Sau hơn một thập kỷ phấn đấu xây dựng và phát triển, ngành cà phê Việt Nam mà nòng cốt là Tổng công ty Cà phê Việt Nam đã phát triển vững chắc và trở thành một trong những ngành xuất khẩu nông sản quan trọng của cả nước, đạt kim ngạch xuất khẩu lớn. Đôí với nước ta, nông nghiệp đang là mặt trận hàng đầu, có lực lượng lao động dồi dào, nhân dân ta lại chịu khó cần cù và sáng tạo. Điều kiện khí hậu lại khá phù hợp cho sự phát triển của cây cà phê. Chúng ta lại đang có diện tích đất đai rộng lớn đang bị hoang hoá ở các vùng Tây Nguyên, trung du miền núi, đất đai nhiều vùng phù hợp điều kiện sinh trưởng của cây cà phê.
Sản phẩm cà phê hiện nay vẫn là loại nước uống cao cấp, tiêu dùng rộng rãi trên quốc tế, nhất là các nước phát triển, nhu cầu tiêu thụ ngày một tăng, là một trong những mặt hàng xuất khẩu có giá trị, dễ thu ngoại tệ của nhiều nước. Vì vậy, việc sản xuất, xuất nhập khẩu cà phê đang có ý nghĩa quan trọng đối vơí nhiều nước trên thế giới.
Đối với Việt Nam, cây cà phê đã và đang có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và nhất là trong nông nghiệp. Xây dựng, phát triển ngành cà phê là một trong những ngành mũi nhọn nhằm tạo ra các mặt hàng chủ lực trong nông sản xuất khẩu là hướng đi đúng đắn và có đầy đủ điều kiện và tiềm năng to lớn cần được khai thác.
32 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 701 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thị trường Mỹ và khả năng thâm nhập thị trường Mỹ của ngành cà phê Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân, do đó cơ cấu tổ chức, bộ máy hoạch định chính sách thương mại, rat phức tạp. Toàn bộ các hoạt động thương mại do một hệ thống tổng hợp các đạo luật cơ bản, các quy chế, thể lệ, điều tiết. Các đạo luật cơ bản do Quốc hội Mỹ – mà chủ yếu là Hạ Nghị viện thuộc ngành lập pháp – ban hành. Dựa theo các đạo luật này, ngành hành pháp ban hành các sắc lệnh, nghị định và toà án ra quyết định thi để hành luật đã ban bố. Tất cả các văn kiện pháp lý này, cùng với các Công ước quốc tế mà Mỹ tham gia và được Quốc hội phê chuẩn, đã và đang chi phối toàn bộ mối quan hệ kinh tế đối ngoại của Mỹ nói chung, trong đó có các chính sách trong việc nhập khẩu.
Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạch định chính sách thương mại Mỹ gồm:
Quốc hội:
Các cơ quan hành pháp:
Các ủy ban Nhà nước chuyên trách.
A – Quốc hội là cơ quan phê chuẩn mọi chính sách kinh tế đối ngoại Mỹ.
Đứng về mặt thương mại, Quốc hội được Hiến pháp giao quyền điều tiết các quan hệ kinh tế đối ngoại, định và thu các loại thuế.
Như vậy mọi Hiệp định thương mại, áp dụng các loạI thuế khoá, hoặc chính sách hạn chế nhập khẩu đều phảI dựu trên và giới hạn trong phạI vi luật pháp và quyền hạn mà quốc hội cho phép.
B – Các cơ quan hành pháp tham gia hoạch định chính sách thương mạI:
* Vai trò và bộ máy điều hành của Tổng thống trong việc hoạch định chính sách kinh btế thương mạI:
Tổng thống Mỹ là người đạI diện tối cao của ngành hành pháp . Tổng thống có quyền yêu cầu tham nghị lần thứ 2 đối với những luật mà Quốc hội ban hành hi được đa số phiếu tán thành của ĐạI biểu. Sau đó, Tổng thống có nhiệm vụ tổ chức thi hành các luật này.
* Hoạch định chính sách thương mạI là một quá trình phối hợp liên bộ:
Bộ thương mạI là cơ quan đầu não, quản lý toàn bộ mạng lưới kinh tế.
Bộ Nông nghiệp có vai trò hoạch định chính sách thương mạI Mỹ đảm bảolợi ích của ngành Nông nghiệp quốc gia.
Bộ NgoạI giao có nhiệm vụ cố vấn cho Tổng thống trong việc hoạch định và thi hành chính sách ngoạI giao và có vai trò quan trọng, chủ yếu trong việc nghiên cứu phân tích đánh giá tình hình nhằm đưa ra những kiến nghị về mặt chính sách ở những lĩnh vực tác động tới lợi ích của Mỹ ở nước ngoài. Đặc biệt là trong các vấn đề thương mạI, đầu tư, dịch vụ vì những vấn đề này có ảnh hưởng trực tiếp quan hệ đối ngoại.
Bộ Ngân khố: quản lý chính sách kinh tế và tàI chính, chính sách thuế, quản lý nợ của Nhà nước, phát hành tiền, Bộ Ngân khố phụ trách cơ quan HảI quan Mỹ.
C – Các ủy ban Nhà nước chuyên trách tham gia hoạch định chính sách thương mạI:
* ủy ban thương mại quốc tế:
Cố vấn về đàm phán thương mạI, chế độ ưu đãI thuế quan phổ cập (GSP), nới rộng nhập khẩu phục vụcông nghiệp trong nước, buôn bán với thế giới.
ĐIũu tra phương hạI gây ra do tình trạng trợ cấp, bán phá giá hàng hoá, những bất hợp lý trong nhập khẩu.
* Các ủy ban cố vấn thuộc khu vực tư nhân:
Luật Thương mạI Mỹ 1974 còn quy định một cơ chế tập hợp ý kiến đóng góp, cố vấn của giới tư nhân cho các vấn đề thương mạI quốc tế. Quốc hoịi mở rộng quyền hạn cho ủy ban này, cho phếp họ được cố vấn về những lĩnh vực cần được ưu tiên, về phương hướng của chính sách thương mạI Mỹ. Mặc dù thành viên của ủy ban này không phảI là thành viên Chính phủ, nhưng tiếng nói của họ rat có trọng lượng.
2 – Luật pháp, thể lệ chính sách thương mạI Mỹ trong nhập khẩu.
2.1 – Chính sách nhập khẩu hàng hoá của Mỹ.
A – Những quy định cơ bản.
Dù là Mỹột nước có chủ trương tự do hóa thương mạI, nước Mỹ cũng có chính sách về nhập khẩu nhằm bảo vệ người tiêu dùng và sản xuất trong nước. Các quy định của họ không khác của ta nhiều về đạI thể, nhưng nội dung thì chi tiết hơn nhiều.
Quy định của Chính phủ.
HảI quan Mỹ là cơ quan thực thi và áp dụng các quy định của Luật thuế quan (Tariffs Act) và những luật lệ khác của các bộ để đIũu chỉnh việc nhập khẩu hàng hóa. Họ cũng phụ trách việc chống các hành vi buôn lậu, vi pham. Quyền sở hữu trí tuệ, hàng gian, hàng giả được nhập khẩu. Từ năm 1994, hảI quan Mỹ hoạt động theo một luật goi là Luật tối tân hóa ngành hảI quan (Customs Modernization Act – gọi tắt là CMA hay ModAct) thiên nhiều về tự động hóa và chú trọng và việc hậu kiểm sau khi đã cho nhập hàng. Họ cho nộp hồ sơ qua các phương tiện đIửn tử, thúc đẩy việc tuân thủ và chia sẻ trách nhiệm giữa nhà nhập khẩu và hảI quan trong việc định giá và phân loạI hàng hóa. Khi chủ trương sự hợp tác và đơn giản hóa thủ tục như thế, Luật CMA đặt ra mức chế tàI nặng hơn trước và ngăn chặn việc tìm cách giảm số thuế phảI đóng. Bánh xe chính giúp cho bộ máy này hoạt động là hoá đơn thương mại. HảI quan Mỹ đặt tầm quan trọng lên văn kiện này.
Việc khai quan thuế do các nhà trung gian hay đạI lý (custom broker) thực hiện và 97% hàng hóa nhập vào Mỹ là do họ làm.
Việc áp thuế.
Giống như ở ta, việc ấn định thuế quan ở Mỹ được căn cứ trên bảng Hệ thống đIũu hoà trong mô tả và mã hàng (Harmonized Tasff Schedule, hay bảng HS ). Bảng này liệt kê các loạI hàng hoá và mã số của chúng rồi mức thuế áp dụng. Mức này, về đạI thể, được chia làm ba loại. Một, Mức ưu đãI dành cho một số mặt hàng đến từ những nước đang mở mang theo một số chương trình khác nhau, trong đó có Hệ thống ưu đãI phổ cập (Generalised System of Prefrences hay GSP ), thỏa ước mậu dịch tự do giữa Mỹ và Israel, khu vực Caribê, Mexico và Canada. Hai, mức thuế cao hơn dành cho các nước có giao dịch bình thường (hay có tối huệ quốc- MFN) với Mỹ. Đa số sản phẩm nằm trong mức này. Ba, mức cuối dành cho các nước khong được hưởng quy chế kia.
Hệ thống GSP chỉ áp dụng cho một số mặt hàng nhất định hội đủ một số tiêu chuẩn về chính trị và kinh tế. Dẫu xuất phát từ một quốc gia được hưởng quy chế này nhưng một số hàng nhất định khi vào Mỹ vẫn không được hưởng mức GSP nếu chúng vượt trên 50% số hàng cùng loạI đã nhập vào Mỹ; hoặc vượt quá một trị giá nhất định nào đó trong một năm. Chuyện còn tiếp tục được hưởng GSP hay không lạI tuỳ thuộc vào một lệnh của tổng thống và Văn phòng ĐạI diện thương mạI Mỹ (US Trade Representative - USTR) duyệt lạI danh sách này hàng năm.
Thuế được ấn định theo ba cách: theo một con số bách phân dựa trên giá trị món hàng (ad valorem), thí dụ 5% trên giá trị món hàng; theo một số tiền nhất định (specific) thí dụ 12 xu mỗi ki-lô-gam; hay theo một mức hỗn hợp ( 7 xu một ki-lô-gam cộng 10% trên giá trị). NgoàI ra, có một số mặt hàng phảI chịu thêm thuế doanh thu hay mua bán (ngoàI thuế quan) như rượu, bia, thuốc lá, nước hoa và sản phẩm dầu khí.
Trách nhiệm đóng thuế do người sẽ nhận hàng chịu. Nừu hàng được giao đI nơI khác để tiêu thụ thì người hay tổ chức (công ty) có tên trong tờ khai hảI quan có trách nhiệm thanh toán. Nừu hàng được Lưu kho thì trách nhiệm đóng thuế thuộc về ai mua hàng và lấy hàng ra khỏi kho. Thuế có thể được trả theo từng kỳ sau khi nhập. HảI quan Mỹ có thời hạn năm năm để đòi tiền thuế.
Người nhập khẩu phảI nộp một giấy nhận nợ (bond) cho hảI quan Mỹ để bảo đảm thanh toán các khoản nợ như thuế quan ước tính, các loạI thuế khác, và tiền phạt. Giấy nhận nợ có thể mua từ các nơI phát hành giấy đó, nhưng thường thì người ta chỉ bán cho các đạI lý khai thuế quan phụ trách nhập hàng.
Lệ phí.
Các loạI này gồm có phí xử lý hàng, phí bảo dưỡng cảng. Phí xử lý hàng (Merchandise processing fee ) được đánh vào từng chuyến tàu hàng. Biểu thuế dành cho việc nhập hàng chính thức ( tức là hàng có giá trị trên 1.250 USD – ta gọi là mậu dịch ) liệt kê hàng loạt phí khác nhau từ 21 đến 400 USD cho mỗi lần nhập cùng với một số phí đánh theo tỷ lệ của giá trị món hàng là 0,19%. Cũng phí này nhưng cho loại hàng nhập không chính thức (tức là phi mậu dịch) thì mức phí là 2 USD cho hàng xử lý bằng máy, 4 USD cho hàng xử lý bằng tay mà không do hảI quan Mỹ làm và 8 USD nếu do họ làm. Giá trị cho hàng phi mậu dịch lớn nhất là 2.500 USD. Phí bảo dưỡng cảng: là phí theo giá trị bách phân của chuyến tàu hàng nhập vào. Phí này là 0.125% trên giá trị chuyến hàng và trả hàng quý.
Chống nguy cơ gây thiệt hại cho nền thương mại của Mỹ.
Luật Thương mại tập hợp (Omnibus Trade Act) năm 1988 giao cho Văn phòng ĐạI diện thương mại Mỹ một vai trò quyết định trong việc ấn định những tập tục thương mại không công bằng. Văn phòng này có quyền thay mặt Tổng thống Mỹ quyết định đIũu tra một tập tục thương mại ở một nước nào đó vì nó gây thiệt hạI cho nền thương mại của Mỹ. ĐạI diện thương mại cũng phảI tìm ra và xúc tiến đIũu tra những nước nào có những tập tục thương mại không công bằng mà gây thiệt hạI cho hàng xuất khẩu của Mỹ nhiều nhất. Khi tìm ra được rồi mà nước liên quan không sửa đổi tập tục bị chỉ trích kia thì họ có thể bị Mỹ trả đũa.
Luật trên cũng lập ra một sự duyệt xét liên tục các tập tục thương mại của các nước khác mà kết quả là đưa ra một danh sách các tập tục mà hàng năm Mỹ phảI “ưu tiên” để mắt đến của “các nước ưu tiên” (priority countries) mà Mỹ phảI Lou ý. Việc duyệt xét này thường được gọi là đIũu khoản Super 301 và được Chính quyền Mỹ thực hiện hàng năm theo chu khỳ đều đặn. Họ cũng làm tương tự nhưng không theo chu kỳ cho các nước bị đánh dấu và có vấn đề. Vào tháng 1-2000 một cơ quan trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã quyết định là đIũu khoản Super 301 phù hợp với các quy định của WTO và chính quyền Mỹ đã dùng cách đánh dấu nước phảI ưu tiên theo dõi theo đIũu khoản Super 301 như là một vũ khí thương mại để giành lợi thế trong các cuộc thương thuyết.
B – Các rào cản phi thuế quan.
Hạn ngạch.
Cũng như ở ta, hạn ngạch là sự kiểm soát về mặy số lượng hàng được nhập trong một thời gian nhất định vào Mỹ. Có một số mặt hàng nằm trong sự hạn chế này theo luật của quốc hội, quy định của các cơ quan quản lý hay lệnh của tổng thống. Có hai loạI hạn ngạch:
- Hạn ngạch ấn định theo mức thuế quan: loạI nàycho người nhập được đem vào Mỹ một mặt hàng nhất định nào đó với một mức thuế quan được giảm bớt trong một thời gian nhất định. Số hàng nào nhập vào mà vượt quá số lượng cho phép sẽ bị đánh thuế cao. Các mặt hàng này thường là: sữa, kem, cá hồi, một số loạI khác
- Hạn ngạch tuyệt đối: cho phép nhập một số lượng của một số mặt hàng nào đó trong một thời gian nhất định. Hàng đem vào quá hạn ngạch sẽ bị trả về hay cho nhập vào kho để chờ được đưa vào trong thời gian có hiệu lực của hạn ngạch mới. Các mặt hàng này là một vàI loạI cồn, sữa đặc, bơ hỗn hợp, chất thay bơ, bông vảI, đường hỗn hợp.
Các tiêu chuẩn kỹ thuật bó buộc.
Có nhiều mặt hàng cả nội lẫn ngoạI bán ở Mỹ đều phảI tuân thủ những tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn. Ai nhập khẩu vào Mỹ những mặt hàng này phảI xin giấy xác nhận đạt chuẩn. Giấy này phảI được xuất trình cùng lúc với hàng voà và người nhập hàng phảI nộp một số tiền ký quỹ bảo đảm để đoan chắc là hàng phù hợp tiêu chuẩn đòi hỏi. Thực chất đây là một loai hàng rào phi thuế quan áp dụng làm phương tiện để phân biệt đối xử giưã hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước, ngoàI ra nó còn được dùng để hạn chế hàng nhập, bảo hộ hợp lệ cho sản xuất trong nước.
Ghi dấu hiệu (Marking)
- Nước xuất xứ.
Thông thường, người nhập hàng phảI ghi rõ ở bên ngoàI sản phẩm một nhãn hàng bằng tiếng Anh tên của nước sản xuất hay chế tạo ra món hàng. Dờu hiệu phảI ghi ở nơi dễ thấy, rõ ràng và phảI bền như chính tuổi thọ của sản phẩm. Nếu sản phẩm không có nhãn hàng đúng cách, khi nhập vào nước Mỹ thì người nhập phảI trả một khoản thu bằng 10% của tiền thuế quan đóng cho sản phẩm ấy.
Hàng phảI ghi dấu hiệu mà được đóng gói lạI ở Mỹ sau khi đã qua hảI quan thì người nhập khẩu phảI cam kết khi mang hàng di là dấu hiệu về nước xuất xứ sẽ không bị mờ đI, hoặc là hộp dùng để đóngư gói lạI sẽ được ghi dấu đúng cách. Nếu hàng được bán cho người khác để đóng gói lạI thì người nhập khẩu phảI thông báo cho người kia các yêu câù về ghi dấu hiệu. Nếu không kaông làm như thế sẽ bị phạt hay trả thêm thuế.
- Ghi dấu đặc biệt.
NgoàI những yêu cầu về ghi nước xuất xứ của hàng hóa, có một số mặt hàng đòi hỏi phảI có dấu hiệu đặc biệt như chữ không được phai, chữ nổi, chữ lỏm cho những mặt hàng như: ống sắt hay thép, xy lanh, các dụng cụ phẩu thuật.
2.2 – Các thủ tục khai hàng nhập vào Mỹ.
Sửa soạn chứng từ và hàng hóa.
Việc đóng gói hàng hoá.
Hàng hóa phảI được đóng gói làm sao để hảI quan kiểm soát, cân, đong, đo, đếm dễ dàng và giảI phóng nhanh chóng. Đóng gói hàng đúng, ghi hóa đơn chính xác là làm những viẹc sau:
Lập hóa đơn theo một trận tự có hệ thống.
Cho thấy số lượng chính xác của mỗi món hàng để trong các kiện hàng.
Ghi dấu hiệu và số kiện trên mỗi thùng hàng.
Ghi trong hoá đơn số thứ tự mỗi kiện hàng để làm sao so ra ngay món hàng ghi trong hoá đơn với trong thùng đựng.
Mỗi container chỉ nên chứa một loạI hàng để hảI quan không phảI kiểm tra nhiều. Nếu hàng hóa được đóng gói theo hệ thống thì hảI quan chỉ kiểm tra một số mẫu.
Hàng xếp lẫn lộn.
Hàng xếp lẫn lộn là để các mặt hàng chịu thuế suất khác nhau vào chung một thùng chứa. Khi ấy hảI quan có quyền chọn món hàng có thuế suất cao nhất để áp lên hàng xếp lẫn lộn, trừ khi người nhập hàng có thể sắp xếp để phân chia hàng nào ra hàng đó dưới sự chứng kiến của hảI quan và mọi rủi ro người này sẽ phảI chịu.
Nếu hàng gửi phải xếp lẫn lộn thì nhà nhập khẩu nên lấy Bản hệ thống đIũu hoà HS (Harmonied system) để tìm trong mục chú thích về cấu trúc của một món hàng riêng lẻ nào đó có liên quan với số hàng trong thùng để được hưởng một thuế suất áp dụng cho tất cả các món hàng xếp lẫn lộn. Nếu không tìm được thì nhà nhập khẩu vẫn tránh khỏi bị áp dụng mức thuế cao nhất nếu cung cấp một cách thoả đáng các băng chứng sau:
Hàng xếp lẫn lộn như thế không nhằm để chốn thuế.
Món hàng hóa có mức thuế cao nhất không có một giá trị thương mại cao, tức là bán được nhiều tiền.
Nếu tách riêng ra thì rat tốn kém.
Hàng sẽ không bị tách riêng trước khi chế biến, hoặc trước khi sử dụng
Nếu bằng chứng thỏa đáng, mức thuế áp dụng cho các món hàng xếp lẫn lộn sẽ là mức thuế của thành phần nào chiếm số lượng cao nhất trong số hàng đó.
Hóa đơn thương mại
- Lập hóa đơn.
Hoá đơn thương mại do người bán hàng, người chuyên gửi hàng hoặc đạI lý của người gửi hàng ký đều hợp lệ. Trên hóa đơn phảI ghi rõ:
+ Tên cảng vào mà hàng hóa sẽ được chở tới.
+ Tên người gửi và người nhận hàng.
+ Tên hàng, tàu
+ Mô tả chi tiết hàng hóa
+ Trọng lượng và số lượng, kích cỡ của hàng hóa
+ Đơn giá và tổng giá trị, đơn vị tiền tệ
+ Mức chiết khấu, mức hao hụt cho phép đối với mặt hàng dố
+ Tên nước xuất xứ
Hóa đơn phảI được viết bằng tiếng Anh hoặc kèm theo một bản dịch chính xác.
- Các yêu cầu đặc biệt:
+ Nừu một hoá đơn chung cho cả chuyến hàng gồm nhiều lô hàng thì phảI có hóa đơn gốc hoặc biên lai cho từng lô hàng riêng biệt.
+ Nừu một lô hàng của một hợp đồng được gửi thành nhiều đợt thì có thể kê chung trong một hóa đơn nếu các đợt hàng đó dến cảng vào trong một thời gian không quá 10 ngày liên tục. Ngược lạI thì phảI lập hóa đơn riêng cho từng đợt hàng.
+ NgoàI các chi tiế thường được yêu cầu đối với một hóa đơn, thì nhà xuất khẩu nước ngoàI có thể phảI cung cấp thêm một số chi tiết đặc biệt liên quan đến một số mặt hàng hoặc một số loạI hàng đặc biệt nào đó. Thông thường nhà nhập khẩu Mỹ phảI thông báo về những trường hợp đặc biệt này.
b – Lựa chọn chế độ nhập khẩu.
Hàng hóa được nhập vào Mỹ theo hai thể thức: đơn giản và chính thức như sau:
- Đưa hàng voà theo thủ tục đơn giản.
Thủ tục này được áp dụng cho:
+ Hàng nhập có giá trị dưới 2.500 USD, trừ khi nhập để bán. Tuy nhiên, không nằm trong trường hợp này là các mặt hàng vải, sợi, hàng da, đồ trang sức
+ Đồ dùng cá nhân.
+ Hàng nhập tạm để triển lãm, dự hội chợ.
+ Hàng đặc chủng quý hiếm mà hải quan không tính giá trị được và được nhập không phải để mua bán.
+ Hàng sẽ táI xuất (trị giá dưới 10.000 USD). Trong thủ tục này có cáhc nhập theo sổ tay tạm nhập (ATA Carnets hay admission temporaire) nhưng để nhập như thế phảI tham gia hiệp ước ATA (hiện chúng ta chưa tham gia).
HảI quan sẽ cho nhận hàng sau khi người chủ hàng xuất trình tờ khai theo mẫu và trả thuế hay nộp phí. Khi không có tờ khai theo mẫu thì hải quan chấp nhận hóa đơn thương mại. Khi nhập hàng để bán hay nhập theo một hợp đồng mua bán thì người nhập phảI đưa cho hảI quan một hóa đơn thương mại , nếu không có hóa đơn thương mại thì nộp tờ khai chi tiết các món hàng và trị giá.
- Đưa hàng theo thủ tục chính thức.
Khi nhập hàng theo cách này thì chủ hàng phảI nộp một bộ hồ sơ nhập hàng cho giám đốc hảI quan ở cửa khẩu sẽ đưa hàng vào. Hồ sơ gồm có: tờ khai hàng nhập; bằng chứng về quyền được nhập, hóa đơn thương mại ,tờ liệt kê hàng đóng gói và các văn bản can thiết cho hàng được đem vào. NgoàI yêu cầu về hảI quan chủ hàng phảI thỏa mãn các yêu cầu về kiểm định, dấu hiệu, nhãn hàng
+ Hàng nhập vào để tiêu thụ.
Phần lớn hàng được nhập vào Mỹ là để tiêu thụ. Thủ tục có hai bước:
. Nộp giấy tờ khai hàng vừa đến hay trước đó.
. Sau khi hàng được giảI phóng nộp giấy tờ để tính thuế cùng lập thống kê.
+ Hàng nhập vào để Lưu kho.
Nếu chủ hàng không muốn đưa hàng vào nội địa ngay thì có thể xin hảI quan cho tồn trữ hàng trong kho ngoạI quan theo thể thức này. Đối với những hàng dễ hư hỏng, chất nổ thì không làm như vậy được.
+ Đưa hàng vào bằng đIửn thư.
ở Mỹ có hai hệ thống cho phép nhập hàng bằng đIửn thư. Đó là hệ thống Automated Broker Interface (ABI) và National Custom Automation Program (NACP). Để chuyển hồ sơ qua hệ thống ABI , chủ hàng phảI dùng một đạI lý được phép sử dụng hệ thống này. Hệ thống này cho phép chủ hàng nộp hồ sơ, tờ cam kết, tờ khai, tiền thuế bằng đIửn thư. Người dùng hệ thống NACP có thể chuyển thông tin cho từng chuyến hay dùng một tờ khai cho nhiều chuyến, kể cả việc rút hàng khỏi kho trong từng tháng.
+ Hàng giao ngay.
Đối với một số chủng loạI, chủ hàng có thể làm thủ tục xin giao ngay. Đơn phảI nộp trước khi hàng tới cửa khẩu. Nừu chấp thuận hảI quan sẽ cho giảI phóng hàng ngay khi tầu cập bến. Trong vòng 10 ngày sau khi hàng được đưa đI, chủ hàng phảI nộp hồ sơ, tơ khai, tờ tóm tắt nhập hàng, ước tính thuế..
- Nhập qua bưu đIửn.
Có thể nhập hàng qua bưu đIửn nếu hàng thuộc loạI không phảI chịu thuế quan, hoặc nằm trong phạm vi của trị giá dành cho thủ tục đơn giản.
C – Kiểm tra thực tế hàng hoá và thông quan.
Hàng không khai báo.
Sau khi hàng đã được đưa vào cửa khẩu năm ngày mà giấy tờ chưa làm xong hay chưa được làm thì hàng sẽ bị đưa vào diện bỏ hay không khai báo.
Kiểm tra trước khi giải phóng hàng.
Trước khi cho nhận hàng hải quan cửa khẩu có thể khiểm tra món hàng để xác định giá trị của nó cungf các yêu cầu khác mà món hàng phảI tuân thủ về mặt chất lượng, bao bì, nhãn hàng
Nhân viên hải quan sẽ xác định số lượng hàng, có trừ hao hụt, và áp thuế trên số còn lại. Họ có một quy định về việc xác định số lượng hàng dựa trênhóa đơn và thùng đựng.
Hàng bị giữ.
Trong vòng năm ngày sau khi đưa hàng ra kiểm tra, hải quan phải quyết định giải phóng hay giữ hàng. Nếu giữ hàng lại thì trong vòng năm ngày họ phải thông báo cho chủ hàng và yêu cầu cung cấp thông tin để giúp xử lý cho nhanh. Nếu hải quan không có một quyết định gì trong vòng 30 ngày sau khi hàng đã được đưa ra kiểm tra thì thông tin mà chủ hàng nộp bị coi là bị từ chối. Và nhà nhập khẩu có quyền gửi văn bản phản đối. Nếu hải quan tư chối sự phản đối hay không có hành động gì liên quan tới sự phản đối này thì nhà nhập khẩu có thể khởi kiện tại Toà án Thương mại quốc tế của Mỹ (US Court of International Trade).
Văn kiện tóm tắt việc nhập hàng.
Chủ hàng phảI nộp văn kiện này cùng với tiền thuế ước tính đóng trên số hàng nhập trong vòng 10 ngày làm việc sau khi hàng được hải quan giải phóng. Luật giành thời gian này để cho người nhập hàng có thể điều chỉnh giầy tờ cho số hàng thực nhập khớp với tờ khai nộp cho hải quan lúc hàng chưa tới hay vừa mới tới.
Tờ tóm tắt nhậnhàng có các chi tiết sau:
Tổng số hàng trả về nơi xuất.
Một tờ tóm tắt làm theo mẫu.
Các văn kiện hay hóa đơn khác giúp hải quan tính thuế, thống kê, báo cáo việc tuân thủ luật pháp.
Hoàn tất thủ tục thông quan.
- Thể thức.
Thanh tlý là thời điểm hải quan quyết định chung cuộc về mức thuế và số tiền thuế phải nộp. Việc này diễn ra qua một thông báo dán ở trụ sở của hải quan. Thông báo cho biết hải quan chấp nhận tờ tóm tắt hàng nhập của nhà nhập khẩu và việc nhập hàng được thanh lý. Nhà nhập khẩu trước đó cũng có thể nhận được một bản thông báo về thuế suất và số tiền thuế và nhà nhập khẩu cũng có quyền phản đối mức thuế cho đến khi thông báo được dán trên bảng.
Hải quan cũng có thể quyết định là một chuyến hàng nhập không thể thanh lý được. Khi ấy, họ sẽ sửa đổi thuiế suất và tiền thuế. Nếu mức thuế được giảm thì chủ hàng đã nộp dư khi lấy hàng. Hải quan cũng có thể áp một thuế suất cao hơn.
- Phản đối
Trong vòng 90 ngày sau khi có thông báo thanh lý, chủ hàng có quyền phản đối để yêu cầu điều chỉnh và trả lại tiền thuế đã đóng dư. Chủ hàng phải nộp dơn yêu cầu hải quan xem xét lại cùng với thư phản đối. Thông thường hải quan từ chối xem xét lại nếu như đã từng trả lời về một vụ tương tự có cùng vấn đề. Khi bị từ chối, chủ hàng có thể đem nội vụ ra Toà án Thương mại quốc tế của Mỹ trong vòng 180 ngày.
- Kết thúc thanh lý.
Dù trong đa số trương hợp việc đóng thuế được coi là xong xuôi khi có thông báo thanh lý, nhưng theo luật thì việc thanh lý chưa xong hẳn chođến khi hoàn tất các thủ tục khiếu nại và khởi kiện. Thành ra việc nhập hàng chỉ được coi là xong hết sau một năm kể từ khi nhập hàng vào và các thời điểm khiếu nại khởi kiện đã qua hết.
Việc thanh lý có thể bị gián đoạn nếu bị toà yêu cầu hay theo luật đòi hỏi. Sự gián đoạn sẽ kéo dài cho đến khi vấn đề đã được giải quyết. Sau đó thì chuyến hàng nhập phải được thanh lý trong vòng 6 tháng kể từ ngày chấm dứt.
- Lưu sổ sách.
Cho mỗi chuyến hàng nhập, chủ hàng phải giữ nhiều hồ sơ và hải quan có quyền kiểm tra việc này. Các hồ sơ lưu trữ phải làm theo yêu cầu của hải quan. Các chứng từ lưu trữ là những văn kiện được lập trong quá trình nhập hàng hay qua điện thư. Ai không giữ có thể bị phạt tiền.
Tóm lại, Luật của Mỹ rât phức tạp còn người Mỹ trọng luật pháp bởi vậy khi giao dịch với họ thì phải hết sức chú ý đến luật phát và tập quán của họ. Ngoài ra người Mỹ rat hay kiện tụng mà tiền thuê luật sư bên Mỹ rất đắt cho nên việc nghiên cứu luật nhập hàng của Mỹ là rât cân thiết. Trên đây là những quy định về thủ tục này.
II – Thực trạng xuất khẩu cà phê sang một số thị trường lớn và sang Mỹ.
1 – Các thị trường lớn.
Hiện nay, cà phê của Việt Nam đã được xuất khẩu sang 63 nước và thị trường trên thế giới. Cơ cấu khách hàng của ta cũng đã có những thay đổi quan trọng. Nếu như trước đây 60% lượng hàng được xuất sang Singapore ( để chế biến và tái xuất khẩu ), số còn lại được xuất theo Nghị định thư sang Liên Xô cũ và các nước Đông Âu thì ngày nay cà phê Việt Nam được xuất trực tiếp đi khắp các châu lục. Những năm gần đây Mỹ đã trở thành khách hàng lớn nhất của ngành cà phê Việt Nam , tiếp đó là các nước trong EU, Nhật Bản, các nước Trung cận đông và Bắc Phi.
Thông qua các số liệu các năm gần đây, ta thấy xu hướng chung là thị trường của Vicofa chủ yếu là tập trung ở các nước công nghiệp phát triển, nơI mà cà phê là một loại đồ uống không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày. Có thể nói, thị trường của Vicofa rất ổn định và không ngừng được mở rộng. Mỹ là bạn hàng lớn của Vicofa từ năm 1996 đến nay, năm 2000 Mỹ vượt qua Thuỵ Sĩ ( năm 1999) đứng ở vị trí đầu.
Trong khối thị trường chung châu Âu nổi lên một thị trường lớn là Đức. Đây là một quốc gia có nền kinh tế phát triển và là nơi mà tiêu dùng cà phê hàng ngày trở thành thói quen và thị hiếu không thể thiếu được. Tiếp đó là các thị trường khá ổn định như ý, Tây Ban Nha, Bỉ, Pháp
Khối thị trường Châu á và Singapore là hai thị trường nhập khẩu lớn của Vicofa. Nhật Bản là thị trường chỉ chấp nhận cà phê có chất lượng cao. Tuy vậy,khối lượng xuất khẩu cà phê sang Nhật Bản luôn luôn chiếm tỷ trọng đáng kể, về thực chất đây là thị trường trung chuyển. Cho đến nay, Singapore vẫn là thị trường trung chuyển lớn nhất của cà phê Việt Nam. Ngoài Thái Lan, mặc dù là một nước sản xuất cà phê nhưng cũng nhập khẩu cà phê hàng năm từ Việt Nam khoảng 3.000 tấn.
Năm 1995, khi mới thành lập Tổng công ty cà phê Việt Nam xuất khẩu với số lượng là 39.966 tấn, kim ngạch 99 triệu USD, giá bình quân 2.477 USD/tấn; đến năm 1998 xuất khẩu đạt số lượng 76.443, kim ngạch 121 triệu USD, giá bình quân 1.583 USD / tấn thì năm 2000 số lượng xuất khẩu đạt tới 171.333 tấn, kim ngạch chỉ đạt 106 triệu USD giá bình quâb còn 619,1 USD/ tấn và trong 6 tháng đầu năm 2001 số lượng xuất khẩu 170.826 tấn, kim ngạch 74,2 triệu USD, giá bình quân xuống còn 4.34,4 triệu USD/tấn ( xem bảng ).
Từ số liêu trên cho thấy sự tăng giảm về khối lượng và kim ngach xuất khẩu liên quan mật thiết đến giá cà phê trên thị trường thế giới. Cà phê là một mặt hàng mang tính quốc tế nên giá cả của nó phụ thuộc rất lớn vào các nước xuất khẩu có thị phần quốc tế lớn, mà chủ yếu là Brazil và Côlômbia. Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về cà phê, sự tích trữ cà phê của các nhà rang xay quốc tế, tình hình thời tiết các vùng sản xuất cà phê chủ yếu của thế giới và khối lượng tồn kho của các nước sản xuất và nhập khẩu cà phê. Đến nay Việt Nam trở thành một nước sản xuất cà phê lớn trên thế giới nhưng khả năng chi phối về giá hết sức hạn chế, giá xuất khẩu chủ yếu dựa vào giá thị trường London và Newyork. Mặt khác Việt Nam chủ yếu sản xuất và xuất khẩu cà phê Robusta nên thấp hơn nhiều giá cà phê Arabica của các nước.
Hiện nay sự biến động về giá cà phê theo chiều hướng giảm ở mức báo động đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.
B
Vì giá giảm dần từ vụ cà phê 1998/1999 dến nay, nhất là 6 tháng đầu năm 2001 giá chỉ bằng 27 % so với giá năm 1998, thấp nhất trong hơn 30 năm qua nên hoạt động xuất khẩu cà phê của các doanh nghiệp trong Tổng công ty gặp nhiều khó khăn. Các đơn vị mua cà phê vào từ đầu vụ không bán bgay đợi giá lên, do giá liên tục giảm nên vẫn còn tồn kho, vốn kinh doanh bị ứ đọng cộng với lãi suất ngân hàngnên kinh doanh bị thua lỗ ngày càng lớn hơn.
Từ năm 1999, Tổng công ty đã có đến 16 công ty xuất khẩu nhưng chưa có một hoạt động đối ngoạI nào đáng kể. Trên thực tế, khi Tổng công ty có tới 16 Công ty có nhiệm vụ kinh doanh xuất khẩu thì chỉ xuất được với số lượng bằng 42,6 % (1999) so với 6 đơn vị xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 2001 và hiệu quả lạI thấp hơn. Đó là một nghịch lý phảI suy nghĩ. Do thiếu thống nhất việc định gía mua, chào bán hàng giữa các doanh nghiệp xuất khẩu nên khách hàng nước ngoàI lợi dụng để éo cấp, ép giá gây thua thiệt cho các đơn vị kinh doanh.Do đó, cùng một thời đIểm, một khách hàng, một loạI cà phê nhưng các doanh nghiệp lạI bán với giá khác nhau.
Để hạn chế tình hình trên, Tổng công ty chỉ định 4 dơn vị phát gía bán hàng ngày sau khi thị trường London mở cửa, 4 đơn vị thống nhất trao đổi giá bán qua điện thoại và thông báo cho các đơn vị xuất khẩu tham khảo.
Như vậy, chỉ trong một thời gian không dài, ngành cà phê Việt Nam đã đạt được những thàng tựu đáng kể và mở rộng được thị trường, đặc biệt là những thị trường được coi là khó tính nhất với khối lượng ngày càng tăng. Tuy nhiên để có thể phát huy được thế mạnh của mình, ngành cà phê cần phải quan tâm hơn nữa đến công tác nghiên cứu thị trường, đặc biệt là những thị trường lớn như thị trường Mỹ.
2 – Thị trường Mỹ.
Từ khi chính quyền Mỹ bỏ lệnh cấm vận ít lâu thì cà phê Việt Nam đã nhanh chóng thâm nhập thị trường Mỹ với số lượng ngày càng lớn hơn. Đặc biệt, việc ngành Cà phê Việt Nam tham gia Hội chợ triển lãm hàng Việt Nam tại San- Fransisco năm 1994 đã mở ra thời kỳ mới cho mặt hàng cà phê Việt Nam tiếp xúc với thị trường Mỹ.
Chúng ta biết rằng thị trường Mỹ là một thị trường lớn, hàng năm Mỹ nhập khẩu một lượng cà phê lớn nhất thế giới với chủng loại đa dạng bởi vì Mỹ là một nước nhập cư. Trung bình hàng tháng Mỹ nhập khẩu khoảng 1,7 triệu bao có tháng cao điểm lên tới 2 triệu bao qua đó ta thấy trung bình năm Mỹ nhập khẩu khoảng 20-25 triệu bao. Trong khi số lượng Mỹ nhập từ Việt Nam hàng năm là rât ít so với tổng nhập khẩu. Năm 2000 mặc dù Mỹ là nước nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam nhưng chỉ đạt là 2449883 bao đạt trị giá 116782194 USD lớn nhất từ thị trườngước đến nay, sang năm 2001 số lượng bắt đầu giảm còn 2291683 bao đạt 59371585 USD. Ta thấy rằng, mặc dù số lượng giảm không đáng kể nhưng giá trị đã giảm đi một con số rât lớn là gần 50%, điều đó cho thấy là giá bình quân trên thị trường thế giới cũng như tại thị trượng Mỹ giảm từ 794,47 USD/tấn năm 2000 còn 431,8USD/tấn. Sang 9 tháng đầu niên vụ 2002 thì số lượng chỉ là 1233050 bao đạt 25121912 USD và giá chỉ còn là 339,6 USD/tấn.
Bảng: Số lượng cà phê Mỹ nhập khẩu từ 8/2001 – 7/2002
Đơn vị: bao (1bao = 60 kg)
Tháng
Số lượng
8/2001
1670101
9/2001
1515403
10/2001
1610500
11/2001
1666254
12/2001
1927456
1/2002
1739103
2/2002
1443101
3/2002
1733361
4/2002
1767056
5/2002
1748313
6/2002
1619277
7/2002
1887990
Tổng
20327915
Nguồn: ICO
Từ bảng và các số liệu trên thì ta thấy tổng số lượng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ mới chỉ đạt khoảng 12,25% so với tổng số lượng nhập khẩu của Mỹ. Các con số trên cho ta thấy đó mới là số lượng cà phê nhân, còn các chủng loại khác như cà phê hoà tan, cà phê rang, cà phê khác thì với số lượng rất bé (bảng).
Bảng : Cà phê Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ từ 1998 – tháng 9/2002
Năm
Cà phê nhân
Cà phê hoà tan
Cà phê hạt rang
Cà phê khác
Số lượng
(tấn)
Trị giá
(USD)
Số lượng
(Kg)
Trị giá
(USD)
Số lượng
(Kg)
Trị giá
(USD)
Số lượng
(Kg)
Trị giá
(USD)
1998
81948,5
-
-
-
-
-
-
-
1999
63892,4
89529753
-
-
-
-
-
-
2000
146993
116782194
13044
41417
-
-
22471
61178
2001
137501
59371585
4600
11200
6261
20693
8980
28079
Đến 9/2002
73983
25121912
67495
186844
30839
105002
28890
75888
Nguồn: Vicofa
Từ bảng trên thì số lượng các loại cà phê đặc biệt xuất khẩu sang Mỹ gày có chiều hướng gia tăng. đây là một vấn đề dặt ra cho cà phê Việt Nam hướng mở rộng thị trường và đa dạng phương thức xuất khẩu cũng như tổ chức sản xuất chế biến và xuất khẩu cà phê thành phẩm.
III - Đánh giá hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Mỹ.
Qua nghiên cứu và xem xét thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Mỹ thì ta thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:
1 – Thuận lợi.
- Sản lượng cà phê của ta cao, nhất là các năm gần đây thì diện tích trồng được mở rộng theo hướng tăng diện tích Arabica một loại cà phê đáp ứng được phần lớn thị hiếu người tiêu dùng trên thế giới nói chung và ở Mỹ nới riêng. Mặt khác giá thành sản xuất của cà phê Việt Nam tương đối thấp, vì vậy có sức cạnh tranh lới.
- Cà phê Việt Nam phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng Mỹ vì: Mỹ là nước có dân chúng nhập cư từ nhiều nước, người tiêu dùng cà phê ở Mỹ có thị hiếu rất khác nhau tùy theo:
+ Nguồn gốc dân tộc trước khi đến Mỹ.
+ Tôn giáo
+ Lứa tuổi
+ Trình độ văn hoá
Tuy nhiên, nhìn chung, ta có thể thấy thị hiếu của họ có một số net chung là:
+ Họ thích loại cà phê hỗn hợp, nghĩa là pha trộn cà phê chè với cà phê vối theo tỷ lệ nhất định.
+ họ thích cà phê hạt rang xay rồi pha phin, chứ không thích cà phê tan nhanh( Instant coffee).
- Hàng năm, Mỹ vẫn phải nhập một khối lượng nhất định cà phê vối (Rubusta) từ châu á như Indonesia và Việt Nam , còn với thị trường cà phê Nam Mỹ thì chỉ có thể đáp ứng cà phê chè (Arabica).
- Mặt khác ngành cà phê Việt Nam được sự ửng hộ và định hướng của Đảng và Nhà nước rat lớn về nhiều mặt như: đào tạo cán bộ, cấp vốn theo các chương trình xã hội khác nhau, cho vay ưu đãi.
2- Khó khăn.
- Chưa có sự hiểu biết lẫn nhau giữa các thương gia hai nước, vì vậy khi xuất hàng sang Mỹ, nhiều nhà nhập khẩu Mỹ đòi hỏi ta phải có giấy chứng nhận đạt hàng không hủy ngang – ICPO (Irrevocable Certificate of Purchase Outstanding ).
- Cà phê Việt Nam chưa có tiến tăm trên thị trường Mỹ, bởi vậy thường bị các doanh nghiệp Mỹ chèn ép, ví dụ như vụ thương hiệu sản phẩm của cà phê Trung Nguyên Việt Nam hiên nay đã bị mất thương hiệu trên thị trường Mỹ.
- Về việc giá thành thấp cũng là một con dao hai lưỡi trên thị trường Mỹ vì luật Mỹ rất dễ cho đó là hàng hoá bán phá giá như vụ tranh chấp cá Basa Việt Nam .
- Vân tải xa nên giá cước vận tải cao, các tuyến vận tải thì chưa được khai thông và mở rộng.
- Như đã tìm hiểu ở trên thì luật nhập khẩu của Mỹ rất nghiêm ngặt điều đó đòi hỏi cà phê Việt Nam phải đày đủ thủ tục, đúng tiêu chuẩn chất lượng
- Giá cả trên thị trường thế giới diễn biến rat phức tạp, nước ta lại xuất khẩu chủ yếu là loai cà phê Rubusta, do chất lượng thấp nên giá bán chênh lệch so với giá các nước trong khu vực.
3- Một số nguyên nhân tồn tại.
- Chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam nói chung dang bị đánh giá là thấp. So với các nước trong khu vực như Thái lan, Indonesia thì cà phê Việt Nam có thủy phần cao hơn, tổng số lỗi, tạp chất hạt đen vỡ đều cao hơn, kích thước hạt nhỏ nhưng có ưu điểm là ít sâu hơn. Những lỗi trên chủ yếu do chế biến theo phương pháp thủ công hoặc các xưởng chế biến có công suất nhỏ, lạc hậu.
- Về phân phối sản phẩm, đây là khâu đặc biệt quan trọng nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Hiện nay chúng ta đang thiếu sự nghiên cứu sâu sắc các khâu cơ bản trong kênh phân phối quấc tế. Mức kiểm soát kênh phân phối còn kém, kỹ thuật phân phối đơn điệu nên khi tiếp xúc với các thị trường có kỹ thuật phân phối phức tạp và tiên tiến như Mỹ, Pháp, Đức..là rất khó khăn.
- Công tác xúc tiến thương mại còn nhiều vấn đề cần xen xét. Lâu nay tuy cà phê Việt Nam đã được đưa đi tiêu thụ trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng thực ra chỉ do khoảng 10 công ty nước ngoài có cơ quan đại diện tại Việt Nam trực tiếp mua và phân phối đi không những thế mà đã làm cho thị trường cà phê Việt Nam xảy ra tình trạng tranh mua, tranh bán và ép giá nông dân nên giá cà phê xuất khẩu giảm. Do đó có thể coi ngành cà phê Việt Nam xuất khẩu tại sân nhà mà thị trường thì thêm rối ren.
- Do thiếu thông tin và quan trọng hơn là do khả năng phân tích thông tin để dự đoán diễn biến giá cả, thiếu sự trao đổi thông tin nội bộ và thống nhất đối sách, một số các biệt còn thiếu ý thức tập thể, tự ý bán phá giá làm sai những điểm đã bàn. Đây là khó khăn lớn khó có thể giải quyết được.
- Cơ chế chính sách điều tiết sản xuất và kinh doanh xuất khẩu cà phê mang tính chất giải quyết tình thế, chưa mang tính chiến lược lâu dài.
ở trên là một số nguyên nhân tồi tại của tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam nói chung và xuất khẩu sang Mỹ nói riêng, điều đó cần có những giải phát thích đáng để nâng cao khả năng thâm nhập thị thị trường thế giới cũng như thị trường Mỹ nói riêng. Hay nói cách khác là làm thế nào để đẩy mạnh xuất khẩu cà phê sang các thị trường này.
Chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thâm nhập thị thị trường Mỹ của ngành cà phê Việt Nam
I – Chến lược chung cho toàn ngành.
Việt Nam hiện nay đang thực hiện điều chỉnh phương hướng chiến lược nhằm vào những nội dung chủ yếu sau:
- Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, xách định mục tiêu chiến lược cho toàn ngành.
+ Chuyển dịc cơ cấu cây trồng: Ngành cà phê Việt Nam chủ trương đổi mới phương hướng sản xuất cà phê theo hai hướng:
* Giảm bớt diện tích cà phê Rubusta. Chuyển các diện tích cà phê phát triển kém,không có hiệu quả sang các loại cây trồng lâu năm khác như cao su, hồ tiêu, hạt điệu, cây ăn quả và cây hàng năm như bông, ngô lai.
* Mở rộng diện tích cà phê Arabica ở những nơi có điều kiện khí hậu đất đai thích hợp.
+ Mục tiêu: Mục tiêu cuối cùng trong chiến lược này là giữ tổng diện tích cà phê không đổi ở mức hiện nay, hoặc giảm chút ít, nằm trong khoảng 450.000 ha đến 500.000 ha, nhưng cơ cấu chủng loại cà phê cần thay đổi, trong đó
Cà phê Robusta 350.000 ha đến 400.000 ( giảm 100.000 – 150.000 ha )
Cà phê Arabica ( 100.000 ha tăng 60.000 ha so với hế hoạch cũ trồng 40.000 ha bằng vốn vay của cơ quan phát triển Pháp)
Tổng sản lượng cà phê đảm bảo ở mức 600.000 tấn tương đương 10 triệu bao so với hiện nay giảm 5 triệu bao và là 5 triệu bao cà phê Robusta.
- Hạ giá thành sản xuất nâng cao hiệu quả kinh doanh:
Mặc dù chi phí lao động của ngành cà phê Việt Nam tương đơi thấp so với nhiều nước khác vì GDP bình quân trên đầu người cũng thấp, năng suất cà phê Việt Nam cũng vào loại cao trên thế giới nhưng giá thành cà phê Việt Nam vẫn chưa thấp đến mức có thể cạnh tranh được.Nguyên nhân chủ yếu là do nông dân Việt Nam với mong muốn đạt năng suất cao nhất đã tăng đầu tư phân bón , nước tưới lên mức rất cao đã làm giảm hiệu qủa của đầu tư và tăng giá thành sản xuất. Việc cần làm là phải giảm chi phí đàu vào để hạ giá thành sản xuất .
- Đổi mới công nghệ, thiết bị chế biến, áp dụng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm nhà nước phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao chất lượng của sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường.
- Sản xuất và cung cấp ra thị trường nhiều chủng loại mặt hàng ngoài cà phê nhân sống đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng
- Sản xuất hàng hóa chất lượng cao như cà phê hữu cơ, cà phê đặc biệt
- Đổi mới quan hệ mua bán, mở rông thị thị trường cho cà phê Việt Nam
- Cuối cùng là phát triển một ngành sản xuất cà phê bền vững ở Việt Nam .
II - Giải pháp và tăng cường xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Mỹ.
1 – Những giải pháp từ phía Nhà nước.
- Thành lập qũy hỗ trợ xuất khẩu cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu đang bị thua lỗ nguyên nhân do giá cà phê xuông thấp. Đồng thời quy định giá sàn trả cho nông dân khi giá cà phê trên thị trường thế giới giảm, giá bán thấp hơn giá thành sản xuất ra. Dĩ nhiên các nhà xuất khẩu lại bị thua thiệt và thông qua qũy hỗ trợ xuất khẩu, Nhà nước sẽ bù lỗ cho các nhà xuất khẩu.
- Nhà nước có cơ chế tín dụng như cho vay không lãi ( hoặc bù lãi suất), trừ phầnhpụ thu xuất khẩu cho một số doanh nghiệp của Tổng công ty có nguồng nhân lực thu gom, gom trữ cà phê ngay từ đầu vụ với số lượng khoảng 10% để phối hợp với ACPC nhằm đẩy giá cà phê quốc tế tăng lên, và chủ động xuất khẩu và sản xuất.
- Tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên sâu về cà phê, hỗ tợ ngành cũng như Tổng công ty đào tạo đội ngũ có năng lực về chuyên môn cây cà phê cũng như dội ngũ phân tích thị trường thế giới để giúp ngành có những bước di đúng đắn.
- Chính phủ hỗ trợ phát triển thị trường bàng cách mở rộng quan hệ thương mại ngoại giao trên mọi lĩnh vực, ký kết các hiệp định trả nợ với các nước có nhu cầu với số lượng hàng năm lên tới 100.000 tấn - 150.000 tấn.
- Nhà nước cần tạo điều kiện để xúc tiến việc tổ chức trung tâm giao dịch cà phê Việt Nam là nơi tập trung mọi giao dịch về cà phê .
- Để đảm bảo thực thi chiến lược mang tính quốc tế về sản xuất và tiêu thụ cà phê , Nhà nước cần thành lập Hội đồng cà phê quốc gia chịu trách nhiệm toàn bộ từ sản xuất đến tiêu thụ, quản lý qũy bảo hiểm sản xuất và xuất khẩu cà phê cũng như kế hoạch dự trữ cà phê quốc gia. Hình thức này đã được áp dụng ở một số sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn thấy có hiệu quả.
- Cần tổ chức các nhà xuất khẩu lại với nhau trên từng khu vực để phối hợp với nhau trong việc chào và bán hàng, tránh tình trạng tranh mua tranh bán và tăng khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam với cà phê các nước.
- Dối với thi thị trường Mỹ thì Chính phủ giúp đỡ ngành trong việc tham gia thị trường cà phê New York
- Giải pháp từ phía Bộ chủ quản và các bộ có liên quan.
- Bộ chủ quản trực tiếp là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phải có hướng chỉ đạo đầu tư giữ không để hao hụt diện tích Robusta hiện đang kinh doanh có hiệu quả, mở rộng vùng cà phê Arabica ở những nơi có điều kiện thật sự thích hợp.
- Bộ Thương mại cần chỉ đạo các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê phải triệt để tuân thủ tiêu chuẩn chất lượng ban hành và có biện pháp xử lý phù hợp đối với những đơn vị thực hiện không đúng qui định làm tổn hại uy tín cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần xây dựng một chiến lược đầu tư phù hợp theo cơ cấu ngành nói chung cungx như các cây nông nghiệp nói riêng..
- Bộ Tài chính cần cấp đủ 30% định mức vốn lưu động trong các đơn vị thuộc ngành, cấp ngân sách để xây dựng, nâng cấp các công trình thủy lợi, kiên cố hoá kênh nương đảm bảo đủ nguồn nước tưới cho diện tích cà phê hiện có và đang xây dựng, nâng cấp trục đường giao thông đặc biệt là những dự án ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
- Giải pháp từ phía ngành cà phê .
Đẩy mạnh xuất khẩu cà phê hiện nay ở nước ta thì cần phải thực hiện trên hai hướng chủ yếu:
Một là: Phát triển về bề rộng diện tích là giữ nguyên diện tích cà phê Robusta hiện có và tăng diện tích cà phê Arabica, thâm canh tăng năng suất, tăng tổng sản lượng để có khối lượng cà phê xuất khẩu lớn. Việc mở rông diện tích cà phê Arabica là việc có thẻ tăng giá trị xuất khẩu của ngành cà phê Việt Nam , vì giá cà phê Arabica trên thị trường thế giới baogiời cũng cao gấp đôi giá cà phê Robusta.
Hai là: Tập trung phát triển về bề sâu như đa dạng hóa mặt hàng cà phê, đa phương hóa thị trường cà phê. Nhất là cần xem thị trường Mỹ là một thị trường tiềm năng.
Trớc tình hình thị trường cà phê thế giới đầy biến động, giá cà phê liên tục giảm xuông mức kỷ lục thì việc giá tăng một cách đột biến là không thể vì vậy những biện pháp chủ yếu để
- Cải tiến công tác xúc tiến thương mại theo hướng:
+ Tìm thị trường xuất khẩu trực tiếp đến người rang xay
+ Tổ chức sở giao dịch cà phê để cà phê Việt Nam trực tiếp tham gia vao giao dịch chứng khoán tại Việt Nam .
+ Cử đại diện tham gia vào thị trường kỳ hạn Luân Đôn.
- Ngành cà phê cần xây dựng và củng cố hệ thống thông tin trong toàn ngành trước mắt là Tổng công ty cà phê Việt Nam là cơ quan có quyền lực, trụ cột trong các doanh nghiệp cà phê toàn quốc, tổ chức lại mạng lưới thông tin từ các đơn vị cơ sở, nhất là các đơn vị xuất khẩu, cung ứng xuất khẩu phải thường xuyên liên tục để nắm bắt và xử lý thông tin nhanh chóng kể cả thị trường trong nước, ngoài nước, tranh thủ thời cơ thuận lợi trong kinh doanh.
- Tiếp tục duy trì tốt những thị trường đã có và mở rộng thâm nhập thị trường mới. Chiến lược về thi trường của ngành cà phê Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 là phải tiếp tục duy trì quan hệ buôn bán tốt cới các nước Tây Âu, Bắc Âu như Pháp, áo, Đức, Và các nước Đông Nam á như Nhật , Hàn Quốc, SingapoĐồng thời một hướng cần đặc biệt chú ý trong việc nghiên cứu khảo sát thâm nhập thị trường Trung Quốc và mở rộng thị trường Mỹ nhất là Mỹ một thị trường đầy khả năng xuất khẩu một lượng lớn vào thị trường này. Vì Mỹ là một thị trường có sức mua cao, với những hợp đồng lớn với giá trị cao, và giá cả tương đối hấp dẫn so với các nước khác. Nhưng để xuất khẩu sang Mỹ với số lượng lớn thì đòi hỏi cà phê Việt Nam phải có chất lượng cạnh tranh.
- Ngoài ra, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức như thông qua mạng Internet, trên báo chí, truyền hình .v.v
- Phải sớm áp dụng tiêu chuẩn chất lượng cà phê xuất khẩu TCVN 4193:2000 đã được ban hành. Để đáp ứng tiêu chuẩn của ICO, từ 01/10/2000 tổ chức cà phê quốc tế áp dụng tiêu chuẩn tối thiểu.
- Để nâng cao khả năng cạnh tranh cà phê Việt Nam cần thực hiện :
+ Hạ giá thành sản xuất .
+ Nâng cao chất lượng sản phẩm.
+ Thực hiện tiết kiệm ở từng khâu từ sản xuất đến lưu thông.
- Về thương hiệu, nhãn mác : Cần nghiên cứu để có thương hiệu cà phê Việt Nam được quảng bá và bảo hộ trên thị trường quốc tế và phấn đấu để có dấu hiệu chất lượng cao, nhằm cải thiện hình ảnh cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới. Thị trường. Tất cả cà phê đưa ra xuất khẩu nên có nhãn mác riêng nhằm xác định đó là cà phê đã được định nghĩa trong Điều 2 và Điều 36 của Hiệp định cà phê quốc tế 2001. Cà phê thành phẩm cũng cần được dán nhãn như vậy.
- Phải quan tâm bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật làm công tác kiểm tra chất lượng cà phê. Đồng thời tích cực tuyên truyền và hướng dẫn kỹ thuật cho công nhân, nhân dân trồng, sản xuất cà phê về công tác chế biến, bảo quản cà phê ngay từ khi bắt đầu thu hoạch, chế biến, phân loại và quá trình bảo quản trong từng gia đình đảm bảo phẩm chất cà phê xuất khẩu
- Về vốn :
Vốn cho trồng mới cà phê chè Arabica: dựa vào vốn vay của quỹ phát triển Pháp ( AFD ) 42 triệu Frăng, với lãi suất ưu đãi, trả nợ trong 15 năm, ân hạn lãi và gốc 3 năm. ngoại ra còn có nguồn vốn huy động trong nhân dân. Đồng thời Nhà nước hỗ trợ cho vay dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.
Vốn cho kinh doanh : Các doanh nghiệp kinh doanh hiện nay đang phải đối phó với tình hình khó khăn về tài chính, và để khắc phục tình hình này thì cần phải thực hiện các giải pháp sau:
+ Mở rộng quan hệ với các ngân hàng đảm bảo vay đủ vốn cho sản xuất kinh doanh.
+ Phát huy nội lực, huy động vốn tối đa tự có, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
+ Thực hiện quy chế, quy định về vay quản lý tài chính theo đúng Nghị định 27/ CP.
- Về công nghệ : Sản xuất nông nghiệp tốt sẽ cung cấp cho công nghiệp chế biến nguyên liệu tốt. Chế biến tốt sẽ hạn chế sự giảm mất chất lượng vốn có của cà phê ở mức thấp nhất. Việc đưa trồng mới cà phê Arabica vào cần có một hệ thống chế biến thích hợp. Hiện nay trên thế giới các nước xuất khẩu cà phê lớn đã và đang áp dụng phương thức chế biến ướt.
4. Một số kiến nghị lên Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan.
Đề nghị Chính phủ cần có những phương hướng chỉ đạo cho việc mở rộng và phát triển vùng nguyên liệu cà phê đảm bảo chất lượng phục vụ xuất khẩu, thực hiện nâng cao chất lượng cà phê Robusta hiện có, mở rộng diện tích cà phê Arabica nhằm nâng cao tổng sản lượng và giá trị xuất khẩu.
Đầu tư vào công tác khuyến nông, khuyến công, chuyển giao kỹ thuật trồng trọt tiên tiến, công nghệ chế biến tiên tiến đến người sản xuất.
Đầu tư cho công tác xúc tiến thương mại của ngành cà phê, tổ chức các đoàn đi tìm kiếm thị trường, đầu tư cho việc tham gia thị trường kỳ hạn Luân Đôn.
Những chủ trương, giải pháp về mặt tài chính của Chính phủ như giãn nợ, khoanh nợ, cho vay ưu đãi, thưởng xuất khẩu là hết sưc tích cực và hữu hiệu, đề nghị chỉ đạo thực hiện sớm, kịp thời để giải toả khó khăn về vốn cho cơ sở.
Đề nghị nghiên cứu chính sách chỉ đạo xuất khẩu cà phê mà theo em cách làm hiện nay là chưa thoả đáng. Cụ thể là không để xuất khẩu tràn lan mà phải có điều kiện hay tiêu chuẩn cho các nhà xuất khẩu như :
Tiêu chuẩn về hiểu biết nghiệp vụ ngoại thương và hiểu biết mặt hàng cà phê, nắm vững và thực hiện tiêu chuẩn kỹ thuật cà phê xuất khẩu.
Tiêu chuẩn về khả năng chế biến và kho tàng đảm bảo cà phê đạt tiêu chuẩn xuất khẩu .
Điều kiện và yêu cầu bắt buộc các nhà xuất khẩu phải tuân thủ chế độ báo cáo kịp thời với các cơ quan Nhà nước liên quan và Hiệp hội ngành hàng.
Kết luận
Sau hơn một thập kỷ phấn đấu xây dựng và phát triển, ngành cà phê Việt Nam mà nòng cốt là Tổng công ty Cà phê Việt Nam đã phát triển vững chắc và trở thành một trong những ngành xuất khẩu nông sản quan trọng của cả nước, đạt kim ngạch xuất khẩu lớn. Đôí với nước ta, nông nghiệp đang là mặt trận hàng đầu, có lực lượng lao động dồi dào, nhân dân ta lại chịu khó cần cù và sáng tạo. Điều kiện khí hậu lại khá phù hợp cho sự phát triển của cây cà phê. Chúng ta lại đang có diện tích đất đai rộng lớn đang bị hoang hoá ở các vùng Tây Nguyên, trung du miền núi, đất đai nhiều vùng phù hợp điều kiện sinh trưởng của cây cà phê.
Sản phẩm cà phê hiện nay vẫn là loại nước uống cao cấp, tiêu dùng rộng rãi trên quốc tế, nhất là các nước phát triển, nhu cầu tiêu thụ ngày một tăng, là một trong những mặt hàng xuất khẩu có giá trị, dễ thu ngoại tệ của nhiều nước. Vì vậy, việc sản xuất, xuất nhập khẩu cà phê đang có ý nghĩa quan trọng đối vơí nhiều nước trên thế giới.
Đối với Việt Nam, cây cà phê đã và đang có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và nhất là trong nông nghiệp. Xây dựng, phát triển ngành cà phê là một trong những ngành mũi nhọn nhằm tạo ra các mặt hàng chủ lực trong nông sản xuất khẩu là hướng đi đúng đắn và có đầy đủ điều kiện và tiềm năng to lớn cần được khai thác.
Tuy nhiên trong nhiều năm qua thị trường cà phê thế giới có nhiều diễn biến sôi động do lượng cung cao hơn lượng cầu, giá cả luôn luôn biến động làm cho người xuất khẩu và người nhập khẩu đều cảm thấy lo lắng. Vì vậy, các nước thành viên trong Tổ chức cà phê Quốc tế đòi hỏi cần sớm có Hiệp định mới về cà phê quốc tế, thiết lập lại chế độ cấp quota cho các nước thành viên nhằm thiết lập lại trật tự buôn bán cà phê trên thế giới bảo đảm quyền lợi cho cả người sản xuất và người tiêu thụ.
Do biến động giá cà phê quốc tế nên ngành kinh doanh cà phê gặp nhiều khó khăn to lớn. Thực tế đó đòi hỏi phải có chính sách đúng đắn về kinh doanh xuất nhập khẩu cà phê để ngành cà phê phát huy được hiệu quả.
Những giải pháp cơ bản đề ra trên là sự cụ thể hoá quan điểm của Đảng trong đường lối chiến lược kinh tế – xã hội do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra và hoàn toàn phù hợp với điều kiện hiện nay.
Những giải pháp đó cũng đã từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đúng với điều kiện, khả năng và sức mạnh của ngành. Do đó các giải pháp hoàn toàn khả thi và là định hướng cho giai đoạn tới của ngành cà phê Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX.
Văn kiện Hội nghị BCHTW lần thứ 7 (khoá VII) – 1994.
Dự án phát triển gạo, cao su, cà phê, dâu tằm tơ Việt Nam ( Bộ NN & CNTP – 12/1995).
Cà phê Việt Nam tiềm năng và triển vọng ( Tạp chí Người đại biểu nhân dân – số 19 NXB NN - 1997 ).
Doanh nghiệp Việt Nam và hành trang vào thế kỷ 21 ( NXB Thống kê - 1999).
Phương hướng phát triển cà phê Việt Nam ( NXBNN – Hà Nội 1995).
Cây cà phê và thị trường thế giới ( Thạc sỹ Đoàn Triệu Nhạn - 1999).
Tóm tắt lịch sử ngành cà phê Việt Nam ( Vinacafe - 1996).
Tình hình cà phê năm 2000 ( dịch từ tạp chí cà phê F.O Lichts Vol.15, No15 ).
Báo cáo tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu niên vụ 1997/1998 – tháng 9/2002 của Vicofa.
Thông tin cà phê của Vicofa cá số 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 2002.
Thời báo kinh tế Việt Nam .
Tạp chí Thị trường – Giá cả số 11/2001.
Thời báo kinh tế Sài Gòn: các số từ 32 -> 39/ 2002.
Luật thương mại Mỹ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV013.doc