trong hoạt động của TTCK Việt Nam năm 2002:
3.1. Về hoạt động phát hành và niêm yết chứng khoán
Trong năm 2002, đã có 10 công ty cổ phần được cấp giấy phép phát hành, 1công ty tăng vốn, và đăng ký niêm yết cổ phiếu cho 11 công ty, nâng tổng giá trị cổ phiếu niêm yết trên TTCK lên 999,633 tỷ đồng.
Cho đến thời điểm kết thúc năm 2002, các công ty niêm yết đều là những doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, và hoạt động kinh doanh của công ty có chiều hướng tốt, đều có lãi. Thêm vào đó, các công ty niêm yết trên TTCK được hưởng ưu đãi về thuế nên mức trả cổ tức cao đã rất hấp dẫn người đầu tư.
Thời gian đầu khi thị trường mới đi vào hoạt động, các công ty niêm yết đều đã cố gắng để đáp ứng các qui định do Uỷ ban Chứng khoánnhà nước đề ra.Tuy nhiên, do chưa có thói quen trong nôi trường hoạt động của thị trường chứng khoán, nên đa số các công ty niêm yết còn thụ động trong việc công bố thông tin; hầu hết các công ty niêm yết chỉ chú trọng vào thông tin định kì và thong tin phải cung cấp theo yêu cầu,chưa chủ động cung cấp kịp thời thông tin liên quan đến hoạt động của công ty.
Trong năm 2002, về thị trường trái phiếu, đã thực hiện thành công 23 đợt đấu thầu qua trung tâm giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ đạt tổng giá trị 1.362 tỷ đồng . Đến nay đã có 41 loại trái phiếu niêm yết trên thị trường giao dịch chứng khoán, trong đó 39 loại trái phiếu chính phủ và 2 trái phiếu doanh nghiệp với tổng giá trị trái phiếu niêm yết trên TTCK đạt 4.276,338 tỷ đồng.
3.2. Về hoạt động của các công ty chứng khoán
Đến nay đã có 9 công ty chứng khoán hoạt động trên thị trường, trong đó có 3 công ty cổ phần và 6 công ty TNHH.Trong năm 2002 đã có 1 công ty cổ phần chứng khoán xin tăng vốn điều lệ.
Tính đến ngày 31/12/2002, số tài khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng được mở tại các công ty chứng khoán là trên 13.000, trong đó có tài khoản của 91 nhà đầu tư có tổ chức và 33 nhà đầu tư nước ngoài. Các công ty chứng khoán đang triển khai mở rộng phạm vi hoạt động, mở chi nhánh và đại lý nhận lệnh tại 7 tỉnh, thành phố là Hà Nội , Tp. Hồ Chí Minh ,Đồng Nai , Hải phòng, Đà Nẵng , Bình Dương, Long An.
Trong năm 2002 kết quả kinh doanh của các công ty chứng khoán đều có chiều hướng tốt, các chỉ tiêu báo cáo tài chính cho thấy các công ty chứng khoán có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng thanh toán được đẩm bảo. Mặc dù năm 2002, các công ty chứng khoán có sự giảm sút về lợi nhuận, nhưng so với cùng kỳ năm trước tình hình sử dụng vốn của các công ty được cải thiện.Tài sản dưới dạng tiền giảm, tỷ lệ tài sản cố định và đầu tư dài hạn tăng lên. Kả năng thanh toán của các côngty được đảm bảo.
Hiện nay,cơ cấu doanh thu của các công ty chứng khoán đã có sự thay đổi đáng kể.Nếu như trong thời gian đầu, doanh thu từ kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của các công ty chứng khoán, và tiếp đến là các nghiệp vụ như tự doanh, môi giới…, thì đến hết năm 2002, doanh thu từ hoạt động môi giới và tự doanh đã chiếm tỷ lệ đáng kể.
3.3. Hoạt động giao dịch chứng khoán
Tính đến ngày 31/12/2002, TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh đã thực hiện 236 phiên giao dịch, với tổng khối lượng chứng khoán được giao dịch là 35,645 triệu cổ phiếu và 1,321 triệu trái phiếu, đạt tổng giá trị giao dịch 1.082,55 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm 88,5%. Bình quân giá trị giao dịch chứng khoán trong một phiên đạt 4,587 tỷ đồng. Hiện nay, đã có 20 loại cổ phiếu và 41 loại trái phiếu niêm yết giao dịch.
Việc lưu ký chứng khoán đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch chứng khoán tại thị trường giao dịch CK. Các thành viên lưu ký đều tuân thủ các qui định về lưu ký chứng khoán của UBCKNN và TTGDCK. Hiện nay, hoạt động của các thành viên lưu ký nước ngoài chưa đáng kể do người nước ngoài đầu tư còn ít vào TTCK Việt Nam.
Trong thời gian đầu, TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh chỉ giao dịch 3 phiên/một tuần ; từ 1/3/2002 nâng lên 5 phiên/ một tuần, đồng thời nghiên cứu cải tiến qui trình thanh toán, giảm thời gian thanh toán từ 4 xuống còn 3 ngày theo thông lệ quốc tế.
Biên độ giao động giá chứng khoán là một trong những biện pháp được áp dụng nhằm ổn định thị trường và bảo vệ các nhà đầu tư trong thời kỳ đầu hoạt động của thị trường chứng khoán, và điều đó được thể hiện qua việc điều chỉnh biên độ theo tình hình thực tế thị trường. Thời gian đầu, TTGDCK áp dụng biên độ giao động giá +- 2%, sau đó tăng lên +-7% và 3%, dự kiến năm 2003 sẽ áp dụng biên độ giao động giá là 5%.
3.4. Hoạt động giao dịch chứng khoán
Với đặc điểm thị trường qui mô nhỏ, hàng hoá còn ít, sự hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán của đa số công chúng còn hạn chế, yếu tố tâm lý chi phối thị trường rất mạnh, vì vậy ngay sau khi bước vào năm 2002, để đảm bảo hoạt động ổn định và phát triển của thị trường , củng cố lòng tin của công chúng đầu tư , cơ quan quản lý và vận hành thị trường chứng khoán đã thực hiện một số biện pháp sau :
+ Tăng cường công tác quản lý giám sát, đảm bảo cho thị trường hoạt động công khai minh bạch,bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Thông qua hoạt động giám sát đã kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những thiếu sót, vi phạm của các công ty chứng khoán, công ty niêm yết và của các nhà đầu tư.
+ Qua thực tế hoạt động của thị trường, đã rà soát được và lấy ý kiến của các đơn vị liên quan như TTGDCK, công ty chứng khoán,công ty niêm yết và điều chỉnh , bổ sung các qui chế cho phù hợp với yêu cầu quản lý và thực tiễn hoạt động của thị trường.
+Đã bước đầu kịp thời xem xét, nghiên cứu, đề xuất và phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan cùng giải quyết các vấn đề vướng mắc như kiến nghị về chính sách thuế,phí, phương thức phát hành trái phiếu, quản lý ngoại hối đối với nhà đầu tư nước ngoài.
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán như mở các lớp học miễn phí cho các đối tượng làm công tác tuyên truyền về hoạt động CK và TTCK.
+ Hoạt động thanh tra, kiểm tra của UBCKNN được tập trung chủ yếu vào vấn đề tuân thủ các qui định pháp luật của các tổ chức tham gia thị trường. Qua thanh tra , kiểm tra đã kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót của công ty niêm yết (chưa thực hiện đầy đủ cam kết trong bản cáo bạch; chưa thực hiện tốt việc công bố thông tin theo qui định của UBCKNN); công ty chứng khoán ( một số nhân viên kinh doanh chứng khoán chư có đủ giấy phép hành nghề; chưa thực hiện việc niêm yết giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán và tên nhân viên đại diện sàn ; thực hiện chế độ báo cáo chậm và không đầy đủ nội dung theo qui định ) và yêu cầu TTGDCK cần tăng cường giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán, kịp thời phát hiện những hành vi giao dịch không công bằng để có biện pháp xử lý thích hợp.
3.5. Đánh giá chung về hoạt động của TTCK năm 2002
Đến nay, về cơ bản chúng ta đã xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật và hướng dẫn về hoạt động và quản lý thị trường tương đối đầy đủ, đảm bảo cho sự vận hành ban đầu của thị trường, cụ thể là đã tổ chức và vận hành dược một TTGDCK tập trung bán tự động với hơn 300 phiên giao dịch suôn sẻ. Hệ thống giao dịch của TTGDCK ban đầu cho phép đấu lệnh 300.000 lệnh/phiên với thời hạn thanh toán giao dịch (T+4), đến nay đã được nâng cấp với nhiều chức năng sử dụng hỗ trợ cho quản lý giao dịch, và hiện nay đã thực hiện giảm thời gian thanh toán xuống 3 ngày (T+3).
Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán như TTGDCK, công ty niêm yết , công ty chứng khoán , các nhà quản lý ,các nhà đầu tư đã trải qua bước đầu làm quen nay đã trưởng thành một bước và tham gia thị trường với vai trò ngày càng tích cực, hiệu quả .Thông qua hoạt động của thị trường, các công ty niêm yết chứng khoán, các công ty chứng khoán tận dụng được những lợi thế mà thị trường đem lại.Các công ty đã cải tiến phương thức hoạt động , công khai hoá thông tin , nâng cao vai trò quản trị công ty , nhờ vậy mà vị thế và uy tín của công ty được nâng lên.
So với thời gian đầu khá khiêm tốn, đến nay trên thị trường đã có 20 công ty niêm yết và 9 công ty chứng khoán. Số lượng nhà đàu tư, khối lượng giao dịch và tổng trị giá thị trường được tăng lên dần. Điều đáng chú ý là có một số công ty niêm yết đã hoặc đang có đề án phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua TTCK. Đặc biệt, hoạt động của thị trường chứng khoán đã góp phần tích cực thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Công tác đào tạo và tuyên truyền luôn được chú trọng và đóng góp đáng kể trong việc cung cấp kiến thức cơ bản cũng như hiểu biết pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng.
Những số liệu cụ thể dưới đây sẽ phần nào phản ánh thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam cuối năm 2002 và đầu năm 2003:
Tổng khối lượng và giá trị giao dịch toàn thị trường năm 2002
Mã CK; Hình thức GD; đối tượng
Tổng KLGD
Tỷ lệ
Tổng GTGD
Tỷ lệ
Mã CK
Cổ phiếu
35.706.139
96,77%
960.120.953.000
89,60%
Trái phiếu
1.192.710
3,23%
111.402.541.220
10,40%
Hình thức GD
Khớp lệnh
29.678.890
80,43%
787.855.323.000
73,53%
Thoả thuận
7.219.959
19,57%
283.668.171.220
26,47%
Đối tượng
Trong nước
31.991.840
86,70%
928.513.257.220
86,65%
Ngoài nước
4.907.009
13,30%
143.010.237.000
13,35%
Tổng cộng
36.898.849
100%
1.071.523.494.220
100%
Bảng CKVN Số 1 – tháng 1 năm 2003
Chương 2: Cơ hội và những thách đối với TTCKVN
I. Những cơ hội đối với TTCK Việt Nam
1. Nền kinh tế thị trường đang từng bước đi vào hoàn thiện
1.1. Sự tăng trưởng mạnh về kinh tế trong những năm gần đây
Nền kinh tế nước ta đang phát triển với tốc độ cao. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân hơn 6-7%/ năm. Trong nhiều năm qua và của 6 tháng đầu năm 2000 là 6,2% (cùng kỳ năm 1999 là 4,3%). Tốc độ tăng trưởng công nghiệp tăng 14,3% cao hơn so với cùng kỳ năm 1999. Ngoại thương phát triển khá mạnh với kim nghạch xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD, tăng 28,5% so với cùng kỳ năm 1999. Bên cạnh đó là sự ra đời của trên 5000 doanh nghiệp với vốn đầu tư dăng kí trên 4.000 tỷ đồng, là dấu hiệu chuyển động của nền kinh tế được các nhà tài trợ đánh giá cao. Những con số trên còn tăng lên đáng kể trong năm 2001, 2002 và còn tiếp tục tăng lên trong năm 2003 và những năm sau đó, hiện tại tốc độ tăng GDP của Việt Nam đã đứng thứ 2 Châu á sau Trung Quốc (dự kiến tốc độ tăng trưởng GDP ăm 2003 khoảng từ 7- 7,5%). Đây là những tiền đề quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán, tạo ra sức hút mạnh mẽ của TTCK. Cộng vào đó, thu nhập và mức sống của mọi tầng lớp dân cư được cải thiện và gia tăng rõ rệt. Uy tín của Đảng Cộng Sản Việt Nam, người chỉ huy mọi thắng lợi ngày càng được củng cố, nhân dân cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước càng vững tin hơn.
1.2. Môi trường kinh tế thuận lợi
Xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp tiến lên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường và đang từng bước đi vào hoàn thiện thì việc hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam là việc rất lên làm. Vốn dĩ TTCK là sản phẩm tất yếu, không thể thiếu của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, trước khi ra đời TTCKVN đã được chuẩn bị chu đáo để phù hợp với những điều kiện cụ thể ở Việt Nam, làm sao để TTCK trở thành một thể chế tài chính vững mạnh trong việc hỗ trợ cho sự phát triển nền kinh tế đất nước.
2. Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập và mở cửa
Trong quá trình hội nhập và mở cửa các doanh nghiệp Việt Nam lại có thêm rất nhiều những cơ hội lớn, tạo điều kiện phát triển cho TTCK nói riêng và nền kinh tế nói chung. Một trong những cơ hội đó là:
+ Hàng hoá của Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi thuế từ các quốc gia khác, và cùng với việc mở rộng thị trường ra bên ngoài, quá trình hội nhập cũng làm cho thị trường trong nước có nhiều thay đổi tạo nhu cầu mới rất to lớn. Chính điều này sẽ giúp cho TTCK có thể vươn xa hơn chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia, cũng đồng nghĩa với việc qui mô của TTCK ngày càng được mở rộng với số lượng nhà đầu tư lớn và phong phú.
+ Tranh thủ được nguồn lực bên ngoài:
Đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam đã có những bước đột phá trong những năm gần đây. Theo số liệu thống kê, tính đến cuối tháng 12 năm 2002, tổng số cổ phiếu mà nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua, bán trên thị trường dạt trên 4,5 triệu cổ phiếu, trong đó gần 3,7 triệu cổ phiếu được mua với tổng giá trị trên 106 tỷ đồng, chiếm xấp xỉ 10% tổng khối lượng giao dịch của toàn thị trường.
Xét về điều kiện khách quan, sự ảm đạm của nhiều thị trường tài chính lớn trên thế giới như Nhật, Mỹ, châu Âu khiến một lượng vốn lớn bị rút ra khỏi thị trường này, theo các chuyên gia thì đây sẽ là cơ hội cho những thị trường “mới nổi”, trong đó có TTCK Việt Nam .
Theo nhiều nguồn tin khác nhau, hiện có một lượng tiền lớn của Việt kiều đang chuyển về cho thân nhân của họ ở Việt Nam để đầu tư chứng khoán.
3. Căn bản xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường
Sự đồng bộ của thể chế kinh tế thị trường thể hiện rõ ở việc chúng ta phải xây dựng được một TTCK phát triển theo đúng nghĩa của nó. Chính vì vậy mà ngay từ khi mới ra đời, TTCK đã dược tạo một môi trường pháp lý lành mạnh và ổn định trong hoạt động của mình.Đồng thời với sự giám sát quản lý chặt chẽ của nhà nước mà thị trường chứng khoán Việt Nam có thể đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư nhưng vẫn không làm mất đi tính khách quan của nó.
4. Giành được sự quan tâm lớn của nhà nước.
TTCK hiện là một lĩnh vực khá mới mẻ ở Việt Nam nên đựơc sự quan tâm rất lớn của nhà nước và công chúng đầu tư trong việc:
+ Xây dựng trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh với hệ thống giao dịch bán tự động khá hoàn chỉnh và hiện đại đáp ứng được nhu cầu sử dụng. Tại đây nhà đầu tư có thể nhận được thông tin hoàn hảo, đầy đủ để có thể mua bán chứng khoán một cách hiệu quả đáp ứng nhu cầu đầu tư của mình.
+ Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật cho TTCK : về cơ bản hệ thống hệ thống văn bản pháp qui đó là tương đối hoàn chỉnh, thích hợp với đời sống kinh tế đất nước, thể hiện đúng đắn định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển thị trường và đã đảm bảo cho quá trình giao dịch, vận hành và quản lý TTCK thông suốt, an toàn công bằng, công khai và có hiệu quả. Nổi bật nhất là chính phủ đã ký quyết định số 75/CP ngày 28.11.1996 về việc thành lập uỷ ban chứng khoán nhà nước và ban hành nghị định 48/1998NĐ-CP ngày 11.7.1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Đây là hạt nhân và cơ sở pháp lý cơ bản, quan trọng cho quá trình xây dựng và phát triển TTCK ở nước ta. Lần đầu tiên trong đời sống kinh tế- xã hội đất nước, chúng ta xây dựng và phát triển TTCK trong khi chưa có mô hình định sẵn, chưa có thực tiễn. Vì thế, chúng ta phải tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện, và do đó chưa đủ điều kiện để xây dựng thành Luật Chứng khoán và TTCK, mà phải thực hiện việc điều chỉnh và quản lý TTCK bằng văn bản pháp qui: Nghị định, Thông tư… từng bước sẽ hoàn chỉnh trên cơ sở thực tiễn đất nước và sẽ nâng thành pháp luật.
+ Tương lai không xa sẽ xây dựng TTCK bảng II tại Hà Nội nhằm phân bổ đồng đều qui mô TTCK trên cả nước, góp phần hoàn thiện TTCK, biến nó trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế.
+Sự quan tâm của công chúng đến loại hình đầu tư chứng khoán ngày càng đông đảo (hơn 5410 tài khoản kinh doanh chứng khoán, trong đó có 6 tài khoản nước ngoài) thể hiện trong hầu hết các phiên giao dịch, người mua và khối lượng chứng khoán đặt mua cao hơn nhiều lần người bán và khối lượng chứng khoán đặt bán, là dấu hiệu tốt về một hình thức đầu tư mới - đầu tư tài chính- có khả năng thu hút vốn đầu tư chứng khoán, hứa hẹn khả năng phát triển thị trường chứng khoán trong tương lai ( có nước đã thất bại trong thời kỳ thành lập TTCK là công chúng không hưởng ứng, ít người mua). Văn hoá chứng khoán và những hiểu biết về đầu tư chứng khoán của công chúng được nâng cao thêm, tạo cơ sở vững chắc cho TTCK sau này.
5. Vấn đề về cải cách
Quá trình cải cách thời gian qua đã cho ra đời và phát triển hàng loạt các ngân hàng thương mại, cơ quan bảo hiểm, các định chế tài chính khác. Từ đây đã tạo nên sự cạnh tranh giữa các định chế tài chính, làm cho hiệu quả kinh doanh trong khu vực này ngày càng cao, lãi suất cho vay ngày một giảm. Đây là các nhân tố và điều kiện quan trọng trong sự phát triển thị trường tài chính nói chung và tiền đề quan trọng để tiến hành và phát triển TTCK nói riêng.
6. Chế độ kế toán doanh nghiệp
Chế độ này mới được sửa đổi, ban hành thực hiện gần gũi hơn vớu chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó hệ thống kiểm toán kể cả kiểm toán nhà nước và phi nhà nước, kiểm toán nước ngoài đã được hình thành và phát triển. Đây cũng chính là một trong những mắt xích và đầu mối quan trọng không thể thiếu được trong quá trình hình thành và phát triển TTCK ở nước ta.
7. Hệ thống thông tin phát triển khá tốt
Chiến lược tăng tốc của ngành bưu điện đang thu được những kết quả khá lạc quan và là điệu kiện hỗ trợ rất tốt để hình thành và phát triển TTCK. Hệ thống tin học của Việt Nam cũng phát triển rất nhanh, theo nhiều chuyên môn thì hệ thống này đã có đầy đủ khả năng để xâm nhập ngay vào TTCK và có thể đốt cháy giai đoạn – bỏ qua giao dịch thủ công, tiến thẳng lên điện tử hoá.
8. Đối tượng tham gia TTCK
Nhiều chuyên gia cho rằng dân Việt Nam rất chịu chơi, sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm, rủi ro, nhìn vào thị trường vé số và làn sóng chơi đề thì thấy rõ. Dân ta vốn có đức tính cần cù, chịu khó thông minh, nhanh nhạy ham học hỏi và tiết kiệm, nhiều người có ý chí làm giàu. Thói quen và nếp nghĩ về việc sử dụng vốn tích luỹ của mình cũng có nhiều thay đổi theo sự phát triển của kinh tế thị trường. Nếu có sự quan tâm đúng mức, khuyến khích thích hợp và có kế hoạch đào tạo cụ thể thì chỉ trong một thời gian tương đối ngắn chúng ta có thể xây dựng được một đội ngũ cán bộ tương đối tốt, có đủ khả năng để hoạt động hữu hiệu lĩnh vực chứng khoán ngang tàmm với các nước khác trên toàn thế giới và đạt chuẩn mực quốc tế ngay từ bước đầu bắt tay vào vận hành TTCK.
9. TTCK ra đời sau
Nước ta là nước phát triển sau nên có thể tận hưởng các kinh nghiệm quý báu của các nước đi trước. Nhờ chính sách kinh tế mở cửa, hội nhập với bên ngoài, làm cho kinh tế trong nước cũng như kinh tế đối ngoại ngày càng thu được những thành quả rất đáng phấn khởi. Cộng vào đó là sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế hết sức nhiệt tình và có hiệu quả. Yếu tố này tác động tốt tới việc ra đời và phát triển TTCK ở nước ta.
II. Những thách thức đối với TTCK Việt Nam
1. Vấn đề hội nhập và mở cửa
Thứ nhất, Việt Nam còn là một nước nghèo vấn đề hội nhập còn gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính là do nền kinh tế vẫn chưa đủ mạnh để có thể đáp ứng tốt và đầy đủ các yêu cầu do vấn đề hội nhập đặt ra.
Thứ hai, quá trình cắt giảm thuế suất hàng nhập khẩu xuống từ 0- 5% theo lịch trình của chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) mà chính phủ Việt Nam đã cam kết với các nước ASEAN nhằm thiết lập khu vực mậu dịch chung ASEAN (AFTA) từ nay đến năm 2006; thực hiện các cam kết của hiệp định thương mại Việt- Mỹ; chuẩn bị các điều kiện tham gia WTO.Điều đó có nghĩa là sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với các hàng hoá của các nước khác, và cũng đồng nghĩa với việc phải đầu tư đổi mới công nghệ, mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, duy trì mở rộng thị trường, hay có thể nói ngắn gọn hơn là nâng cao khả năng cạnh tranh trên thương trường- điểm được coi là yếu nhất của ác doanh nghiệp Việt Nam. Những thách thức đối với doanh nghiệp cũng chính là thách thức lớn nhất đối với TTCK Việt Nam.
Thứ ba, quy mô thị trường còn nhỏ, tính ổn định kém luật lệ chưa đầy đủ… là các cản trở khiến nhà đầu tư nước ngoài, vốn là những người thiếu thông tin về thị trường Việt Nam, ngại rót tiền vào đầu tư. Hơn nữa trong cuộc đua thu hút vốn ,TTCK Việt Nam sẽ gặp phải sự cạnh tranh của những thị trường đã phát triển trong khu vực như các TTCK ở Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Singapore…
2. Vấn đề hàng hoá cho thị trường
Đã nói đến thị trường thì phải nói đến hàng hoá cho thị trường đó. Song hàng hoá của TTCK Việt Nam còn rất nghèo nàn cả về số lượng và chủng loại, chứng khoán phổ biến là ký danh có tính thanh toán kém. Đã có không ít các chuyên gia quốc tế cho rằng trong thời kỳ đầu của TTCK, vấn đề cơ bản là phải đưa được càng nhiều hàng hoá ra thị trường càng tốt, yếu tố chất lượng có thể không nhất thiết được quan tâm nhiều và đây thuộc trách nhiệm của từng nhà đầu tư khi đưa ra quyết định mua hay bán chứng khoán. Về một khía cạnh nào đó, quan điểm này không phải hoàn toàn không chính xác. Tuy nhiên, điều này lại không phù hợp với định hướng xây dựng một TTCK an toàn của đảng và nhà nước.Bởi vì, nếu tính đến cả yếu tố chất lượng khi đưa hàng hoá ra thị trường, so sánh với nhu cầu huy động vốn của 6000 doanh nghiệp nhà nước, gần 900 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, hơn 40000 doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp, hàng nghìn doanh nghiệp có vốn đang hoạt động và nhu cầu huy động vốn của nhà nước cho cân đối thu chi và đầu tư phát triển, thì lượng hàng hoá hiện tại trên thị trường vẫn còn rất nhỏ so với tiềm năng.
3. Kinh nghiệm, hiểu biết nhà đầu tư còn nhiều hạn chế
Việc khai trương TTCK đầu tiên trong một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi hàm nghĩa tình trạng non yếu của chính thể chế kinh tế này trong giai đoạn khởi đầu của nó. Sự non yếu trước hết thể hiện ở sự non kém trình độ của các cán bộ tác nghiệp và quản lý thị trường, ở tính chưa hoàn thiện của cấu trúc bộ máy, của cơ chế vận hành và của khung pháp lý bảo đảm sự hoạt động lành mạnh và an toàn của TTGDCK. Ngắn hạn và trực tiếp hơn, điểm yếu này bộc lộ rõ nhất sự thiếu kinh nghiệm tổ chức và điều hành hoạt động giao dịch trên thị trường.Là một thị trường có độ nhạy cảm cao và tốc độ phản ứng rất nhanh, lại chứa khả năng bị tác động mạnh bởi hoạt động đầu cơ, lại vận động trong một môi trường kinh tế quốc tế đầy biến động, tình trạng thiếu kinh nghiệm là một điểm yếu cốt tử của TTGDCK khi vận hành trong giai đoạn đầu.
Ngoài ra, TTCKVN có những nét khác biệt so với TTCK các nước trên thế giới, lại thiếu đội ngũ cán bộ giảng dạy về lĩnh vực này. Cho nên để có thể hiểu được hết các vấn đề về TTCK là điều hết sức khó khăn đồng thời việc đưa hàng hoá ồ ạt vào thị trường mà không quan tâm đến chất lượngsẽ rất dễ gây ra những ảnh hưởng trái với mong đợi, và TTCK có thể sẽ đi chệch mục tiêu dự kiến là trở thành một định chế, trong đó quyền lợi của các nhà đầu tư được bảo đảm một cách tốt nhất.
4. Nguy cơ đổ vỡ thị trường
Do mới tiếp cận với TTCK, nên các chuẩn mực về báo cáo và công khai thông tin chưa được thực hiện tốt; nhà đầu tư thiếu thông tin, nên mua bán chứng khoán nhiều lúc theo trào lưu tạo ra những cơn sốt giá cổ phiếu bất thường gây nguy cơ tiềm ẩn sụt gía lớn dẫn đến đổ vỡ thị trường. Ngoài một số công ty mạnh dạn niêm yết cổ phiếu, các công ty khác còn ngần ngại về công bố thông tin và chế độ kiểm toán, lo sợ lộ bí mật cạnh tranh với các đối thủ cùng ngành nghề, và có những bỡ ngỡ trong bước đầu hoạt động, vì vậy còn chần chừ, do dự hoặc không muốn tham gia vào TTCK, mà chờ các đối thủ khác đi tiên phong để nghe ngóng, theo dõi, từ đó làm hạn chế khả năng cung cấp hàng hoá chứng khoán trên thị trường.
5. Vấn đề về chủ thể trên TTCK
Các chủ thể tham gia TTCK, nhất là TTGDCK, các công ty chứng khoán, các nhà đầu tư, các nhà môi giới…, về cơ bản, đã quản lý và nắm bắt kịp thời các thông tin của các chứng khoán niêm yết, thông tin thị trường, thực hiện đầy đủ các quy chế, quy tắc, quy trình niêm yết chứng khoán, giao dịch,và kinh doanh chứng khoán, lưu ký và thanh toán chứng khoán, công bố thông tin, giám sát và thanh tra thị trường…, do đó đã tạo ra sự thành công của mô hình và thiết chế TTCK trong thời gian thử nghiệm, một cơ sở quan trọng tạo đà cho giai đoạn phát triển mới trong thời gian tiếp theo. Tuy nhiên, phải nhận thức đúng đắn rằng: cái mới không thể hoàn chỉnh ngay,và khiếm khuyết là không thể tránh khỏi. Điều quan trọng là phải đánh giá đúng và nghiêm túc khắc phục giải quyết. Đến nay, TTCK mới chỉ là nơi giao dịch, chuyển sở hữu vốn từ người này sang người khác- tức là chu chuyển vốn trên thị trường- tạo tính thanh quản của chứng khoán; chưa phải là nơi mà các công ty niêm yết thu hút vốn để trực tiếp mở rộng đầu tư sản xuất- kinh doanh thông qua phát hành cổ phiếu tại TTGDCK ( thiếu hẳn sự hoạt động của thị trường thứ cấp.
6. Vấn đề về chứng khoán niêm yết giao dịch
7. Khả năng thanh khoản của Chứng khoán
8. Công tác quản lý giám sát thanh tra
9. Mất cân đối cung cầu
10. Sự thờ ơ của công chúng đầu tư
11. Vấn đề về thị trường tài chính
Mục 6, 7, 8, 9, 10, 11: bản chính
Chương 3: Các giải pháp phát triển TTCK
Việt Nam
I- Các giải pháp
1. Giải pháp tổng thể: thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững
Trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng, nhu cầu đầu tư sẽ tăng, từ đó sẽ xuất hiện các công cụ nợ đa dạng về thời gian đáo hạn và tạo ra cơ chế cạnh tranh về lãi suất mới đưa đến sự hình thành lãi suất thị trường, làm cho thị trường vốn sôi động.Mục tiêu là trong giai đoạn đầu của TTCK Việt Nam, trái phiếu chính phủ sẽ đóng vai trò chủ đạo, nhưng trên thực tế thì giới đầu tư lại quay lưng với chính phủ. Vậy giải pháp nào để đưa trái phiếu Chính phủ vào giao dịch và đóng vai trò chủ đạo trong giai đoạn đầu. Lãi suất trái phiếu chính phủ qua 4 phiên đấu thầu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán là từ 6,5 – 6,7% năm, nếu dem so sánh với tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2000 chỉ đạt 6,2% thì lãi suất Chính phủ lúc này là tương đối phù hợp. Điều này có nghĩa là sự tăng trưởng của nền kinh tế không cho phép trái phiếu Chính phủ có được một mức lãi suất hấp dẫn hơn. Do đó, cội rễ của vấn đề là làm sao đưa nền kinh tế phát triển bền vững và đúng tiềm năng của nó. Chỉ có đến lúc đó mới có thể hy vọng trái phiếu Chính phủ sẽ đóng vai trò là loại hàng hoá chủ đạo trên TTCK.
2. Giải pháp nhằm tăng cung chứng khoán
+ Ưu đãi thuế cho các công ty niêm yết để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thêm lợi nhuận trả cổ tức, hấp dẫn nhà đầu tư. Cụ thể: đối với công ty phát hành lần đầu miễn 100% thuế doanh thu từ 3-5 năm, đối với công ty phát hành bổ sung giảm 50% thuế doanh thu từ 3-5 năm.
+ Cho phép doanh nghiệp khấu hao nhanh để có vốn đầu tư mở rộng sản xuất.
+ Hạ thấp khung giá phí kiểm toán, miễn phí niêm yết giá trong vòng từ 3-5 năm nhằm giúp các công ty đã cổ phần hoá tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán.
+ Khẩn trương xây dựng thị trường chứng khoán phi tập trung (thị trường OTC) tạo môi trường giao dịch cho các cổ phiếu chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung, có dịp tham gia mua bán cổ phiếu của mình. Như vậy tình trạng khan hiếm hàng hoá trên thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ phần nào bớt căng thẳng.
+ Phát triển các tổ chức tài chính trung gian, các nhà môi giới, tạo lập thị truờng.
+ Đa dạng hoá các công cụ tài chính:
- Ngoài trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, có thể phát hành thêm trái phiếu chiết khấu được hưởng lãi trước, trái phiếu có lãi suất thả nổi… các trái phiếu này chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của các nhà đầu tư vì nó bảo vệ quyền lợi của họ, trong trường hợp lãi suất thị trường bất ổn.
- Khuyến khích các doanh nghiệp đã đủ điều kiện phát hành chứng khoán nên huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu chuyển đổi. Đây là loại trái phiếu rất được các nhà đầu tư ưa thích và phù hợp với điều kiện Việt Nam.
- Đối với các tổ chức nước ngoài, cụ thể như các công ty liên doanh nước ngoài hiện nay chỉ hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, nhà nước nên có chính sách khuyến khích tạo điều kiện cho các công ty này chuyển sang hình thức công ty cổ phần, nhằm làm phong phú hơn lượng cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán.
- Số cổ phần Nhà nước nắm giữ trong những doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là quá cao(30% trên tổng số cổ phần). Để khắc phục tình trạng khan hiếm hàng hoá giao dịch trên thị trường hiện nay, nhà nước cần hạ thấp mức nắm giữ cổ phần trong các doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm tăng số lượng cổ phiếu có khả năng giao dịch trên thị trường.
3. Giải pháp nhằm tăng cầu chứng khoán
+ UBCKNN mà trực tiếp là Trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán phải làm nhiệm vụ đi đầu trong công tác tuyên truyền, vận động giáo dục cho công chúng về lợi ích đầu tư vào chứng khoán, làm tăng sự hiểu biết và lòng tin của công chúng vào tính công bằng, tính thanh khoản của TTCK.
+ Tăng cường khả năng thanh tra giám sát bảo vệ nhà đầu tư cụ thể:
Thanh tra giám sát thường xuyên các công ty chứng khoán và các tổ chức phát hành, có phương pháp thích hợp lựa chọn thanh tra giám sát để đánh giá các chính sách, qui trình nghiệp vụ liên quan tới đầu tư kinh doanh, cũng như đánh giá chất lượng tài sản có và dự phòng rủi ro.
Đặc biệt cần phải bồi dưỡng đội ngũ thanh tra giám sát khả năng phân tích tài chính, nghiệp vụ kĩ năng thực hành và các phương pháp thực hiện thanh tra giám sát, có công cụ thu thập xem xét, phân tích báo cáo số liệu thống kê chứng khoán và giao dịch trên thị trường chứng khoán.
Thanh tra giám sát cần phải có một hệ thống thông tin tin học nhằm phục vụ cho công tác thanh tra giám sát
Thanh tra giám sát đòi hỏi các công ty CK, các tổ chức phát hành phải có hệ thống thông tin phù hợp, hiệu lực quản lý tốt nhằm giúp cho thanh tra giám sát kiểm tra tại chỗ hay từ xa nhằm phát hiện những khoản đầu tư không đúng với qui định của TTCK.
+ Các điều kiện ưu đãi cho người đầu tư:
- Miễn giảm thuế cho người đầu tư cụ thể như sau:
* Ưu đãi thuế đối với các nhà đầu tư cá nhân khi tham gia kinh doanh chứng khoán: cần miễn thuế thu nhập cá nhân đối với những khoản lợi nhuận thu được từ kinh doanh chứng khoán.
* Ưu đãi thuế cho các tổ chức đầu tư có tổ chức: với những khoản chênh lệch mua bán, thu nhập từ cổ tức, lãi trái phiếu cần được miễn thuế trong thời gian 2-3 năm, nhằm khuyến khích các tổ chức tham gia đầu tư.
*Phí giao dịch trong giai đoạn đầu có thể không áp dụng hoặc áp dụng rất thấp đối với cá nhân và các tổ chức nhằm đẩy mạnh các phiên giao dịch, tăng tính thanh khoản cho cầu chứng khoán cụ thể phí giao dịch cổ phiếu là 0,3%, phí giao dịch trái phiếu là 0,10%.
Đối với người đầu tư nước ngoài cần có chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích người nước ngoài đầu tư vào chứng khoán Việt Nam.Đặc biệt là thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài cho người định cư tại nước ngoài, cho người thường trú ở Việt Nam, người nước ngoài góp vốn mua cổ phần các doanh nghiệp Việt Nam.
Cần có một số những qui định nới lỏng điều kiện tham gia kinh doanh chứng khoán cho các nhà đầu tư nước ngoài, chẳng hạn như nâng tỷ lệ góp vốn để thành lập công ty chứng khoán liên doanh là 40%.
Tăng cường kiến thức cho các nhà đầu tư thông qua các chiến dịch đào tạo và phổ biến kiến thức cho công chúng.
Tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trên thị trường bằng việc tăng cường công tác công bố thông tin, nâng cao chất lượng kiểm toán, đồng thời thông qua sự trợ giúp quốc tế từng bước phổ biến những thông lệ về quản trị công ty tốt trên thế giới vào các doanh nghiệp Việt Nam.
Ban hành các qui định về việc nắm giữ chứng khoán cần linh động hơn. Hiện nay, theo nghị định 139 người nước ngoài nắm giữ tối đa 20% lượng chứng khoán phát hành, nên áp dụng ở tỷ lệ 30% theo như nghị định 44/CP của Chính phủ.
4. Tăng cường công tác quản lý của nhà nước
Vấn đề muốn nói đến ở đây, chính là đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư, xử lý nghiêm những trường hợp mua bán nội gián, lũng đoạn thị trường… tiến tới giảm bớt các biện pháp hành chính để quản lý thị trường. Về lâu dài, khi hàng hoá đa dạng về chủng loại, nhiều về khối lượng thì nên cân nhắc điều chỉnh biên độ giao động giá từ +-2% tăng lên +-5%, khi tiềm lực kinh tế mạnh, biên độ giao động giá có thể tăng lêntừ +-10% đến +-15%, có như thế mới tạo tính sinh động cho thị trường chứng khoán, tạo sự hấp dẫn của thị trường và thu hút được nhiều người tham gia, làm cho thị trường chứng khoán mới thể hiện đúng bản chất của nó là một thị trường bậc cao. Hầu hết các thị trường mới nổi đều có qui định biên độ giá nhằm hạn chế sự biến động quá mức giá cả trên thị trường. Ví dụ như SGDCK Thái Lan qui định mức trần là 33% và Sàn là 27%, SGDCK Balan qui định biên độ +-10%, Malaysia +-30%. SGDCK Thượng Hải đã thay đổi biên độ giao động giá nhiều lần +-1%, 3%, 5%, vào năm 1992 đã bãi bỏ giới hạn biên độ giao động giá, tuy nhiên đến đầu năm 1996 lại áp dụng biên độ giá +-10%. Một số nước không áp dụng biên độ giao động nhưng có qui định ngừng hoạt độngcủa sở giao dịch chứng khoán trong những thời gian nhất định, ví dụ như khi chỉ số Down Jones giảm 250 điểm thì ngừng hoạt động 30 phút, nếu giảm xuông 400 điểm thì ngừng 60 phút.So với biện pháp trên, việc ngừng giao dịch có thể làm giảm niềm tin của những người đầu tư vào thị trường.
Ngoài ra UBCKNN cần dưa vào các qui định cấm các tổ chức, cá nhân thực hiện lệnh mua và bán một loại chứng khoán trong một phiên giao dịch để tránh việc “làm giá” gây rối loạn thị trường.Đối với các cổ phiếu có giá giao dịch đuụng trần trong nhiều phiên liên tục thì nên đưa vào diện kiểm soát và có mức khống chế giao dịch và biên độ giá giao động riêng cho loại cổ phiếu này. Chưa nên cho phép công ty niêm yết mua lại cổ phiếu và chưa áp dụng việc giao dịch thâu tóm doanh nghiệp.
5. Phát triển thêm các định chế tài chính, hiệp hội kinh doanh CK
Hiện có 9 công ty được phép hoạt động, nhưng chủ yếu tập trung ở Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh. Do đó, cần mở rộng thêm các công ty chứng khoán, mở các chi nhánh ở các tỉnh, thành nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư của toàn bộ công chúng đầu tư. Việc mở rộng công ty chứng khoán là nhằm làm giảm tính độc quyền, tạo sự cạnh tranh bình đẳng. Tiến tới cần tách bạch chức năng tự doanh và môi giới của các công ty chứng khoán, nhằm tạo sự bình đẳng giữa công chúng đầu tư và các công ty chứng khoán. Đầu năm 2001, UBCKNN đã cấp giấy phép thành lập công ty chứng khoán cho 3 ngân hàng quốc doanh còn lại là NH Công thương, NH Nông nghiệp, và NH Ngoại thương. Có thể nói đây là một tín hiệu rất đáng mừng.
Ngoài ra, cần sớm cho ra đời các công ty xếp hạng tín nhiệm. Thông qua các công ty này mà nhà đầu tư có cái nhìn chính xác hơn về tình hình công ty muốn đầu tư. Hoạt động của các công ty xếp hạng sẽ tạo áp lực cho các công ty được niêm yết làm ăn một cách đàng hoàng minh bạch trong các hoạt động kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng sớm tiến hành thành lập thêm các tổ chức mới như Quỹ bình ổn TTCK và công ty chứng khoán nhà nước; nên cho phép một số công ty kiểm toán nước ngoài được tham gia kiểm toán doanh nghiệp có phát hành chứng khoán và tham gia niêm yết tại trung tâm GDCK để đảm bảo cho TTCK hoạt động ổn định và lành mạnh.
Song song với việc đẩy mạnh phát triển các định chế tài chính, Nhà nước cần xem xét và cho phép thành lập Hiệp hội kinh doanh CK. Sự ra đời của hiệp hội kinh doanh CK là cần thiết và đóng vai trò quan trọng làm nhiện vụ dẫn đường, phối hợp hành động với các cơ quan quản lý nhà nước hoàn thiện cụ thể chính sách pháp luật, nhằm đưa hệ thống các tổ chức trung gian trên thị trường tiếp cận với các tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, hướng tới sự phát triển bền vững của thị trường CK. Tuy nhiên, để Hiệp hội này có thể ra đời, cần phải có những điều kiện nhất định, trong đó quan trọng nhất là các tiêu chuẩn về pháp lý, cũng như sự hình thành và phát triển của các tổ chức tham gia trên TTCK. Thiết nghĩ, các cơ quan chức năng, cụ thể là UBCKNN cần phải triển khai Qui chế hiệp hội kinh doanh CK Việt Nam để trình Chính phủ sớm ban hành.
6. Các giải pháp về công bố thông tin
Công chúng sẽ không đầu tư vào một doanh nghiệp khi họ không biết gì về tình hình tài chính, kinh doanh của doanh nghiệp đó. Do vậy, cần phải có giải pháp để tạo cho các doanh nghiệp tiếp cận với việc công bố thông tin, công khai hoá tình hình tài chính là việc cần thiết, đặc biệt là đối với các công ty niêm yết nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công chúng đầu tư. Cụ thể như:
+ Thông tin thị trường phải đảm bảo nguyên tắc: đầy đủ, chính xác, kịp thời và bình đẳng theo đúng qui chế công bố thông tin cho UBCKNN đã ban hành.
+ Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin qua mạng Internet (xây dựng một trang chủ của TTGDCK trên mạng Internet- Đã làm được).
+ Phát hành các ấn phẩm chính thức (tạp chí, báo, bản tin nhanh…).
+ Thiết lập những hệ thống thông tin tự động.Với hệ thống này người đầu tư có thể tiếp cận và cập nhật thông tin 24/24.
7. Về tiêu chuẩn kiểm toán
Các công ty kiểm toán muốn được chấp thuận là tổ chức kiểm toán các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về: thời gian hoạt động, vố, kiểm toán viên, số lượng khách hàng hàng năm:
+ Về vốn: Các tổ chức kiểm toán trong nước phải có mức vốn điều lệ hoặc vốn chủ sở hữu qui điịnh là 2 tỷ đồng trở nên. Đối với nước ngoài phải có vốn điều lệ tối thiểu 3000.000 USD.
+ Kiểm toán viên:Các công ty kiểm toán phải có đội ngũ kiểm toán viên được cấp giấy phép hành nghề kiểm toán tại Việt Nam từ 10 người trở lên.Đối với kiểm toán viên trong nước có ít nhất 2 năm kinh nghiệm, còn đối với kiểm toán viên nước ngoài có kinh nghiệm ít nhất 5 năm. Ngoài ra phải thực hiện đúng pháp lệnh kế toán và kiểm toán.
8. Các giải pháp tổ chức bộ máy và cơ sở hạ tầng cho TTCK
8.1. Các giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực
Trước hết, cần chú trọng bồi dưỡng gấp rút đội ngũ cán bộ điều hành, qquản lý của UBCKNN, TTGDCK. Đặc biệt là phải đào tạo đội ngũ giảng viên giảng dạy về chứng khoán.
Tiếp đó, là đội ngũ những người trực tếp tham gia tác nghiệp tại TTGDCK - đào tạo theo hướng chuyên môn hoá. Đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của các nước về nghiệp vụ và kĩ thuật.
Cuối cùng, là phổ cập kiến thức chứng khoán & TTCK cho các doanh nghiệp và dân chúng trên phạm vi cả nước.
8.2. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
Cần phải nâng cấp ngay hệ thống giao dịch hiện đại hơn phù hợp với yêu cầu phát triển kỹ thuật của thị trường.
Khẩn trương nâng cấp và tu sửa cơ sở hạ tầng của TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội và nâng cấp mở rộng hoạt động của Trung tâm đào tạo cũng như cơ sở hạ tầng.
9. Môi trường pháp lý
Hiện nay chúng ta chỉ mới có Nghị định Chính phủ về chứng khoán và TTCK. Giai đoạn tới nên xây dựng và ban hành Pháp lệnh chứng khoán và thị trường chứng khoán. Có như vậy mới tạo được niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động đầu tư chứng khoán. Đồng thời cần bổ sung và hoàn thiện một số luật sau: Luật kế toán, kiểm toán; luật dân sự; luật hình sự; luật đầu tư nứơc ngoài.
Ngoài việc ban hành các văn bản mới về chứng khoán và TTCK, chúng ta phải xem xét chỉnh sửa, bổ sung các văn bản pháp luật trong các ngành khác nhau nhằm tạo ra sự thống nhất, hoàn chỉnh trong hệ thống luật nói chung cũng như điều chỉnh lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán nói riêng. Quá trình xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán phải dựa trên cơ sở Hiến pháp, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng pháp luật chứng khoán với các bước đi thích hợp cho cả trước mắt và lâu dài, nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu trong công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, cũng như các yêu cầu của thị trường chứng khoán.
Chuẩn bị cho việc xây dựng về luật chứng khoán và thị trường chứng khoán để điều chỉnh thị trường chứng khoán có hiệu quả cao, bao quát được tất cả các vấn đề về chứng khoán và thị trừơng chứng khoán, đồng thời giải quyết ngay được những mâu thuẫn hoặc không phù hợp giữa luật chứng khoán và thị trường chứng khoán với các luật khác trong hệ thống pháp luật.
10. Giải pháp giảm thiểu rủi ro trên thị trường chứng khoán
10.1. Rủi ro đối với người phát hành
Người phát hành phải nghiên cứu kỹ thị trường, nên tham khảo ý kiến tư vấn của các công ty chứng khoán, công ty bảo lãnh phát hành để phát hành loại chứng khoán phù hợp với nhu cầu thị trường về loại chứng khoán, lãi suất, số lượng… để đảm bảo thành công cho phát hành lần đầu tiên.
Để hạn chế những tác động của sự biến động giá cả, các doanh nghiếpau khi phát hành chứng khoán phải sử dụng tốt những khoản vốn thu được để phát triển doanh nghiệp.
10.2. Rủi ro về phía Chính phủ
Về phía Chính phủ, khi phát hành trái phiếu cũng phải tính đến hai loại rủi ro trên. Để hạn chế các loại rủi ro này, Chính phủ cần phát hành các loại chứng khoán phù hợp với nhu cầu công chúng về lãi suất và đảm bảo an toàn. Cũng như sau khi phát hành chứng khoán thì chức năng duy trì ổn định về kinh tế xã hội và chính trị sẽ tạo ra niêm tin và sự thành công của Chính phủ trong việc huy động vốn và điều hành vĩ mô nền kinh tế.
10.3. Rủi ro đối với công chúng đầu tư
Rủi ro nằm ngay trong chính hoạt động đầu tư. Để kiểm soát hay hạn chế rủi ro, người đầu tư phải tìm kiếm thông tin nhằm đánh giá và đặt niềm tin vào doanh nghiệp hay loại chứng khoán mà mình sẽ mua.
Măt khác, vấn đề còn lại tuỳ thuộc vào trình độ, khả năng phân tích,sự nhạy bén, cũng như khả năng thu thập thông tin của từng người. Nếu như người đầu tư nào không đủ trình độ đánh giá và phân tích thị trường thì hãy tìm cho mình một chuyên gia trung thực và có trình độ. Ngoài ra cần phải lập quỹ bảo hiểm chứng khoán để hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư.
11. Giải pháp về hoàn thiện các tổ chức tài chính trung gian
11.1. Đối với các công ty chứng khoán
Thúc đẩy nhanh hình thành các công ty chứng khoán thuộc ngân hàng thương mại.
Để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh chứng khoán và giữ cho thị trường được ổn định, hiệu quả nhằm bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, đối với các công ty chứng khoán, các tổ chức tham gia kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ chấp hành quy chế về tổ chức hoạt động của công ty chứng khoán mà UBCKNN đã ban hành.
11.2. Đối với các quỹ đầu tư
Hiện nay, chúng ta chưa có quỹ đầu tư chứng khoán, do vậy nên cần sớm hinh thành các Quỹ đầu tư chứng khoán và hướng các Quỹ này hoạt động tuân thủ theo quy chế tổ chức và hoạt động công ty quản lý Quỹ.
12. Một số giải pháp khác
Thứ nhất, đối với các doanh nghiệp nhà nước nên đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá mang tính khoa học và hệ thống. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhà nước thấy được lợi ích của việc tham gia TTCKVN. Điều đặc biệt quan trọng là làm sao để các doanh nghiệp nhà nước có những dự án đầu tư khả thi hiệu quả. Từ đó, có thể khơi dậy nhu cầu sử dụng vốncủa các doanh nghiệp này.
Thứ hai, hạ thấp mức vốn điều lệ qui định từ 10 tỷ đồng xuống còn 7 tỷ đồng để phù hợp với mặt bằng của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, giải pháp còn đang trong quá trình được UBCKNN xem xét và phê duyệt. Bởi lẽ, việc hạ thấp tiêu chuẩn niêm yết có thể dẫn tới việc hạ thấp chất lượng của cổ phiếu niêm yết hay không đang còn là vấn đề gây tranh cãi
Thứ ba, cần tiếp tục hoàn thiện phương thức và cơ chế phát hành TPCP nhằm thu hút rộng rãi hơn nữa các nhà đầu tư trên thị trường CK. Bộ Tài chính cần đưa ra thời điểm hợp lý hơn khi phát hành TPCP thông qua hình thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành sao cho 2 hình thức phát hành trên được tổ chức không quá gần nhau, tránh tình trạng cạnh tranh thu hút vốn giữa 2 hình thức. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh phát hành TPCP, nhất là loại trái phiếu công trình (đã được đổi tên thành trái phiếu đầu tư theo nghị định 01/2000/NĐ-CP của chính phủ).
Thứ tư, về lãi suất, do TPCP có lãi suất cố định trong thời gian khá dài nên rủi ro lãi suất khá cao, chưa hấp dẫn các nhà đầu tư. Do vậy, cần nghiên cứu phát hành TPCP có lãi suất điều chỉnh theo lãi suất thị trường để tăng tính hấp dẫn cho TPCP.
Hơn nữa, để tạo nên một đường cong lãi suất, cần lập chương trình phát hành TPCP có thời hạn khác nhau như 2, 3, 4, 6, 7, 10 năm xen kẽ trong tháng. Nhờ đó, các nhà đầu tư luôn có hàng hoá trên thị trường để đầu tư phù hợp với chiến lược đầu tư riêng của mình và thị trường cũng luôn luôn tồn tại mức lãi suất để các công cụ đầu tư khác nhau sử dụng tham chiếu.
Thứ năm, UBCKNN nên xem xét quy định lại mức phí giao dịch đối với TPCP. Cần giảm bớt mức phí giao dịch này xuống nhiều hơn nữa để kích thích việc mua đi bán lại loại hàng hoá này. UBCKNN cần chú ý tới các loại trái phiếu công ty với các biện pháp hậu thuẫn về chính sách quảng cáo, thủ tục phát hành… Loại trái phiếu công ty đầu tiên được niêm yết là trái phiếu NHĐT& PT Việt Nam (mã số BID1- 100) đựơc giao dịch gần 100 triệu đồng ngay phiên giao dịch đầu tiên cho thấy sức hấp dẫn của trái phiếu này nếu chung được chuẩn bị kỹ.
II. Định hướng phát triển TTCK trong thời gian tới
1. Giai đoạn 2003-2005
Mục tiêu trong giai đoạn 2003-2005 là củng cố TTCK và hoàn thiện xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản cho thị trường, từng bước phát triển quy mô, phạm vi hoạt động thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động của thị trường chứng khoán; tăng cung hàng hoá; hoàn thiện cơ sở hạ tầng vật chất, kỹ thuật của thị trường; xây dựng và phát triển định chế hoạt động trên thị trường. Một só chỉ tiêu cụ thể của giai đoạn này như sau:
Phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường đạt mức 2-3% GDP;
Xây dựng Trung tâm Giao dịch chứng (TTGDCK) ban đầu cho cổ phiếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội.
Hoàn thiện, nâng cấp hệ thông giao dịch tự động tại Tp. Hồ Chí Minh để thay thế hệ thống giao dịch ban đầu.
Phát triển các công ty niêm yết, công ty chứng khoán, thành lập một số công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán…
2. Giai đoạn 2006-2010
Mục tiêu giai đoạn 2006-2010 là tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ của thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ chủ yêu là mỏ rộng tăng cường năng lực của thị trường, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật , dịch vụ; khuyến khích tăng cường khả năng cạnh tranh; thúc đẩy hội nhập quốc tế. Một số chỉ tiêu cụ thể của giai đoạn này như sau:
-Tổng giá trị thị trường đạt mức 10-15% GDP.
-Nâng cấp TTGDCK Tp.HCM thành sở giao dịch chứng khoán,hệ thống giao dịch, giám sát thị trường, hông tin thị trường tự động hoá hoàn toàn.
-Nâng cấp TTGDCK Hà Nội, và chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 đưa TTGDCK Hà Nội trở thành thị trường phi tập trung (OTC).
-Thành lập một trung tâm lưu ký độc lập, cung cấp đồng thời các dịch vụ thanh toán, lưu ký, đăng ký chứng khoán tập trung.
-Thành lập thí điểm một số công ty định mức tín nhiệm…
Với những mục tiêu trên, cần nghĩ đến những vấn đề mấu chốt để xây dựng thành công thị trường này:
Thứ nhất, phải có sự nỗ lực của UBCKNN trong việc thực thi chiến lược phát triển thị trường; phải xây dựng niềm tin của công chúng đầu tư; các công ty chứng khoán phải “ nhập cuộc”, thông qua hiệp hội chứng khoán để hiệp sức lại thúc đẩy việc tạo hàng hoá cho thị trường, đồng thời tạo môi trường đầu tư lành mạnh, bình đẳng.
Thứ hai, phải có được cơ chế cho thị trường. Trước hết, UBCKNN nên đóng vai trò là người quản lý nhà nước, vì trên một số phương diện, TTCK phải được chủ động trong việc xây dựng và giám sát. Bộ máy UBCKNN cũng phải được tổ chức là cơ quan quản lý nhà nước tronh lĩnh vực ngành hoạt động độc lập, đáp ứng yêu cầu quản lý linh hoạt, nhạy bén với TTCK.
Phần kết luận
Nghiên cứu vấn đề về cơ hội và thách thức ở trên đã phần nào giúp chúng ta có cái nhìn khá tổng quan đối với TTCK Việt Nam. Trong thời gian hình thành và phát triển vừa qua, có thể nhận định: Thị trường chứng khoán là thị trường của niềm tin. Tuy nhiên niềm tin của giới đầu tư đang ngày càng bị xói mòn bởi rất nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản là sự thiếu mạnh mẽ trong cách điều hành TTCK của cơ quan quản lý. Các bộ ngành hữu quan cũng chưa thể hiện sự quan tâm đây đủ tới việc phát triển TTCK.
Chúng ta dám thẳng thắn nhìn vào những hạn chế của một thị trường hoàn toàn mới mẻ và non trẻ, để từ đó có thể tìm ra hướng khắc phục những khó khăn còn đang tồn tại góp phần làm cho TTCK Việt Nam phát triển ổn định, hiệu quả theo đúng nghĩa của nó. Xong cũng không thể phủ nhận tầm quan trọng của thị trường chứng khoán đối với sự phát triển của nền kinh tế Quốc dân. Thông qua những cơ hội và thách thức đã trình bày ở trên nhà nước sẽ chỉ đạo UBCKNN đưa ra những giải pháp cụ thể, hiệu quả hơn nữa nhằm ổn định và lành mạnh hoá thiết chế tài chính này.
Là một sinh viên chuyên ngành chứng khoán, với lượng kiến thức còn có hạn, nhưng em tin rằng trong tương lai chúng ta sẽ có một TTCK đích thực, (mặc dù hiện nay vai trò của TTCK vẫn còn mờ nhạt đối với nền kinh tế). Điều đó cũng đồng nghĩa với việc cơ hội việc làm của chúng em khi ra trường sẽ cao hơn.( bởi chính lúc này công chúng không còn thờ ơ với một lĩnh vực đầu tư hết sức hiệu quả này).
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35419.doc