Từ những đánh giá khái quát trên đây về thực trạng và xu hướng biến động của thị trường lao động Hà Nội trên các đặc trưng chủ yếu qua mấy năm gần đây cho thấy: bên cạnh những tiến bộ về nhiều mặt đã đạt được còn không ít khó khăn trở ngại và thách thức. Đó cũng là cơ sở để khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để có những đánh giá đầy đủ cụ thể hơn làm căn cứ thực tiễn cho việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống các cơ chế, chính sách và giải pháp cũng như cho công tác quản lý, điều hành và tổ chức triển khai trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm trong nhũng năm tiếp theo.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thị trường lao động và thực trạng thị trường lao động thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
ĐỀ ÁN
KINH TẾ LAO ĐỘNG
Đề tài:
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VÀ THỰC TRẠNG
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI .
Giáo viên hướng dẫn : TS. TRẦN XUÂN CẦU
Người thực hiện : NGUYỄN THỊ CHINH
Lớp : KINH TẾ LAO ĐỘNG - 39B
Khoa : LĐ & DS.
HÀ NỘI - 1/2001
LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc do Đảng ta khởi xướng và lãng đạo thực hiện đã mở ra con đường đưa nền kinh tế xã hội nước ta ra khỏi khủng hoảng để phát triển nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Với việc chuyển sang nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch nền kinh tế nước ta đã, đang và sẽ trải qua những biến đổi lớn: Các xí nghiệp quốc doanh tiến hành sắp xếp lại, chuyển sang hạch toán kinh tế toàn phần, xoá bỏ tình trạng"lãi giả lỗ thật", tính toán hiệu quả thực sự để đảm bảo sự tồn tại của xí nghiệp mình, ..., các Bộ,các cơ quan Nhà nước,... cùng tiến hành sắp xếp lại sao cho hoạt động có hiệu quả nhất. Những sắp xếp đó là cần thiết và đương nhiên sẽ làm cho một số lớn CBCNV dôi ra, thêm vào đó tốc độ phát triển dân số trong những năm trước cao nên nguồn lao động hiện nay vẫn tăng nhanh làm cho số người bước vào tuổi lao động hàng năm vẫn lớn, tư tưởng chỉ muốn làm việc trong khu vực Nhà nước vẫn còn nặng nề trong mỗi người lao động, gần đây, quân tình nguyện Việt Nam tại Cămphu chia đã rút hết về nước,.... tất cả những cái đó làm cho vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động trở nên cấp bách và nóng bỏng nhất hiện nay.
Mặc dù Nhà nước đã ban hành một loạt Nghị quyết và chính sách về đổi mới quản lý kinh tế, đặc biệt là nghị quyết 16 của Bộ chính trị về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý đối với các cơ sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và nghị quyết 10 của Bộ chính trị về đổi mới quản lý nông nghiệp đã có tác động tích cực đến phát triển các thành phần kinh tế ở cả thành thị lẫn nông thôn, bước đầu tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Song vẫn còn nhiều hạn chế: chưa hình thành được cơ chế, chính sách cụ thể về giải quyết việc làm cho từng đối tượng cụ thể, nhất là cho thanh niên đến tuổi lao động và các quân nhân xuất ngũ, chưa có chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội đối với những người làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh, chưa có những chính sách để người để người lao động được tự do tìm việc làm, tự do di chuyển chỗ làm việc...
Trong bối cảnh đó, thị trường lao động nước ta nói chung và thị trường lao động Nhà nước nói riêng có môi trường và điều kiện phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Là Trung tâm kinh tế, chính trị - văn hoá của cả nước, nguồn lao động của Thủ đô có nhiều điểm mạnh và lợi thế so với cả nước, đồng thời Hà Nội cũng có nhiều điều kiện thuận lợi để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động của Thủ đô.
Vấn đề thị trường lao động, xét cả về phương diện lý luận và phương diện thực tiễn, đang trở thành mối quan tâm rộng rãi trong các giới học thuật, quản lý và người lao động nước ta.
Nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu mới và bức xúc đó, tôi xin giới thiệu nội dung đề án có đề tài: "Thị trường lao động và thực trạng thị trường lao động thành phố Hà Nội".
Bài viết tuy đã có nhiều nỗ lực, cố gắng của bản thân tối nhưng chắc rằng vẫn không tránh được những thiếu xót, rất mong thầy giáo thông cảm và bổ sung để đề án này được hay và hoàn thiện hơn.
Bài viết mà tôi sẽ giới thiệu sau đây gồm những nội dung chính sau:
I. Sự hình thành thị trường lao động.
II. Vài nét về thị trường lao động.
III. Mối quan hệ giữa cung - cầu và giá cả trên thị trường lao động.
NỘI DUNG
I. SỰ HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG:
Thị trường là môi trường "sống" của kinh tế hàng hoá. Phát triển kinh tế hàng hoá tất yếu phải sớm muộn hình thành thị trường. Trong các loại thị trường chủ yếu phải hình thành cả thị trường lao động. Có hai thái độ nghiên cứu vấn đề này. Một là, cứ để cho thị trường hình thành và phát triển, từ đó tổng kết và rút ra những đặc điểm của thị trường hàng hoá Việt Nam. Hai là thừa kế những thành tựu to lớn của nhân loại, áp dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Thái độ thứ nhất thực chất là đóng cửa, quá nhấn mạnh đặc điểm cục bộ trong khi thị trường hàng hoá thế giới đã hình thành, tính cực đoan này là biểu hiện thiếu khôn ngoan, làm cho đất nước đi vào ngõ cụt, sẽ phạm nhiều sai lầm ấu trĩ trong những bước chập chững ban đầu (và có thể còn về sau nữa) như sự hình thành các thị trường hàng hoá và tiền tệ mấy năm vừa qua. Thái độ thứ hai xuất phát từ nhận thức cho rằng kinh tế hàng hoá là một bước phát triển có tính quy luật của nhân loại, sự hình thành và phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế đó cũng theo những quy luật nhất định, tuy có lúc khúc khuỷu quanh co. Qua nhiều trăm năm hình thành và phát triển, đến nay nhân loại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về thực tiễn, cũng như lý luận trên vấn đề này. Tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm và lí luận đó, áp dụng vào thị trường Việt Nam làm con đường khôn ngoan nhất, ngắn nhất để thúc đẩy nhanh chóng sự hình thành và phát triển các loại thị trường, trong đó có thị trường lao động nhằm góp phần thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá của ta phát triển nhanh chóng. Bài viết này đi theo khuynh hướng thứ hai.
1. Điều kiện hình thành thị trường sức lao động.
a) Điều kiện có tính chất tiền đề cho thị trường lao động hình thành và phát triển là quyền tự do trong lao động. Đó là quyền tự do chủ yếu, nó bao gồm đầy đủ hệ thống các quyền tự do đã nêu ra trong thời kỳ vận động cách mạng trứơc khi giành được chính quyền của Đảng ta và của Mặt trận Việt Minh. Đó là các quyền tự do hành nghề, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do lập hội, tự do hội họp, tự do ngôn luận và tự do xuất dương. Nó cũng bao gồm cả quyền tự do thân thể của mỗi con người.
Lao động hoạt động trong thị trường phải tự động phục tùng các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu và quy luật sinh tồn. Do quyền tự do lao động phải bao gồm các quyền tự do thân thể, tự do xuất dương. Thiếu một trong các quyền tự do đó, hoạt động lao động sẽ bị hạn chế, thị trường lao động sẽ bị tắc nghẽn, con người lao động sẽ không đảm bảo được quyền sinh tồn của mình, nhân phẩm bị hạ thấp.
b) Thị trường lao động chỉ hình thành khi xuất hiện quan hệ lao động tức là khi có người lao động đem bán cái hàng hoá sức lao động của mình và có người sử dụng lao động - mua cái giá trị sử dụng sức lao động đó. Vì vậy, về mặt xã hội phải cùng một lúc thừa nhận hai tầng lớp này cùng tồn tại và phát triển bình đẳng với nhau. Ở đây, thực tế của kinh tế hàng hoá đang hàng ngày, hàng giờ diễn ra mối quan hệ lao động giữa hai loại người này trong xã hội. Và tốc độ phát triển của giới sư dụng lao động sẽ là một biểu hiện của tốc độ tăng trưởng của kinh tế hàng hoá. Vì vậy, thừa nhận giới sử dụng lao động là một đòi hỏi của quy luật khách quan, không cưỡng lại được khi ta muốn phát triển kinh tế hàng hoá.
Không thể khuyến khích phát triển kinh tế hàng hoá mà không thừa nhận và khuyến khích phát triển thị trường lao động. Đến lượt mình, không thể khuyến khích phát triển thị trường lao động mà không thừa nhận bằng pháp luật giới sử dụng lao động bình đẳng với các giới khác.
c) Điều kiện thứ ba để hình thành thị trường lao động là bản lĩnh của người lao động. Hàng hoá sức lao động chỉ có thể có giá trị lưu hành trên thị trường khi và chỉ khi nó đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế hàng hoá, tức là nó có đủ kỹ năng lao động để đáp ứng yêu cầu đổimới không ngừng về mặt hàng, công nghệ, hình thức bên ngoài và các thủ đoạn lưu thông và tiêu thụ sản phẩm về dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh doanh và đời sống. Trong thời đại cách mạng khoa học - kỹ thuật đang tiến lên như vũ bão xã hội sẽ ngày càng ít sử dụng lao động giản đơn mà sẽ yêu cầu không ngừng đổi mới và nâng cao kỹ năng lao động, con người muốn thích nghi muốn lưu thông được món hàng hoà đặc biệt đó của mình cũng phải tự mình có nghề nghiệp và không ngừng hoàn thiện, đổi mới nghề nghiệp đó. Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế chính trị văn hoá nơi tập trung các cơ quan đầu não của cả nước. Năm 1998, số người trong độ tuổi lao động là 1,4 triệu người chiếm gân 60% dân số trong đó 1,1 triệu người đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân với 30% lao động đã được qua đào tạo nghề. Qua số liệu điều tra cho thấy về trình độ văn hoá của lực lượng lao động thủ đô có 4,4% chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở, 9,6% tốt nghiệp phổ thông cơ sở, 42,1% tốt nghiệp trung học cơ sở và 43,1% tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên. Về trình độ chuyên môn: 39,4% lao động đã qua đào tạo nghề trong đó công nhân kỹ thuật chiếm gần 22% lực lượng lao động tham gia lao động kinh tế. Đây là tỷ lệ cao so với tỷ lệ chung của cả nước.
d) Điều kiện thứ tư là phải có các chính sách lao động và xã hội thích hợp. Các chính sách đó, một mặt phải bảo hộ được các quyền lợi vật chất và tinh thần của người lao động, nhưng mặt khác phải đề cao trách nhiệm cá nhân của người lao động trước cuộc sống bản thân và gia đình họ. Mỗi người phải tự sắp xếp cuộc sống - lao động và hưởng thụ của mình. Muốn vậy, hai loại chính sách cấp bách nhất cần được gấp rút cải cách về cơ bản là chính sách tiền lương và chính sách bảo hiểm xã hội.
2. Sức lao động trở thành hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
Trước hết cần phải nhắc lại điều mà Các Mác đã khẳng định: Sức lao động trở thành hàng hoá khi người lao động được tự do về thân thể và không có tư liệu sản xuất. Điều này hoàn toàn đúng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, lúc đó sức lao động của những người làm thêu đều đã trở thành hàng hoá. Tiền công nói chung cũng như tiền lương nói riêng chẳng phải gì khác hơn là giá cả sức lao động. Với tư cách là giá cả sức lao động cũng như các loại khác về nguyên tắc tiền công hay tiền lương phải phản ánh giá trị sức lao động và được hình thành trên thị trường, chủ yếu do tương quan cung cầu sức lao động trên thị trường quyết định.
Như vậy xuất phát từ cả hai phía: Lợi ích của người lao động và lợi ích của xã hội mà thị trường sức lao động hình thành và phát triển. Thừa nhận sức lao động là hàng hoá là một tất yếu theo xu thế vận động khách quan của nền kinh tế hàng hoá.
Hàng hoá sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt, nó không giống bất cứ một loại hàng hoá thông thường nào. Đối với sức lao động, bản thân nó trước hết có giá trị sử dụng. Người lao động có thể là người chủ sử dụng chính sức lao động của bản thân hoặc cũng có thể có một người chủ khác sử dụng sức lao động của mình trên cơ sở tư nguyện"thuận mua, vừa bán".
Giá trị của hàng hoá sức lao động đòi hỏi phải trả ngang giá các tư liệu sinh hoạt vần thiết để tái sản xuất sức lao động, bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử, yếu tố đào tạo, giáo dục, gia đình.
Trong nền kinh tế thị trường sức lao động đã thực sự trở thành hàng hoá, nhưng dù trong trường hợp nào cũng vậy, không nên coi nhẹ tính nhân văn của thứ hàng hoá đặc biệt này, nên cần phải xét về nhiều mặt, chính trị, xã hội, đạo đức, văn hoá, pháp luật...
II. VÀI NÉT VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG.
1. Một số quan niệm về thị trường lao động.
Thị trường lao động là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu lao động, tại đó sẽ hình thành giá cả sức lao động.
Như vậy, trước hết có thể hiểu rằng thị trường lao động là một thị trường hàng hoá. Một số nước quan niệm rằng đây là một thị trường hàng hoá bình thường, không có gì đặc biệt so với các thị trường khác, song cũng có một số nước khác lại cho rằng đây là một thị trường hàng hoá đặc biệt, và do vậy đã xuất hiện những trường phái với những quan điểm khác nhau về sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường này.
+ Phái tân cổ điển không hề đề cập gì đến vai trò của Nhà nước và cho rằng Nhà nước đứng ngoài cuộc.
+ Phái duy tiền tệ coi vai trò của Nhà nước trong việc can thiệp vào thị trường lao động là cần thiết và có hiệu quả.
Ở Đức, sau chiến tranh thế giới thứ II, quan niệm rằng: Thị trường lao động là thị trường hàng hoá đặc biệt, vì vậy Nhà nước phải có chính sách riêng nhằm can thiệp, bảo vệ quyền lợi của người lao động. Như vậy, thị trường lao động của Đức mang tính chất xã hội.
Trước đây Việt Nam chưa thừa nhận sức lao động là hàng hoá, thị trường lao động chưa được quan tâm. Hiện nay quan điểm và nhận thức đã thay đổi.
Thị trường lao động là sự trao đổi hàng hoá sức lao động giữa một bên là những người sử hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó.
Thực chất của thị trường sức lao động nói lên sự tồn tại của hai bên, một bên là những người chủ sử dụng lao động có thể là doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, là tư nhân, cá thể.... cần thuê mướn lao động còn một bên là những người lao động cần kiếm sống phải đi làm thuê cho người chủ để lấy tiền nuôi sống gia đình và bản thân.
Thị trường sức lao động là mối quan hệ xã hội giữa người lao động có thể tìm được việc làm để có thu nhập và ngươì sử dụng lao động có thể thuê được nhân công bằng cách trả công để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Thị trường lao động là toàn bộ những quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động.
Thị trường lao động cũng bị sự chi phối của quy luật cung cầu về lao động và có ảnh hưởng trực tiếp tới tiền công lao động. Ngược lại sự thay đổi mức tiền công cũng ảnh hưởng tới cung cầu về lao động.
2. Phân loại thị trường lao động.
Tuỳ theo đối tượng nghiên cứu mà người ta chia ra:
- Thị trường lao động trong nước.
- Thị trường lao động ngoài nước.
- Thị trường lao động khu vực, vùng.
- Thị trường lao động nông thôn.
- Thị trường lao động thành thị, chẳng hạn như thị trường lao động thành phố Hà Nội.
- Thị trường lao động có trình độ chuyên môn.
- Thị trường lao động phổ thông.
- Thị trường lao động chất xám.
- v..v...
Việc nghiên cứu từng loại thị trường lao động cho phép chúng ta biết được nhu cầu và khả năng đáp ứng của từng loại lao động cho sự phát triển của kinh tế - xã hội. Chẳng hạn khi nghiên cứu thị trường lao động Hà Nội thì ta biết được thông tin về cung, cầu lao động trên thị trường, cơ cấu lao động, tỷ lệ thất nghiệp, để từ đó có giải pháp phát triển, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
3. Cơ cấu thị trường lao động.
Lao động như những hàng hoá và dịch vụ khác được mua bán trên thị trường. Các nhà kinh tế cho rằng thị trường hoàn hảo là một thị trường mà ở đó các hàng hoá được phân phối một cách có hiệu quả thông qua giá cả. Thế nhưng, các thị trường lao động ở mọi nơi đều chưa được hoàn hảo nhất là những nước chậm phát triển. Vì vậy, tiền công (giá cả sức lao động) không phải là hoàn toàn do các lực lượng cạnh tranh quyết định.
Một nước chậm phát triển "điển hình" có được đặc trưng bởi một cơ cấu việc làm 3 bậc, trong đó bao gồm khu vực thành thị chính thức, khu vực thành thị không chính thức và khu vực nông thôn.
Khu vực thành thị chính thức là nơi hầu hết mọi người đều thích làm việc nếu như có khả năng. Khu vực này bao gồm các tổ chức kinh doanh lớn của Chính phủ như ngân hàng, công ty bảo hiểm, nhà máy và cửa hàng buôn bán. Lý do để các tổ chức kinh doanh trả tiền công cao, tạo việc làm ổn định là do họ thuê tất cả những nhân công trong nước có trình độ chuyên môn thành thạo.
Khu vực thành thị không chính thức: là những cửa hàng và có tổ chức kinh doanh bên lề đường sản xuất và buôn bán nhiều hàng hoá và dịch vụ, có khả năng cung cấp một khối lượng lớn việc làm có tiền công thấp. Khu vực này còn tạo được việc làm cho cả những người di cư từ nông thôn ra. Ví dụ ở thị trường lao động thành phố Hà Nội, một lực lượng lao động đông đảo làm nghề đạp xích lô và xe ôm. Những người này phần lớn là di cư từ nông thôn ra.
Thị trường chính thức
S
WF
O
EF
LF
D
Cơ cấu việc làm ba bậc
Tiền công WFtrên mức thị trường định.
Hàng (LF - EF) người xin việc.
Thị trường thành thị không chính thức.
W1
O
S
D
E1
Cơ cấu việc làm ba bậc
Tiền công (W1) thông qua thị trường nhưng thấp hơn tiền công trong khu vực chính thức (WF).
Thị trường nông thôn
WR
O
ER
S
D
Cơ cấu việc làm ba bậc
Tiền công WR thông qua thị trường nhưng thấp hơn tiền công trong khu vực thành thị không chính thức (W1) nguồn lao động có sự co giãn cao.
III- MỐI QUAN HỆ GIỮA CUNG - CẦU VÀ GIÁ CẢ TRÊN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG.
1. Các yếu tố của cung về lao động.
Cung lao động là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp nhận được ở mỗi mức giá nhất định.
Khi nói đến cung trên thị trường là nói đến cung thực tế, cung tiềm năng và các điều kiện đứng sau cung. Đối với cung về lao động thì cung thực tế bao gồm những người đang đi làm thuê và những người đang tích cực đi tìm việc để làm thuê. Trong phạm vi một nhóm quốc gia có sự giao lưu của sức lao động thì có cung về lao động của nhóm quốc gia đó. Còn với một quốc gia thì có cung về lao động của quốc gia đó. Tương tự như cách đặt vấn đề trên thì có cung về lao động của từng vùng lãnh thổ, của từng khu vực kinh tế của những ngành nghề nhất định. Một số trường hợp cần thiết còn tính đến cung theo giới tính, tuổi tác, chuyên môn và cơ cấu ngành nghề.
Cung tiềm năng trong thị trường lao động là khả năng cung cấp nguồn lao động vào thị trường. Việc cung cấp nguồn này còn phụ thuộc vào tốc độ tăng dân số hàng năm, sự giao lưu của sức lao động giữa các nước, giữa các vùng, các khu vực kinh tế. Cung của lao động được tinhs trên các mặt chuyên môn, giới tính, độ tuổi và chi phí cho một lao động v.v...
Trong thị trường lao động luôn luôn diễn ra sự biến động về nguồn lao động tuỳ theo các điều kiện tác động vào nó. Ở đó luôn có sự tăng thêm hay giảm bớt của lực lượng lao động, hình thành nên cung tiềm năng. Trong những nước có sự giao lưu lao động tự do thì cung lao động của một nước phải tính tới cung tiềm năng do có sự xuất hay nhập lao động của nước đó. Với một địa phương phải tính tới cung tiềm năng lao động có sự di chuyển lao động từ địa phương này sang địa phương khác về nhu cầu việc làm, điều kiện sống hay sự hấp dẫn hơn của tiền công. Với mỗi khu vực, thành phần kinh tế cũng cần tính tới cung tiềm năng về lao động do sự giao lưu lao động giữa các khu vực, thành phần kinh tế dưới tác động của các chính sách tiền lương, bảo hiểm hay các chính sách kinh tế xã hội khác làm
cho người lao động có sự ưu đãi hơn, bảo đảm việc làm hơn, có lương cao hơn... Cung tiềm năng của một ngành nghề phải tính cả sự đào tạo lại và di chuyển lao động từ các ngành nghề khác do yếu tố về tiền lương, yêu thích nghề nghiệp, điều kiện lao động, địa vị xã hội, tính ổn định của nghề, chất lượng của sản xuất.
Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước, Hà Nội còn là nơi hội tụ các hướng di chuyển của dân cư. Dự báo cung lao động phải dựa vào các đặc điểm của dân số Hà Nội. Tăng cung lao động là kết quả của nhiều yếu tố , trong đó chủ yếu là do tăng số người trong độ tuổi lao động và tỷ lệ tăng dân số. Dự báo trong giai đoạn 10 năm tới ở Hà Nội số người bước vào tuổi lao động tăng bình quân mỗi năm 25.000-28.000 người. Tính đến cuối năm 1999, dân số của Hà Nội là 2.688.000 người, số người trong độ tuổi lao động là 1.579.200 người, chiếm 58,75% dân số. Với tốc độ tăng dân số khoảng 2%, dự kiến đến năm 2010 dân số Thủ đô sẽ tăng thêm khoảng 300.000 người, bằng dân số của một quận nội thành hiện nay. Đây là nguồn lao động rất dồi dào cho các năm tới.
Nhìn chung, lực lượng lao động Hà Nội hiện nay tương đối trẻ, với 43% số lao động dưới độ tuổi 35, độ tuổi từ 35-55 chiếm 53,5% còn độ tuổi trên 55 chỉ chiếm 3,5%. Trong những năm tới tỷ lệ này sẽ thay đổi không nhiều do không có sự biến động mạnh về cấu trúc dân số. Lao động trẻ là một trong những điều kiện thuận lợi trong phát triển kinh tế – xã hội.
Lao động chưa có việc làm ở thành phố Hà Nội :
Đơn vị tính: người
1996
1997
1998
1999
Số người đăng ký tìm việc làm
Trong đó
31.500
22.563
22.000
23.606
- Bộ đội phục viên
1.600
1.808
1.900
1.993
- Học sinh thôi học
12.500
10.500
11.000
8.865
2. Các yếu tố của cầu lao động.
Cầu lao động là lượng lao động mà người thuê có thể thuê ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được.
Cầu lao động là khả năng thuê lao động trên thị trường. Cũng như cung, cầu về lao động gồm có cầu thực tế và cầu tiềm năng.
Trong một thời điểm nhất định với mức tiền công chấp nhận được thì có một mức cầu nào đó về lao động. Đó là cầu thực tế về lao động trên thị trường lao động tại thời điểm xác định. Ở tầm vĩ mô của một quốc gia cần có cầu tổng thể, cầu của từng ngành, từng khu vực, từng nghề theo thời gian biến động, cầu trong nước, cầu ngoài nước.
Lao động là một yếu tố dẫn xuất và bị phụ thuộc vào các yếu tố khác trong cơ chế thị trường. Bởi vậy tác động lên cầu còn có một loạt yếu tố khác mà ta gọi là các yếu tố đứng sau cầu về lao động như: vốn, đất đai, tài nguyên khoáng sản, lâm sản, hải sản, tư liệu sản xuất, công nghệ, trình độ quản lý, học vấn, đào tạo giáo dục, luật pháp và những biện pháp quản lý Nhà nước, quản lý xã hội đầu tư cho cơ sở hạ tầng liên quan đến việc nâng cao điều kiện sống như ăn, ở, đi lại, y tế, hoạt động xã hội. Ngoài ra còn có các yếu tố khác như tôn giáo, phong tục tập quán, đạo đức truyền thống... cũng ảnh hưởng tới việc mở rộng hay thu hẹp sản xuất, mở thêm hay cần phải đóng cửa doanh nghiệp, khuyến khích hay hạn chế sự phát triển của một ngành nghề nào đó. Chẳng hạn sự nghiêm ngặt trong lễ giáo và sinh nở đối với phụ nữ đã hạn chế lao động nữ tham gia vào thị trường lao động với những ngành nghề cần phụ nữ làm cho thị trường bị thu hẹp và lúc đó cầu của lao động nữ lại lớn hơn cung, một nhân tố gây nên mâu thuẫn cung cầu lao động. Vấn đề phong tục tập quán tạo nên truyền thống sản xuất hay tiêu dùng một loại hàng hoá nào đó và tại đó sẽ nảy sinh ra một thị trường lao động truyền thống. Các yếu tố trên có sự khác nhau giữa các quốc gia, nhóm quốc gia, giữa các vùng lãnh thổ, các ngành, các khu vực kinh tế. Bởi vậy cầu thực tế cũng như cầu tiềm năng về lao động ở mỗi nơi đều có sự khác nhau.
Theo số liệu thống kê, lao động đã được giải quyết việc làm ở thành phố Hà Nội:
Đơn vị tính: người
1996
1997
1998
1999
Số người được giải quyết việc làm
Trong đó:
43.000
45.500
48.625
45.500
1. Việc làm ổn định
35.000
35.500
31.400
30.000
- Tuyển vào khu vực Nhà nước
3.000
4.000
4.000
6.000
- Tuyển sinh
10.000
15.000
16.500
10.000
- Vào các HTX, tổ sản xuất
2.500
2.000
10.000
1.200
2. Việc làm tạm thời
8.000
10.000
17.225
15.500
Dự báo cầu lao động tại Hà Nội trước hết phải dựa vào phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của thành phố những năm tới, đặc biệt là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủ đô theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong 5 năm tới Hà Nội tiếp tục duy trì cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, trong đó coi trọng sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành và cơ cấu sản phẩm để đến giai đoạn 2006 - 2010 cơ cấu kinh tế sẽ chuyển dịch từng bước theo hướng: dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp (dịch vụ: 55-56%, công nghiệp: 42-42,5%, nông nghiệp: 2-2,5% GDP của thành phố). Phấn đấu đến năm 2010 GDP của Hà Nội tăng 2,2-2,4 lần so với năm 2000.
Với định hướng phát triển như trên sẽ tạo ra cầu lao động theo cơ cấu ngành công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp với số lao động làm việc theo các tỷ lệ tương ứng 37 - 48 - 15%.
Tốc độ đô thị hoá tăng, tạo ra các dòng di dân ngày càng lớn đến thành phố Hà Nội tìm việc làm. Theo dự báo, Hà Nội sẽ có khoảng 65-68% dân cư sống ở thành thị vào năm 2005, 75-80% năm 2010. Như vậy khả năng thu hút lao động được ước tính sẽ ở mức thành thị chiếm khoảng 70% lao động và nông thôn chiếm 30% lao động toàn thành phố.
Ở Hà Nội, cơ cấu lao động còn nhiều bất hợp lý, có sự mất cân đối lớn giữa đào tạo đại học, cao đẳng với đào tạo nghề, thiếu lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn kỹ thuật cao (hiện nay cơ cấu kinh doanh của Hà Nội là đại học - cao đẳng: 1 - Trung học chuyên nghiệp: 0,8 - Công nhân kỹ thuật: 1, trong khi tỷ lệ hợp lý trên thế giới là 1 - 4 - 10), điều này tạo ra sự bất cập, lãng phí và hiệu quả thấp trong đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. Xu hướng cầu về lao động sẽ chủ yếu là cầu về lao động có hàm lượng chất xám và trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề cao.
Trong những năm tới sẽ xuất hiện lượng cầu ngày càng lớn về lao động cao cấp hoạt động trong các ngành kinh tế mũi nhọn như các chuyên gia phần mềm, các nhà quản trị lập và phân tích chính sách giỏi, các nhà tư vấn tài chính, chứng khoán, đội ngũ thợ tinh xảo, đội ngũ kỹ thuật viên trong các lĩnh vực công nghệ cao...
Nhìn tổng thể, nếu trong 10 năm tới, thành phố Hà Nội phấn đấu tạo thêm từ 55.000 - 60.000 chỗ làm việc mới mỗi năm, thì đến năm 2005 dự báo tổng cầu tiềm năng về lao động mới đảm bảo đáp ứng được 65% tổng cung lao động tiềm năng và đạt 70% vào năm 2010.
3. Trạng thái của quan hệ cung cầu.
Nếu cầu trên thị trường còn yếu, sức hút của cầu còn nằm dưới cung nhiều thì xuất hiện trạng thái mất cân bằng, khi đó cung lớn hơn cầu.
Khi có sự tăng trưởng của nền kinh tế, sản xuất mở rộng các ngành nghề phát triển cho phép sử dụng có hiệu quả các nguồn lãi suất làm cho cầu lao động tăng lên rất nhanh đến một lúc nào đó cung nhỏ hơn cầu về lao động.
Khi cung cầu đạt tới trạng thái cân bằng không qua các phương hướng, giải pháp tích cực về thị trường lao động của Nhà nước thì cung bằng cầu.
Quan hệ cung cầu thể hiện ở nhiều mặt cần phải xét:
- Tổng cung
- Tổng cầu
- Cung, cầu trong kinh tế chậm phát triển
- Cung, cầu theo chu kỳ kinh tế (lúc lên lúc xuống)
- Cung cầu bộ phận
- Cung cầu từng vùng.
- Cung cầu của từng chuyên môn, từng nghề.
- Cung cầu theo mùa, theo thời vụ
- Cung cầu trong nước, trên thị trường quốc tế.
Phát triển thị trường lao động trong kinh tế thị trường cần có sự tác động mạnh mẽ của cả cung và cầu về lao động nhằm đạt được trạng thái cân bằng thông qua các phương hướng, giải phap phù hợp với sự chuyển biến nền kinh tế, chính trị xã hội của đất nước.
Riêng Hà Nội, tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu về lao động rất lớn, cung lao động lớn hơn rất nhiều so với cầu lao động. Tỷ lệ người chưa có việc làm vẫn có xu hướng tăng một cách đáng kể.
Năm 1996, số người ở độ tuổi lao động thiếu việc làm là 73.197 người, trong đó:
- Lao động trong khu vực Nhà nước : 8.340 người
- Lao động ngoài Nhà nước : 30.341 người
- Lao động nước ngoài : 1.150 người
- Lao động khu vực hỗn hợp : 33.366 người
Năm 1997, số người hoạt động kinh tế thường xuyên thiếu việc làm là 108.757 người, trong đó:
- Lao động trong khu vực Nhà nước : 12.337 người
- Lao động trong khu vực ngoài Nhà nước : 93.908 người
- Lao động trong khu vực nước ngoài : 456 người
- Lao động trong khu vực hỗn hợp : 2.056 người
4. Mối quan hệ giữa cung - cầu và giá cả trên thị trường lao động.
Mối quan hệ giữa cung - cầu và giá cả trên thị trường là mối quan hệ nhân quả được biểu hiện qua sơ đồ sau:
Giá cả
G1
O
Hàng hoá
A1
G0
G2
B1
A2
B2
a
b
Trên đồ thị trục tung biểu diễn giá cả của một loại hàng hoá nào đó trên thị trường. Còn trục hoành biễu diễn số lượng hàng hoá đó. Đường cung a biểu diễn sự biến thiên mức cung và đường cung b biểu diễn sự biến thiên mức cầu cuả hàng hoá đó. Trên thị trường đã đạt được mức cân bằng giữa cung và cầu thì giá cả luôn luôn có xu hướng dừng lại ở mức Go. Nếu giá cả đứng ở mức Go thì có thể nói với mức giá Go thì cung đã vừa đủ để thoả mãn nhu cầu, khả năng tiêu thụ và khả năng thanh toán trên thị trường là hiện thực.
Nhưng trong trườn hợp giá cả đứng ở mức cao hơn G1>Go thì người sản xuất có lãi nhiều hơn và khả năng sản xuất ra hàng hoá đó cũng nhiều hơn. Điều đó có nghĩa là mức cung tăng đến A1 nhưng với mức giá đó thì khả năng mua của người tiêu dùng lại giảm làm cho nhu cầu chỉ ở mức B1. Khoảng cách A1B1 chính là chênh lệch giữa cung và cầu. Nói đúng hơn là với mức giá G1 thì cung đã lớn hơn cầu.
Nhưng trong trường hợp giá cả đứng ở mức thấp hơn G1<G0 thì sẽ diễn ra quá trình ngược lại. Người sản xuất có lãi ít hơn và khả năng sản xuất ra hàng hoá đó sẽ ít hơn, trong lúc đó với giá cả ở mức G2 khả năng mua của người tiêu dùng lại lớn. Do đó cầu tăng lên ở mức B2 mà cung chỉ dừng lại ở mức A2. Khoảng cách A2B2 chính là chênh lệch giữa cung và cầu. Nói đúng hơn là với mức giá G2 thì cầu đã lớn hơn cung.
Để cho cung - cầu cân bằng nhau thì giá cả của hàng hoá đó luôn luôn có xu hướng vận động trở về mức cân bằng là G0. Trên thị trường luôn luôn có sự cạnh tranh và bị sự chi phối của các quy luật kinh tế. Ở đây mới xét tới tác động của giá cả lên mức cung và cầu của một loại hàng hoá trên thị trường, còn trong mối quan hệ ngược lại thì sao? Trong trường hợp này do tác động của mức cung và cầu lên giá cả hàng hoá thì quá trình trên vận động theo xu hướng ngược lại, nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả có xu hướng giảm và nếu cầu lớn hơn cung thì giá cả có xu hướng tăng.
Trong thị trường Lao động thì cung - cầu và giá cả sức lao động (tiền công) cũng vận động theo quy luật trên. Nếu mức tiền công quá cao đến mức G1 thì sẽ có hiện tượng cung lớn hơn cầu, nghĩa là số người muốn đi làm sẽ cao hơn số người xin được việc làm và đoạn thẳng A1 B1 biểu hiện lượng người thất nghiệp trên thị trường lao động: Nếu tiền công đứng ở mức G2 thì khả năng thu hút lao động sẽ cao hơn. Do tiền công rẻ mạt những người muốn đi làm sẽ giảm và đoạn thẳng A2 B2 biểu hiện sự thiếu nhân công tức là cầu sẽ lớn hơn cung về sức lao động. Theo quy luật thị trường thì tiền công sẽ ổn định ở mức G0 để cân bằng cung cầu trên thị trường lao động.
Nghiên cứu thị trường lao động của một nhóm quốc gia, của một quốc gia, một địa phương, một khu vực kinh tế, hay một ngành nghề thì mức tiền công G0 chính là mức tiền công trung bình và đường cong a, b biểu thị sự biến thiên của cung và cầu trên từng loại thị trường lao động.
a) Quan hệ giữa sự phát triển dân số, các nguồn nhân lực và cung.
Thị trường lao động gắn với các nguồn nhân lực là nơi cung cấp mọi sức lao động cho thị trường.
Nguồn nhân lực lại nằm trong dân số, gắn với quy mô, tốc độ cơ cấu của từng loại hình dân số, các nguồn nhân lực với thị trường.
Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước, Hà Nội còn là nơi hội tụ các hướng di chuyển của dân cư. Với dân số trên 2.588.500 người, trong đó, số người trong độ tuổi lao động chiếm xấp xỉ 60%. Ngoài ra, trên địa bàn thành phố thường xuyên có hàng vạn lao động từ các tỉnh di cư đến sinh sống và tìm việc làm. Bên cạnh đó, là nhiều sinh viên đại học, trung học chuyên nghiệp ra trường không muốn trở về quê cũ ở lại Hà Nội tìm việc làm, đã tăng thêm sức ép về việc làm và phức tạp cho công tác quản lý dân số - lao động trên địa bàn. Ước tính bình quân mỗi năm dân số Hà Nội tăng khoảng 63.000 người, trong đó, nguồn lao động tăng khoảng 45.000- 50.000 người. Từ năm 1994 trở lại đây (1999), với nhiều biện pháp tích cực, khai thác tiềm năng của các thành phần kinh tế, bình quân mỗi năm thành phố mới giải quyết được việc làm cho khoảng gần 5 vạn lao động. Trong đó, số chờ việc làm ổn định chiếm gần 70%. Hướng thu hút lao động vào khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là chủ yếu, chiếm tới gần 80% số lao động được giải quyết việc làm hàng năm. Hiện nay, mỗi năm vẫn còn xấp xỉ 40.000 - 45.000 người chưa được giải quyết việc làm cộng với nguồn lao động phát sinh tăng thêm dần đến số lao động chưa có việc làm của thành phố luôn ở con số xấp xỉ trên 90.000 người/năm.
b) Qua hệ giữa trình độ phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế và cầu:
Với trình độ phát triển kinh tế và cơ cấu kinh tế hiện nay của Việt Nam, cầu về sức lao động trên thị trường lao động phản ánh một cơ cấu lạc hậu.
Lấy Hà Nội làm ví dụ, về đô thị cho thấy, nhờ có sự phát triển đa dạng hoá của các thành phần kinh tế, sự biến động không ngừng trong quan hệ cung cầu sức lao động trên lãnh thổ và các vùng lân cận đã tác động rõ nét đến việc hình thành môt thị trường mới phong phú, đó là thị trường sức lao động ở Hà Nội.
Từ những đặc điểm về địa lý và kinh tế xã hội của thủ đô, Hà Nội có nhiều điều kiện thuận lợi để thị trường lao động hình thành và phát triển sớm so với các địa phương khác. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới và phức tạp. Xung quanh việc đánh giá mặt tích cực cũng như mặt hạn chế có rất nhiều ý kiến khác nhau, nhưng sự xuất hiện và phát triển thị trường lao động đã có tác dụng tích cực, đáp ứng các nhu cầu về lao động và phát triển các hoạt động kinh tế xã hội, thực hiện các mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động ở thành phố. Vấn đề cần quan tâm là sự điều hành quản lý vĩ mô của Nhà nước, thông qua những quan điểm và những cơ chế chính sách để tạo nguồn và sử dụng nguồn lao động một cách hợp lý. Nâng cao chất lượng lao động và tạo ra môi trường lành mạnh để thị trường lao động phát huy tác dụng tích cực đối với công cuộc phát triển kinh tế hiện nay. Theo kết quả tổng điểu tra dân số 1/4/1999, Hà Nội có hơn 2,67 triệu dân, trong đó có khoảng 1,5 triệu lao động trong độ tuổi, chiếm 56% dân số, ở khu vực thành thị chiếm 54,42%, nông thôn 45,58%.
Bảng phân bố lao động Hà Nội vào các ngành
Năm
Nông nghiệp
Công nghiệp, xây dựng
Dịch vụ
Hà Nội
40,08
21,93
37,99
1996
Thành thị
3,38
29,87
66,75
Nông thôn
73,73
11,65
11,02
Hà Nội
31,71
17,26
51,02
1997
Thành thị
1,88
22,40
75,71
Nông thôn
62,56
11,95
25,47
Qua số liệu niên giám thống kê Hà Nội, trong tổng số 1.084.954 lao động năm 1996 và 1.049.496 lao động năm 1997, cơ cấu phân bố lao động vào các ngành đã thay đổi qua các năm như ở trong bảng trên.
Bảng trên cho thấy cơ cấu lao động nông nghiệp đã giảm từ 40,08% năm 1996 xuống 31,71 năm 1997. Lao động dịch vụ tăng từ 37,99% năm năm 1996 lên 51,02% năm 1997. Riêng khu vực nông thôn đã giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 73,73% năm 1996 xuống 62,56% năm 1997. Có thể nói, sau một năm việc chuyển đổi cơ cấu lao động như vậy là tích cực theo ngành kinh tế. Tuy nhiên, 65,6% cán bộ chuyên môn kỹ thuật trong đó 72% số người có trình độ đại học, 66% số người có trình độ trung học đang làm việc trong lĩnh vực phi sản xuất vật chất.
IV- MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở THÀNH THỊ HÀ NỘI.
1. Xây dựng hệ thống thông tin về lao động - việc làm
Hiện nay chúng ta đã có một số thông tin về lao động - việc làm, nhưng những thông tin này mới được đề cập ở phía "cung" lao động thông qua các cuộc điều tra lao động - việc làm hàng năm, chưa được cập nhật từ cơ sở và không sử dụng được trong hoạt động cụ thể, các thông tin về phía"cầu" lao động hầu như chưa được chú ý, thông tin này có ý nghĩa quyết định trong lĩnh vực giải quyết việc làm. Theo chúng tôi thiết lập hệ thống thông tin về lao động - việc làm, bao gồm cả các thông tin về "cung" lao động và cả các thông tin về "cầu" lao động từ cấp xã, phường hoặc người sử dụng lao động đến cấp thành phố.
1.1. Các thông tin về "cung" lao động:
a) Các đối tượng cần phải thu nhập thông tin từ phí "cung" lao động
- Danh sách những người bước vào độ tuổi lao động
- Danh sách những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, nhưng chưa có việc làm.
- Danh sách những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, chưa có việc làm và có nhu cầu làm việc.
- Danh sách những người có nguy cơ bị mất việc làm.
b) Các thông tin cần thu thập
- Họ và tên, tuổi, giới tính, tình trạng sức khoẻ, chỗ ở.
- Trình độ đào tạo, khả năng và sở thích của mỗi người lao động
- Nhu cầu làm việc.
c) Yêu cầu của các thông tin:
- Các thông tin phải được tập hợp và cập nhật từ cấp xã, phường, thị trấn nơi người lao động đang cư trú hoặc đang làm việc.
- Các thông tin phải đầy đủ, chính xác và kịp thời.
d) Hình thành phương pháp và tiến hành dự báo ngắn hạn, dài hạn về số lượng, chất lượng lao động ở thủ đô Hà Nội.
1.2. Các thông tin về "cầu" lao động:
a) Các đối tượng cần phải thu thập thông tin từ phía "cầu" lao động:
- Đối với đơn vị hành chính: từ cấp xã, phường, thị trấn.
- Đối với đơn vị sử dụng lao động: các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động trên địa bàn thành phố.
b) Các thông tin cần thu thập:
- Số lao động đang được sử dụng.
- Số chỗ làm việc còn trống và nhu cầu đối với người lao động khi đảm đương công việc ở chỗ làm việc trống đó.
- Dự kiến chỗ làm việc mới của 6 tháng và năm sau.
c) Yêu cầu của thông tin:
- Thông tin được tập hợp và cập nhật từ doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động và ở cấp xã, phường, thị trấn đến cấp thành phố.
- Thông tin phải chính xác, kịp thời, đầy đủ.
d) Tiến hành sự báo về số lượng và nhu cầu lao động ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động ở thủ đô Hà Nội.
2. Đào tạo lao động kỹ thuật:
Để đào tạo lao động kỹ thuật cần chú trọng các vấn đề sau:
- Quy hoạch hệ thống các trường đào tạo lao động kỹ thuật trên địa bàn thủ đô.
- Đầu tư có trọng điểm cho một số trường để nâng cấp cơ sở hạ tầng, dành nhiều vốn đầu tư cho việc trang bị các thiết bị và công cụ giảng dạy hiện đại. Khắc phục tình trạng thiết bị giảng dạy lạc hậu hơn so với kỹ thuật hiện có của các cơ sở sản xuất - kinh doanh.
- Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, đặc biệt là hệ thống giáo trình của các trường, gắn đào tạo với các cơ sở sản xuất- kinh doanh.
- Có kế hoạch và biện pháp để đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.
3. Phát triển kinh tế tạo mở việc làm.
Với vị trí đặc biệt của thủ đô Hà Nội, theo tôi có thể phát triển theo các hướng sau để có thể thu hút nhiều lao động:
- Phát triển du lịch và dịch vụ: đây là hướng quan trọng và còn nhiều tiềm năng có thể khai thác, mà trước hết là các dịch vụ về vui chơi, giải trí, các khu thăm quan, của các lứa tuổi khác nhau, các dịch vụ phục vụ cho các hoạt động của thủ đô, tạo ra sự hấp dẫn thu hút khách du lịch, thăm quan ở trong nước và nước ngoài đế thủ đô, các hoạt động đó phải thể hiện được nét đặc trưng riêng có của thủ đô Hà Nội.
- Phát triển một số ngàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: trước hết là ngành xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, lĩnh vực mây tre, may mặc,...
- Chính sách khuyến khích nhằm khơi dậy nguồn vốn sẵn có trong dân để đầu tư vào sản xuất, để hình thành các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Chính sách khuyến khích phát triển kinh tế đối ngoại: trong đó chú trọng lĩnh vực xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thủ đô Hà Nội.
- Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động.
4. Phân định rõ trách nhiệm của các ngành các cấp trong lĩnh vực giải quyết viêc làm:
Cần phải chỉ rõ ai làm, làm gì và làm như thế nào để giải quyết việc làm. Theo tôi chỉ có người sử dụng lao động và ở cấp xã, phường, thị trấn mới là nơi tạo ra được chỗ làm việc mới, vì vậy chính nơi đây mới trực tiếp giải quyết được việc làm cho người lao động. Do đó việc xác định rõ trách nhiệm của cấp xã, phường, thị trấn và người sử dụng lao động (bao gồm: doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân) là yếu tố có ý nghĩa quyết định, cấp trên chỉ có thể hỗ trợ hoặc tháo gỡ những khó khăn khi cấp này đề nghị và không giải quyết được, còn các ngành chỉ hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn, như: ngành lao động - thương binh và xã hội ngoài việc giúp UBND cùng cấp quản lý Nhà nước về lao động, cần hỗ trợ trực tiếp cho một số hoạt động để giải quyết việc làm; ngành kế hoạch và đầu tư ngoài chức năng của mình cần kiểm soát chỉ tiêu chỗ làm việc mới và giải quyết những khó khăn cho cơ sở, các ngành kinh tế khác cũng ngoài chức năng của mình cần phải giải quyết các yêu cầu của các đơn vị cấp dưới (như về vốn, tiêu thụ sản phẩm...)
5. Hệ thống dịch vụ việc làm phải được hoạt động thống nhất:
Các hoạt động của tổ chức này phải hoạt động theo đúng Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành, tạo thành thể thống nhất, hoạt động vì mục tiêu xã hội, củng cố và hoàn thiện để ít nhất có một trung tâm mạnh có thể đáp ứng mọi nhu cầu của người lao động, người sử dụng lao động, trên địa bàn thủ đô.
6. Xây dựng kế hoạch cụ thể để giải quyết việc làm và phát triển nguồn nhân lực, để căn cứ vào đó, các cấp, các ngành tổ chức triển khai thực hiện, ít nhất 3 tháng phải có đánh giá, sơ kết cái được , cái chưa được.
7.Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật:
Kiến nghị với trung ương và các cấp, các ngành để sửa đổi, bổ sung các chính sách để tháo gỡ những khó khăn về lĩnh vực này ở thủ đô Hà Nội, về lâu dài kiến nghị cần phải ban hành luật về lao động và việc làm.
8. Bố trí cán bộ ở cấp xã, phường và thị trấn để làm công tác lao động.
9. Tổ chức nghiên cứu khoa học để tìm ra các giải pháp để phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao động ở thủ đô nói chung và ở khu vực thành thị, khu vực nông thôn nói riêng.
PHẦN KẾT LUẬN
Trong giai đoạn 1996-2000, xét trên phạm vi Hà Nội thì cung - cầu lao động vẫn trong tình trạng mất cân đối nghiêm trọng, cung về lao động vẫn tiếp tục tăng với số lượng lớn khoảng 45.000-50.000 người/năm; trong khi mặt cầu về lao động bước sang năm 1998 có xu hướng giảm, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ khu vực,...tốc độ tăng trưởng GDP chậm lại, nên số lao động không có việc làm tăng lên, mặt khác, do dân di cư từ các tỉnh đến Hà Nội, càng làm cho thất nghiệp tăng lên. Dự báo Hà Nội sau năm 2000 vẫn là thành phố dư thừa lao động. Theo quan niệm của thế giới, một nước có tỷ lệ thất nghiệp dưới 3% là bình thường, từ 4-7% là lớn và trên 9% là nguy hiểm. Như vậy, Hà Nội phải phấn đấu giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị ít nhất xuống dưới 5% thì mới khả dĩ đảm bảo được ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị Hà Nội năm 1998 là 9,09%, theo kế hoạch và mục tiêu đề ra, năm 2000 thì tỷ lệ này là còn 8%.
Như vậy, xây dựng và phát triển thị trường lao động nhằm giải quyết việc làm, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực đang là một yêu cầu cấp thiểt đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội Hà Nội nhằm xây dựng thủ đô văn minh hiện đại.
Từ những đánh giá khái quát trên đây về thực trạng và xu hướng biến động của thị trường lao động Hà Nội trên các đặc trưng chủ yếu qua mấy năm gần đây cho thấy: bên cạnh những tiến bộ về nhiều mặt đã đạt được còn không ít khó khăn trở ngại và thách thức. Đó cũng là cơ sở để khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để có những đánh giá đầy đủ cụ thể hơn làm căn cứ thực tiễn cho việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống các cơ chế, chính sách và giải pháp cũng như cho công tác quản lý, điều hành và tổ chức triển khai trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm trong nhũng năm tiếp theo.
Bài viết của tôi trên đây mới chỉ phản ánh được một phần nào đó của thị trường lao động nói chung và của thị trường lao động Hà Nội nói riêng, do đó cần phải được đi sâu nghiên cứu và phân tích kỹ hơn.
Bài viết của tôi được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của Tiến sĩ Trần Xuân Cầu - Phó chủ nhiệm khoa lao động và dân số, và sự cung cấp tài liệu, thông tin của Thư viên trường Đại học KTQD - Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Trần Xuân Cầu đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề án này.
Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn Thư viện trường Đại học KTQD - Hà Nội đã cung cấp tài liệu và thông tin, giúp tôi hoàn thành bài viết này.
Hà nội 1/2001.TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí Thông tin thị trường lao động, số 1-1999
số 6-1999
số 2-2000
số 5-2000.
2. Tạp chí lao động và xã hội, số tháng 9-1999.
3. Tạo chí kinh tế và phát triển số 34 tháng 1-2/2000.
4. Tạp chí con số và sự kiện, số 12/1999.
5. Báo cáo thực hiện kế hoạch 10 năm (1991-2000) về lĩnh vực lao động - việc làm, ngày 25/5/1999.
6. "Thị trường lao động và việc làm. Thị trường lao động và vấn đề giải quyết việc làm ở các nước trên thế giới"-1990.
- Trung tâm thông tin Uỷ ban kế hoạch Nhà nước. Tập 1, tập 2.
7. "Thực trạng lao động và việc làm ở Việt Nam 1996".
8. Thực trạng lao động và việc làm ở Việt Nam 1997.
9. Niên giám thống kê Hà Nội 1999- Cục thống kê Hà Nội.
10. Thị trường lao động - thực trạng và giải pháp
PTS. Nguyễn Quang Hiển - NXB Thống kê Hà Nội - 1995.
11. Kỷ yếu hội thảo khoa học - Hà Nội 1999 - UBND thành phố Hà Nội - Sơ kế hoạch và đầu tư.
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Nội dung 3
I- Sự hình thành thị trường lao động 3
1. Điều kiện hình thành thị trường sức lao động 3
2. Sức lao động trở thành hàng hoá trong nền kinh tế thị trường 5
II- Vài nét về thị trường lao động. 6
1. Một số quan niệm về thị trường lao động 6
2. Phân loại thị trường lao động 7
3. Cơ cấu thị trường lao động 8
III- Mối quan hệ giữa cung - cầu và giá cả trên thị trường lao động 10
1. Các yếu tố của cung về lao động 10
2. Các yếu tố của cầu về lao động 12
3. Trạng thái của quan hệ cung cầu 14
4. Mối quan hệ giữa cung - cầu và giá cả trên thị trường lao động 16
IV- Một số giải pháp phát triển thị trường lao động ở thành phố Hà Nội.20
Phần kết luận: 24
Tài liệu tham khảo 26
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35050.doc