Đề án Thực trạng cầu lao động nước ta và các biện pháp kích cầu

Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế. Để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế đó, sự phát triển của thị trường lao động đóng một vai trò quan trọng. Mà trong đó cầu lao động lại là một trong những nhân tố cấu thành trực tiếp lên thị trường lao động, cùng với cung lao động, giá cả hàng hóa và cân bằng cung cầu. Thực tế cho thấy cầu lao động trong những năm qua còn yếu cả về mặt số lượng và chất lượng. Đó là một trong những rào cản lớn, ngăn cản sự phát triển kinh tế trong những năm qua. Bằng những sự cố gắng, nỗ lực, Đảng và Nhà nước ta đang có nhiều chính sách cải tiến cả về hai mặt chất lượng và số lượng nhằm kích cầu lao động, và phần nào đã thực hiện được mục đích trên. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, Đảng và Nhà nước ta còn mắc phải khá nhiều sai lầm trong việc tổ chức và quản lý bộ máy điều hành nhưng đó chính là điểm khởi đầu cho tất cả. Ở mỗi loại cầu khác nhau thì sự phát triển giữa các loại cầu không đều nhau, có sự chênh lệch khá lớn. Vấn đề đặt ra là phải cân bằng sự phát triển của các loại cầu trên, định hướng phát triển đúng hướng, chú trọng vào những cầu lao động cần thiết đối với sự phát triển kinh tế nhất. Để thực hiện được những đường lối, đính hướng trên cần có những biện pháp đúng đắn.

doc37 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng cầu lao động nước ta và các biện pháp kích cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h đơn giản là cộng các đường cầu lao động của tất cả các hãng sử dụng lao động đó. Và nếu như các hãng có đường cầu thống nhất thì chúng ta có thể xác định đường cầu lao động của ngành là tỷ số giữa khối lượng lao động được yêu cầu tại mỗi mức giá với số lượng của hãng. 1.1.2 Mét sè kh¸i niÖm liªn quan. - Thị trường lao động: là sự trao đổi hàng hoá sức lao động giữa một bên là người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó. Thị trường lao động là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế và chịu sự tách động của hệ thống quy luật của nền kinh tế thị trường: như quy luật giá cả, giá trị, cạnh tranh độc quyền... Các quy luật này tác động và chi phối quan hệ cung và cầu của thị trường lao động. Thị trường lao động được phân loại theo chất lượng hàng hoá và theo không gian. Theo chất lượng hàng hoá sức lao động, thị trường lao động được chia ra thành thị trường lao động có chuyên môn kỹ thuật cao ( công nhân kỹ thuật và những người được đào tạo có trình độ từ trung học chuyên nghiệp trở lên) và thị trường lao động phổ thông ( lao động giản đơn không qua đào tạo). Theo không gian thì có thị trường lao động các vùng, thị trường lao động các địa phương, thị trường lao động trong nước, trường lao động nông thôn, thị trường lao động thành thị.... - Việc làm theo quy định của Bộ Luật Lao động là những hoạt động có ích không bị pháp luật ngăn cấm và đem lại thu nhập cho người lao động. Người làm việc là người có việc làm mang lại tiền công hoặc thu nhập, họ phải có việc làm hoặc doanh nghiệp trong một thời gian nhất định. Như vậy có thể phân biệt thành 2 loại việc làm, một là việc làm thuê hưởng tiền lương hoặc tiền công, và 2 là việc làm tư nhân có thể là cá nhân hoặc gia đình, có thể là chủ doanh nghiệp. Việc làm có thể phân chia theo thời gian như việc làm đầy đủ hoặc không đầy đủ, việc làm tạm thời và việc làm cố định, việc làm không thường xuyên, việc làm theo thời vụ... - Thất nghiệp: là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền lương thịnh hành. Người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, trong tuần lễ tham khảo( tức tuần lễ tiến hành điều tra thông tin) không có việc làm, đang có nhu cầu tìm việc làm và có đăng kí tìm việc theo quy định. Bên cạnh đó là khái niệm thiếu việc làm, theo định nghĩa của Tổ chức Lao động Quốc tế, thiếu việc làm là hiện tượng tồn tại khi làm việc không đủ tiêu chuẩn đặc trưng hoặc so với việc làm liên tục, có tính đến kỹ năng nghề nghiệp. - Cung lao động: là lượng lao động mà người lao động có thể sẵn sàng cung cấp trên thị trường trong những điều kiện nhất định. Cũng như cầu lao động và lượng cầu. Cung lao động mô tả toàn bộ hoành vi của người đi làm thuê khi thoả thuân các mức giá đặt ra. Cung sức lao động là bộ phận sức lao động được đưa ra trên thị trường nó phụ thuộc vào không chỉ quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực, nó còn phụ thuộc vào số người ( tỷ lệ ) tham gia của lực lượng lao động. Cung trên thị trường lao động phụ thuộc vào tổng số lao động có thể cung cấp. - Mối quan hệ giữa cung và cầu lao động trong thị trường lao động. Sự vận động của cung và cầu lao động sẽ chi phối số lượng người tham gia vào thị trường lao động và mức tiền công. Nếu mức cung lao động phù hợp với mức cầu, với điều kiện mức cầu có khả năng thu hút tất cả những người có khả năng lao động và mong muốn làm việc thì thị trường lâm vào trạng thái không ổn định. Nếu mức cung lao động lớn hơn mức cầu lao động, thì lao động sẽ dư thừa, và ngược lại. Ngoài ra, cung cầu lao động còn bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác như giá cả sức lao động. 1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến Cầu lao động. 1.2.1. Nhân tố ảnh hưởng đến số lượng cầu lao động. 1.2.1.1 Nhân tố cầu sản phẩm: Cầu sản phẩm là nhu cầu của khách hàng về một loại sản phẩm nào đó. Cầu sản phẩm do các yếu tố như thị yếu của khách hàng, thu nhập, sự phát triển của công nghệ... làm cho cầu về nhân công lao động tăng lên. Vậy cầu sản phẩm cùng chiều với cầu lao động. Khi cầu về một loại sản phẩm tăng, khách hàng đổ xô ra thị trường tìm mua sản phẩm đó, để đáp ứng cầu về sản phẩm, các nhà sản xuất mở rộng quy mô sản xuất, sản xuất ra nhiều sản phẩm, tung ra thị trường bán cho người tiêu dùng. Vậy, khi tăng quy mô sản xuất, các nhà sản xuất không những tăng về trang thiết bị máy móc, cơ sơ vật chất mà còn tăng về số lượng người làm việc. Ngược lại, khi nhu cầu của một loại sản phẩm giảm sút do không còn phù hợp với thị yếu người lao động, không đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng nữa, sản xuất sẽ phải ngưng lại, hoặc thu hẹp quy mô sản xuất, lợi nhuận của nhà sản xuất giảm. Để cân bằng giữa chi phí và lợi nhuận, các nhà sản xuất phải tìm một mặt hàng sản xuất mới hoặc giảm bớt số nhân công lao động, điều đó làm cầu lao động giảm. 1.2.1.2 Nhân tố năng suất lao động. Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động cụ thể có ích. Nó nói lên kết quả hoạt động sản xuất có múc đích của con người trong một đơn vị thời gian nhất định. Tăng năng suất lao động là sự tăng lên của sức sản xuất hay năng suất của lao động, nói chung là sự thay đổi trong một cách thức lao động, một sự thay đổi làm rút ngắn thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá, sao cho lượng lao động ít hơn mà lại có được sức sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng hơn. Có nhiều loại chỉ tiêu để tính tăng năng suất lao động, nhưng dùng chỉ tiêu nào, điều đó phụ thuộc vào việc lựa chọn một thước đo cho phù hợp với đặc điểm của từng doanh nghiệp, Hiện nay người ta sử dụng 3 loại chi tiêu chủ yếu sao đây: NSLĐ tính bằng hiện vật, NSLĐ tính bằng tiền( giá trị ) và NSLĐ tính bằng thời gian. Năng suất lao động tác động đến cầu lao động theo 2 chiều: + Năng suất lao động tăng lên -> doanh nghiệp sẽ phải thuê thêm lao động để mở rộng quy mô sản xuất-> cầu lao động tăng lên-> sản xuất phát triển-> lợi nhuận tăng lên-> doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận. + Năng suất lao động tăng lên-> nhưng giá cả của sản phẩm không tăng lên-> doanh nghiệp không mở rộng quy mô sản xuất, doanh nghiệp sử dụng các trang thiết bị máy móc hiện đại, hiện đại hoá các trang thiết bị sản xuất-> cầu lao động trong trường hợp này giảm xuống. 1.2.1.3 Nhân tố tình hình phát triển kinh tế. Đó là những khả năng tiềm tàng của đất nước, có thể là nguồn tài nguyên thiên nhiên, những điều kiện thuận lợi. Như ta đã biết hàm sản xuất được viết: Q = f(K,L), trong đó Q là sản lượng, K là vốn, f là biểu thị công nghệ. Nếu công nghệ và giá cả là cố định thì tăng trưởng kinh tế sẽ tăng cầu lao động. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế thường theo sự thay đổi này thường làm cho nhu cầu giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, tăng nhu cầu có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Tình hình kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển của các doanh nghiệp sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cạnh tranh, môi trường thuận lợi để mở rộng sản xuất. Vậy tình hình phát triển kinh tế có sự thay đổi cùng chiều với cầu lao động. Điều đó có nghĩa là: nếu tình hình kinh tế giảm sút kéo theo cầu lao động giảm và ngược lại. 1.2.1.4 Nhân tố tiền lương. Tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động ( người mua sức lao động) trả cho người lao động ( người bán sức lao động). Đó là quan hệ kinh tế của tiền lương. Tiền lương danh nghĩa được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc trực tiếp vào năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, phụ thuộc vào kinh nghiệp và trình độ của người lao động...Tiền lương thực tế được biểu hiện là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng và các loại dịch vụ cần thiết người lao động hưởng lương có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của họ. Nếu các hình thức tiêu dùng như thế nào đó để có nhu cầu lớn đối với hàng hoá trong nước và các dịch vụ được tạo ra bởi các phương pháp sản xuất cần nhiều lao động, thì sẽ tăng nhu cầu tiêu dùng, kết quả là tăng nhu cầu lao động. Trái lại, nếu như mức tiền lương tăng, ở khía cạnh nào đó, nhu cầu tiêu dùng chỉ hướng tới các sản phẩm và hàng hoá nhập ngoại, được sản xuất bằng các công nghệ nhập ngoại và nhiều vốn, dẫn đến giảm nhu cầu lao động. Các hộ gia đình có mức thu nhập trung bình và cao thường có xu hướng tiêu dùng thiên về các hàng hoá nhập ngoại. Đối với các hộ gia đình có thu nhập thấp, không thể tăng mức tiêu dùng, nên thường tiêu dùng các hàng hoá địa phương, do đó khuyến khich sản xuất phát triển, tăng cầu lao động, mở rộng thêm việc làm. 1.2.1.5 Nhân tố giá cả các nguồn lực khác thay đổi. Khi chi phí các nguồn lực khác thay đổi làm cầu lao động thay đổi theo xu hướng khác nhau. Giả sử khi vốn, lao động bổ sung hoàn toàn: nếu giá của yếu tố đầu vào này thay đổi thì cầu yếu tố đầu vào khác thay đổi ngược lại. Còn đối với trường hợp thay thế hoàn toàn: giá đầu vào thay đổi cầu yếu tố đầu vào khác thay đổi cùng chiều 1.2.1.6 Nhân tố chính sách tạo việc làm. Đây là yếu tố quan trọng đối với đặc điểm của nước ta. Đảng và Nhà nước khuyến khích phát triển mọi thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân. Điều này đòi hỏi một thể chế ổn định. Tất cả các nhà đầu tư, dù lớn hay nhỏ đều đòi hỏi sự ổn định . Tất cả các nhà đầu tư, dù lớn hay nhỏ đều đòi hỏi sự ổn định để có thể hoạch định và xúc tiến các dự án đầu tư. Sự ổn định này đòi hỏi trên hai phương diện. Một là, hệ thống luật lệ điều tiết hoạt động kinh tế tư nhân không được thay đổi thường xuyên, trừ các hành vi tháo gỡ vướng mắc và nâng cao hoạt động của thị trường. Cụ thể là việc thành lập các công ty tư nhân, quyền sở hữu, điều tiết thu nhập từ hoạt động kinh tế tư nhân, hệ thống thuế, các điều khoản thực thi các hợp đồng. Hai là về tổng thể nền kinh tế phải ổn định để đảm bảo không lạm phát ( hoặc dự báo trước), về tiết kiệm, tích luỹ, sự thay thế có hiệu quả nguồn nhân lực giữa các thành phần và khu vực kinh tế( cổ phần hoá). Các chính sách tài chính và tiền tệ không làm tổn hại, làm suy yếu khu vực tư nhân, chẳng hạn do thâm hụt ngân sách nhà nước. Chính phủ chuyển các nguồn đầu tư đáng lẽ cho kinh tế tư nhân để chi tiêu cho Nhà nước. Tương tự, sự thâm hụt cán cân thanh toán sẽ làm mất ổn định kinh tế vĩ mô, làm suy yếu tỷ giá hối đoái. Mất ổn định kinh tế làm giảm tốc độ tăng trưởng, do đó cản trở tự tạo việc làm, cũng như cải thiện tiền công. 1.2.2 Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cầu lao động. 1.2.2.1 Nhân tố chất lượng công việc. Chất lượng công việc có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cầu lao động. Chất lượng công việc càng cao thì yêu cầu chất lượng cầu lao động cũng phải cao. Vậy chất lượng công việc và chất lượng cầu công việc tỷ lệ thuận với nhau. Công việc đòi hỏi trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm, trình độ chuyên môn cao, yêu cầu người lao động phải đáp ứng được yêu cầu đó, người lao động mới chấp nhận tuyển dụng lao động. Chất lượng công việc thể hiện sự quản lý chặt chẽ, tổ chức lao động khoa học, năng suất lao động. 1.2.2.2 Nhân tố quy mô trình độ kĩ thuật, trình độ quản lý, quan hệ kinh doanh quốc tế. Quy mô trình độ kĩ thuật càng cao, yêu cầu công việc càng lớn, trình độ của người lao động càng cao, chất lượng cầu lao động tăng. Trình độ kĩ thuật bao gồm máy móc kỹ thuật hiện đại, trang bị cơ sở vật chất, phương tiện liên lạc, phương tiện vận chuyển...Điều đó đặt ra yêu cầu chất lượng cầu lao động phải tăng. Trình độ quản lý của bộ máy quản lý của doanh nghiệp có tác động cùng chiều với sự phát triển của cầu lao động. Mối quan hệ kinh doanh với các quốc gia trên thế giới đóng một vai trò quan trọng để phát triển kinh tế của một đất nước. Quan hệ quốc tế còn đóng vai trò xuất khẩu lao động. Quan hệ quốc tế càng phát triển yêu cầu chất lượng cầu lao động cao, để đáp ứng được sự phát triển của nền khoa học hiện đại. 1.2.2.3 Nhân tố tình hình phát triển kinh tế, các chính sách của Nhà nước. Tình hình phát triển kinh tế không những ảnh hưởng đến số lượng cầu lao động mà còn ảnh hưởng đến chất lượng cầu lao động. Đất nước càng phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra đời, doanh nghiệp mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, bản thân người lao động cũng phải nâng cao tay nghề để đáp ứng nhu cầu của công việc. Sự phát triển của nền kinh tế, sẽ càng tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng nâng cao tay nghề của mình. Các doanh nghiệp có điều kiên thuận lợi về tài chính giúp cho nhân công của mình nâng cao trình độ kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của doanh nghiệp. Cách chính sách của Nhà nước ban hành như: điều luật về đảm bảo điều kiện lao động, quy định quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động...tất cả những chính sách trên quyết định cùng chiều đến chất lượng cầu lao động. 1.2.2.4 Nhân tố chất lượng cung lao động. Cung lao động ảnh hưởng đến cầu lao động thông qua các yếu tố: chất lượng dân số, tình hình gia tăng dân số, sự gia tăng của số người bước vào độ tuổi lao động, bước ra khỏi độ tuổi lao động...Chất lượng cung lao động càng cao thì càng đáp ứng nhu cầu lao động chất lượng càng lớn. 1.3. Các giải pháp kích cầu lao động. 1.3.1 Giải pháp về phía số lượng cầu lao động. Tìm kiếm mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế có khả năng sử dụng nhiều nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Có nhiều mô hình, mỗi mô hình điều dựa trên cơ sở lý thuyết kinh tế học và sự phân tích thực tiễn nhất định. Có mô hình khi đem áp dụng đã tỏ ra có những hạn chế nhất định. Ngược lại, có những mô hình đã đưa đến những thành công. Tuy nhiên, về kinh tế, khi nghiên cứu, lựa chọn mô hình tăng trưởng, phát triển có đến nguồn nhân lực cần xem xét các yếu tố về vốn đầu tư và mối quan hệ của vốn đầu tư với việc thu hút nguồn nhân lực. Vì lẽ, không có vốn đầu tư đưa vào sản xuất, các nguồn nhân lực sẽ bị ứ đọng, không có tiền đề vật chất để hoạt động. Vốn đầu tư nhiều, tăng nhanh, chứng tỏ khả năng tái sản xuất mở rộng, khả năng tích luỹ của một nền kinh tế. Nói cách khác, đó là điều kiện có tính chất quyết định dể thu hút các nguồn nhân lực vào tăng trưởng. Kỹ thuật và công nghệ của sản xuất có liên quan dến sử dụng nhiều hay ít nhân lực. Có loại kỹ thuật, công nghệ đòi hỏi vốn cao( hàm lượng vốn lớn), nhưng lại sử dụng ít nhân lực ( hàm lượng lao động thấp). Ngược lại, có kỹ thuật, công nghệ vốn ít nhưng sử dụng nhiều nhân lực. Áp dụng các biện pháp hiện đại, cơ giới hoá quá trình sản xuất, đầu tư các trang thiết bị hiện đại, cơ sỏ vật chất hạ tầng kĩ thuật cao nhằm mục đích nâng cao năng suất lao động, mở rộng quy mô sản xuất, phát triển doanh nghiệp về chiều rộng -> tác động đến cầu lao động về số lượng. Nhà nước có các chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế, ban hành hệ thống hành lang pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư. Tiếp tục cải cách khu vực Nhà nước, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các khu vực, các thành phần kinh tế. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và các công ty được hình thành và phát triển -> tăng cầu về lao động. Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường nhằm hoàn thiện kênh giao dịch giữa cung và cầu lao động, cân bằng cung cầu trên thị trường lao động. Mặt khác nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tham gia vào thị trường lao động khu vực và quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Cần sớm nhận thức rõ rằng xuất khẩu lao dộng phải được coi là một chiến lược quốc gia giải quyết việc làm và là một kênh để đào tạo tay nghề cho người lao động. Vì vậy, cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xuất khẩu lao động, ban hành, sửa đổi và bổ sung những cơ chế chính sách cho phù hợp với sự vận động của thị trường, tăng cường trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương và trung ương trong việc xây dựng, trong việc quản lý và chỉ đạo hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn lao động và chuyên gia để phục vụ xuất khẩu đáp ứng nhu cầu của thị trường. 1.3.2 Giải pháp về phía chất lượng lao động. Mở rộng các trung tâm đào tạo dạy nghề, các truờng trung cấp và đại học, phân bố đồng đều trong cả nước. Biện pháp này không chỉ có tác dụng đào tạo nghành nghề cho những người chưa qua đào tạo mà còn có tác dụng đào tạo lại cho những người công nhân, nhân viêc nhằm làm cho họ thích ứng với công việc, nâng cao trình độ tay nghề, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công việc. Về phía các doanh nghiệp, cần có các chính sách phù hợp cho người lao động nhằm tạo điều kiện cho họ được nâng cao tay nghề. Có các biện pháp và các chế độ khen thưởng khuyến khích người lao động, tạo động lưc họ nâng cao tay nghề của mình. Bên cạnh đó có các chính sách hỗ trợ người lao động, giúp đỡ họ trong thời gian đào tạo cả về mặt vật chất và tinh thần. Nhà nước tổ chức các chương trình đào tạo ngắn hạn và dài hạn, ban hành các chính sách, bộ luật liên quan đến lợi ích của người lao động. CHƯƠNG II Đánh giá thực trạng cầu lao động Việt Nam và các chính sách kích cầu lao động trong những năm qua. Nước ta là một nước nông nghiệp, nghèo, có dân số đông với tốc độ tăng còn cao, nguồn nhân lực dồi dào, năng suất lao động còn thấp, cung lao động luôn lớn hơn cầu lao động. Bởi vậy trong nền kinh tế nước ta luôn tồn tại lực lượng lao động dư thừa dưới nhiều hình thức, tình trạng thiếu việc làm là phổ biến. Năm 2000 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 6,42%, còn ở nông thôn tỷ lệ sử dụng thời gian lao động được sử dụng của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động chỉ là 76,58%. Đây là vấn đề cấp bách không chỉ trước mắt mà còn có nguy cơ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội về lâu dài. Vậy cần phải có các giải pháp như thế nào để tăng cầu lao động ở nước ta. Trước hết, chúng ta xem xét hiện trạng và xu hướng thay đổi việc làm trong những năm gần đây. 2.1 Cầu lao động theo nhóm ngành 2.1.1 Kết quả: Theo nhóm ngành, cầu lao động được chia theo 3 tiêu chí: Nông, lâm, ngư nghiệp; xây dựng, công nghiệp; dịch vụ. Bảng 1: Bảng số người từ 15 tuổi trở lên làm việc thường xuyên theo nhóm ngành Các tiêu chí 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Nông , lâm, ngư nghiệp 23431 22589 23018 22861 22670 22813 23835 Xây dựng, công nghiệp 3698 4170 4049 4435 4744 5428 5942 Dịch vụ 6849 7593 7734 8382 8791 8426 9509 TỔNG SỐ 33978 34352 34801 35679 36205 37677 39286 Theo số liệu bảng trên, chúng ta thấy rằng số người có việc làm thường xuyên tăng lên liên tục trong thời kỳ 1996 – 2002, mỗi năm trung bình tăng khoảng 740nghìn, trong đó tăng nhiều nhất là năm 2002 so với 2001 với số tuyệt đối là 1609 nghìn, và năm tăng ít nhất là 1998 so với 1997. Và các năm sau cũng có xu hướng tăng tương tự. Xu hướng thay đổi như trên phần nào được phản ánh qua những sự thay đổi của cơ cấu việc làm theo cách phân loại như trên. Trước hết, số việc làm trong nông, lâm, ngư nghiệp trong thời kỳ này nói chung không thay đổi nhiều, có xu hướng giảm nhẹ nhưng không đều. Năm có số việc làm tuyệt đối cao nhất la 1996 là 23431nghìn, năm thấp nhất là 1997 với 22589. So sánh năm 2001 với năm 1996, số việc làm trong nông, lâm, ngư nghiệp giảm đi 618nghìn người, nhưng đến năm 2002 lại tăng lên. Xin lưu ý rằng dân số, nguồn lao động ở khu vực nông thôn trong thời kỳ năng không hề giảm đi tuyệt đối. Đối với ngành xây dựng và, công nghiệp có xu hướng thay đổi tích cực, số việc làm tăng đều qua các năm. Trung bình mỗi năm tăng 346 nghìn người, năm tăng nhiều nhất là 2001 so với 2000 là 684 nghìn việc làm, năm 2002 cũng tăng lên 520nghìn việc làm so với năm 2001. Đối với nhóm ngành dịch vụ, xu hướng thay đổi tích cực như trong ngành xây dựng và dịch vụ, số tuyệt đối việc làm tăng liên tục trung bình mỗi năm khoảng 320nghìn người, trừ năm 2001 giảm đi so với năm 2000 là 366nghìn. 2.1.2 Các mặt còn tồn tại: Sự phát triển của các nghành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chưa cao. Nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Kinh doanh giảm sút trong những ngành du lịch, khách sạn nhà hàng kinh doanh tài sản. Do điều kiện khoa học kỹ thuật của nước ta còn chưa cao, công nghệ máy móc còn hạn chế do chủ yếu là mua của các nước hiện đại và phải chuyển giao công nghệ. Nên sự phát triển của ngành công nghiệp còn nhiều hạn chế. Đến thời điểm hiện tại, nước ta vẫn chủ yếu là phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật thấp nên nguồn lợi nhuận thu được còn quá ít. Do vậy, mô hình sản xuất còn nhỏ hẹp, khả năng mở rộng sản xuất là chưa cao cầu lao động còn thấp. Ngành dịch vụ là ngành khá mới mẻ ở nước ta, cùng với sự phát triển còn hạn chế, ngành dịch vụ không phát triển hết được những tiềm năng sẵn có của nó. Ngành du lịch là ngành có tiềm năng phát triển lớn nhất, nước ta được thiên nhiên ưu đãi những điều kiện thuận lợi nhưng do đây là một ngành khá mới mẻ, môi trường phát triển con thiếu thốn nhiều dẫn đến cầu lao động trong ngành này còn thấp, chưa đúng với thực chất phát triển của nó. 2.1.3 Nguyên nhân: -Ngoài những nguyên nhân như quy mô và cơ cấu dân số, nguồn lao động còn phải kể đến các nguyên nhân quan trọng như tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự khủng khoảng kinh tế ở Châu Á năm 1997, sự thay đổi cơ cấu kinh tế, sự tác động tích cực của các chính sách kinh tế của Nhà nước, Như việc thực thi Luật Doanh nghiệp, về phát triển kinh tế trang trại... - Sự phát triển của ngành Nông nghiệp do nước ta là 1 nước nông nghiệp, các điều kiện thuận lợi để phát triển. - Công nghiệp, xây dựng và dịch vụ còn kém phát triển do đây là những ngành còn mới với nước ta, nền khoa học kĩ thuật còn kém. 2.2 Cầu lao động theo thành phần kinh tế. 2.2.1 Kết quả Được chia thành 3 tiêu chí: Nhà nước, ngoài Nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài. Đối cơ cấu việc làm theo thành phần kinh tế, chúng ta thấy xu hướng tăng nhanh trong cả 3 nhóm. Trung bình mỗi năm trong thời kỳ khu vực Nhà nước tăng thêm 160 nghìn, ngoài Nhà nước tăng 511 nghìn và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 57nghìn việc làm. Nếu so sánh về tốc độ tăng việc làm trung bình năm thì thứ tự thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh nhất ( 43%), sau đó đến Nhà nước ( 5,35%) và ngoài Nhà nước ( 1,64% ). Giai đoạn 2000 đến 2005, tổng số lao động đang làm việc trong toàn bộ nền kinh tế đã tăng thêm 5.1 triệu người, thì số lao động làm việc trong khu vực nhà nước chỉ tăng thêm 599nghìn người chiếm 11.7% số lao động tăng thêm. Bảng 2: Bảng số người 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên thời kỳ 1996 -2002 Các tiêu chí 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Nhà nước 2973 3094 3533 3606 3644 3769 4011 Ngoài nhà nước 31005 31128 31083 31884 32343 33554 34836 Có vốn đầu tư nước ngoài 0 130 184 190 218 354 439 TỔNG SỐ 33978 34352 34801 35679 36205 37677 39286 Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005, tổng số lao động đang làm việc trong toàn bộ nền kinh tế đã tăng thêm 5,1 triệu người, thì số lao động làm việc trong khu vực nhà nước chỉ tăng thêm có 599người chiếm 11,7% số lao động tăng thêm. Các số liệu trên cho thấy, số DNNN giảm, nhưng số lao động trong các DNNN lại tăng lên, mặc dù tăng với tốc độ thấp. Điều đó chứng tỏ quy mô của doanh nghiệp lớn hơn trước ( trong đó các DNNN địa phương giảm, còn DNNN trung ương tăng, tuy không đáng kể). Các số liệu trên cũng cho ta thấy, vai trò của DNNN trong việc tạo ra việc làm cho người lao động không lớn. 2.2.2 Các mặt còn tồn tại Khu vực ngoài quốc doanh, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình và các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khu vực phi kết cấu thành thị, là nơi có nhiều khả năng tạo việc làm vì những ưu thế về quy mô và chi phí thấp để tạo ra một chỗ làm việc, tính năng động và lợi ích trực tiếp của lao động và trình độ quản lý. Tuy nhiên, tiềm năng thu hút thêm lao động của khu vực này cũng đang phải đối đầu với những khó khăn trong điều kiện hội nhập và mở cửa, sản phẩm kém cạnh tranh do chất lượng không cao, ngoài ra môi trường kinh doanh chưa ổn định, còn nhiều rủi ro, thiếu thông tin, thiếu sự hỗ trợ, hạn chế về vốn. Đối với khu vực nhà nước, tạo việc làm cũng gặp rất nhiều thách thức không nhỏ. Nhiệm vụ và yêu cầu cải cách bộ máy quản lý và thủ tục hành chính đồi hỏi phải tinh giảm bộ máy biên chế, sắp xếp lại bộ máy biên chế hiện có, hạn chế nhận lao động mới.Các doanh nghiệp ngoài nhà nước chưa được phát triển toàn diện do gặp phải nhiều trở ngại về hành lang pháp lý. Các doanh nghiệp nhà nước còn phụ thuộc quá nhiều vào nhà nước, chưa chủ động, độc lập phát triển. Sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn hạn chế. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tuy có tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm khá cao, khoảng 17%, song tỷ trọng GDP còn thấp, hơn nữa tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp nặng, dầu khí, bất động sản, đó là những ngành có hệ số bảo hộ cao, nhiều vốn, bởi vậy khả năng thu hút lao động không nhiêu. 2.2.3 Nguyên nhân -Điều này có thể được giải thích vì kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mới được hình thành và phát triển trong vài năm gần đây, kinh tế ngoài Nhà nước với số lượng với số lượng lao động đông đảo đang dần được chú ý kuyến khích, đặc biệt sau Đại hội VIII, còn đối với việc làm trong thành phần kinh tế nước ta còn nhiều bất cập về tinh giảm biên chế và đang trong quá trình cải cách hành chính và bộ máy quản lý. - Trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, từ chỗ doanh nghiệp sử dụng lao động theo biên chế sang việc tự do tuyển dụng, chúng ta đã quản lý không tốt, dẫn đến sự lạm dụng chức quyền. Kết quả là những năm cuối của thế kỷ 80, đầu năm những năm 90. khu vực DNNN đã dôi dư trên 70.000 lao động. - Do các chính sách của nhà nước ta chưa thực sự phù hợp và tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài - Phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chưa được chú ý đúng mức. 2.3 Cầu lao động theo khu vực và theo vùng kinh tế. 2.3.1 Kết quả Theo khu vực được chia ra thành tiêu chí: thành thị và nông thôn. Theo vùng kinh tế được chia ra thành các vùng: Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ, ĐB sông Cửu Long, ĐB Bắc Bộ, Vùng núi và trung du Bắc Bộ, Tây Nguyên. Tỷ lệ lao động thường tập trung ở thành thị vì có nhiều cơ hội việc làm hơn. Thành thị tập trung những xí nghiệp, công ty lớn kéo theo đó nhu cầu lao động cao hơn. Theo nghiên cứu, cầu lao động ở thành thị hàng năm tăng khoảng 30% so với năm trước. Dân cư tập trung ở thành thị đông làm cho nhu cầu sống của họ cũng tăng nhanh, cùng với quá trình hiện đại hoá thì nhu cầu của con người cũng thay đổi theo. Ở nông thôn chủ yếu là các loại hình nông nghiệp nên chủ yếu là nguồn lực của hộ gia đình. Cầu về lao động của nông thôn thấp hơn ở thành thị. Khu vực nông thôn thường phát triển các ngành nghề truyền thống, ngành nghề thủ công, nên nguồn nhân lực thường là người dân của chính địa phương đó, do quá trình học hỏi mà có thể làm việc chứ không phải qua đào tạo nghề. Do thành thị tập trung nhiều doanh nghiệp, công ty, xí nghiệp đồng thời ở thành thị lực lượng lao động có chất lượng cao hơn. Vì vậy thu nhập ở thành thị chiếm hơn 80% tổng thu nhập quốc dân. Bảng 3: Bảng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tỷ lệ sử dụng thời gian 74.2 74.3 75.3 77.7 79.4 80.6 Qua biểu đồ trên ta thấy rằng, năm 2000 ở nông thôn chỉ sử dụng 74.2% thời gian lao động đến năm 2004 tỷ lệ này là 79.4% và đến năm 2005 tỷ lệ này đã đặt đến 80.6%. Điều đó chứng tỏ, cầu lao động tiếp tục tăng trong thời gian vừa qua. Theo vùng kinh tế, cầu lao động tập trung chủ yếu ở các vùng Đông Nam bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long, và thấp nhất là vùng núi Tây nguyên. Các thành phố, tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ có sự phát triển kinh tế cao, điều này có được điều kiện thuật lợi địa lý mà các tỉnh thuộc vùng núi Tây Nguyên không có được. 2.3.2 Các mặt còn tồn tại. Sự phát triển chưa đồng đều giữa các khu vực thành thị và nông thôn. Dẫn đến tình trạng, khu vực thành thị tập trung quá nhiều dân cư, ảnh hưởng đến môi trường sống và phong tục tập quán. Còn khu vực nông thôn không có nguồn nhân lực chất lượng cao, hiện đai, làm cho đời sống nhân dân không được nâng cao. Sự mất cân bằng dân số giữa thành thị và nông thôn, nông thôn đất rộng nhưng dân cư thưa thớt. Sự phát triển giữa các khu vực kinh tế cũng là vấn đề phải quan tâm hiện nay của Đảng và Nhà nước. Khu vực vùng núi và trung du Bắc bộ, khu vực Tây nguyên có sự phát triển kém nên cầu lao động không thu hút được các nguồn nhân lực trẻ, chất lượng cao như các vùng đồng bằng phía bắc và phí nam. 2.3.3 Nguyên nhân. - Do điều kiện địa lý giữa các vùng khác nhau: Vùng đồng bằng thường có các điều kiện phát triển kinh tế hơn không những chỉ về khí hậu, đất đai mà còn về các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các danh lam thắng cảnh tạo điều kiện thuận lợi phát triển ngành du lịch trong và ngoài nước. - Lực lượng lao động có chất lượng tập trung không đồng đều. - Chính sách đầu tư của Nhà nước chưa hợp lý giữa các khu vực và vùng kinh tế. Nhà nước ta còn tập trung phát triển quá nhiều và khu vực thành thị, tuy đã có các chính sách di dân, mở rộng các khu công nghiệp mới nhưng chưa đồng bộ và triệt để. Bộ máy pháp luật chưa chặt chẽ để tạo lòng tin cho người lao động khi tham gia làm việc cho các khu công nghiệp mới. 2.4 Cầu lao động theo giới tính. 2.4.1 Kết quả. Được chia theo tiêu chí: nam giới và nữ giới. Bảng 4: Bảng cơ cấu lao động chia theo tính chất việc làm, giới tính và khu vực thành thị, nông thôn. Số TT Loại CV Chung Khu vực Giới tính Thành thị Nông thôn Nam Nữ Chung 100 100 100 100 100 1 Làm công, làm thuê 11.78 36.89 5.06 14.46 9.27 2 Tự làm nông,lâmnghiệp 43.97 9.98 53.07 37.63 49.89 3 Tự làm phi nông nghiệp 12.08 38.8 4.93 10.86 13.22 4 Cả 2 loại 1.2 15.51 5.25 18.26 20.41 10.94 5 Cả 2 loại 1.3 1.44 3.38 0.92 1.87 1.04 6 Cả 2 loại 2.3 13.49 5.30 15.68 12.48 14.42 7 Cả 3 loại 1.2.3 1.73 0.41 2.09 2.28 1.22 Theo giới tính, nam chiếm tỷ lệ trội hơn so với nữ ở các loại công việc làm công, làm thêm và tự làm nông, lâm và làm thuê chiếm tỷ lệ 14.46% và 20.41% so với 9.27% và 10.94% ở nữ. Và ở cả 3 loại thì nam giới đều chiếm tỷ trọng lớn hơn nữ ( 2.28% và 1,22% ). Tỷ lệ nữ tham gia vào các công việc mang tính chất nông, lâm nghiệp. Ngược lại nhu cầu về lao động của các ngành phi nông nghiệp, cần sức khoẻ, khả năng, kiến thức thì nam giới thường chiếm tỷ lệ cao hơn. Đối với các loại công việc có chứa hàm lượng công nghệ cao, yêu cầu sức khỏe, áp lực công việc, môi trường làm việc khắc nghiệt thì đến hơn 80% đều do nam giới đảm nhiệm. Nữ giới chỉ phù hợp với các công việc có tính chất nhẹ nhàng, ổn định, không di chuyển nhiều. Ngày nay, số lượng phụ nữ tham gia vào các công việc quan trọng ngày càng cao, có thể đảm nhận tốt vai trò của nam giới. 2.4.2 Các mặt còn tồn tại Tuy các quan điểm xã hội có sự thay đổi rất lớn, vấn đề bình đẳng được giải quyết khá triệt để, nhưng trong nhiều lĩnh vực vẫn có sự phân biệt rõ rệt giữa nam và nữ. Dẫn đến vẫn xảy ra tình trạng cầu lao động về nam giới lớn hơn cầu lao động về nữ giới. Trong các công ty và doanh nghiệp, nhất là công ty nước ngoài, thường coi nhẹ nữ giới, họ có thái độ khinh thường và phân biệt giữa nam giới và nữ giới 2.4.3 Nguyên nhân - Do phong tục tập quán vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi. Tuy cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, phong tục đó có được xoá bỏ đi ít nhiều nhưng vẫn còn tồn tại. phong - Do sự phát triển không đều giữa nam và nữ. Theo các kết quả nghiên cứu cho thấy: về mặt sinh học, nam giới có sự phát triển về trí tuệ cao hơn nữ giới, ngay cả mặt thể lực: nam giới vẫn có sức khoẻ hơn. Nữ giới có thể lực yếu hơn, mặt khác, do mặt sinh lý của nữ giới phức tạp hơn nên các điều kiện làm việc thấp hơn. Mặt khác, nữ giới còn phải phụ thuộc nhiều vào gia đình nhất là nữ giới đã lập gia đình, sẽ có quãng thời gian sinh con và chăm sóc con nhỏ, khoảng thời gian này nữ giới sẽ phải nghỉ làm. Điều này làm hạn chế điều kiện làm việc của nữ giới, cũng chính là nguyên nhân tạo ra sự phân biệt giữa nam và nữ giới. 2.5 Cầu lao động theo độ tuổi 2.5.1 Kết quả Theo số liệu thống kê cho thấy, cơ cấu dân số trẻ của nước ta trong những năm gần đây khoảng 52triệu người trong độ tuổi lao động. Dân số trong độ tuổi lao động tăng từ năm 1989 đến năm 2005 Tỷ lệ nữ trong độ tuôi 15-55 tham gia vào các hoạt động kinh tế có xu hướng giảm: cụ thể là từ 71.3% (năm 1989) giảm xuống còn 67.499%( năm 1999). Tỷ lệ nam trong độ tuổi 15-19;20-24 và 50-50 trở lên có xu hướng giảm, nhưng ở độ tuổi 25-29; 45-49 lại có xu hướng gia tăng: cụ thể năm 1989 77.5% tăng 79.1(năm 1999) 2.5.2 Các mặt còn tồn tại Tû lÖ lao ®éng trong ®é tuæi tõ 20 ®Õn 45 chiÕm tû lÖ lín nh­ng chÊt l­îng kh«ng cao, làm cho chất lượng nguồn lao động trẻ bị giảm sút. 2.5.3 Nguyên nhân C¸c ®iÒu kiÖn tiÕp cËn gi¸o dôc cßn h¹n chÕ nhất là đối với các vùng miền núi, nông thôn. Ở những vùng này, điều kiện thiên nhiên khó khăn, kinh tế kém phát triển nên giáo dục ít được quan tâm. Trẻ em thường phải đi làm trong độ tuổi đi học, điều đó không những ảnh hưởng đến sức khoẻ của trẻ em mà còn ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động. Dẫn đến cầu lao động ở độ tuổi từ 15 đến 20 chất lượng không cao. Ngược lại ở các vùng thành thị, do được tiếp cận với nền giáo dục hiện đại nên cầu lao động chất lượng tại đây có chất lượng cao hơn. CHƯƠNG III Định hướng và các giải pháp kích cầu ở Việt Nam 3.1 Dự báo nhu cầu lao động. Về quy mô cầu lao động: Dự báo đến năm 2010 nước ta có khoảng 47000 nghìn người có việc làm trong đó Nông nghiệp chiếm 50%( 23500 nghìn), Công nghiệp 24% ( 11280 nghìn), Dịch vụ 26% ( 12220 nghìn ). Ở thành thị chiếm 32.08% ( 16920 nghìn ), Nông thôn chiếm 67.92% ( 30080 nghìn ). Đến năm 2010 tổng cầu trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phân bố chủ yếu vào Đồng bằng sông Hồng , Đông nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long là những vùng kinh tế thị trường phát triển . Nhưng về tỷ trọng thì các vùng này có xu hướng giảm, các vùng khác có xu hướng tăng lên. 3.2 Các giải pháp kích cầu lao động. 3.2.1 Giải pháp về số lượng cầu lao động 3.2.1.1 Kích thích cầu tiêu dùng trong nước. Chiếm lĩnh và thị trường tiêu dùng trong nước cũng là nhân tố quan trọng để tăng trưởng, ổn định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong những năm qua, các biên pháp kích cầu của chính phủ qua đầu tư xây dựng cơ bản có tác dụng mạnh mẽ đến tăng cầu trong nước thông qua những ngành sản xuất và dịch vụ phục vụ trực tiếpcho xây dựng cơ bản và thông qua đó thu nhập của người lao động tăng lên. Biện pháp kích cầu tiêu dùng trong nước bao gồm: - Sản phẩm hàng hoá và dịch vụ phải chiếm lĩnh được thì trường và đẩy lùi hang hoá ngoại nhập trên cơ sở nâng cao chất lượng, mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và giá bán phải luôn hạ phù hợp với tài chính của người tiêu dùng. - Nhà nước luôn có chính sách khuyến khích người dân trong nước và các cơ quan chính phủ tiêu dùng hàng trong nước sản xuất. Đối với những hàng hoá và dịch vụ sản xuất trong nước đảm bảo yêu cầu tiêu dùng ( kể cả tiêu dùng cho sản xuất), thì có cơ chế, chính sách hạn chế nhập khẩu. Đồng thời phải tăng cường quản lý của nhà nước về nhập khẩu, chống buôn lậu, gian lận thương mại. - Trong điều kiên cần thiết, nhà nước có chính sách trực tiếp kích cầu trong nước. - Cho vay vốn đầu tư để sản xuất kinh doanh, để xây dựng nhà ở, để mua sắm hành tiêu dung trong gia đình. 3.2.1.2 Lựa chọn mô hình kinh tế phù hợp với đất nước, thống nhất sự phát triển của doanh nghiệp với ngành nhằm tạo hiều quả nhất định cho nền kinh tế. Trong những năm qua, kế hoạch phát triển còn mang tính tự phát, cục bộ giữa trung ương và đại diện các bộ, Ngành với các địa phương tỉnh, thành phố. Không ít trường hợp phát triển doanh nghiệp của các địa phương theo kiểu chạy theo thành tích đã vô tình phá vỡ quy hoạch chung của Trung ương. Ví dụ sự phát triển của xi măng, đường, bia, may mặc, sản xuất xe máy, thép trong những năm gần đây. Tình trạng thiếu đồng bộ và thống nhất toàn quốc, còn dẫn đến tình trạng là hiệu quả sản xuất kém, lãng phí nguồn lực, làm cho khả năng đầu tư kém, suất đầu tư đã khó khăn lại càng khó khăn thêm do đầu tư không phát huy được hết hiệu quả của nó, không thu hồi được vốn thậm chí còn bị mất vốn do phương án đầu tư sai. Bởi vậy phải lựa chọn mô hình phù hợp, quy hoạch phát triển thống nhất ở phạm vị toàn quốc là giải pháp quan trọng hàng đầu để giải quyết cầu lao động. Hướng phát triển thống nhất phải bao gồm các yếu tố: Chú ý đến những ngành mũi nhọn, những ngành thế mạnh của nước ta và những lĩnh vực thiết yếu phát triển nền kinh tế: các ngành mũi nhọn là những ngành liên quan đến tài nguyên thiên nhiên, dầu khí, than, nông sản, thuỷ sản…nhưng ngành thế mạnh của nước ta là những ngành liên quan đến nguồn nhân lực dồi dào: ngành dệt may, da- giầy, thủ công mĩ nghệ. Các ngành liên quan đến lĩnh vực du lịch, vận tải.. Tạo điều kiện phát triển các ngành ngoài nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là những ngành có ưu thế về vốn , kỹ thuật, giải quyết một lượng lao động lớn. Tập trung phát triển khu công nghiệp như: khu kinh tế Hà Nôi, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai…tập trung nhiều ngành sản xuất kỹ thuật cao, cơ sở hạ tầng hiện đại, dịch vụ kỹ thuật tiên tiến. Gắn liền khu nguyên liệu với khu sản xuất đối với những ngành mà nguồn nguyên liệu sãn có trong nước nhằm tiết kiệm chi phí vận chuyển, giá thành đầu vào thấp đồng thời phát triển các ngành nguyên vật liệu trong nước: sản xuất xi măng và các vật liệu thông thường khác, sản xuất và chế biến nông sản thực phẩm, nuôi trồng khai thác, chế biến thuỷ sản...cần phải quy hoạch nhà máy gắn liền với khu nguyên liệu để tạo ra thế mạnh về giảm chi phí trong vận chuyển nhiêu liệu và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo gắn kết giữa nhà máy công nghiệp chế biến với sản xuất và cung cấp nhiên liệu. Phát triển các ngành sản xuất hàng tiêu dùng tại chỗ đáp ứng nhu cầu của người dân trong nước. Đó là những ngành chế biến thực phẩm, gạch ngói, thương nghiệp vận tải, vận tải nhỏ. Chú ý thế mạnh của các loại hình doanh nghiệp, ví dụ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có ưu thế về vốn và kỹ thuật, cần được quy hoạch và phát triển trong các ngành sản xuất và dịch vụ có yêu cầu kỹ thuật và chất lượng sản phẩm cao nhưng ngược lại doanh nghiệp vừa và nhỏ, có ưu thế và tận dụng nguyên liệu tại chỗ và đáp ứng yêu cầu tiêu dùng sản phẩm tại chỗ không đòi hỏi chất lượng cao, đồng thời giải quyết được nhiều việc làm cho lao động nông thôn, thì quy hoạch phát triển rộng khắp ở các vùng. 3.2.1.3 Giải pháp về vốn Vốn là một trong những hạn chế lớn nhất của phát triển doanh nghiệp hiện nay. Giải pháp để giải quyết khó khăn về vốn phải là giải pháp mang tính tổng hợp của nhiều các giải pháp nhỏ: như giải pháp về thị trường vốn, chính sách tận dụng nguồn nhân lực trong nước, chính sách khuyến khích đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong nước, đặc biệt là giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn vay ưu đãi ODA. Luật doanh nghiệp ban hành có tác dụng to lớn đén việc khuyến khích đầu tư tư nhân, nhưng bên cạnh đó vẫn cần sự giúp đỡ của nhà nước nhằm tháo gỡ những rào cản về đất đai, thủ tục hành chính khi đăng kí kinh doanh, trong xuất khẩu nhập khẩu và có định hướng rõ ràng để khai thác và huy động mạnh hơn nguồn vốn trong khu vực tư nhân. Đầu tư trực tiếp vào nước ngoài chủ yếu vào ngành công nghiệp và đang có vị trí ngang với khu vực doanh nghiệp nhà nước cả về vốn, tài sản và giá trị sản xuất. Vì vậy cần điều chỉnh chính sách đầu tư nứơc ngoài cởi mở hơn, tiếp tục tạo môi trường đầu tư thông thoáng hơn. Đó sẽ là biện pháp tốt để năng cao khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế nói chung và khu vực doanh nghiệp nói riêng. Hoàn thiện cơ chế huy động vốn cho đầu tư phát triển, tạo thị trường vốn lành mạnh, hấp dẫn đảm bảo cung cấp vốn cho các doanh nghiệp hoạt động. Đồng thời, có các chính sách phù hợp nhằm khắc phục tình trạng thất thoát vốn do quá trình tham ô, tham nhũng và hiệu quả sử dụng vốn thấp. Ở góc độ nào đó, tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư có tầm quan trọng và khả năng thì hơn các biện pháp tăng vốn. 3.2.1.4 Đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Xuất khẩu là hướng quan trọng để tăng trưởng nhanh và bền vững cho doanh nghiệp. Vì vậy việc tìm kiếm thị trường nước ngoài không chỉ riêng các nhà doanh nghiệp mà nhà nước cũng phải tham gia mở rộng thị trường hàng hoá cho nước ta. Có chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, quản lý hàng xuất khẩu qua hải quan chặt chẽ nhưng phải thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động. Về mặt các doanh nghiệp phải năng động, nhạy cảm, nắm bắt được thông tin về thị trường, giá cả kịp thời, hiểu biết luật lệ và thông lệ quốc tế trong xuất nhập khẩu. Cần sớm nhận thức rõ ràng xuất khẩu lao động phải được coi là một chiến lược quốc gia giải quyết việc làm và một kênh đào tạo việc làm cho người lao động. Vì vậy, cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xuất khẩu lao động, ban hành, sửa đổi và bổ sung cơ chế, chính sách cho phù hợp với sự vận động của thị trường , tăng cường trách nhiệm của các bộ, ngành địa phương trong việc xây dựng quản lý và chỉ đạo hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia. Hiện nay, hệ thống các cơ chế chính sách về xuất khẩu lao động của ta còn chưa động bộ, chưa phù hợp, nhất là các văn bản pháp luật, quy chế điều tiết hoạt động này còn rất thiếu, gây khó khăn cho các bên thực thi xuất khẩu lao động, đồng thời là nguyên nhân gây ra những lộn xộn không đáng có, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động. Thực tế hoạt động của các cơ quan, tổ chức xuất khẩu lao độngvà chuyên gia trong những năm gần đây cho thấy cần phải bổ sung những chính sách sau: - Chính sách đầu tư ưu đãi về thuế, hỗ trợ tài chính trong đấu thầu quốc tế và mở cửa thị trường lao động ở ngoài nước ( đối với các doanh nghiệp). - Chính sách tín dụng, bảo hiểm xã hội cho người đi làm ở nước ngaòi, chính sách khuyến khích chuyển tiền và hàng hoá về nước, chính sách tiếp nhận trở lại sau khi hoàn thành thời hạn hợp đồng lao động...( đối với người lao động và chuyên gia đi xuất khẩu lao động) 3.2.1.5 Hoàn thành hệ thống thông tin trên thị trường lao động Hoàn thành hệ thống kênh giao dịch thông tin, tránh những thông tin sai lệch hoặc chậm chễ. Gắn liền nguồn thông tin giữa cung và cầu lao động, tránh xảy ra các hậu quả do thiếu thông tin gây ra như: thất nghiệp…Các thông tin tuyển dụng phải được công bố một cách công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Giải pháp này có thể được thực hiện với các hoạt động cụ thể sau: Điều tra, khảo sát, tập hợp, xử lý và lưu trữ các thông tin về thị trường lao động. Tổ chức việc liên thông các nguồn cung cấp thông tin về cung cầu của thị trường lao động giữa hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động với các tổ chức cung và cầu lao động... nhằm cung cấp đầy đủ, nhanh chóng và thuận tiện các thông tin về người cần việc làm, việc làm cần người, về các yêu cầu về nghề nghiệp, kỹ năng, cho các bên tham gia thị trường. Tuyên truyền phổ biến rộng rãi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến thị trường lao động như pháp luật lao động, chính sách cho vay vốn phát triển sản xuất, hỗ trợ giải quyết việc làm... Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường lao động ngoài nước, xây dựng các kênh thông tin, cung cấp các thông tin về thị trường quốc tế, yêu cầu về chất lượng lao động cho nước ngoài để phục vụ cho việc đào tạo, tuyển chọn lao động xuất khẩu... - Ban hành các quy chế tổ chức và hoạt động hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động 3.2.2 Giải pháp về phía chất lượng cầu lao động. 3.2.2.1 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nước ta có gần 60% số lao động trong doanh nghiệp chưa qua đào tạo có hệ thống. Đây là trở ngại lớn nhất cho việc tiếp nhận, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới và hạn chế năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất. Mở rộng quy mô các trường đào tạo dạy nghề. Chú trọng quá trình đào tạo lại, đào tạo mới trong từng doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho người lao động vừa sản xuất vừa nâng cao trình độ tay nghề của mình. Xét từ phía quản lý nhà nước, để có thể thu hẹp dần khoảng cách giữa giữa các hoạt động đào tạo bồi dưỡng tay nghề với nhu cầu hiện có của thị trường lao động, nhiều biện pháp được thực hiện, trong đó quan trọng nhất là: Xác định rõ ràng các lĩnh vực, ngành nghề hiện đang thiếu nhân công, thiếu người lao động có trình độ chuyên môn cao. Tiêu chuẩn hoá các cơ sở đào tạo, bỗi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ năng, với những chỉ tiêu chất lượng được quy định chặt chẽ. Các cơ sở dạy nghề được đăng ký chính thức, và các loại văn bản bằng chứng chỉ do họ cấp phải được các cơ quan quản lý nhà nước công nhận. Có sự phối hợp chặt chẽ hơn trong khi hoạch định chính sách đào tạo bồi dưỡng và chính sách điều chỉnh cơ cấu, nhất là cấp địa phương. Việc hợp tác, phối hợp giữa các bên tham gia thị trường lao động ( các xí nghiệp có nhu cầu về lao động, các cơ quan đào tạo, bồi dưỡng tay nghề) đã làm cho hoạt động đào tạo xích lại gần hơn với những nhu cầu thực tế của các xí nghiệp về lao động và các loại ngành nghề. Khuyến khích tất cả các hình thức đào tạo tập trung và phân tán, đào tạo kèm cặp tại chỗ, truyền nghề ở các công ty, xí nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, cá nhân và gia đình. Tăng cường đầu tư cơ sở sản xuất, vật chất hiện đại hoá dụng cụ trang thiết bị, các phương tiện giảng dậy trong các trường và trung tâm đào tạo. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ giảng dạy. 3.2.2.2 Nâng cao năng lực quản lý và điều hành sản xuất tầm vĩ mô. Nhà nước với vai trò quản lý, điều hành nến kinh tế ở tầm vĩ mô, cần nâng cao tổ chức, quản lý và ra các quyết định chính xác, kịp thời phù hợp với thực tế tạo môi trường quản lý chặt chẽ và thông thoáng cho sản xuất kinh doanh. Tổ chức chỉ đạo thực hiện cần nhanh nhạy, nắm bắt kịp thời những vướng mắc và các rào cản về mặt chính sách, ban hành các chính sách và đạo luật kinh tế, hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm tháo gỡ và xóa bỏ các rào cản về mặt chính sách, luật pháp Các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực quản lý điểu hành của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 3.2.2.3 Tiếp tục cải cách khu vực kinh tế nhà nước Doanh nghiệp nhà nước giữ một vị trí quan trọng nên phải tạo môi trường kinh doanh bình đẳng thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả và tạo thêm việc làm cho người lao động. Vì vậy việc sắp xếp lại, chuyển những doanh nghiệp nhà nước không cần giữ 100% vốn sang cổ phần hoá, nhằm tập trung vốn đầu tư cho các doanh nghiệp còn lại, mặt khác tạo điều kiện để các doanh nghiệp hoạt động tạo hiệu quả cao hơn. Sắp xếp lại, chuyển những doanh nghiệp nhà nước không cần giữ 100% vốn sang cổ phần hoá, nhằm tập trung vốn đầu tư cho các doanh nghiệp còn lại, mặt khác tạo môi trường cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước trong những ngành sản xuất, dịch vụ quan trọng, kinh doanh ở phạm vi toàn cầu như: hang không, dầu khí, điện lực, viễn thông…để tạo kênh thu hút lao động chuyên môn - kỹ thuật. Hướng sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước thực hiện nghiêm túc theo quyết định của chính phủ, nhưng chủ yếu là cổ phần hoá rộng rãi hơn, để đẩy nhanh quá trình này. Chú trọng những ngành quan trọng, những ngành có giá trị cao và thu nộp ngân sách nhà nước lớn. Những ngành mà doanh nghiệp nhà nước cần giữ lại là : sản xuất, phân phối điện, nước, phân bón, thuốc chữa bệnh, vận tải đường sắt, hàng không và một số ngành có giá trị cao, thu nộp ngân sách lớn như: đóng tàu, sản xuất xi măng, thép, dệt, may, rượu bia, thuốc lá, viễn thông.... KẾT LUẬN Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế. Để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế đó, sự phát triển của thị trường lao động đóng một vai trò quan trọng. Mà trong đó cầu lao động lại là một trong những nhân tố cấu thành trực tiếp lên thị trường lao động, cùng với cung lao động, giá cả hàng hóa và cân bằng cung cầu. Thực tế cho thấy cầu lao động trong những năm qua còn yếu cả về mặt số lượng và chất lượng. Đó là một trong những rào cản lớn, ngăn cản sự phát triển kinh tế trong những năm qua. Bằng những sự cố gắng, nỗ lực, Đảng và Nhà nước ta đang có nhiều chính sách cải tiến cả về hai mặt chất lượng và số lượng nhằm kích cầu lao động, và phần nào đã thực hiện được mục đích trên. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, Đảng và Nhà nước ta còn mắc phải khá nhiều sai lầm trong việc tổ chức và quản lý bộ máy điều hành nhưng đó chính là điểm khởi đầu cho tất cả. Ở mỗi loại cầu khác nhau thì sự phát triển giữa các loại cầu không đều nhau, có sự chênh lệch khá lớn. Vấn đề đặt ra là phải cân bằng sự phát triển của các loại cầu trên, định hướng phát triển đúng hướng, chú trọng vào những cầu lao động cần thiết đối với sự phát triển kinh tế nhất. Để thực hiện được những đường lối, đính hướng trên cần có những biện pháp đúng đắn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Cao Văn Sâm - Thực trạng và một số giải pháp thực hiện chủ trương và các chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác dạy nghề và đào tạo công nhân. Nhà xuất bản chính trị quôc gia - Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế ở Việt nam. Nhà xuất bản thống kê - Giáo trình kinh tế lao động. Nhà xuất bản lao động và xã hội - Chính sách giải quyết việc làm ở Việt nam. Nhà xuất bản lao động và xã hội - Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt nam. Nhà xuất bản lao động và xã hôi - Tạp chí lao động xã hội - số 24 năm 2005. Nhà xuất bản lao động và xã hội - Tạp chí thị trường lao động - số 41 năm 2004. Trần Xuân Cầu - Giáo trình phân tích lao động xã hôi. Phạm Quý Thọ - Thị trường lao động Việt nam, Thực trạng và các giải pháp phát triển. DANH SÁCH BIỂU SƠ ĐỒ Số Bảng Tên bảng Trang Nguồn 1 Số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên thời kỳ 1996-2002 14 Số liệu thống kê Lao động – Thương binh và xã hội ở VN năm 1996-2000 2 Số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên thời kỳ 1996-2002 16 Số liệu thống kê Lao động – Thương binh và xã hội ở VN năm 1996-2000 3 Bảng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn 19 Trên mạng www.gso.gov.vn 4 Cơ cấu lao động chia theo tính chất việc làm, giới tính và khu vực thành thị, nông thôn. 21 Điều tra mức sống dân cư VN 1997-1998 MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36038.doc
Tài liệu liên quan