Đề án Thị trường Tái Bảo Hiểm lý luận và thực tiễn ở Việt Nam

Thị trường TBH sẽ phát triển mạnh trong tương lai là xu thế tất yếu trên thế giới nói chung và với Việt Nam nói riêng do đó khi nghiên cứu chúng ta cần phải xem xét đến các yếu tố nâng cao hiệu quả hoạt động TBH, xây dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển lâu dài cho thị trường TBH. Căn cứ vào các phân tích thuận lợi và khó khăn trên có thể đưa ra một số kiến nghị, giải pháp cho vấn đề phát triển thị trường TBH Việt Nam trong tương lai như sau: - Phát triển thị trường BH gốc vì xuất phát điểm của TBH là hoạt động BH gốc, và thực hiện bằng các định hướng như:nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra những sản phẩm mới phù hợp với phí bảo hiểm thấp nhất có thể nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước; đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, nâng cao ý thức người dân về bảo hiểm; đào tạo cán bộ chuyên môn; quản lý hiệu quả, đề phong và hạn chế tổn thất - Tiếp tục phát triển công ty TBH quốc gia VINARE trở thành nhà nhận TBH trong nước đứng đầu, ngang tầm các công ty trong khu vực, là trung tâm điều tiết dịch vụ bảo hiểm của Việt Nam không để phụ thuộc vào thị trường quốc tế và là đầu tư đa ngành, đa lĩnh vực. Tăng vốn cho công ty để khắc phục tình trạng các doanh nghiệp gốc lo lắng về sự an toàn khi thực hiện nhượng TBH cho công ty - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh BH, TBH. Hình thành luật riêng cho kinh doanh TBH.

doc47 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1604 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thị trường Tái Bảo Hiểm lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, các công ty BH &TBH thực chất là các trung gian tài chính. + Chỉ tồn tại khi thị trường Bảo Hiểm tồn tại. + Trên thị trường TBH không xuất hiện người được bảo hiểm, mọi thoả thuận, trao đổi chỉ liên quan đến công ty nhượng và nhận TBH. Điều này thể hiện rõ ở đặc điểm khi có rủi ro xảy ra ngay cả khhi nhà TBH không thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho công ty nhượng, công ty nhượng vẫn phải bồi thường đầy đủ cho khách hàng. - So sánh thị trường TBH với các thị trường khác: Ngoài các điểm giống nhau là cùng chịu tác động của các quy luật kinh tế, pháp luật nhà nước, mục đích kinh doanh của các nhà kinh doanh trên thị trường là lợi nhuận, thị trường TBH khác với các loại thị trường khác ở chỗ: Thị trường TBH Thị trường khác - Chu kỳ kinh doanh ngược - Là quá trình phân phối lại thu nhập giữa các công ty bảo hiểm. - Có mối quan hệ không thể tách rời với thị trường Bảo Hiểm. - Chu kỳ kinh doanh thông thường - Thể hiện mối quan hệ của quá lưu thông, tức là quá trình chuyển thể từ tiền tệ thành hàng hoá và ngược lại - Có tính độc lập tương đối trên thị trường về sự tồn tại. 3. Các thành phần trên thị trường TBH. Thị trường TBH có lịch sử phát triển cùng với sự phát triển của TBH và thị trường Bảo Hiểm. Thời kỳ phát triển mạnh mẽ của thị trường TBH là trong thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ II. Đứng đầu là thị trường TBH Anh sau đó là các thị trường TBH Đức, Nhật, Mỹ…Đến nay thị trường TBH đã tồn tại trở thành một thị trường sôi động cùng với các hoạt động kinh tế khác. Các thành viên trên thị trường TBH có thể được phân chia thành:Công ty nhượng; Nhà TBH; Các hãng môi giới Nhưng thực tế có những công ty vừa là nhà nhận TBH, vừa nhượng TBH, thậm chí kiêm cả hoạt động môi giới, nên cách phân chia sau tỏ ra hiệu quả hơn: - Những người mua TBH: + Công ty bảo hiểm gốc: là những công ty bảo hiểm bình thường, chuyên giao dịch với công chúng với tư cách là người bán các dịch vụ bảo hiểm, mua TBH vì các lý do đã đề cập trong phần tác dụng của TBH. + Công ty bảo hiểm chuyên ngành: là công ty con của các công ty sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ khác mà không phải là công ty kinh doanh bảo hiểm được thành lập với mục đích tự bảo hiểm cho rủi ro của công ty mẹ. Những công ty TBH chuyên ngành thường TBH phần lớn các rủi ro. + Công ty TBH chuyên nghiệp: là các công ty chuyên nhận TBH, song lại mua lại dịch vụ TBH từ các công ty TBH khác để tránh khỏi tổn thất có thể xảy ra trong kinh doanh, đặc biệt khi nhận TBH với số tiền TBH lớn và rủi ro dễ xảy ra tổn thất. + Các nghiệp đoàn bảo hiểm: là các tổ chức được thành lập bởi các thành viên, cá nhân có trách nhiệm vô hạn đối với nhau. Trên thế giới hiện nay chỉ tồn tại nghiệp đoàn bảo hiểm duy nhất là Lloyd’s ở London. - Những công ty bán TBH: + Công ty TBH chuyên nghiệp: Thông thường là các công ty quốc tế lớn, kinh doanh TBH ở nhiều nước trên thế giới, chỉ chuyến tiến hành nghiệp vụ TBH mà không khai thác bảo hiểm gốc. Công ty TBH chuyên nghiệp vừa có thể là người mua, vừa có thể là người bán TBH trên thị trường thông qua hoạt động nhận TBH sau đó nhượng tái lại cho công ty khác. + Công ty bảo hiểm gốc hay còn gọi là công ty TBH hay Bảo Hiểm không chuyên: là công ty thực hiện cả hai nghiệp vụ bán bảo hiểm và bán TBH. + Công ty bảo hiểm chuyên ngành: các công ty bảo hiểm chuyên ngành cũng có thể kinh doanh từ nguồn khác ngoài công ty mẹ gọi là khai thác dịch vụ từ bên thứ ba. Họ cũng có thể là người mua và người bán TBH. + Nghiệp đoàn Lloyd’s: vừa là người mua, vừa là người bán TBH. - Các trung gian TBH : + Các công ty môi giới TBH: Là các công ty hoạt động độc lập nhằm thiết lập các quan hệ hợp đồng giữa công ty nhượng và công ty nhận TBH. + Công ty quản lý: ở nước ta thị trường TBH chưa phát triển đủ để xuất hiện loại hình trung gian này song ở các nước có thị trường TBH phát triển dịch vụ trung gian này đã phát triển khá mạnh. Đó là các công ty chuyên mời chào các dịch vụ quản lý cho các công ty chuyên ngành. 4. Các hoạt động trên thị trường TBH * Hoạt động thuộc về kỹ thuật nghiệp vụ TBH : Các công ty nhận và nhượng TBH có thể thông qua môi giới hay trực tiếp tìm kiếm đối tác để ký kết hợp đồng TBH. Dù dưới hình thức nào thì để đạt được kết quả cuối cùng thì cả hai bên tham gia đều phải trải qua rất nhiều khâu, bắt đầu từ việc các công ty đưa thông tin ra thị trường để mời chào, tìm kiếm thông tin về các đối tượng có thể là các đối tác hay đối thủ cạnh tranh trong tương lai. Đến bước tiếp theo là tiếp xúc, lựa chọn đối tác phù hợp và đàm phán các điều kiện hợp đồng để đi đến thống nhất, hoàn tất các thủ tục ký kết hợp đồng. Khi đó công ty nhượng phải chuyển giao phí TBH cho nhà TBH, đồng thời nhận lại phần hoa hồng nhượng tái. Nếu ký kết thông qua môi giới hai bên phải hoàn tất các khoản hoa hồng môi giới cho bên môi giới. Trong suốt quá trình hợp đồng TBH có hiệu lực, các bên phải thông tin cho nhau nều có thay đổi và về các khoản chi trả bồi thường để thực hiện đúng nội dung hợp đồng. * Hoạt động đầu tư: - Đầu tư tạo ra lợi nhuận nhiều nhất cho các doanh nghiệp BH&TBH, vì vậy hoạt động đầu tư được coi là một trong những hoạt động ược ưu tiên hàng đầu trên thị trường TBH, ngoài ra còn vì các lý do sau: + Đầu tư tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp BH, TBH giúp phát triển quỹ tài chính. + ảnh hưởng khả năng cạnh tranh của công ty vì đầu tư có lãi giúp doanh nghiệp TBH tăng tỷ lệ thủ tục phí trả cho công ty nhượng, tăng tính cạnh tranh đặc biệt có ý nghĩa trong điều kiện canh tranh gay gắt của thị trường TBH hiện nay. + Giúp doanh nghiệp TBH bù đắp sự mất giá của đồng tiền trước rủi ro lạm phát + Đối với xã hội đầu tư có tác dụng huy động vốn cho nền kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu ngân sách nhà nước. - Các hình thức đầu tư: + Cho vay có thế chấp + Đầu tư chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu + Đầu tư bất động sản: rủi ro cao, tính thanh khoản thấp nhưng có giá trị ổn định + Góp vốn liên doanh: lãi tương đối cao nhưng không chắc chắn về hiệu quả + Giử tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng: lãi suất thấp nhưng an toàn + Mua công trái - Các hình thức tổ chức đầu tư: + Phòng đầu tư trực thuộc công ty, thường áp dụng ở công ty TBH và BH nhỏ + Thành lập tổ chức đầu tư độc lập: công ty đầu tư hay quỹ đầu tư do công ty TBH hay BH sở hữu toàn bộ hay nắm cổ phần chi phối. + Mua cổ phần ở mức không chi phối các tổ chức đầu tư khác. * Hoạt động môi giới của các công ty môi giới TBH: Ngày nay môi giới đóng vai trò khá quan trọng trong việc thúc đẩy thị trường BH&TBH phát triển vì hoạt động môi giới giúp các công ty có nhu cầu nhận và nhượng TBH có được các thông tin về nhau một cách nhanh chóng, có đảm bảo để tiến hành hợp tác. Qua đó giúp hoạt động kinh doanh ở các công ty BH&TBH thông suốt, rút ngắn chu kỳ kinh doanh để quay vòng vốn. Các hoạt động của hãng môi giới trên thị trường TBH bao gồm: + Tìm kiếm, phân tích thông tin về các công ty BH& TBH, nhu cầu mua, bán TBH của họ, cung cầu TBH, cách thức tổ chức và tỷ lệ hoa hồng môi giới của các đối thủ cạnh tranh. + Tổ chức quảng cáo, khai thác bán và mua dịch vụ TBH, khai thác hợp đồng TBH. + Phân chia rủi ro: đây là nhiệm vụ đặc trưng của hãng môi giới, để có chiến lược phân tán rủi ro phù hợp cho các nhà TBH. + Tổ chức ký kết hợp đồng TBH cho hai bên nhận và nhượng tái thông qua dịch vụ môi giới của mình. + Theo dõi các bên thực hiện hợp đồng: thông báo tổn thất xảy ra và giúp công ty nhượng đòi tiền bồi thường từ các nhà TBH. Để làm được những điều này các trung gian môi giới TBH phải có những hiểu biết nhất định về nghiệp vụ TBH và các thị trường TBH trên thế giới, cũng như các diễn biến trên đó. Các hãng môi giới cũng sẽ nhận được khoản hoa hồng môi giới cho hoạt động trung gian này vì những chi phí mà họ bỏ ra. III. thị trường TBH ở việt nam. 1.Tổng quan về thị trường TBH thế giới và Việt Nam. * Tổng quan về thị trường TBH thế giới: Kể từ khi xuất hiện vào khoảng thế kỷ XIV đến nay thị trường TBH thế giới đã trải qua nhiều thăng trầm cùng với sự phát triển thăng trầm của kinh tế, chính trị thế giới. Và cho đến nay đã phát triển qua các giai đoạn sau: - Giai đoạn hình thành: Là những năm đầu hình thành các kỹ thuật nghiệp vụ TBH ở các lĩnh vực bảo hiểm khác nhau. Trong giai đoạn này lúc đầu hoạt động TBH chỉ hạn chế trong lĩnh vực chuyên trở hàng hoá trên biển sau đó nhiều năm mới có được sự phát triển đa dạng các nghiệp vụ TBH trong mọi lĩnh vực như ngày nay. - Giai đoạn phát triển trì trệ: vào khoảng những năm trước và sau chiến tranh thế giới thứ II, trong khoảng thời giai này thị trường TBH nói riêng, BH nói chung bị tác động mạnh bởi chiến tranh thế giới, mọi hoạt động trên thị trường này dường như ngừng hoạt động. - Giai đoạn phát triển, từ sau chiến tranh đến nay: Giai đoạn này không phải là quá dài so với lịch sử tồn tại của TBH nhưng là thời kỳ phát triển rực rỡ và cũng là thời kỳ người quan tâm đến thị trường này được chứng kiến nhiều biến động lớn nhất. Mở đầu là sự khôi phục các công ty TBH chuyên nghiệp cũ và sự xuất hiện hệ thống các công ty TBH chuyên nghiệp khác ở các nước xã hội chủ nghĩa và các nước chậm phát triển mới giành được độc lập. Trong đó phải kể đến sự phát triển mạnh của các thị trường TBH hàng đầu thế giới là Anh, Nhật, Mỹ, Đức…đặc biệt là thị trường London và tập đoàn bảo hiểm Lloyd’s ở Anh quốc. Các nhà kinh tế bảo hiểm thế giới đã khẳng định: “ Không có một thành phố nào trên thế giới có một thị trường bảo hiểm và TBH như London. London trở thành một khái niệm mà bất cứ ở một nơi nào trên thế giới khi bàn về bảo hiểm và TBH phải nghĩ tới.”.Trong những năm kế tiếp phục hồi này thị trường TBH phát triển tương đối ổn định. Tiếp theo đó là sự tập trung vốn TBH trên toàn cầu vào khoảng từ năm 1995, 1996 cho đến nay. Đây vừa là kết quả đòi hỏi phải hình thành thị trường TBH rộng lớn trên phạm vi toàn cầu, vừa là vấn đề quan hệ mật thiết với các yếu tố quyết định quá trình toàn cầu hoá thị trường bảo hiểm Xung quanh vấn đề này liên quan đến các lý do khác nhau mà thị trường BH,TBH đặt ra: + Sự phát triển mất cân đối thị trường TBH theo khu vực địa lý do kết quả tất yếu để lại của sự mất cân đối trong trình độ phát triển kinh tế. Điều này đặt ra nhu cầu cần tiếp tục mở rộng quy mô lãnh thổ trong lĩnh vực kinh doanh TBH để có thể thu hút tất cả các công ty BH và TBH ở tất cả các nước, các khu vực địa lý tham gia phân tán các rủi ro nhận bảo hiểm toàn cầu hoá các kết quả của thị trường BH và TBH thế giới. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến nhu cầu không chỉ là vấn đề cần thiết phải tạo ra thị trường BH, TBH toàn cầu, mà còn phải bắt tay xây dựng các cơ sở thiết yếu cho quá trình này, đặc biệt là cơ sỏ hạ tầng tương ứng. + Sự phát triển các phương hướng mới trong lĩnh vực TBH như bảo hiểm con người, bảo hiểm y tê, bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm rủi ro chính trị,v.v…, bằng cách mua, thuê các chuyên gia TBH am hiểu sâu sắc các loại hoạt động dịch vụ này. + Yêu cầu hoàn thiện cơ sở phục vụ các dịch vụ bảo hiểm cho khách hàng, trong đó có dịch vụ thông tin, quản lý… + Lý do cuối cùng phải kể đên là việc cần phải đảm bảo tài chính ổn định trên cơ sở tiếp tục tư bản hoá vốn hiện có và tiết kiệm chi tiêu bằng quản lý chặt chẽ hiệu quả hơn nữa các doanh nghiệp TBH. Sự toàn cầu hoá đang và sẽ đặt ra cho các công ty TBH trên thế giới yêu cầu phải nâng cao chất lượng phục vụ, tư thế sẵn sàng đương đầu với cạnh tranh. Trở lại vấn đề tập trung vốn, vốn TBH tiếp tục được tập trung biểu hiện ở chỗ : tháng 8/1996, công ty Munich Re của Đức đã mua hãng American với gaias 3,3 tỷ USD. Hãng Swiss Re đã mua hãng Mercantile & General Re của Anh với giá 2,7 tỷ USD, và mua hãng Riasicurazion của ý với giá 37,5 triệu USD. Các vụ mua bán này hình thành nên các tập đoàn TBH khổng lồ, có khả năng xâm nhập vào thị trường ở nhiều nước ví dụ như tập đoàn General Cologne Re với các chi nhánh hoạt động ở nhiều nước khác nhau. Nếu như năm 1987 thị phần của 5 TBH cỡ lớn thế giới chiếm khoảng 36% tổng số phí TBH của thế giới thì đến năm 1997 chiếm 43%. Hiện nay 25 công ty TBH lớn của thế giới đang kiểm soát 77,6 % thị trường bảo hiểm thế giới. ( Nguồn số liệu bài thị trường TBH trong xu thế toàn cầu hoá- báo tạp chí bảo hiểm số 2 năm 2004). Số liệu này chỉ ra quy mô các quá trình tập trung vốn và toàn cầu hoá đang diễn ra tích cực trên thị trường BH &TBH. Không thể không nhắc đến sự giảm sút của thị trường TBH trong 2, 3 năm cuối thế kỷ XX do các yếu tố như thị trường bảo hiểm gốc phải đương đầu với tình trạng cạnh tranh căng thẳng và gần như đình trệ, do phải bồi thường nhiều cho các rủi ro nhận tái, nhu cầu vốn lớn cho đầu tư phát triển công nghệ thông tin…thể hiện trong kết quả kinh doanh của các tập đoàn TBH lớn Munich Re Group, Swiss Re , Employ Re group , … đều có mức thu nhập tăng không nhiều, thậm chí Gerkinh Global Regroup có thu nhập trước thuế cả hai năm 1999, 2000 đều âm. Sang thế kỷ XX tình hình TBH vẫn chưa có những điều kiện và dấu hiệu tích cực cho việc phục hồi vững bền thể hiện ở các vấn đề sau: + Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thế giới diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng không nhỏ tới thị trường TBH như sự kiện vụ khủng bố toà nhà thương mại thế giới ngày 11/9/2001đã có khoảng 40 tỷ USD kẹt lại trong quỹ dự phòng của các nhà BH& TBH trên toàn thế giới, trong tương lai trước mắt số tiền này không thể được sử dụng dưới dạng khả năng tài chính để nhận các hợp đồng TBH mới. Sự kiện đại dịch SARS hoành hành năm 2003…làm cho các hoạt động BH gốc, đặc biệt là hàng không và bảo hiểm du lịch bị ảnh hưởng, ảnh hưởng đến thị trường TBH trong suốt thời gian dài. + Sự phá sản của tập đoàn TBH lớn thế giới Gerlinh Global Re năm 2002. + Hệ số tín nhiệm của các tập đoàn TBH lớn theo đánh giá của tổ chức Standard & Poor giảm thể hiện trong bảng xếp hạng sau: Tên các công ty TBH Trước 11/9/2001 Ngày 07/7/2003 1. Berkshine Hathaway 2. GE Frankona Re 3. Munich Re 4. SCOR 5. Swiss Re AAA AAA AAA A+ AAA AAA AA- AA- BBB+ AA+ Thực trạng hệ số tín nhiệm giảm cùng với việc các tổ chức xếp hạng dựa nhiều vào lợi nhuận kinh doanh để đánh giá cho thấy tình hình thị trường TBH vẫn chưa khôi phục, mặc dù không lỗ song mức tăng trưởng lợi nhuận thấp. + Lũ lụt ở châu Âu và việc mô hình hoá rủi ro lũ lụt cũng là một khó khăn lớn đối với các nhà TBH vì trong vài năm gần đây, lũ lụt đã gây tổn thất không nhỏ cho ngành bảo hiểm châu Âu, nó đòi hỏi các nhà BH & TBH cần có những công cụ hữu hiệu để xác định rủi ro và cách phòng tránh. + Các công ty TBH tăng dự phòng bồi thường cho những khiếu nại đã xảy ra nhưng chưa thông báo của nhiều năm trước. Điều này không gây nhiều ngạc nhiên cho các nhà BH, TBH vì thực tế việc dự phòng bồi thường cho những khiếu nại của các năm trước vẫn chưa được thực hiện đầy đủ, như các khiếu nại liên quan đến amiăng hay vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001. Những vấn đề trên làm cho thị trường TBH xuất hiện các xu hướng mới: Nhu cầu TBH tăng và các công ty nhượng TBH nêu cao vấn đề về độ an toàn tài chính của nhà nhận TBH. Đáp lại các nhà nhận TBH muốn đảm bảo rằng việc nhận TBH của họ phải mang lại lợi nhuận tương xứng. Điều này đồng nghĩa với việc các nhà TBH tăng phí nhận tái vì họ cho rằng mức độ rủi ro nhận tái gia tăng, vốn mà các công ty bỏ ra lớn phải được bù đắp bằng doanh thu lớn. Hai điều kể trên không có nghĩa là cạnh tranh trên thị trường TBH giảm sút, ngược lại nó làm xuất hiện xu thế các công ty nhượng tái muốn rà soát lại mối quan hệ với các nhà TBH hiện có và có thể đặt quan hệ với những đối tác mới. Còn các công ty TBH chỉ chiếm một phần nhỏ coi đó là cơ hội tốt để họ gia tăng thị phần của mình. Tức là thị trường TBH sẽ càng diễn ra gay gắt hơn bao giờ hết. Các nhà BH, TBH tập trung vào vấn đề điều kiện, điều khoản hợp đồng và các hợp đồng cụ thể để thực hiện nguyên tắc đảm bảo đủ phí kỹ thuật trong khai thác, bởi chịu sức ép của các sự cố bất ngờ luôn có thể diễn ra trên thế giới. Tại hội nghị quốc tế Baden – Baden năm 2003, các nhà kinh tế BH và TBH thế giới nhận định nhìn chung mùa tái tục tiếp sẽ diễn ra tương đối nhanh chóng chứ không kéo dài sang các năm khác như các năm trước. Các nhà nhận tái cũng như các nhà môi giới đều chủ động yêu cầu cung cấp thông tin sớm và đầy đủ để có thể có được những điều khoản tốt nhất. Đặc biệt là đối với các chương trình TBH trách nhiệm, các nhà TBH yêu cầu rất nhiều thông tin cụ thể về các rủi ro nhận cũng như tình hình tổn thất. * Tổng quan về thị trường TBH Việt Nam. Thị trường TBH Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội nhìn chung, của ngành BH nói riêng và cho đến nay đã phát triển qua ba giai đoạn chính: - Giai đoạn 1965- 1975: Là giai đoạn độc quyền của Bảo Việt với các chi nhánh ở Hà Nội, Quảng Ninh và Hải Phòng, nhưng chỉ thực hiện được nghiệp vụ TBH thân tàu và hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển với các nước Xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Cuba, và Trung Quốc. Đây được coi là giai đoạn thử nghiệm của quá trình phát triển hoạt động BH&TBH . - Giai đoạn từ 1976 – 1994: Trong giai đoạn này hoạt động TBH đã bắt đầu phát triển do thị trường BH phát triển, Bảo Việt mở rộng chi nhánh ở các tỉnh khác nhau và đã có quan hệ hợp tác với thị trường London, Pháp, Đức song cho đến trước tháng 9/1995 (khi VINARE được thành lập và đi vào hoạt động) toàn bộ các dịch vụ bảo hiểm có tái bảo hiểm đều được TBH ra thị trường nước ngoài mà tỷ lệ giữ lại thấp và chưa có dịch vụ nhận tái từ nước ngoài vì khả năng nhận TBH còn kém, kỹ thuật nghiệp vụ TBH còn hạn chế do chưa được đào tạo chuyên sâu tại các trường lớp. Trong giai đoạn này nghiệp vụ TBH của Bảo Việt phát triển trong đó nổi lên 5 nghiệp vụ chính: TBH hàng hải theo phương thức vượt mức bồi thường, TBH P&I, TBH hàng không, TBH xây lắp theo phương thức TBH mức dôi. - Giai đoạn từ 1995 đến nay: Đây là giai đoạn bước ngoặt của thị trường TBH Việt Nam được đánh dấu bằng sự ra đời của công ty TBH quốc gia VINARE- công ty TBH chuyên nghiệp đầu tiên tại Việt Nam. Cùng với sự xuất hiện và phát triển các công ty BH, TBH không chuyên khác: công ty bảo hiểm thành phố HCM Bảo Minh, công ty cổ phần bảo hiểm Ptrolimex(PJICO), công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng, công ty bảo hiểm dầu khí PVIC, công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam(VIA), công ty môi giới bảo hiểm Aon – Inchibrok, công ty cổ phần bưu điện PTI, các công ty bảo hiểm nước ngoài AIA, Prudential, Groupama, … làm cho thị trường TBH nội địa đa dạng về hình thức và tổ chức tham gia nhờ đó thị trường TBH Việt Nam mở rộng khả năng nhận tái nhu cầu TBH trong nước, và tăng cường các mối quan hệ hợp tác quốc tế về lĩnh vực TBH. * Mối quan hệ giữa thị trường TBH thế giới và thị trường TBH Việt Nam. Do thực trạng từ khi đi vào hoạt động khả năng nhận TBH trong nước còn hạn hẹp, không đủ đáp ứng nhu cầu nhượng tái của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và đối với các nghiệp vụ bảo hiểm rủi ro cao, số tiền bảo hiểm lớn, kỹ thuạt nghiệp vụ chưa có. Mặt khác do đặc điểm hoạt động TBH có tính quốc tế cao nên ngay từ đầu thị trường TBH Việt Nam đã có mối quan hệ khá gắn bó với thị trường TBH thế giới. Các doanh nghiệp BH Việt Nam đã có quan hệ nhận và nhượng TBH với nhiều nước trên thế giới như Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, Đức….và các tập đoàn TBH lớn: Lloyd’s, Commercial Union (Anh), SCORRE (Pháp), Munich Re (Đức), Swiss Re(Thụy Sỹ). Tuy nhiên quy mô thị trường TBH còn nhỏ bé nên thường không chịu tác động mạnh bởi các sự kiện thay đổi lớn của thị trường TBH thế giới mà vẫn hoạt động tương đối ổn định theo định hướng của nhà nước. Trong tương lai cùng với sự tăng cường hợp tác quốc tế, sự phát triển lớn mạnh của thị trường BH &TBH trong nước, các quan hệ này sẽ còn phát triển, sẽ mang lại nhiều cơ hội kinh doanh và cũng không ít thách thức cho thị trường TBH Việt Nam, thì mối quan hệ giữa hai thị trường sẽ càng chặt chẽ. 2. Cơ sở pháp lý cho hoạt động TBH ở Việt Nam. * Từ khi đi vào hoạt động, kinh doanh TBH ở Việt Nam đã được thực hiện dưới quy định của các văn bản pháp luật sau: - NĐ số 100/ CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm gốc - NĐ số 74/CP ngày 14/6/1997 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số quyết định tại NĐ số 100/CP ngày 18/12/1993. - Bộ luật hàng hải Việt Nam 30/6/1990. - Bộ luật dân sự năm 1995. - Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 12/11/1996 và các văn bản bổ sung. - Luật doanh nghiệp 12/6/1999. - Quyết định số 920/TC/QĐ-TCCB ngày 27-9-1994 của bộ trưởng Bộ Tài Chính về việc thành lập Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam trực thuộc Bộ Tài Chính. - QĐ số 13/4/TC/QĐ?TCNH ngày 21/12/1994 quy định về tỷ lệ TBH bắt buộc. Đến nay kinh doanh TBH chịu sự điều chỉnh của các văn bản hiện hành có hiệu lực trực tiếp sau: - QĐ số 1235 TC/QĐ/TCNH ngày 9/12/1995 quy định về các doanh nghiệp Bảo Hiểm Việt Nam có trách nhiệm TBH bắt buộc cho VINARE. - Thông tư số 78/1998/TT-BTC quyết định về kinh doanh TBH. - Nghị định số 42/2001/ NĐ- CP Ngày 01/8/2001 của Chính phủ quy định chi thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, trong đó quy định chi tiết về hoạt động TBH ở các điều 21- điều 24 mục 3. - Nghị định số 43/2001/ NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ qui định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. - Thông tư số 71/2001/TT-BTC ngày 28/8/2001 về việc hướng dẫn thi hành Nghị định số 42/2001/NĐ- CP ngày 01/08/2001. - Thông tư số 72/2001/TT-BTC ngày 28/8/2001 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành NĐ số 43 của Chính phủ. * Một số vấn đề pháp lý cơ bản trong nhận và nhượng TBH ở các văn bản pháp luật hiện hành trên: - Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam có trách nhiệm TBH bắt buộc cho công ty TBH quốc gia Việt Nam một phần trách nhiệm thuộc các nghiệp vụ có phát sinh TBH. - Công ty TBH quốc gia Việt Nam có trách nhiệm nhận TBH bắt buộc từ các doanh nghiệp bảo hiểm gốc tối thiểu theo quy định tại điều 2 QĐ số 1235/TC?QĐ-TCNH ngày 09/12/1995. - Các nghiệp vụ áp dụng TBH bắt buộc theo quy định tại điều 22 NĐ số 42/2001 của Chính phủ ngày 01/08/2001 gồm: + Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại + Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông và đường hàng không + Bảo hiểm hàng không + Bảo hiểm cháy nổ +Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu - Trong trường hợp TBH cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm phải TBH theo tỷ lệ 20% trách nhiệm của các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết cho VINARE. Việc giảm tỷ lệ TBH bắt buộc phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Những nội dung pháp luật nêu trên đã tạo ra cơ sở pháp lý thông suốt cho hoạt động kinh doanh TBH ở nước ta, nhờ vậy thị trường TBH có thể phát triển, đạt được các thành tựu như ngày hôm nay. 3. Thực trạng hoạt động thị trường TBH Việt Nam. 3.1. Hoạt động của công ty TBH quốc gia Việt Nam VINARE. * Sự ra đời và phát triển: Công ty TBH quốc gia Việt Nam chính thức được thành lập theo quyết định số 920/TC/QĐ-TCCB Ngày 27-9-1994 của bộ Tài chính với tên giao dịch quốc tế là: VIET NAM NATIONAL REINSURANCE COMPANY. Theo quyết định này công ty TBH quốc gia VINARE trực thuộc Bộ Tài chính, được tổ chức theo hình thức doanh nghiệp nhà nước, hạch toán độc lập, được tự chủ về hoạt động kinh doanh và tài chính, có con dấu riêng, được mở tài khoản bằng tiền Việt Nam và bằng ngoại tệ tại các ngân hàng theo quy định của Nhà nước, thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách nhà nước theo pháp luật hiện hành. Nguồn vốn kinh doanh ban đầu của VINARE do nhà nước cấp và vốn tự bổ sung của công ty là 40 tỷ đồng Việt Nam. Vào thời điểm thị trường BH có chiều hướng phát triển như vậy sự ra đời và hoạt động của VINARE là một quyết định đúng đắn của nhà nước ta, góp phần hạn chế dòng ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tạo được vốn cho đầu tư trong nước và tạo ra một thuận lợi lớn cho thị trường BH phát triển. Cho đến này VINARE đã hoạt động được 10 năm và đã thực sự lớn mạnh xứng đáng là doanh nghiệp TBH đứng đầu, với số chủ sở hữu và kết dư dự phòng nghiệp vụ trên 405 tỷ đồng. Từ ngày 10/10/2003 VINARE đã quyết định chuyển sang hình thức công ty cổ phần với số vốn nhà nước chiếm 56,5%, các cổ đông sáng lập: Bảo Việt, Bảo Minh, PVI, PJICO, PIT, UIC… Với những điều kiện hiện nay VINARE đã trở thành công ty TBH chuyên nghiệp có vai trò quan trọng đối với thị trường BH trong nước và là cầu nối giữa các doanh nghiệp BH Việt Nam với thị trường BH quốc tế, đưa thị trường TBH Việt Nam phát triển sôi động cùng với sự phát triển sôi động thị trường TBH thế giới. * Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VINARE. - Chức năng, nhiệm vụ: + Kinh doanh các nghiệp vụ TBH từ các doanh nghiệp trong nước và trên thế giới. + Tham mưu, giúp đỡ và tư vấn về mặt kỹ thuật BH, TBH cho thị trường BH trong nước, đặc biệt là các công ty mới thành lập. + Là đầu mối cho việc đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ ngành BH + Là trung tâm tổng hợp, phân tích và đánh giá thông tin về thị trường BH, TBH trong nước và thế giới, cung cấp thông tin cho các khách hàng. + Điều tiết thị trường TBH Việt Nam bằng cách nhận và giữ lại mức TBH phù hợp các dịch vụ cần TBH của các công ty BH với điều kiện và điều khoản tốt nhất. + Nhận TBH bắt buộc từ các doanh nghiệp BH gốc theo mức nhận tái bắt buộc. - Quyền hạn: + Kinh doanh TBH với các công ty BH, TBH trong nước và nước ngoài. + Nhận làm đại lý, môi giới về hoạt động BH và TBH cho các tổ chức BH trong nước và quốc tế. + Liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước trong khuôn khổ pháp luật. + Được phép vay vốn bằng tiền Việt Nam hoặc ngoại tệ của các ngân hàng và huy động vốn của các tổ chức kinh tế khác theo quy định của nhà nước khi cần thiết, đặc biệt khi trở thành công ty cổ phần VINARE được phép huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu. + Đầu tư vốn vào các lĩnh vực kinh tế và hình thức đầu tư hợp pháp. + Yêu cầu các doanh nghiệp BH cung cấp tài liệu có liên quan đến thu xếp TBH để tiến hành các hoạt động TBH. + Các quyền và nghĩa vụ khác theo pháp luật kinh doanh quy định.s * Bộ máy tổ chức hoạt động của công ty: Hiện nay khi thực hiện cổ phần hoá thì cơ cấu bộ máy tổ chức của VINARE phải được thực hiện theo hình thức công ty cổ phần bao gồm: Hội đồng cổ đông; Hội đồng quản trị; Chủ tịch hội đồng quản trị; Tổng giám đốc; Giám đốc và các phó giám đốc, các nhân viên… về bộ máy hoạt động không có thay đổi lớn, VINARE vẫn thực hiện hoạt động gồm trụ sở chính và chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh trong các chi nhánh lại có các phòng ban riêng: phòng toot chức tổng hợp, phòng đầu tư; phòng quản trị; phòng Hàng Hải; phòng kỹ thuật nghiệp vụ; phòng nghiên cứu và phát triển thị trường… * Kết quả hoạt động những năm qua của VINARE - Là công ty TBH chuyên nghiệp, VINARE chỉ chuyên thực hiện các hoạt động về nghiệp vụ TBH: nhận TBH, nhượng TBH và đầu tư. Song là công ty TBH quốc gia duy nhất, VINARE còn phải đảm nhận nhiệm vụ điều tiết thị trường TBH trong nước phù hợp với các chính sách điều chỉnh của Bộ tài chính. Để thực hiện các hoạt động kinh doanh nhận và nhượng TBH, điều tiết thị trường cho đến nay VINARE đã tiến hành triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm, theo các phương pháp và các hình thức khác nhau: + Về hình thức TBH VINARE áp dụng hai loại hình TBH bắt buộc và tự nguyện. Theo hình thức TBH bắt buộc, các công ty BH Việt Nam trước khi thực hiện TBH ra nước ngoài phải TBH 20% trách nhiệm theo hợp đồng trong đơn bảo hiểm gốc cho VINARE, ngược lại VINARE cũng phải có trách nhiệm nhận TBH mà không được từ chối. Bằng việc nhận TBH 20% bắt buộc này VINARE cũng phải thực hiện chi trả cho các doanh nghiệp BH khoản hoa hồng tương ứng theo tỷ lệ hoa hồng bắt buộc theo quy định của Bộ tài chính trong thông tư số 71/2001/TT-BTC ngày 28/8/2001. Với các khoản nhận TBH bắt buộc này mà VINARE muốn nhượng tái đi thì phải ưu tiên nhượng TBH cho các các doanh nghiệp BH hoạt động tại Việt Nam, rồi mới thu xếp tái ra nước ngoài theo phương thức có hiệu quả nhất. Việc ban hành quyết định về TBH bắt buộc là thực sự cần thiết đối với thị trường BH, TBH nước ta đặc biệt trong giai đoạn đầu mới chỉ có doanh nghiệp BH duy nhất trên thị trường là Bảo Việt, hoạt động của VINARE còn khó khăn, chưa có kinh nghiệm. Tuy nhiên phần TBH bắt buộc chỉ chiếm 20% đơn bảo hiểm có TBH ra nước ngoài, còn lại 80% VINARE phải cạnh tranh với nước ngoài để nhận TBH. Và với cố gắng, nỗ lực hết mình qua thời gian tổng doanh thu phí BH bắt buộc đã không còn chiếm phần lớn trong cơ cấu doanh thu của VINARE. Tổng doanh thu phí nhận TBH từ năm 1995 đến tháng 6/2004 đạt 3.189 tỷ VND, trong đó phí nhận TBH trên cơ sở tự nguyện và nhận TBH từ thị trường nước ngoài đạt 1635 tỷ VND, chiếm 51% tổng doanh thu. Về TBH tự nguyện: Ngoài phần nhận TBH bắt buộc VINARE có thể nhận tái tự nguyện từ các công ty BH trong nước và nước ngoài. Việc TBH trên cơ sở tự nguyện thực sự đã phản ánh sự cố gắng phấn đấu của công ty. Ngay từ khi hoạt động VINARE đã nhận dịch vụ từ các thị trường thế giới và trong khu vực như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapo, Trung Quốc. Do vốn còn nhỏ, thị trường TBH quốc tế lại hết sức cạnh tranh nên kết quả nhận TBH từ thị trường quốc tế còn tương đối hạn chế. Tổng doanh thu phí nhận TBH từ thị trường nước ngoài từ năm 1995 đến tháng 6/2004 đạt gần 70 tỷ VND. + Về phương pháp TBH VINARE thường áp dụng các phương pháp TBH sau: BH số thành, TBH vượt mức bồi thường, TBH tạm thời… + Về các nghiệp vụ TBH VINARE đã triển khai được các nghiệp vụ TBH chủ yếu sau: Dầu khí, hàng không, hàng hoá xuất nhập khẩu, thân tàu P&I, cháy, xây dựng và lắp đặt. - Về nhượng TBH theo lẽ thường nếu sau khi nhận dịch vụ TBH từ các doanh nghiệp BH gốc trong nước nhất là đối với các ghiệp vụ tự nguyện, VINARE có thể tái ra nước ngoài hoặc phải thực hiện tái ra nước ngoài để đảm bảo an toàn kinh doanh nhưng với bản lĩnh và bề dày kinh nghiệp vụ của mình, VINARE đã nỗ lực thu xếp nhượng dịch vụ cho các doanh nghiệp BH gốc trong nước. - Tròn 10 năm tuổi , VINARE đang trở thành một nhà TBH chuyên nghiệp có uy tín trong khu vực và mục tiêu đến năm 2010, VINARE có đủ năng lực tài chính, năng lực kinh doanh để trở tham gia thị trường TBH quốc tế. Qua 10 năm hoạt động, VINARE đạt được kết quả về tổng doanh thu phí, phí giữ lại, và tỷ trọng phí TBH tự nguyện ngày càng tăng và có hiệu quả. Tuy phải hoạt động trong điều kiện thị trường BH &TBH thế giới rất nhiều biến động như đã trình bày ở các phần trên, đặc biệt tiếp tục tình trạng khó khăn kéo dài từ sau sự kiện 11/9/2001, cộng thêm với ảnh hưởng của chiến tranh Irắc và đại dịch SARS…nhưng nhờ sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế và thị trường BH trong nước, kết hợp với sự chỉ đạo quan tâm chỉ đạo của Nhà nước và sự nỗ lực của cán bộ công nhân viên trong công ty trong việc thực hiện tốt chủ trương “ Hội nhập để phát triển”, hợp tác toàn diện với thị trường, tư vấn tối đa cho các doanh nghiệp bảo hiểm gốc, khách hàng bảo hiểm nhằm thúc đẩy khai thác các dịch vụ bảo hiểm, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, giải quyết bồi thường cho, gây niềm tin cho khách hàng bảo hiểm. Công ty cũng đã tận dụng tối đa sự hỗ trợ hợp tác quốc tế trong điều kiện thị trường thế giới khó khăn để đảm bảo an toàn tài chính cho bản thân công ty và các khách hàng… Công ty đã đạt được kết quả kinh doanh khá tốt trên với tốc độ tăng trưởng bình quân 20,01%, đặc biệt năm 2001 có số phí tăng đáng kể 155 tỷ VND tương ứng với tốc độ tăng 58,94%, ba năm gần đây cũng là những năm có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các năm hoạt động, tuy nhiên hai năm trước đó tình hình nhận TBH gần như không tăng: năm 1999 tổng phí nhận tái không tăng, năm 2000 tăng không đáng kể… thể hiện rõ trong bảng số liệu sau: Chỉ tiêu Năm Tổng phí nhận TBH (tỷ VND) Tốc độ tăng phí nhận TBH (%) Phí giữ lại toàn thị trường Số tiền (tỷ VND) Tỷ lệ (%) 1996 174 - 59,5 34,20 1997 204 17,24 62,7 30,74 1998 240 17,65 102 42,50 1999 240 0 93,9 39,13 2000 263 9,58 110 41,83 2001 418 58,94 132,4 31,67 2002 531 27,03 156,6 29,34 2003 619 16,57 194 31,34 6 tháng đầu năm 2004 500 - - - (Theo biểu đồ số liệu về tổng phí nhận TBH và phí giữ lại trong bài “Hoạt động của VINARE 2003” tạp chí thông tin BH –TBH số 1 tháng 01/2004.) Bảng số liệu trên cho thấy tình hình phí giữ lại tương đối tốt, số phí giữ lại qua các năm liên tục tăng, về số lượng và tương đối ổn định về tỷ lệ. Điều này nói nên khả năng tài chính của VINARE đã thực sự lớn mạnh. Việc thực hiện dịch vụ điều tiết đã nâng phần dịch vụ giữ lại cho thị trường trong nước, hạn chế phí TBH bằng ngoại tệ ra tệ nước ngoài. Đây là một chủ trương và nhiệm vụ chính của công ty kể từ khi thành lập, công ty đã cố gắng cải tiến thu xếp các hợp đồng chuyển nhượng TBH với các điều kiện, điều khoản ưu đãi hơn chuyển nhượng ra nước ngoài. Nhờ chất lượng dịch vụ được kiểm soát chặt chẽ hơn, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được chia sẻ dịch vụ của thị trường trong nước. Tổng phí giữ lại của VINARE giai đoạn 195- 2003 đạt 1073 tỷ VND. Điều này cũng có nghĩa với việc hạn chê được trên 1000 tỷ VND phí BH chuyển ra nước ngoài và hàng trăm tỷ đồng đã được đầu tư trở lại cho nền kinh tế. Năm hoạt động vừa qua 2003 cũng là một năm khá thành công của VINARE: doanh thu phí nhận TBH đạt 619 tỷ VND tăng 16,7% so với năm 2002, phí nhận TBH tự nguyện chiểm gần 50% doanh thu phí, tuy thấp hơn so với năm trước nhưng là điều tất yếu do các công ty BH gốc đã tích luỹ được năng lực tài chính và phần giữ lại trên hầu hết các loại nghiệp vụ, phí giữ lại đạt 96,5 tỷ tăng 12%, số phí nhượng tái cho thị trường trong nước đạt 97,6 tỷ VND tăng 38% so với năm2002, về hoạt động đầu tư tài chính tổng lãi đầu tư năm 2003 ước đạt 20,3 tỷ VND, tăng 72,3% so với năm trước, lợi nhuận trước thuế đạt 21,5 tỷ VND, tăng 45% so với năm trước , chủ yếu là nhờ kết quả hoạt động đầu tư tài chính tăng mạnh, nộp ngân sách Nhà nước đạt gân 6,85 tỷ VND. Hiện nay kết quả tổng vốn chủ sở hữu và kết dư dự phòng nghiệp vụ của công ty đạt 327 tỷ VND, tăng 18% so với năm 2002. Kết quả đầy đủ, có ý nghĩa thiết thực của VINARE là ở vai trò và các ảnh hưởng khác của VINARE đối với thị trường BH, TBH trong nước. Đó là việc VINARE trở thành đầu mối điều tiết dịch vụ cho thị trường trong nước, hỗ trợ tích cực về kỹ thuật và tư vấn cho các doanh nghiệp bảo hiểm gốc trong việc đánh giá các rủi ro bảo hiểm để lựa chọn phương án kinh doanh thích hợp kể cả trong khai thác dịch vụ bảo hiểm, giải quyết bồi thường. Những năm qua công ty đã tích cực giúp đỡ các doanh nghiệp bảo hiểm mới ra đời trên thị trường như Samsung Vina, IAI, và Viễn Đông trong việc xây dựng và thu xếp chương trình TBH; tích cực phối hợp với các bên để giải quyết bồi thường nhanh chóng, đầy đủ… sau 10 năm hoạt động, VINARE ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong việc thực hiện các mục tiêu về chuyên nghiệp hoá hoạt động TBH; tạo lập các điều kiện cho việc mở cửa thị trường, đa dạng hoá và phát triển thị trường BH Việt Nam. Sau 10 năm hoạt động, với số vốn ban đầu được cấp 40 tỷ đồng nay đã có vốn chủ sở hữu và kết dư dự phòng nghiệp vụ trên 405 tỷ đồng, VINARE đã thực sự trở thành công ty TBH chuyên nghiệp có vai trò quan trọng đối với thị trường BH trong nước và là cầu nối giữa các doanh nghiệp BH Việt Nam với thị trường BH quốc tế. Chỉ tính riêng năm 2003, VINARE đã phối hợp với các tổ chức bảo hiểm , tái bảo hiểm quốc tế tổ chức 3 hội thảo: Hội thảo về Bảo hiểm trách nhiệm Hàng không phối hợp với Willis, công ty luật sư Beaumon &Son và Bảo Minh; Hội thảo về tình hình thị trường TBH ở Việt Nam phối hợp với Munich Re và Hội thảo về An ninh tàu và bến cảng phối hợp vơi hội bảo hiểm trách nhiệm chủ tàu West of England… Trở thành đầu mối điều tiết dịch vụ cho thị trường trong nước, hoạt động của VINARE đã góp phần vào việc duy trì sự ổn định của thị trường BH trong nước, đồng thời tăng nhanh khả năng giữ lại phí BH, thông qua đó đầu tư trở lại cho nền kinh tế, hạn chế việc chuyển dịch vụ, phí ra nước ngoài, đáp ứng tinh thần mục tiêu chính sách của nhà nước là hạn chế chuyển phí, dịch vụ ra nước ngoài. Thông qua nghiệp vụ nhận và nhượng TBH, VINARE đã thực hiện tốt nhiệm vụ trung chuyển dịch vụ cho thị trường trong nước, đảm bảo cho các doanh nghiệp bảo hiểm khác được chia sẻ dịch vụ của thị trường tong nước. Nhờ đó tổng phí giữ lại cho thị trường thông qua hoạt động của VINARE giai đoạn 1995 - 2004 là 1.200 tỷ. VINARE còn là trung tâm thông tin, đầu mối đào tạo đội ngũ cán bộ cho toàn thị trường đặc biệt là cho ngành TBH: VINARE đã cho ra tờ báo tạp chí thị trường BH - TBH bằng tiếng Anh và tiếng Việt để đáp ứng yêu cầu bạn đọc, phán ánh tới bạn đọc những bước tiến triển của thị trường BH trong nước cũng như những diễn biến phức tạp của thị trường BH thế giới. Đặc biệt nhân dịp hội nghị ASEAN được tổ chức tại Việt Nam và hội nghị bảo hiểm xe cơ giới quá cảnh, VINARE đã xuất bản số đặc biệt giới thiệu về thị trường bảo hiểm Việt nam, cung cấp cho toàn bọ các đại biểu tham dự. VINARE cũng đã tổ chức được cho các đoàn đào tạo khảo sát tại London, Hồng Kông và Châu Âu cho cán bộ đại diện các doanh nghiệp BH Theo các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, chế độ TBH bắt buộc sẽ được xoá bỏ vào năm 2007. Để VINARE có thể tiếp tục phát triển trước những thử thách đó, theo định hướng phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003-2010 đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 175/2003/QĐ- TTg, ngày 10/10/2003, Bộ tài chính đã ra quyết định số 3089/QĐ - BTC cổ phần hoá công ty TBH Quốc gia Việt nam với mục tiêu nhằm phát triển VINARE trở thành công ty cổ phần vốn nhà nước chi phối với sự tham gia góp vốn của các doanh nghiệp BH khác để hạn chế việc phí TBH ra nước ngoài, duy trì sự an toàn và ổn định của thị trường Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập theo các cam kết quốc tế. Việc cổ phần hoá này sẽ tạo điều kiện cho VINARE thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh nhận và nhượng TBH; điều tiết dịch vụ cho thị trường trong nước; tạo đầu mối cho sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi tối đa của khách hàng. Cùng với mục tiêu là đến năm 2005 VINARE có đủ sức giữ vai trò điều tiết thị trường TBH Việt Nam, không để phụ thuộc vào thị trường TBH quốc tế trong việc thu xếp các dịch vụ TBH lớn và phức tạp như bảo hiểm hàng không, dầu khí, năng lượng…ngay cả khi thị trường quốc tế có sự biến động, thu hẹp năng lực nhận TBH; năm 2010, VINARE sẽ có đủ năng lực tài chính, năng lực kinh doanh để tham gia thị trường TBH quốc tế… vị thế của VINARE trên thị trường BH & TBH sẽ ngày càng được khẳng định. 3.2. Hoạt động TBH ở các công ty BH&TBH khác Trên thị trường TBH Việt nam ngoài VINARE ra, các công ty BH khác cũng thực hiện hoạt động TBH, ở cả hai cương vị nhà TBH và công ty nhượng. ở các công ty đều tổ chức phòng TBH hoặc ban TBH riêng biệt chuyên thực hiện nghiệp vụ TBH cho công ty. - Đối với nghiệp vụ nhận TBH thì đa số nhận từ VINARE. - Đối với nghiệp vụ nhượng TBH thì ngoài phần trách nhiệm TBH bắt buộc cho VINARE, phần còn lại các công ty chỉ giữ lại rất ít còn thì tái cho thị trường trong nước và tái ra nước ngoài. - ở các công ty BH phi nhân thọ nghiệp vụ TBH rất quan trọng, hầu hết phí BH nhận về đều được tái đi thường thì trên 90% phí BH được tái đi, có những nghiệp vụ tỷ lệ tái đi đến 95 – 97%. Điển hình trên thị trường TBH tổng công ty BH Việt Nam là Bảo Việt. Có thể nói nghiệp vụ TBH đầu tiên ở nước ta được thực hiện ở Bảo Việt, Bảo Việt đã đứng ra làm trung gian nhận tái để nhượng tái đi ra thị trường nước ngoài cho các nghiệp vụ TBH như: TBH hàng hải, P&I, hàng không… cho các vì thị trường BH Việt Nam ban đầu cho mãi đến năm 2000, chỉ có Bảo Việt giữ thế độc quyền. Những năm đầu hoạt động Bảo Việt mới chỉ thực hiện được nghiệp vụ nhượng TBH do khả năng tài chính hạn chế, và chỉ có quan hệ TBH với công ty BH nhân dân Trung Quốc PICC, sau đó khi đã có kết quả kinh doanh tốt hơn, quan hệ TBH cũng được mở rộng ra các công ty BH ở các nước XHCN: Liên Xô, Đức…đến hôm nay cùng với VINARE, Bảo Việt có quan hệ TBH với rất nhiều nước, nhiều tập đoàn TBH trên thế giới: thị trường TBH Lloyd’s, London, Đức…trong những năm qua khi tham gia các quan hệ TBH Bảo Việt luôn thực hiện tốt nghĩa vụ bồi thường tổn thất thuộc trách nhiệm nhận TBH của mình điển hình là các vụ: -Vụ đắm tàu Gerrnet tại kênh đào Xueyê tổn thất là 1,6 triệu USD - Vụ cháy kho 5 ở Hải Phòng tổn thất 2,5 triệu USD - Máy bay TU 134A rơi ở Bang Kok tổn thất 1,5 triệu USD …. Để đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng, Bảo Việt thực hiện TBH cho hàng trăm công ty BH và TBH trên thế giới như: Lloyd’s, Union, Alliance, Scor Re, UAD của Pháp, Tokyo Marine…và các công ty môi giới có uy tín như Sedg Wiek, Willis, Faber Bain Hogg Group để thu xếp TBH được nhanh chóng thuận tiện. Từ năm 1995 khi VINARE ra đời, Bảo Việt đã thiết lập được quan hệ kinh danh tốt đẹp với VINARE, ngoài TBH bắt buộc, Bảo Việt còn nhận TBH từ VINARE, và thường xuyên thực hiện trao đổi thông tin thị trường, nghiên cứu và đào tạo cán bộ chuyên môn với VINARE. PIJCO cũng là công ty BH có hoạt động nhượng tái khá sôi nổi, công ty đã có quan hệ rất tốt với các tập đoàn TBH lớn trên thế giới, được các tập đoàn này đảm bảo tài chính, đầu tư thêm năng lực nhận tái cho công ty, sự năng động, linh hoạt và sáng tạo của TBH đã là hậu phương vững chắc cho hoạt động kinh doanh của công ty những năm qua. …. Tóm lại thị trường TBH Việt Nam tuy còn nhỏ bé nhưng đã và đang có những kết quả hoạt động nhất định tạo được điều kiện thuận lợi cho sự phát triển trong tương lai, khi mà ngành BH lớn mạnh, nhu cầu TBH lớn hơn và kỹ thuật TBH phát triển… 4. Thuận lợi và khó khăn trong phát triển thị trường TBH hiện tại và tương lai. Theo thực tế kết quả hoạt động của thị trường TBH Việt Nam, đồng thời so sánh với các xu hướng phát triển kinh tế hiện tại thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng có thể thấy đối với thị trường TBH Việt Nam hiện nay có những thuận lợi và khó khăn sau: * Thuận lợi: - Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang tạo cơ hội mở rộng quan hệ kinh tế với các công ty TBH khắp mọi nơi trên thế giới, mở rộng thị trường và học hỏi kinh nghiệm kinh doanh quốc tế. - Thị trường BH Việt Nam những năm qua phát triển mạnh và có xu hướng sẽ còn phát triển tốt trong thời gian tới, đặc biệt là thị trường bảo hiểm nhân thọ được đánh giá là tiềm năng rất lớn…sẽ tạo ra nguồn hàng lớn cho thị trường TBH. - Chính sách mở cửa và đa dạng hoá sở hữu ngành bảo hiểm của nhà nước sẽ thúc đẩy thị trường BH &TBH trong nước phát triển sôi động, cạnh tranh sẽ gay gắt nhưng hiệu quả hơn, các doanh nghiệp BH &TBH Việt Nam sẽ có cơ hội rèn luyện, học tập kinh nghiệm. - Tình hình kinh tế chính trị Việt Nam ổn định và phát triển cũng là một thuận lợi lớn cho nghành TBH. - Quy định về TBH bắt buộc của nhà nước tạo điều kiện cho các công ty BH, TBH dễ dàng hơn trong hoạt động TBH, không phải cạnh tranh với các công ty nước ngoài đối với phần phí TBH bắt buộc. - Sau 10 năm hoạt động công ty TBH quốc gia Việt Nam đã thực sự lớn mạnh đủ sức đảm nhận vai trò đầu tầu trong kinh doanh TBH, dẫn đường cho các doanh nghiệp khác muốn ra nhập thị trường này. - Trong quan hệ quốc tế một số công ty như Bảo Việt, VINARE đã có quan hệ tốt với các công ty & thị trường TBH lớn như: Munich Re, Swiss Re, Lloyd’s, P&I,… nên có thuận lợi trong việc thực hiện nghiệp vụ TBH ra quốc tế hoặc nhận TBH để không bị thua thiệt trong kinh doanh, đồng thời nhận được sự giúp đỡ về chuyên môn và kinh nghiệm… - Sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin ứng dụng tạo thuận lợi rất nhiều trong quản lý hoạt động, giao dịch mua bán qua mạng Internet… * Khó khăn, hạn chế: - Hệ thống pháp lý cho kinh doanh BH &TBH còn chưa hoàn thiện còn cần được tiếp tục bổ sung. - Thị trường TBH mới phát triển còn thiếu kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn cũng như lý luận, trình độ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ về TBH còn hạn chế. - Với chính sách đẩy mạnh hợp tác, mở của thị trường các doanh nghiệp BH &TBH Việt Nam sẽ phải đối đầu với một lực lượng các công ty nước ngoài có trình độ chuyên môn và công nghệ quản lý vượt trội, kinh nghiệm kinh doanh lâu đời, phạm vi hoạt động rộng khắp , khả năng tài chính hùng mạnh. - Việc cắt giảm dần và đi đến xoá bỏ sự bảo hộ, các quy định nhượng TBH bắt buộc cũng đang tạo ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp BH, TBH đòi hỏi các doanh nghiệp này phải có chiến lược chuẩn bị sẵn sàng ngay từ bây giờ. - Xét theo thành phần kinh tế, doanh nghiệp nhà nước có vốn pháp điều lệ trung bình là cao nhất. Song nếu không tính Bảo Việt thì doanh nghiệp nhà nước chỉ đạt 54 tỷ VND, còn cách quá xa so với vốn pháp định là 70 tỷ VND. Điều này làm cho khách hàng chưa thực sự yên tâm tham gia nhận bảo hiểm và nhượng TBH. - Bản thân thị trường BH gốc chưa phát triển mạnh mà chỉ mới khởi sắc trong những năm gần đây, nên chưa thể kéo theo sự phát triển thị trường TBH. - Tình hình đầu tư phí nhàn rỗi chưa hiệu quả một phần do chưa có môi trường đầu tư chưa tốt, thiếu các dự án đầu tư lớn, đầu tư vào khu vực nhà nước… - Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động còn hạn chế, giao dịch qua mạng Internet chưa được thực hiện… - Các doanh nghiệp nhà nước thì cơ cấu bộ máy còn cồng kềnh, phương thức quản lý kinh doanh chưa thực sự chủ động còn trông chờ vào sự bảo hộ của nhà nước… 5. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trên thị trường TBH. Thị trường TBH sẽ phát triển mạnh trong tương lai là xu thế tất yếu trên thế giới nói chung và với Việt Nam nói riêng do đó khi nghiên cứu chúng ta cần phải xem xét đến các yếu tố nâng cao hiệu quả hoạt động TBH, xây dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển lâu dài cho thị trường TBH. Căn cứ vào các phân tích thuận lợi và khó khăn trên có thể đưa ra một số kiến nghị, giải pháp cho vấn đề phát triển thị trường TBH Việt Nam trong tương lai như sau: - Phát triển thị trường BH gốc vì xuất phát điểm của TBH là hoạt động BH gốc, và thực hiện bằng các định hướng như:nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra những sản phẩm mới phù hợp với phí bảo hiểm thấp nhất có thể nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước; đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, nâng cao ý thức người dân về bảo hiểm; đào tạo cán bộ chuyên môn; quản lý hiệu quả, đề phong và hạn chế tổn thất… - Tiếp tục phát triển công ty TBH quốc gia VINARE trở thành nhà nhận TBH trong nước đứng đầu, ngang tầm các công ty trong khu vực, là trung tâm điều tiết dịch vụ bảo hiểm của Việt Nam không để phụ thuộc vào thị trường quốc tế và là đầu tư đa ngành, đa lĩnh vực. Tăng vốn cho công ty để khắc phục tình trạng các doanh nghiệp gốc lo lắng về sự an toàn khi thực hiện nhượng TBH cho công ty - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh BH, TBH. Hình thành luật riêng cho kinh doanh TBH. - Nâng cao chức năng và chất lượng giám sát của Bộ tài chính trong các vấn đề về: điều kiện, điều khoản nhượng, nhận TBH; thực hiện TBH bắt buộc; hoạt động môi giới và xử lý nghiêm minh các vi phạm quy định của nhà nước… - Tăng cường và thiết lập mối quan hệ tốt giữa các công ty TBH và BH trong nước về nhận và nhượng tái, phối hợp trong quản lý đề phòng hạn chế tổn thất, và giải quyết bồi thường nhanh chóng cho khách hàng. - Tăng cường công tác nghiên cứu cải tiến và vận dụng sáng tạo các phương pháp và hình thức TBH thích hợp để phát huy các ưu điểm và hạn chế nhược điểmcủa các phương pháp. - Tăng cường công tác thống kê TBH để nghiên cứu đưa ra các phương pháp và kỹ thuật TBH hợp lý, và phân tích đánh giá rủi ro TBH chính xác. - Hoàn thiện dần hoạt động và cơ chế nhượng TBH: ưu tiên và khuyến khích nhượng tái cho các doanh nghiệp trong nước trước. - Mở rộng các mối quan hệ kinh doanh với các công ty, tập đoàn và các thị trường TBH trong khu vực và trên thế giới, giữ vững quan hệ cũ nhất là các quan hệ truyền thống như: Munich Re, Tokyo Marine, Lloyd’s … - Xây dựng kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ có chất lượng cho thị trường TBH nâng cao độ chuyên môn cho các nhà kinh doanh TBH hiện tại. - đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, giao dịch kinh doanh một cách có hiệu quả. - Nâng cao chất lượng đầu tư, nhà nước và các doanh nghiệp nên tăng cường hợp tác để có được các dự án đầu tư hiệy quả trong các lĩnh vực trọng điểm kinh tế, dự án đầu tư vào phát triển công nghệ thông tin, là ngành rất cần thiết hiện nay…. - Từng bước mở rộng phạm vi nhận tái ra nước ngoài để phân tán rủi ro cũng như tăng doanh thu. - Tăng cường tổ chức và tham gia các cuộc hội thảo trong nước và quốc tế chuyên nghành để có cơ hội hợp tác và học hỏi. - Mở các văn phòng đại diện ở khu vực để thuận lợi cho việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, thu thập thông tin cho hoạt động nhượng, nhận TBH, tiếp xúc khai thác dịch vụ phù hợp. kết luận Thế giới ngày nay có nhiều biến đổi lớn, các quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng trở nên quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội ở tất cả các quốc gia, song đồng thời tình hình bạo lực, chiến tranh và nạn nghèo đói vẫn tồn tại … nhưng xu hướng thị trường TBH thế giới trở thành hệ thống mang tính quốc tế là không thể biến đổi. Thị trường TBH Việt Nam đến một lúc nào đó phát triển mạnh sẽ nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi các nhà quản lý thị trường và các nhà kinh doanh trên lĩnh vực này phải có những nghiên cứu mới thoả đáng. Song hoàn toàn có thể khẳng định dù ở trình độ phát triển nào thì những lý luận trên vẫn là cơ sở ban đầu, có ý nghĩa thiết thực cho bất cứ nhà kinh doanh nào trên thị trường BH&TBH. Trên đây là nội dung cá nhân em đã tìm hiểu được trong quá trình học tập, nghiên cứu của mình, do đó không tránh khỏi việc còn có những sai xót và hạn chế nhất định. Rất mong được thầy cô và các bạn đọc, góp ý kiến để bài nghiên cứu của em được hoàn thiện. Để hoàn thành bài viết này em xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn Văn Định và các thầy cô khác trong bộ môn đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện. Tài liệu tham khảo giáo trình kinh tế bảo hiểm – nxb thống kê 2000 giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm – nxb thông kê 2003 bảo hiểm nguyên tắc và thực hành – david bland luật kinh doanh bảo hiểm tạp chí thông tin bảo hiểm – tái bảo hiểm tạp chí bảo hiểm năm 2000 -2003 công báo năm 2000, 2001 Mục lục lời nói đầu 2

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30036.doc
Tài liệu liên quan